Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Luận văn thạc sĩ Ứng dụng lí thuyết phân tích diễn ngôn vào việc nghiên cứu hai nhân vật phản diện trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (986.89 KB, 97 trang )

Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
-------------

ỨNG DỤNG LÍ THUYẾT PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN VÀO
VIỆC NGHIÊN CỨU HAI NHÂN VẬT PHẢN DIỆN
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN CÔNG HOAN

LUẬN VĂN THẠC SỸ NGỮ VĂN

Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60.22.01.02
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Diệp Quang Ban

HẢI PHÒNG, NĂM 2016


Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

i
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của GS.TS Diệp Quang Ban. Các nội dung nghiên cứu trong
đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Ngoài
ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá của các tác giả khác đều
có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về
nội dung luận văn của mình.

Hải Phòng, ngày 20 tháng 12 năm 2016
Tác giả luận văn


Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

ii
LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới GS.TS Diệp Quang Ban,
người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Phòng Quản lý Sau Đại học, Khoa Ngữ văn - Địa lý,
giảng viên, cán bộ các phòng, ban chức năng Trường Đại học Hải Phòng cũng như các
thầy cô giáo từ các đơn vị khác đã giúp chúng tôi hoàn thành cuốn luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, khích lệ,
tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn.

Hải Phòng, ngày 20 tháng 12 năm 2016
Tác giả luận văn



iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN........................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................. ii
MỤC LỤC .................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU .........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN ....................7
1.1. Sơ lược về diễn ngôn (Discourse) ..............................................................7
1.1.1. Cách hiểu về diễn ngôn .........................................................................7
1.1.2. Diễn ngôn trong ngôn vực văn chương – nghệ thuật ............................. 10
1.2. Sơ lược về phân tích diễn ngôn Discourse analysis .................................. 12
1.2.1. Cách hiểu về phân tích diễn ngôn – một số đường hướng phân tích
diễn ngôn ..................................................................................................... 12
1.2.2. Sơ lược về phân tích diễn ngôn phê bình (Critical Discourse Analysis) ........ 17
1.2.3. Vai trò của nhân vật giao tiếp trong phân tích diễn ngôn ...................... 23
1.2.4. Vai trò của ngữ cảnh (Context) trong phân tích diễn ngôn .................... 25
1.2.5. Vai trò của mã (code) trong phân tích diễn ngôn .................................. 28
1.2.6. Vai trò của tiếp xúc (Contact) trong phân tích diễn ngôn ...................... 28
1.2.7. Vai trò của thông điệp (Messege) trong phân tích diễn ngôn ................ 28
1.3. Tiểu kết chương 1 ................................................................................... 31
CHƯƠNG 2. NHÂN VẬT CỤ CHÁNH BÁ TRUYỆN CỤ CHÁNH BÁ MẤT
GIÀY) VÀ CỤ LỚN TUẦN TRUYỆN HÉ! HÉ! HÉ TRONG THỰC TẾ DIỄN
NGÔN .......................................................................................................... 33
2.1. Cụ Chánh Bá và cụ lớn Tuần trong lời giới thiệu, trần thuật của người kể
chuyện ....................................................................................................................... 33
2.1.1. Cụ Chánh Bá trong lời giới thiệu, trần thuật của người kể chuyện – tính
cách phản diện điển hình ............................................................................... 33
2.1.2. Cụ lớn Tuần trong lời giới thiệu, trần thuật của người kể chuyện – tính

cách phản diện điển hình ............................................................................... 43
2.2. Cụ Chánh Bá và cụ lớn Tuần trong mối quan hệ với các nhân vật hữu
quan

...................................................................................................... 45


iv
2.2.1. Cụ Chánh bá trong mối quan hệ với các nhân vật hữu quan................. 47
2.2.2. Cụ lớn Tuần trong mối quan hệ với các nhân vật hữu quan .................. 56
2.3. TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ......................................................................... 69
CHƯƠNG 3. DẤU ẤN THỰC TẾ VĂN HÓA – XÃ HỘI THỜI ĐẠI QUA
HÌNH TƯỢNG CỤ CHÁNH BÁ TRUYỆN CỤ CHÁNH BÁ MẤT GIÀY VÀ
CỤ LỚN TUẦN TRUYỆN HÉ! HÉ! HÉ ....................................................... 71
3.1. Thực tế văn hoá - xã hội thời đại Nguyễn Công Hoan ..................................... 71
3.1.1. Thực tế văn hóa xã hội thời đại Nguyễn Công Hoan ............................ 71
3.1.2. Lớp xã hội của Nguyễn Công Hoan............................................................... 74
3.2. Thực tế văn hóa - xã hội chung quanh nhân vật phản diện cụ ..............................75
3.2.1. Lớp xã hội của cụ Chánh Bá và cụ lớn Tuần ....................................... 75
3.2.2. Cụ Chánh Bá và cụ lớn Tuần với không gian và tình huống cụ thể ................. 79
3.2.3. Nhân sinh quan của Nguyễn Công Hoan thể hiện qua nhân vật cụ Chánh
Bá và cụ lớn Tuần ........................................................................................ 81
3.3. Tiểu kết chương 3 ............................................................................................. 83
KẾT LUẬN .................................................................................................. 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 89


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1.1. Tầm quan trọng của phân tích diễn ngôn
Vào những năm 60 và 70 của thế kỉ XX, phân tích diễn ngôn ra đời, và từ đó
đến nay, phân tích diễn ngôn đã có những đóng góp to lớn đối với ngôn ngữ học
ứng dụng. Phân tích diễn ngôn giúp cho các nhà nghiên cứu, khi tiếp cận các đơn vị
ngôn ngữ trên câu, đặc biệt là các văn bản nghệ thuật, có thể biện luận và chứng
minh các nhận định của mình một cách thuyết phục dựa trên những căn cứ xác
đáng, như dựa trên cơ sở của văn hóa, xã hội, lịch sử, logic, tâm lí… Và như thế,
phân tích diễn ngôn hoàn toàn khác với cách đánh giá mang tính chất chủ quan, cảm
tính, bởi phân tích diễn ngôn là đường hướng phân tích có cơ sở, có lí giải… Theo
GS.TS Diệp Quang Ban: “Đối với người bình thường, phân tích diễn ngôn giúp
người ta nhận ra được cái hay, cái đẹp, cái tinh tế của cái ngôn ngữ phát triển mà
họ hằng dùng, trong ý nghĩa đó, phân tích diễn ngôn là công cụ hữu hiệu trong việc
nâng cao văn hóa ngôn ngữ cho cộng đồng.” [39, tr.12]. Có thể nói, phân tích diễn
ngôn “là một lợi khí cho mọi sự hoạt động có sử dụng ngôn từ” [39, tr.12] , nhất là
trong lĩnh vực ngôn ngữ nghệ thuật.
Với tính hữu ích nêu trên, phân tích diễn ngôn chính là đường lối quan trọng
giúp chúng tôi ứng dụng vào việc nghiên cứu nhân vật phản diện trong một số
truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Công Hoan.
1.2. Ứng dụng phân tích diễn ngôn vào nhân vật cụ Chánh Bá và cụ lớn
Tuần là một đường hướng mới
Từ khi tên tuổi của nhà văn Nguyễn Công Hoan trở thành vang bóng mọi thời
trên văn đàn văn học Việt Nam, nhiều công trình nghiên cứu từ góc độ văn học đã
hướng đến các sáng tác nói chung, truyện ngắn, thế giới nhân vật phản diện… của
nhà văn nói riêng. Bây giờ, tiếp cận được cơ sở lí thuyết của phân tích diễn ngôn,
chúng tôi thấy có thể dùng nó vào việc tìm hiểu cụ thể hơn, sâu sắc hơn, đa diện
hơn về nhân vật phản diện. Trên cơ sở đó, chúng tôi áp dụng góc nhìn này vào việc
khảo sát hai nhân vật phản diện: cụ Chánh Bá (truyện “Cụ Chánh Bá mất giầy”), cụ
lớn Tuần (truyện “Hé! Hé! Hé!”). Việc lựa chọn nghiên cứu hai nhân vật phản diện



