Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Từ xưng hô trong truyện ngắn trước cách mạng của nam cao (2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.88 KB, 95 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
**************

KIỀU THỊ THẢO

TỪ XƯNG HÔ
TRONG TRUYỆN NGẮN TRƯỚC
CÁCH MẠNG CỦA NAM CAO
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Người hướng dẫn khoa học

TS. LÊ THỊ THÙY VINH

HÀ NỘI, 2017
1


Khóa luận tốt nghiệp đại
học
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, tôi đã nhận được sự hướng dẫn
nhiệt tình và chu đáo của cô giáo TS.GV Lê Thị Thùy Vinh - Giảng viên tổ
Ngôn ngữ, cùng sự ủng hộ, giúp đỡ của toàn thể các thầy cô giáo trong khoa
Ngữ Văn - trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Tác giả khóa luận xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và gửi lời cảm ơn
trân trọng tới các thầy cô, đặc biệt là TS. GV Lê Thị Thùy Vinh, người đã
giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận.
Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2017


Tác giả khóa luận

Kiều Thị Thảo

Kiều Thị Thảo

K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
học
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận: Từ xưng hô trong truyện ngắn trước cách mạng của Nam Cao
được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô Lê Thị Thùy Vinh. Tôi
xin cam đoan rằng:
- Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
- Kết quả này không trùng với kết quả của bất kì tác giả nào được
công bố. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Tác giả khóa luận

Kiều Thị Thảo

Kiều Thị Thảo

K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
học

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI .................................................................................. 1
3. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU. .............................................................................. 5
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.............................................. 6
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU………………………………………….6
6. ĐÓNG GÓP CỦA KHÓA LUẬN…………………………………………6
7. CẤU TRÚC CỦA KHÓA LUẬN………………………………………….7
NỘI DUNG ....................................................................................................... 8
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT...................................................................... 8
1.1. Khái niệm từ xưng hô trong tiếng Việt ...................................................... 8
1.2. Phân loại từ xưng hô trong tiếng Việt........................................................ 9
1.2.1. Phân loại theo từ loại............................................................................... 9
1.2.2. Phân loại theo phạm vi sử dụng ............................................................ 21
1.3. Đặc điểm của từ xưng hô trong tiếng Việt............................................... 23
1.4. Vai trò của việc dùng từ xưng hô trong hoạt động giao tiếp ................... 25
1.5. Tác giả Nam Cao và đặc điểm truyện ngắn Nam Cao trước cách mạng . 27
1.5.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nam Cao ..................... 27
1.5.2. Đặc điểm truyện ngắn Nam Cao trước cách mạng ............................... 27
Chương 2. TỪ XƯNG HÔ TRONG TRUYỆN NGẮN TRƯỚC CÁCH
MẠNG CỦA NAM CAO ............................................................................... 30
2.1. Kết quả thống kê ...................................................................................... 30
2.2. Từ xưng hô trong truyện ngắn trước cách mạng của Nam Cao............... 32
2.2.1. Một số mô hình xưng hô mang tính ổn định......................................... 33
2.2.2. Một số mô hình xưng hô mang tính lâm thời ....................................... 49
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Kiều Thị Thảo


K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
học
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Xưng hô là một phạm trù trong văn hoá giao tiếp của bất kì ngôn
ngữ nào. Đối với tiếng Việt, từ ngữ xưng hô rất phong phú, phản ánh đầy đủ
tương ứng với cách phân chia từng vai cụ thể của con người trong gia đình
hay ngoài xã hội. Khi vận dụng trong hoạt động giao tiếp, các từ ngữ dùng để
xưng hô luôn phản ánh thái độ của người tham gia giao tiếp, hình thành một
chiến lược giao tiếp - xưng hô.
1.2. Trong tác phẩm văn học, ở mỗi ngữ cảnh, mỗi lời thoại xưng hô
mang lại một hiệu quả nhất định. Nó thể hiện quan hệ của các nhân vật, tâm
lí, tính cách, thái đô, cách ứng xử của từng nhân vật cũng như cách đánh giá
của nhà văn. Có lẽ vì vậy, trong nhiều tác phẩm văn học, các nhà văn sử dụng
một cách triệt để cách dùng từ xưng hô để gián tiếp thể hiện dụng ý của mình.
1.3. Trong văn xuôi Việt Nam nói chung và trong văn xuôi Việt Nam
1930 - 1945 nói riêng, Nam Cao là một trong những tác giả tiêu biểu và xuất
sắc nhất. Ông thể hiện nội dung, tư tưởng trong các sáng tác của mình thông
qua một hệ thống ngôn ngữ chọn lọc, sắc cạnh và khá điêu luyện. Trong hệ
thống ngôn ngữ ấy, từ xưng hô được tác giả sử dụng rất tinh tế và linh hoạt
thích hợp với mỗi đối tượng nhân vật cũng như mỗi tình huống giao tiếp cụ
thể. Sử dụng từ xưng hô với ý nghĩa đó không chỉ thể hiện ý đồ nghệ thuật
của Nam Cao mà còn thấy được tài năng của người nghệ sĩ này.
Với những lí do trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu "Từ xưng hô trong
truyện ngắn trước cách mạng của Nam Cao" nhằm mục đích làm rõ hệ thống
lí thuyết về từ xưng hô trong tiếng Việt, giúp người tiếp nhận văn học thấy