2
theo hướng lí thuyết của phân tích diễn ngôn sẽ là một hướng đi đúng đắn, sáng tạo
trong quá trình tìm hiểu các giá trị chân thực thuộc các sáng tác của nhà văn
Nguyễn Công Hoan – người đã “khơi nguồn cho dòng văn học “tả chân”, “vị nhân
sinh” tiến bộ chảy xiết và cắm ngọn cờ chiến thắng vẻ vang cho nó trong đời
sốngvăn học”. [18, tr.388].
2. Lịch sử vấn đề
Những mầm mống đầu tiên của phân tích diễn ngôn vốn đã xuất hiện từ năm
1952, khi Z. Harris là người đầu tiên đề cập và gọi tên nó. Tuy nhiên, phải tới
F. Mitchell (1957) nền móng của nó mới được hình thành. Tiếp theo đó, T. van Dijk
(1972) đã tiếp tục triển khai phân tích diễn ngôn. Đến nay, phân tích diễn ngôn đã đi
được một chặng đường khá dài, tới hơn nửa thế kỉ. Vẫn còn có những quan điểm và
xu hướng khác nhau, nhưng phân tích diễn ngôn vẫn đã và đang ngày một phát triển
mạnh mẽ, được ứng dụng nhiều vào nghiên cứu ngôn ngữ trên nhiều lĩnh vực sử
dụng ngôn ngữ, đặc biệt là trong nghiên cứu văn học. Có thể khái quát quá trình
hình thành và phát triển của phân tích diễn ngôn thành hai giai đoạn như sau:
- Giai đoạn đầu: còn gọi là giai đoạn của các “ngữ pháp văn bản” (theo cách
gọi của Robert de Beaugrande), được kéo dài từ giữa thập niên 60 tới thập niên 70
của thế kỉ XX. Ở giai đoạn này, phân tích diễn ngôn vẫn còn dựa vào cấu trúc luận
trong ngôn ngữ. Các công trình nghiên cứu về Liên kết của K. Halliday và Hasan
(1976) được xem là tiêu biểu nhất cho giai đoạn này.
- Giai đoạn thứ hai (khoảng năm 1979 trở đi): giai đoạn này đã thoát khỏi
“ngữ pháp văn bản”. Ngôn ngữ học văn bản lại tiếp tục trải qua một quá trình chật
vật để thống nhất tên gọi cùng với sự quan tâm ngày càng lớn tới vấn đề mạch lạc
và cấu trúc văn bản. Và cuối cùng, Phân tích diễn ngôn đã được nhiều nhà nghiên
cứu chọn dùng để gọi những đường hướng ngôn ngữ mới.
Mặt khác, giai đoạn thứ hai không phải bắt đầu khi giai đoạn thứ nhất kết
thúc, mà nó vốn đã được triển khai trong lòng giai đoạn trước. Theo đường hướng
mới, mọi hiện tượng được xem là đối tượng nghiên cứu có thể nằm trong hoặc nằm
ngoài văn bản. Theo đó, nhân tố ngữ cảnh được chú trọng trong quá trình phân tích

diễn ngôn với các ngành khoa học hữu quan như xã hội học, dân tộc học, dụng học,
logic học, văn hóa học, tâm lí học...


3
Ở Việt Nam, cho tới thập niên 80, phân tích diễn ngôn mới được quan tâm và
đề cập tới. Người đầu tiên quan tâm đến lí thuyết phân tích diễn ngôn tại Việt Nam
là Diệp Quang Ban trong việc tổ chức dịch quyển Phân tích diễn ngôn của
D. Nunan từ tiếng Anh sang tiếng Việt, năm 1997, in lần hai năm 1998. Trúc Thanh
trong sách này là tên hiệu của Diệp Quang Ban. Về sau, một số học giả khác đã tiếp
tục khai phá lĩnh vực non trẻ này, điển hình như: Nguyễn Hòa với cuốn “Phân tích
diễn ngôn Một số vấn đề lí luận và phương pháp”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
và cuốn “Phân tích diễn ngôn phê phán – lí luận và phương pháp”, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội (2006), Diệp Quang Ban với cuốn “Giao tiếp, diễn ngôn và cấu
tạo của văn bản”, Nxb Giáo dục, Hà Nội (2012). Hai tác giả này đã có nhiều đóng
góp quan trọng trong việc ứng dụng lí thuyết phân tích diễn ngôn vào việc nghiên
cứu ngôn ngữ tại Việt Nam một cách có hệ thống, đặc biệt là phân tích diễn ngôn
trong nghiên cứu văn học. Ngoài ra, các tác giả khác như Hoàng Phê, Cao Xuân
Hạo, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân… trước đó đã đề cập đến “Dụng học” trong
một số tác phẩm của mình. Phân tích diễn ngôn cũng sử dụng một số kiến thức vốn
được hình thành trong Dụng học, rõ nhất là phân tích hội thoại.
Việc ứng dụng phân tích diễn ngôn, đặc biệt là phân tích diễn ngôn phê bình
vào phân tích nhân vật văn học tuy không nhiều, nhưng đã có một số đề tài được
thực hiện. Chẳng hạn:
- Vũ Văn Lăng với “Một số tác phẩm của Nam Cao dưới ánh sáng của phân
tích diễn ngôn và dụng học”, Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ, Viện hàn lâm Khoa học Xã
hội Việt Nam đã vận dụng phân tích diễn ngôn vào tìm hiểu hai tác phẩm “Sống
mòn” và “Chí Phèo” của Nam Cao.
- Đỗ Thu Phương với “Ứng dụng phân tích diễn ngôn vào việc nghiên cứu
nhân vật Tú Bà và Mã Giám Sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du”, Luận văn

cao học Ngôn ngữ, Đại học Sư phạm Hà Nội (2015) đã dùng phân tích diễn ngôn để
tìm hiểu hình tượng nhân vật phản diện Tú Bà và Mã Giám Sinh trong Truyện Kiều.
- Lê Thị Thùy Dương với Ứng dụng phân tích diễn ngôn vào việc nghiên cứu
nhân vật Thúc Sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Luận văn cao học Ngôn
ngữ, Đại học Sư phạm Hà Nội đã vận dụng phân tích diễn ngôn vào tìm hiểu nhân
vật Thúc Sinh và thực tế xã hội thời đại nhân vật sống.


4
Từ giác độ nghiên cứu văn học, các kiểu nhân vật (đặc biệt là nhân vật phản
diện) của Nguyễn Công Hoan đã được nghiên cứu, tìm hiểu khá nhiều. Chẳng hạn:
Hà Thanh Thủy trong bài tiểu luận “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan trước Cách mạng tháng 8/1945”, Đại học Huế, 2014, đã chỉ ra các kiểu
nhân vật và tính cách điển hình của nó trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan giai
đoạn trước 1945. Hay, Nguyễn Hoành Khung với phần viết về Nguyễn Công Hoan
in trong trong cuốn “Văn học Việt Nam 1900 – 1945”, Nxb Giáo dục đã trình bày
khái quát về tiểu sử và sự nghiệp của tác giả.
Từ giác độ nghiên cứu ngôn ngữ học cũng đã có một số công trình nghiên
cứu về truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan. Chẳng hạn:
- Hoàng Thị Tố Uyên với “So sánh trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan”,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Thái Nguyên, 2010, đã phân tích các thủ pháp so sánh
trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và giá trị ngôn ngữ của nó.
- Nguyễn Thị Huệ với “So sánh đặc điểm phong cách ngôn ngữ của Nguyễn
Công Hoan và Nam Cao” (qua hai tuyển tập truyện ngắn), Luận văn thạc sĩ, Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2009, đã thông qua hai tuyển tập truyện ngắn
của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao để tìm hiểu, đối chiếu phong cách sử dụng
ngôn ngữ của hai tác gia.
- Võ Thị Dung trong “Chức năng ngữ nghĩa của từ tính thái đứng đầu phát
ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan”, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Vinh,
2010 đã nghiên cứu về từ tình thái trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan trên bình

diện nghĩa học.
- Hà Thị Tuyết trong “Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn
Công Hoan”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Thái Nguyên, 2010 đã nghiên cứu các kiểu
câu nghi vấn trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan.
Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan nói chung và hình tượng nhân vật phản diện nói riêng dưới giác
độ phân tích diễn ngôn. Do đó, chúng tôi chọn đề tài “Ứng dụng lí thuyết phân tích
diễn ngôn vào việc nghiên cứu hai nhân vật phản diện trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan”.


5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Thực hành một hướng tiếp cận mới đối với văn bản nghệ thuật từ giác độ
ngôn ngữ học, cụ thể là từ giác độ phân tích diễn ngôn phê bình.
- Mong muốn được đóng góp thêm hướng đi mới trong việc phân tích nhân
vật văn học.
- Góp phần khẳng định giá trị lí luận và thực tiễn của phân tích diễn ngôn đối
với văn học.
- Góp phần khám phá thêm tài năng của Nguyễn Công Hoan.
- Bổ sung kiến thức và tư liệu phục vụ cho việc giảng dạy, nghiên cứu về
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan nói chung, về nhân vật phản diện (cụ Chánh Bá và
cụ lớn Tuần) nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tôi dựa trên khung lí thuyết chung về mô hình giao tiếp bằng ngôn
ngữ và phân tích diễn ngôn, đặc biệt là đường hướng phân tích diễn ngôn phê bình
cùng các đặc trưng của diễn ngôn trong ngôn vực văn chương nghệ thuật để tìm
hiểu hai nhân vật phản điển hình trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Qua đó
làm nổi bật đặc điểm của nhân vật dưới ánh sáng phân tích diễn ngôn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hai nhân vật phản diện trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan.
Phạm vi nghiên cứu là phần văn bản về hai truyện ngắn Cụ Chánh Bá mất
giày và Hé! Hé! Hé! của Nguyễn Công Hoan in trong Nguyễn Công Hoan – truyện
ngắn chọn lọc, Nxb Văn học, Hà Nội, 1999, do Lê Minh sưu tầm và biên soạn.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích diễn ngôn (đã trình bày trong chương 1: Cơ sở của
phân tích diễn ngôn)
- Phương pháp phân tích nghĩa.
- Phương pháp phân tích hội thoại.
- Các thủ pháp nghiên cứu khoa học: thống kê, phân loại, tổng hợp…
6. Cấu trúc luận văn


6
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần chính luận văn gồm
ba chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận của phân tích diễn ngôn.
Chương 2. Nhân vật cụ Chánh Bá truyện “Cụ Chánh Bá mất giày” và cụ lớn
Tuần truyện “Hé! Hé! Hé!” trong thực tế phân tích diễn ngôn.
Chương 3. Dấu ấn thực tế văn hóa – xã hội qua hình ảnh nhân vật cụ Chánh
Bá truyện “Cụ Chánh Bá mất giày” và cụ lớn Tuần truyện “Hé! Hé! Hé!” của
Nguyễn Công Hoan.


7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN
1.1. Sơ lược về diễn ngôn (Discourse)
1.1.1. Cách hiểu về diễn ngôn

Diễn ngôn và văn bản là hai khái niệm có quan hệ chặt chẽ và mật thiết với
nhau. Vì vậy, cần thiết phải phân biệt diễn ngôn với văn bản để định nghĩa một cách
chính xác.
Theo Diệp Quang Ban, hai thuật ngữ diễn ngôn và văn bản có quá trình vận
động, phát triển gắn với tiến trình ngôn ngữ học như sau:
- Giai đoạn đầu (còn gọi là giai đoạn ngữ pháp văn bản/giai đoạn của ngôn
ngữ học truyền thống): văn bản được định nghĩa tách bạch với diễn ngôn. Tên gọi
văn bản được dùng để chỉ chung những sự kiện nói hoặc viết có mạch lạc và liên
kết. Theo đó, Halliday và Hasan đưa ra khái niệm: “Văn bản có thể là bất kì đoạn
văn nào, viết hay nói, dài hay ngắn tạo nên một chỉnh thể thống nhất hoàn chỉnh…
Văn bản là một đơn vị ngôn ngữ hành chức… Và văn bản là một đơn vị ngữ nghĩa”
[40, tr.30].
- Giai đoạn thứ hai: trong giai đoạn này, cùng với việc cố gắng phân biệt
ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói, đã hình thành xu hướng dùng văn bản để chỉ các sự
kiện nói bằng chữ viết (lời viết) đối lại diễn ngôn – chỉ sự kiện nói miệng (lời âm)
chiếm ưu thế.
Khi phân ngành nghiên cứu, Barthes (1970) quan niệm diễn ngôn cũng là
văn bản, nhưng văn bản do ngôn ngữ học văn bản nghiên cứu, còn diễn ngôn do
ngôn ngữ học diễn ngôn nghiên cứu với những nội dung nghiên cứu riêng.
Bellert (1971) cho rằng: “diễn ngôn là chuỗi liên tục những phát ngôn s1,…,
s(n). Trong đó, việc lí giải nghĩa của mỗi phát ngôn s1 lệ thuộc vào sự lí giải những
phát ngôn trong chuỗi s1,…, s (i-1)” [7, tr.199].
Cũng trong nỗ lực phân biệt văn bản với diễn ngôn, G.Cook (1989) định
nghĩa: “Văn bản là một chuỗi ngôn ngữ lí giải được ở mặt hình thức, bên ngoài ngữ
cảnh và diễn ngôn là những chuỗi ngôn ngữ được nhận biết là trọn nghĩa, được hợp
nhất lại và có mục đích” [7, tr.199]. Theo đó, cùng một sự kiện nói (bằng chữ viết
hoặc phát âm), nếu chỉ xét ở mặt từ ngữ trong nội tại thì là phân tích nó như một
văn bản, còn xét trong quan hệ với ngữ cảnh lại là phân tích nó với tư cách diễn