được sự phong phú đa dạng trong cách dùng từ xưng hô trong truyện ngắn
Nam Cao, từ đó thấy được phong cách sáng tác của nhà văn.

Kiều Thị Thảo

1

K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
học
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Từ lâu, vấn đề từ xưng hô là vấn đề đã được các nhà Việt ngữ học đi sâu
xem xét. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt của
Diệp Quang Ban, Đỗ Thị Kim Liên, Bùi Minh Toán, Đinh Văn Đức, Lê
Biên... công trình nghiên cứu về phong cách học của Cù Đình Tú, Đinh Trọng
Lạc... công trình nghiên cứu về ngữ dụng học của Đỗ Hữu Châu...
Diệp Quang Ban trong “Ngữ pháp tiếng Việt” đã nhấn mạnh về đại từ
xưng hô. Ông cho rằng “Đại từ xưng hô dùng thay thế và biểu thị các đối
tượng tham gia quá trình giao tiếp” [1; tr.111]. Theo ông thì đối tượng tham
gia quá trình giao tiếp (người, vật) được chỉ ra một cách chung nhất ở cương
vị ngôi. Theo đó, đại từ xưng hô được chia thành ba ngôi: ngôi thứ nhất, ngôi
thứ hai, ngôi thứ ba và phân thành hai số: số ít và số nhiều.
+ Ngôi thứ nhất: Người nói
+ Ngôi thứ hai: Người nghe
+ Ngôi thứ ba: Người hoặc vật được nói tới
Cùng quan điểm với Diệp Quang Ban, Đỗ Thị Kim Liên với “Ngữ pháp
tiếng Việt” đã nhận định đại từ xưng hô dùng để thay thế và “chỉ trỏ người
khi giao tiếp” [16; tr.58]. Điểm khác biệt là tác giả đã chỉ ra bên cạnh đại từ

xưng hô thì các danh từ thân tộc như: ông, bà, cha, mẹ, anh, em, cô, bác
cũng còn được dùng để xưng hô và những cặp từ như: anh/ em, cha/ mẹ, ông/
bà, cô/ bác, chú/ thím, ông/ cháu, bà/ cháu… ngoài việc được sử dụng xưng
hô trong phạm vi gia đình, thân tộc thì còn được dùng xưng hô ngoài xã hội.
Đinh Văn Đức trong “Ngữ pháp tiếng Việt” ngoài những quan điểm khá
giống với các tác giả trên còn cho rằng các đại từ chỉ định như: “đây, đấy, đó,
kia, kìa, vậy, thế… nhiều khi cũng được dùng để chỉ người” [15; tr.204].
Lê Biên với “Từ loại tiếng Việt hiện đại” đã có những nghiên cứu khá
sâu về đại từ xưng hô. Theo tác giả thì có thể chia đại từ xưng hô trong tiếng

Kiều Thị Thảo

2

K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
học
Việt thành hai lớp là đại từ xưng hô gốc đích thực và các yếu tố được đại từ
hóa dùng để xưng hô như: những danh từ lâm thời đảm nhận chức năng đại
từ, các từ chỉ chức danh, nghề nghiệp, các tên riêng của người… Ngoài ra,
ông còn chia từ xưng hô trong tiếng Việt thành hai lớp có phạm vi sử dụng
khác nhau, gồm: những từ xưng hô dùng trong gia tộc và những từ xưng hô
dùng ngoài xã hội. Và ông còn nhận định rằng: “Xưng hô trong giao tiếp là
một vấn đề lớn, liên quan đến nhiều nhân tố” [3; tr.123].
“Phong cách học quan tâm đến cái giá trị biểu đạt, biểu cảm - cảm xúc,
cái gía trị phong cách của các phương tiện ngôn ngữ trong những hoàn cảnh
giao tiếp tiêu biểu, với những điều kiện giao tiếp tiêu biểu, với những điều
kiện giao tiếp nhất định trong quá trình giao tiếp” [14; tr.10]. Đây là lời nhận