8
ngôn. Từ đây, chúng tôi hiểu, để coi một sản phẩm ngôn ngữ là diễn ngôn hay văn
bản phụ thuộc vào cách đánh giá, hệ quy chiếu của người nghiên cứu. Nếu tách khỏi
ngữ cảnh thì nó là văn bản, còn nhìn nhận dưới quan hệ không tách rời ngữ cảnh thì
là diễn ngôn. Quan điểm này được sử dụng nhiều trong phân tích diễn ngôn ngày
nay, kể cả phân tích diễn ngôn phê bình.
Nói cách khác, trong một tài liệu ngôn ngữ, các từ ngữ dù bằng âm thanh hay
bằng chữ viết, được coi như bề mặt từ ngữ của tài liệu ngôn ngữ đó, nếu không xét
đến mối quan hệ với các tình huống bên ngoài thì chính là văn bản. Còn những hiện
tượng thuộc về nghĩa – logic (xét trong quan hệ với tình huống bên ngoài – ngữ
cảnh) và chức năng (ý định hay mục đích của người phát) có quan hệ đến tài liệu đó
thì thuộc về diễn ngôn. Cùng với cách nhìn nhận đó, việc phân tích bề mặt từ ngữ
với các ý nghĩa vốn có sẵn trong bề mặt ấy, kể cả ngữ cảnh bằng từ ngữ của các
phương tiện ngôn ngữ có trong diễn ngôn được gọi là phân tích văn bản. Ngược lại,
nếu giải thích các từ ngữ bằng mối quan hệ giữa chúng với tình huống xã hội bên
ngoài văn bản, việc tìm hiểu ý định của người phát thuộc về diễn ngôn và được thực
hiện như một phần trong phân tích diễn ngôn.
Cũng theo Cook, diễn ngôn và văn bản được phân biệt bởi sự đối lập giữa
chức năng và hình thức. Trong đó, văn bản thể hiện mặt hình thức, còn diễn ngôn
thể hiện tính chức năng của ngôn ngữ.
Brown & Yule (1983) đã đánh giá rất sâu sắc, phù hợp với đặc trưng phân
tích diễn ngôn phê bình khi so sánh: văn bản là sản phẩm (tĩnh) - diễn ngôn là quá
trình (động). Tức là văn bản nằm trong trạng thái tách khỏi hành chức, còn diễn
ngôn thì luôn vận động trong ngữ cảnh. Đặc biệt, hai tác giả cho rằng: “văn bản là
sản phẩm của diễn ngôn như một tiến trình” [9, tr.48] và “các từ, các ngữ và các
câu xuất hiện trong việc ghi lại thành văn bản của một diễn ngôn là bằng chứng về
việc một người sản xuất (người nói/ người viết) cố gắng truyền báo thông điệp của
anh ta đến người nhận (người nghe/người đọc)” [7, tr.205]. Như vậy, xét về mặt
nghiên cứu ngôn ngữ văn học, cách nhìn này đã nhấn mạnh vào sự tình đang diễn
ra, đang tồn tại trong quá trình tiếp nhận của người nhận (người đọc) dù ở bất cứ

thời đại, hoàn cảnh nào. Nó coi nội dung và ý nghĩa của diễn ngôn (tác phẩm văn
học) không bao giờ cố định, bất biến y chang những gì tác giả (người phát) viết ra


9
ban đầu mà luôn vận động, biến đổi qua các thời đại, xã hội (cơ sở hạ tầng – kiến
trúc thượng tầng) khác nhau. Và mỗi người nhận thuộc tầng lớp, xã hội, thời đại
khác sẽ có vai trò, trách nhiệm bồi đắp thêm nội dung cho diễn ngôn đó qua các
thao tác phân tích diễn ngôn (nói đơn giản là đọc, suy ngẫm và rút ra các ý nghĩa
cho riêng bản thân mình). Diễn ngôn (tác phẩm) luôn sống và tồn tại, nhưng để
sống và tồn tại được, nó cần đi vào hành chức, tức là cần có sự đọc và biện luận của
độc giả.
Cùng xu hướng với Brown & Yule, Widdowson (1984) định nghĩa: “diễn
ngôn là một quá trình giao tiếp. Kết quả về một tình huống của quá trình này là sự
thay đổi trong sự thể, thông tin được chuyển tải, các ý định được làm rõ, và sản
phẩm của quá trình này là Văn bản” [40, tr.32]. Cách đánh giá này có vai trò quan
trọng trong việc coi phân tích diễn ngôn là hoạt động giao tiếp giữa người nhận và
người phát.
- Giai đoạn thứ ba: diễn ngôn được dùng và hiểu như văn bản ở giai đoạn
đầu, tức là chỉ chung cả sự kiện nói bằng miệng (ngữ âm) lẫn sự kiện nói bằng chữ
viết có liên kết, mạch lạc.
Có thể thấy, trải qua ba giai đoạn khác nhau trong lịch sử ngôn ngữ học, việc
phân biệt giữa văn bản và diễn ngôn đã dần trở nên rõ ràng. Tuy nhiên, tại Việt
Nam, thuật ngữ diễn ngôn và cách hiểu về nó vẫn chưa phổ biến như văn bản. Để
thuận lợi cho quá trình nghiên cứu, chúng tôi dựa theo hệ thống lý thuyết của Diệp
Quang Ban khi ông đưa ra 4 đặc trưng của diễn ngôn/ văn bản về mặt thực tế như sau:
- Thứ nhất, về mặt mục đích sử dụng: mục đích này có quan hệ với đề tài –
chủ đề, lĩnh vực xã hội của việc sử dụng văn bản, phương tiện truyền tải văn bản
(nói hay viết) và nó chi phối cách cấu tạo văn bản. Hệ quả là nó được phản ánh
trong cấu trúc của văn bản.

- Thứ hai, về mặt yếu tố nội dung: diễn ngôn luôn có đề tài (hoặc chủ đề)
thống nhất và thường có thể xác định được. Yếu tố này giúp phân biệt văn bản với
chuỗi câu nối tiếp tình cờ đứng ra cạnh nhau, tạo ra chuỗi bất thường về nghĩa, hoặc
cái gọi là phi văn bản.
- Thứ ba, về mặt cấu trúc diễn ngôn: cấu trúc là sự tổ chức các yếu tố nội
dung theo các cách thức hoặc trật tự nhất định phù hợp với các quy định của phong


10
cách chức năng hoặc với các thể loại văn chương – nghệ thuật. Cấu trúc có vai trò
lớn trong việc tạo nên mạch lạc.
- Thứ tư, về mặt yếu tố mạch lạc và liên kết: mạch lạc là vấn đề cốt yếu của
phân tích diễn ngôn, là yếu tố quyết định việc tạo thành một diễn ngôn hay văn bản.
Trong đó, nói rõ lên việc tạo thành tính thống nhất đề tài (chủ đề) của văn bản. Liên
kết chỉ là một trong những phương thức tạo mạch lạc hoặc hiện thực hóa mạch lạc.
Mạch lạc có thể không cần dùng đến phương tiện liên kết, và trái lại, có khi dùng
phương tiện liên kết chưa chắc đã tạo ra được mạch lạc cho văn bản.
Diễn ngôn (văn bản) thường có các yếu tố chỉ lượng (dung lượng) cũng như
yếu tố chỉ biên (ranh giới bắt đầu và kết thúc).
Tuy vẫn còn nhiều quan điểm, cách nhìn nhận khác nhau về diễn ngôn,
nhưng Diệp Quang Ban thống nhất về các đặc trưng của diễn ngôn như sau:
- Diễn ngôn có tổ chức về hình thức (cái biểu đạt) và tổ chức về mặt nghĩa
(cái được biểu đạt) – cách nhìn của ngôn ngữ học truyền thống (chủ nghĩa cấu trúc).
Hai mặt này quan hệ không thể tách rời như hai mặt của một tờ giấy.
- Diễn ngôn có quan hệ chặt chẽ với tình huống vật lí và văn hóa – xã hội
(cách nhìn mới của ngôn ngữ học hiện đại).
- Cơ sở hình thành diễn ngôn là mạch lạc, gồm mạch lạc với chính diễn ngôn
(liên kết), mạch lạc với ngữ cảnh tình huống và mạch lạc diễn ngôn.
- Diễn ngôn có thuộc tính phong cách (hay ngôn vực): tức là mỗi diễn ngôn
phải thuộc vào một phong cách ngôn ngữ nào đó. Thuộc tính phong cách là cơ sở để

tổ chức đúng diễn ngôn (về hình thức và nghĩa), xét trong quan hệ với các lĩnh vực
hoạt động xã hội sử dụng diễn ngôn, cũng tức là làm cơ sở cho diễn ngôn phù hợp
với ngữ cảnh tình huống sử dụng nó.
1.1.2. Diễn ngôn trong ngôn vực văn chương – nghệ thuật
Với việc đề cập các thể loại văn học và các hình thái thể loại, Nguyễn Hòa đã
nhận ra diễn ngôn văn chương có tính nghệ thuật và dấu ấn cá nhân: “Các nhà phân
tích diễn ngôn thường ít khi bàn đến diễn ngôn văn chương. Loại diễn ngôn này
thường là đối tượng của tu từ học. Lí do cũng không có gì khó hiểu: diễn ngôn văn
chương có đặc tính nghệ thuật mang nhiều dấu ấn của tác giả. Chằng hạn như


11
Morohovski (xem D. Q. Ban 1998) đã cho rằng văn chương tạo nên một kiểu loại
ngôn ngữ chứ không phải một phong cách” [40, tr.68].
Halliday khi phân loại diễn ngôn theo trường diễn ngôn, bầu không khí diễn
ngôn, cách thức diễn ngôn đã quan niệm rằng tác phẩm văn chương cũng là một thứ
diễn ngôn bên cạnh các diễn ngôn khác. Khi bàn về ngôn vực, ông cũng cho rằng,
ngôn vực văn chương gồm các kiểu ngôn vực như văn xuôi, thơ, văn học dân gian
và các thể loại cụ thể như: truyện ngắn, tiểu thuyết văn học, tiểu thuyết lịch sử, thơ
ca, kịch…
Diễn ngôn văn chương cũng mang những đặc trưng, tính chất của diễn ngôn
nói chung, nhưng ngoài ra còn có một số nét riêng khác như: tính hình tượng, tính
cá thể hóa, tính biểu cảm… Về cấu trúc của tác phẩm văn học, khác với các kiểu
loại diễn ngôn khác, theo Trần Đình Sử, diễn ngôn văn chương bao giờ cũng có 3
tầng: tầng ngôn từ, tầng ý nghĩa và tầng hình tượng.
Diễn ngôn văn chương coi trọng tính nghệ thuật của ngôn ngữ hơn việc sử
dụng ngôn ngữ thông thường. Các yếu tố nghệ thuật được thể hiện trước hết qua
việc sử dụng ngôn ngữ, từ sắc độ của âm thanh ngôn ngữ đến từ ngữ, hay việc dùng
các kiểu câu, cấu tạo lớn hơn câu…
Văn bản văn chương nghệ thuật có cấu tạo riêng và ở thể loại khác nhau thì

có cấu tạo văn bản khác nhau. Chẳng hạn, cấu tạo của thơ khác với văn xuôi, tiểu
thuyết khác với truyện ngắn.
Một trong những lưu ý quan trọng khi coi tác phẩm văn học như một diễn
ngôn là phải đặt nó vào mô hình giao tiếp, coi hoạt động văn học như một hoạt động
giao tiếp giữa nhà văn và bạn đọc, với thông điệp chính là tác phẩm văn học, chịu
sự bao trùm và chi phối của ngữ cảnh (rộng và hẹp). Người đọc tiếp nhận tác phẩm
và có quyền suy diễn, luận giải và đồng sáng tạo với tác giả.
Tóm lại, diễn ngôn là một thể ngôn ngữ vận động được tạo ra trong quá trình
giao tiếp giữa người phát và người nhận, dưới sự bao trùm và chi phối của ngữ cảnh
(rộng và hẹp). Diễn ngôn có nội dung và cấu trúc nhất định, có tính quan yếu, liên
kết và yếu tố chỉ lượng, chỉ biên. Diễn ngôn thuộc lĩnh vực văn chương là một thể
loại đặc biệt bởi tính hình tượng, tính nghệ thuật và tính biểu cảm.


12
1.2. Sơ lược về phân tích diễn ngôn (Discourse analysis)
1.2.1. Cách hiểu về phân tích diễn ngôn – một số đường hướng phân tích
diễn ngôn
Phân tích diễn ngôn được Harris (1952) gọi tên đầu tiên. Tới Brwon & Yule
(1983), nó đã được thừa nhận một cách rộng rãi như tên gọi chính thức tiếp theo
giai đoạn “ngữ pháp văn bản”. Tuy nhiên, cách hiểu về phân tích diễn ngôn vẫn
chưa thực sự thống nhất, có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau như:
M.Stubs (1983) quan niệm phân tích diễn ngôn thực sự là một môn học riêng
trong ngôn ngữ học: “Thuật ngữ phân tích diễn ngôn rất mơ hồ. Tôi sẽ sử dụng nó
trong sách này chủ yếu để chỉ sự phân tích ngôn ngữ học đối với diễn ngôn nói
hoặc viết có nối kết, xuất hiện tự nhiên” (Dẫn theo Diệp Quang Ban [7, tr.160]).
D.Schiffrin (1994) cũng quan niệm: “Phân tích diễn ngôn vẫn còn là một
tiểu lĩnh vực rộng mênh mông và ít nhiều còn mơ hồ của ngôn ngữ học” [40, tr.17].
Có thể thấy, các định nghĩa về phân tích diễn ngôn vẫn còn khá mơ hồ. Tuy
nhiên, có thể hiểu ngắn gọn theo đánh giá của Brown & Yule: “Phân tích diễn ngôn

một mặt bao gồm việc nghiên cứu các hình thức ngôn ngữ, tần suất xuất hiện của
chúng; mặt khác tính đến nguyên lí nhận thức nói chung mà nhờ đó người ta hiểu
được điều người ta đọc và nghe” [9, tr.11], và “Phân tích diễn ngôn nhất thiết là sự
phân tích ngôn ngữ hành chức. Như vậy, không thể giới hạn nó trong việc miêu tả
các hình thức ngôn ngữ tách biệt với các mục đích hay chức năng mà các hình thức
này được sinh ra để đảm nhận trong xã hội loài người” [39, tr.97]. Nói cách khác,
“nhà phân tích diễn ngôn xử lí dữ liệu của anh ta như là dữ kiện (văn bản) của một
quá trình động. Trong đó, ngôn ngữ được sử dụng như một công cụ giao tiếp trong
ngữ cảnh mà qua đó, người nói/người viết thể hiện nghĩa đạt được ý định (diễn
ngôn). Từ dữ kiện này, nhà phân tích diễn ngôn mô tả các quy tắc trong ngôn ngữ
được mọi người sử dụng để giao tiếp ý nghĩa và ý định” [9, tr.51]. Khi xem xét,
đánh giá các vấn đề quan yếu của phân tích diễn ngôn, các tác giả cũng cần tập
trung vào “những vấn đề liên quan đến quy chiếu, và các vấn đề khái quát về tính
mạch lạc và tính quan yếu” [9, tr.419].
R. Fasold (1990) định nghĩa phân tích diễn ngôn theo quan điểm ngữ dụng:
“nghiên cứu diễn ngôn là nghiên cứu mọi khía cạnh sử dụng của ngôn ngữ” [40, tr. 26].