xét của Đinh Trọng Lạc trong “Phong cách học tiếng Việt” và cũng có thể
được xem là những quan điểm tiêu biểu trong việc nghiên cứu từ xưng hô
của các nhà phong cách học. Theo quan điểm trên thì từ xưng hô cũng như các
phương tiện ngôn ngữ khác, đều được phong cách học nhìn nhận và xem
xét dưới những phương diện: đặc điểm tu từ và phong cách chức năng.
Cù Đình Tú trong “Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt” đã cho
rằng ngoài các đại từ nhân xưng và các từ chỉ quan hệ họ hàng thân tộc thì
còn “lấy cả tiếng đệm giữa họ và tên của nữ giới (thị) để dùng làm từ xưng
hô, thậm chí còn dùng cả cách nói trống không (từ xưng hô zero) để xưng hô”
[25; tr.166]. Và ông còn cho rằng: “Trong tiếng Việt, từ xưng hô, cách xưng
hô, mô hình xưng hô là phương tiện biểu cảm, là phương tiện phong cách”
[46; tr.168].
Trong quyển Đại cương ngôn ngữ học - tập 2, Đỗ Hữu Châu cho rằng:
“Trước hết để xưng hô tất cả các ngôn ngữ đều có các đại từ xưng hô. Đại từ
xưng hô trong tiếng Việt ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai là: Tôi, tao, ta, mình,
mày, bay, chúng tôi, chúng mày, chúng tao, chúng mình, bọn mình… ý nghĩa

Kiều Thị Thảo

3

K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
học
biểu cảm trong các đại từ xưng hô của tiếng Việt quá đậm. Tiếng Việt thiếu
hẳn một đại từ ngôi thứ hai hoàn toàn trung tính như You tiếng Anh. Cho nên
chúng không được dùng trong giao tiếp ở ngữ vực quy thức và phi quy thức,
theo phép lịch sự trang trọng, tôn kính, chúng thường chỉ được dùng trong

ngữ vực thân tình với thái độ từ thân mật đến suồng sã hoặc khinh rẻ. Tùy
theo ngữ cảnh mà tiếng Việt còn dùng các phương tiện sau đây để xưng hô:
tên riêng, các danh từ thân tộc, các từ chỉ chức nghiệp, những từ chuyên dùng
để xưng hô, một số tổ hợp dân dã” [6; tr.75 - tr.77]. Bên cạnh đó, tác giả cũng
có những nghiên cứu khác khá sâu về từ xưng hô như việc đề cập đến vấn đề
chiếu vật và chỉ xuất. Theo tác giả thì: “Bằng cách lựa chọn từ để tự xưng và
để “hô” người giao tiếp, người nói định một khung quan hệ liên cá nhân cho
mình và cho người đối thoại với mình” [5; tr.57].
Trong Cơ sở ngữ dụng học, Đỗ Hữu Châu đã đi sâu vào phân tích khá tỉ
mỉ và sâu sắc hệ thống từ xưng hô, nêu lên được những đặc điểm cũng như
phạm vi, cách thức sử dụng của các từ xưng hô trong tiếng Việt. Tác giả đánh
giá: “Xưng hô là hành vi chiếu vật, ở đây là quy chiếu các đối ngôn trong ngữ
cảnh, nó sẽ gắn diễn ngôn với người nói, người tiếp thoại. Xưng hô thể hiện
vai giao tiếp” [4; tr.264].
Nhìn chung với nhiều hướng tiếp cận khác nhau các nhà ngôn ngữ học
đã có nhiều cách nghiên cứu về từ xưng hô.Tất cả các công trình nghiên cứu
đều là nguồn tư liệu quý báu để chúng tôi có thêm cái nhìn rộng và toàn diện
hơn về từ xưng hô, từ đó có cơ sở để nghiên cứu sâu hơn từ xưng hô trong tác
phẩm văn học và cụ thể là trong sáng tác của Nam Cao.
Nam Cao là nhà văn hiện thực tâm lí, cây bút đỉnh cao của văn học hiện
thực phê phán. Do vậy, có rất nhiều công trình nghiên cứu về Nam Cao cũng
như tác phẩm của ông. Khi nghiên cứu Nam Cao, các tác giả khai thác ở
nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau.