13
R. Fasold (1990) định nghĩa phân tích diễn ngôn theo quan điểm ngữ dụng:
“nghiên cứu diễn ngôn là nghiên cứu mọi khía cạnh sử dụng của ngôn ngữ” [40, tr. 26].
Trong khi đó, D. Nunan lại đề xuất một đường hướng nghiên cứu mới:
“Phân tích diễn ngôn liên quan đến việc nghiên cứu ngôn ngữ trong sử dụng. Để
hiểu được con người có thể giao tiếp với nhau theo một cách thành công như thế
nào, cần phải xem xét không những các từ xuất hiện trên mặt giấy mà còn phải xem
xét các kiến thức và các kĩ năng của bản thân người sử dụng ngôn ngữ” [48,
tr.134].
Việc phân biệt diễn ngôn và văn bản tất yếu dẫn tới phân biệt giữa phân tích
diễn ngôn và phân tích văn bản. Theo đó, phân tích văn bản chỉ là giai đoạn đầu,
đảm nhiệm một phần việc của phân tích diễn ngôn là tìm hiểu nội dung, ý nghĩa trên

bề mặt câu chữ. Sau khi phân tích văn bản xong nhiệm vụ thì phân tích diễn ngôn
mới thực hiện những bước đi tiếp theo nhằm “vừa chỉ ra vừa giải thuyết mối quan
hệ giữa những cái đều đặn đó với ý nghĩa và những mục đích được diễn đạt qua
diễn ngôn” [48, tr.22]. Phân tích văn bản chỉ nghiên cứu các phương thức hình thức
của ngôn ngữ để làm rõ đặc điểm của văn bản trong nội tại của nó (tách khỏi ngữ
cảnh sử dụng). Còn phân tích diễn ngôn dù cũng tiến hành các bước tương tự nhưng
mục đích cuối cùng là xem xét các mục đích và chức năng làm nguyên do diễn ngôn
được tạo lập, cũng như ngữ cảnh mà diễn ngôn được tạo ra trong đó. Tóm lại, phân
tích diễn ngôn bao hàm phân tích văn bản (vốn chỉ quan tâm đến mặt chức năng)
và kết hợp với việc phân tích theo mô hình giao tiếp. Nói cách khác, chặng đường
đầu tiên của phân tích diễn ngôn là phân tích văn bản. Sau khi phân tích văn bản
phải phân tích tiếp ngữ cảnh, mục đích giao tiếp, hành động ngôn ngữ…
Để thuận tiện cho quá trình nghiên cứu, chúng tôi xin đi theo cách nhìn nhận
và định nghĩa về phân tích diễn ngôn của Diệp Quang Ban:
“Phân tích diễn ngôn là đường hướng tiếp cận tài liệu ngôn ngữ nói hoặc
viết bậc trên câu (diễn ngôn/văn bản) từ tính đa diện hiện thực của nó, bao gồm các
mặt ngôn từ và ngữ cảnh tình huống, với các mặt hữu quan thể hiện trong khái niệm
ngôn vực (register) mà nội dung hết sức phong phú và đa dạng (gồm các hiện tượng
thuộc thể loại và phong cách chức năng, phong cách cá nhân, cho đến các hiện
tượng xã hội, văn hóa dân tộc)” [7, tr.158].


14
Với định nghĩa này, tác giả đã chỉ ra ba nhân tố quan trọng trong phân tích
diễn ngôn:
- Đối tượng khảo sát của phân tích diễn ngôn: là các tài liệu ngôn ngữ nói và
viết bậc trên câu.
- Đối tượng nghiên cứu của phân tích diễn ngôn: là tính đa diện hiện thực
của tài liệu ngôn ngữ đó, gồm:
+ Mặt ngôn từ và ngữ cảnh tình huống, được hiểu qua hai bình diện:

\ Ý nghĩa của các từ ngữ trong văn bản/diễn ngôn xét trong quan hệ giữa
chúng với nhau (ngữ cảnh văn bản – đồng văn bản) và ngữ cảnh bên ngoài (ngữ
cảnh tình huống, ngữ cảnh văn hóa).
\ Các hiện tượng thuộc liên kết và mạch lạc.
+ Các mặt hữu quan thể hiện trong khái niệm ngôn vực. Trong đó, ngôn vực
được hiểu rộng hơn phong cách học; nó được thể hiện trong tất cả các dấu vết của
âm thanh, từ ngữ, chữ viết, những dấu vết có khả năng mang nghĩa hoặc một giá trị
nào đó có thể biện luận được, được gọi chung là các “dấu nghĩa tiềm ẩn”. Các dấu
nghĩa này gồm ba mặt:
\ Trường (field): là sự kiện tổng quát, trong đó diễn ngôn/văn bản hành chức
cùng với tính chủ động có mục đích từ phía người nói/người nói, gồm cả đề tài, chủ
đề. Nói ngắn gọn, trường là tính chủ động xã hội được thực hiện.
\ Thức (mode): là chức năng của văn bản trong sự kiện hữu quan, gồm nói và
viết, ứng khẩu và có chuẩn bị của các thể loại diễn ngôn/văn bản, các phép tu từ.
Nói ngắn gọn, thức là vai trò của ngôn ngữ trong tình huống.
\ Không khí chung (tenor): phản ánh kiểu trao đổi theo vai, gồm các quan hệ
xã hội thích ứng với các vai, quan hệ lâu dài hay nhất thời giữa những người tham
dự cuộc tương tác. Nói ngắn gọn, không khí chung là các vai xã hội được trình diễn.
- Phương pháp tiếp cận là phân tích: là phân tích ngôn ngữ trong sử dụng.
Đây là đường hướng tiếp cận cho thấy là theo cách phân tích và chủ yếu để hiểu
cách sử dụng ngôn ngữ trong thực tế.


15
Tuy nhiên, với cách hiểu này, Diệp Quang Ban chỉ đề cập đến phân tích diễn
ngôn như là một phương pháp nghiên cứu chứ chưa bàn đến tư cách lí thuyết của
nó. Ngày nay, vấn đề còn lại của phân tích diễn ngôn vẫn là sự thảo luận xem về
thực chất phân mốn mới của ngôn ngữ học này chỉ là phương pháp nghiên cứu các
diễn ngôn hay là một lí thuyết hoàn chỉnh, hoặc “phương pháp và lí thuyết có thể
không tách rời nhau”.

Về các đường hướng phân tích diễn ngôn. Paul Gee đã nói: “có nhiều cách
tiếp cận diễn ngôn khác nhau , không cách nào trong số đó, kể cả cách này (cách
của tác giả Diệp Quang Ban) là đúng một cách độc nhất vô nhị” (Dẫn theo Diệp
Quang Ban [7, tr.163]) Tuy nhiên, có thể tóm lược một số đường hướng như sau:
1.2.1.1. Đường hướng dụng học (Pragmatics)
Đường hướng phân tích diễn ngôn này có đối tượng khá rộng. Đối tượng của
nó là ý nghĩa, ngữ cảnh và giao tiếp. Có hai xu hướng chính của đường hướng này
là lí thuyết hành động ngôn ngữ của Austin (1962) & Searle (1969) và dụng học
theo nguyên tắc cộng tác hội thoại của Grice (1967).
1.2.1.2. Đường hướng biến đổi ngôn ngữ (Language Variation – LA)
Đường hướng này chủ yếu tìm kiếm đối tượng là những đơn vị hay bộ phận
của diễn ngôn nằm trong những quan hệ hệ thống và khuôn mẫu với nhau (từ vựng,
âm vị hay cú pháp).
Đường hướng này cho rằng việc nhận diện và miêu tả diễn ngôn không thể
tách rời ba yếu tố: trường, thức và không khí.
1.2.1.3. Ngôn ngữ học xã hội tương tác (Interactional Social Linguistics – ISL)
Đường hướng ISL có nguồn gốc từ cơ sở nhân chủng học, xã hội học và
ngôn ngữ học. Ngôn ngữ học xã hội tương tác coi diễn ngôn như một sự tương tác
xã hội mà ở đó, việc cấu thành và thương lượng nghĩa được hỗ trợ bởi việc sử dụng
ngôn ngữ.
Đối tượng cụ thể của ngôn ngữ học xã hội tương tác là mối quan hệ giữa việc
sử dụng ngôn ngữ trong tương tác xã hội.


16
1.2.1.4. Phân tích hội thoại (Conversation Analysis – CA)
Đường hướng phân tích diễn ngôn này thông qua việc nghiên cứu cấu trúc
của các cuộc hội thoại, tức là phân tích cách tổ chức hội thoại với đối tượng là các
phát ngôn cụ thể trong giao tiếp.
1.2.1.5. Đường hướng dân tộc học giao tiếp (Ethnography of Communication – EC)

Mục tiêu chính của đường hướng này là nghiên cứu năng lực giao tiếp (kiến
thức về xã hội, tâm lí, văn hóa, lịch sử và ngôn ngữ) thể hiện qua mô hình giao tiếp
hay cấu trúc giao tiếp.
1.2.1.6. Phân tích diễn ngôn trong tâm lí học xã hội (Discourse Analysis in
Social Psychology – DASP)
Đây là đường hướng phát sinh từ lĩnh vực tâm lí học xã hội, nhằm ứng dụng
những ý tưởng của phân tích diễn ngôn trong nghiên cứu tâm lí xã hội, tìm hiểu
xem ngôn ngữ đã được sử dụng như thế nào để thực hiện những ý định của người
giao tiếp trong lĩnh vực tâm lí, xã hội.
1.2.1.7. Phân tích diễn ngôn phê bình (Critical Discourse Analysis – CDA)
Đường hướng này sẽ được chúng tôi trình bày trong 1.2.2. Sơ lược về phân
tích diễn ngôn phê bình (Critical Discourse Analysis).
1.2.1.8. Đường hướng giao tiếp liên văn hóa (Inter Cultural Communication – IC)
Nhiệm vụ của đường hướng này là nghiên cứu tác động của văn hóa đối với
giao tiếp liên văn hóa. Đối tượng là diễn ngôn của những con người đến từ các nền
văn hóa và ngôn ngữ khác nhau.
1.2.1.9. Phương pháp phân tích diễn ngôn tổng hợp (Integrated)
Đường hướng này được đề xuất bởi Nguyễn Hòa trong cuốn “Phân tích diễn
ngôn – một số vấn đề lí luận và phương pháp” (Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội,
2008). Nó phân tích toàn bộ một chỉnh thể diễn ngôn dựa trên mạch lạc, được tổng
hợp từ tất cả các đường hướng trên.
Tóm lại có thể thấy, các đường hướng phân tích diễn ngôn trên đây tuy được
xây dựng trên cơ sở những phương pháp luận hay hệ thống lí thuyết khác nhau
nhưng đều nhìn nhận ngôn ngữ như một công cụ của quá trình tương tác tạo nghĩa


17
(hoạt động giao tiếp) và đặt trọng tâm nghiên cứu ngôn ngữ hành chức trong mối
quan hệ với ngữ cảnh.


1.2.2. Sơ lược về phân tích diễn ngôn phê bình (Critical Discourse Analysis)
1.2.2.1. Cách hiểu về phân tích diễn ngôn phê bình
So với các phân ngành khác, phân tích diễn ngôn phê bình ra đời muộn hơn,
vào khoảng thập niên 70 của thế kỉ XX, do Fairclough đề xướng. Tuy ra đời muộn,
nhưng phân tích diễn ngôn phê bình đã gây được sự chú ý, quan tâm của giới
nghiên cứu trong suốt thời gian vừa qua. Phân tích diễn ngôn phê bình được xem
như một đường hướng phân tích diễn ngôn mới và hiện đại, toàn diện khi nhận thức
diễn ngôn không những như là thực tiễn và tập quán xã hội mà còn đồng thời phản
ánh thực tiễn đó.
Phân tích diễn ngôn phê bình có nguồn gốc từ hùng biện học cổ điển, trong
ngôn ngữ học văn bản và ngôn ngữ học ứng dụng, trong phê bình ngôn ngữ và ngữ
dụng học, trong phê bình văn học, trong triết học mác xít và trong cả đường lối Lê
nin – nít về đấu tranh giai cấp…
Về mối quan hệ giữa ngôn ngữ học và tư duy, phân tích diễn ngôn phê bình
có cùng quan điểm với triết học Mác - Lê Nin, “khi thực hiện, phân tích diễn ngôn
phê bình phải đứng vững trên một quan điểm và phải có thiện chí” [4, tr.50].
Thuật ngữ phê bình (critical) được hiểu khác nhau theo những trường phái
khác nhau như theo truyền thống phê bình văn học, theo tư tưởng Mác Lê… Thuật
ngữ này được hiểu chung là nghiên cứu các ảnh hưởng khác nhau của con người và
của các thể chế đến nghĩa của văn bản (diễn ngôn).
Điều kiện đầu tiên của phân tích diễn ngôn phê bình là phải có “một quan
điểm vững chắc, thích hợp với từng sự việc cụ thể và không kém phần quan trọng là
phải có thiện chí” [4, tr.48]. Tức là khi sử dụng phân tích diễn ngôn phê bình, người
dùng phải có quan điểm chắc chắn dựa trên những nền tảng kinh nghiệm, tri thức
vững vàng.
Phân tích diễn ngôn phê bình không có khung xương lí thuyết xác định như
các đường hướng khác mà nó “chủ trương sử dụng các lí thuyết khung đã có, nhất
là lí thuyết ngữ pháp chức năng của Halliday” [39, tr.39].



18
Phân tích diễn ngôn phê bình có thể hiểu là các nghiên cứu có tính phê bình,
tức là phân tích diễn ngôn với một thái độ và tập trung vào các vấn đề xã hội, nhất
là vai trò của diễn ngôn trong việc tạo ra và tái tạo sự lạm dụng quyền lực và thống
trị. Xét về bản chất hành chức, có thể xem phân tích diễn ngôn phê bình cũng là
“phân tích ngôn ngữ hành chức trong mối quan hệ với quyền thế, hệ tư tưởng và
các mối quan hệ xã hội khác” [38, tr.14]. Điều này nhấn mạnh vào tính bình giá,
phê bình của phân tích diễn ngôn phê bình dựa trên một hệ tư tưởng nhất định.
Về đối tượng nghiên cứu, L. Chouliaraki & N. Fairclough coi phân tích diễn
ngôn phê bình là một bộ phận của khoa học xã hội phê bình. Một số tác giả khác lại
coi đó là “vấn đề quyền thế và hệ tư tưởng được thể hiện trong diễn ngôn” [40,
tr.19]. Theo Nguyễn Hòa, phân tích diễn ngôn phê bình cần được mở rộng hơn theo
hướng “nghiên cứu các mối quan hệ xã hội thường là không bình đẳng như sự phân
biệt chủng tộc, giới tính, quan hệ giữa các tầng lớp xã hội” [38, tr.13], tức là hướng
đến giá trị đấu tranh giai cấp của nó. Điều này cho thấy, khi phân tích diễn ngôn phê
bình, phải gắn diễn ngôn vào thời đại, hoàn cảnh xã hội. Tuy nhiên, đối tượng chính
vẫn là diễn ngôn chứ không phải xã hội.
Cái mà phân tích diễn ngôn, nhất là phân tích diễn ngôn phê bình quan tâm là
“hiệu quả của việc sử dụng ngôn ngữ trong đời sống xã hội, xác nhận bản thân
ngôn ngữ là thực tiễn xã hội, là một bộ phận quan trọng trong đời sống hiện thực
xã hội, gắn liền với các tầng lớp xã hội, với hệ tư tưởng và với quyền lực” [4, tr.46].
Các kiểu cấu trúc, từ ngữ, lời lẽ là cơ sở để người phân tích có thể bình luận được
thái độ và quan hệ xã hội trong đó.
Như vậy, phân tích diễn ngôn phê bình tìm hiểu thái độ và mối quan hệ của
các tầng lớp xã hội được phản ánh vào diễn ngôn, là những cái có thể luận giải được
dựa trên cơ sở là các cấu trúc, từ ngữ, lời lẽ có mặt trong diễn ngôn.
Về sự khác nhau giữa phân tích diễn ngôn và phân tích diễn ngôn phê bình,
theo Thomas Huckin, có 6 điểm sau (dẫn theo Diệp Quang Ban, [4, tr.47]):
- Phân tích diễn ngôn phê bình có tính nhạy cảm từ ngữ rất cao.
- Phân tích diễn ngôn phê bình cho thấy mối quan hệ giữa ba bậc phân tích

sau với nhau:
+ Văn bản.


19
+ Hoạt động thực tế biện luận được dùng để tạo ra và hiểu văn bản đó.
+ Ngữ cảnh xã hội rộng lớn bao trùm lên văn bản.
- Phân tích diễn ngôn phê bình có đối tượng nghiên cứu hay nội dung nghiên
cứu là các vấn đề quan trọng của các tầng lớp xã hội, các mặt văn hóa, chính trị, xã
hội… trọng yếu.
- Phân tích diễn ngôn phê bình không chỉ mô tả các hoạt động thực tiễn xã hội
không đẹp mà còn chỉ trích các hiện tượng đó, tức là phải có thái độ phê phán dựa
trên quan điểm xã hội tiến bộ của thời đại đang sống.
- Phân tích diễn ngôn phê bình cho rằng, các khái niệm của nhân dân về hiện
thực được kiến tạo nên thông qua sự tương tác với những người khác trong việc sử
dụng ngôn ngữ và các hệ thống kí hiệu khác.
- Phân tích diễn ngôn phê bình mong muốn đến với người đọc rộng rãi nên
cố gắng tránh những từ ngữ quá hàn lâm và cách diễn đạt rắc rối.
Đặc biệt, phân tích diễn ngôn phê bình đòi hỏi phải xem xét diễn ngôn trong
quan hệ với ngữ cảnh tình huống: văn hóa, xã hội, lịch sử, tư tưởng, chính trị, đạo
đức… của từng thời đại khác nhau.
Từ đây, có thể thấy, phân tích diễn ngôn phê bình khác hoàn toàn với phân
tích diễn ngôn truyền thống là nó tính đến cả những khía cạnh hệ tư tưởng, quan hệ,
quyền thế thuộc về ngữ cảnh. Tóm lại, “nếu phân tích diễn ngôn chủ yếu đặt mọi
hiện tượng ngôn từ vào trong ngữ cảnh tình huống để phân tích, thì phân tích diễn
ngôn phê bình không chỉ dừng lại ở ngữ cảnh tình huống mà còn quan tâm đến cả
thực tế hoạt động xã hội, các lớp người khác nhau trong xã hội và đòi hỏi ở người
phân tích một ý thức xác định và một thiện chí” [7, tr.174], tức là phải có quan điểm
lịch sử phê phán (một trong những quan điểm cần thiết để bình giá văn học nghệ thuật).
Phân tích diễn ngôn phê bình có 4 đường hướng chính:

- Đường hướng phân tích diễn ngôn phê bình Duisburg của Đức dựa trên lí
thuyết hoạt động của D. Leontjev với đại diện là S. Jager.
- Đường hướng phân tích diễn ngôn phê bình nhận thức – xã hội với đại diện
là T. van Dijk.
- Đường hướng phân tích diễn ngôn xã hội học vi mô với đại diện là
R.Scollon.


20
- Đường hướng phân tích diễn ngôn dựa trên chức năng hệ thống của
Halliday với đại diện là N. Fairclough.
Các đường hướng phân tích diễn ngôn phê bình trên về cơ bản đều có sự
thống nhất về cách tiếp cận của phân tích diễn ngôn phê bình. Trong đó, mô hình
tiếp cận theo ba chiều đo của Fairclough được chấp nhận nhiều nhất. Theo tác giả,
phân tích diễn ngôn phê bình là “bộ khung gồm ba chiều đo mà mục tiêu là đồ họa
lại (Anh: map, hay “ánh xạ” như cách dịch trong toán học) ba hình thức phân tích
tách rời nhau theo kiểu lồng cái nọ vào cái kia: phân tích ngôn ngữ các văn bản
(nói hoặc viết), phân tích thực tế diễn ngôn (các quá trình sản xuất, phân phối và
tiêu thụ) và phân tích các sự kiện suy diễn được như là những trường hợp cụ thể
của thực tế xã hội – văn hóa” [7, tr.167]. Cách tiếp cận này đặt cơ sở trên cách quan
niệm về diễn ngôn theo ba chiều đo:
- Văn bản: được hiểu là sản phẩm ngôn ngữ của các quá trình suy diễn được,
vô luận nó là ngôn ngữ viết hay nói.
- Thực tế của diễn ngôn.
- Thực tế xã hội - văn hóa.
Phương pháp phân tích diễn ngôn của Fairclough miêu tả mặt ngôn ngữ của
văn bản bằng chính ngôn ngữ, tìm hiểu mối quan hệ giữa các quá trình suy diễn
được và giải thích mối quan hệ giữa các quá trình suy diễn đó với các quá trình xã
hội diễn ra trong ngữ cảnh.
Móc nối giữa thực tế văn hóa – xã hội với văn bản ở đây là móc nối gián tiếp

thông qua thực tế diễn ngôn. Theo đó, thực tế diễn ngôn là việc tạo lập và tiếp nhận
văn bản đó. Và thực tế văn hóa – xã hội được người tạo lập văn bản nhận thức như
thế nào thì nó được ghi lại như thế ấy trong thực tế diễn ngôn đó. Mặt khác, bản
chất của thực tế diễn ngôn trong việc sản xuất văn bản ảnh hưởng trực tiếp đến văn
bản đó và để lại dấu vết trên các đặc trưng về mặt của văn bản (tức là dấu vết của
quá trình tạo lập, cấu trúc ra nó), còn bản chất của thực tế diễn ngôn trong việc hiểu
văn bản đó thì quyết định đến đặc trưng bề mặt của văn bản sẽ được hiểu như thế
nào (Diệp Quang Ban trong Tìm hiểu phân tích diễn ngôn phê bình, Tạp chí Ngôn
ngữ). Như vậy, quan điểm này đã tính tới vai trò của người nhận trong việc đồng
tạo lập nên diễn ngôn.


×