Kiều Thị Thảo

4

K39C - SP Ngữ Văn



Khóa luận tốt nghiệp đại
học
“Tìm hiểu truyện ngắn Nam Cao” - Trần Thanh Đạm.
“Luận đề về Nam Cao” - Trần Ngọc Hưởng.
“Nhà văn tư tưởng và phong cách” - Nguyễn Đăng Mạnh.
“Các từ xưng hô trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao” - Trần
Kim Phượng.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về Nam Cao đều dựa trên nội
dung và nghệ thuật của tác phẩm, cũng có một số tác giả có hướng nghiên cứu
về từ xưng hô tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở một vài tác phẩm của Nam Cao.
Như vậy, đề tài “Từ xưng hô trong truyện ngắn trước cách mạng của
Nam Cao” là một đề tài khá mới lạ, qua đề tài này chúng tôi đi sâu, nghiên
cứu được từ xưng hô qua các truyện ngắn trước cách mạng của Nam Cao, từ
đó thấy được tài năng của tác giả. Thiết nghĩ, các phát hiện của các nhà
nghiên cứu trong các công trình tiêu biểu trên sẽ là cơ sở lí luận để chúng tôi
vận dụng vào đề tài của mình.
3. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
3.1. Mục đích của đề tài
Đề tài làm rõ hệ thống lí thuyết về từ xưng hô trong tiếng Việt trên các
mặt ngữ pháp, phong cách và ngữ dụng. Lựa chọn hướng nghiên cứu của ngữ
dụng học, đề tài khảo sát hệ thống từ xưng hô trong truyện ngắn trước cách
mạng của Nam Cao để thấy được sự phong phú và có phần phức tạp của hệ
thống này. Từ đó, giúp người đọc hiểu thêm những tâm tư tình cảm mà Nam
Cao đã gửi gắm trong tác phẩm của mình và phong cách nghệ thuật của người
nghệ sĩ tài hoa.
3.2. Yêu cầu của đề tài
- Trước tiên chúng tôi đi sâu tìm hiểu lí thuyết về từ xưng hô trong các
giáo trình về ngữ pháp, phong cách và ngữ dụng.
- Khảo sát hệ thống từ xưng hô, mô hình xưng hô xuất hiện trong truyện

ngắn trước cách mạng của Nam Cao.
Kiều Thị Thảo

5

K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
học
- Tìm hiểu cách sử dụng và giá trị nghệ thuật của từ xưng hô trong
truyện ngắn trước cách mạng của Nam Cao.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là từ xưng hô trong truyện ngắn trước
cách mạng của Nam Cao.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ xem xét một số truyện ngắn trước cách mạng của tác giả Nam
Cao. Những truyện ngắn này được chúng tôi khảo sát trong cuốn “Tuyển tập
Nam Cao”, “Truyện ngắn Nam Cao” - Nhà xuất bản Văn học.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khóa luận sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp hệ thống
Phương pháp thống kê
Phương pháp miêu tả
Thủ pháp phân loại
Thủ pháp phân tích, chứng minh
Thủ pháp so sánh đối chiếu
6. ĐÓNG GÓP CỦA KHÓA LUẬN.
6.1. Về mặt lí luận

Đề tài làm rõ lí thuyết về từ xưng hô trong tiếng Việt, cách sử dụng từ
xưng hô, hiệu quả sử dụng từ xưng hô trong truyện ngắn Nam Cao trước cách
mạng. Trên cơ sở đó đề tài hướng tới khẳng định tài năng và phong cách của
nhà văn.
6.2. Về mặt thực tiễn
Qua đây, đề tài cũng là nguồn tư liệu quý giúp giáo viên sử dụng
trong việc dạy các tác phẩm của Nam Cao trong nhà trường phổ thông.

Kiều Thị Thảo

6

K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
học
7. CẤU TRÚC CỦA KHÓA LUẬN
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, cấu trúc
của khoá luận gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Chương 2: Từ xưng hô trong truyện ngắn trước cách mạng của Nam
Cao.

Kiều Thị Thảo

7

K39C - SP Ngữ Văn



Khóa luận tốt nghiệp đại
học
NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Khái niệm từ xưng hô trong tiếng Việt
Xưng hô là một hành động diễn ra liên tục, thường xuyên trong khi trò
chuyện và là lời của cả người nói lẫn người nghe.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Xưng hô là tự gọi mình và người khác là gì
đó khi nói với nhau để biểu thị tính chất của mối quan hệ với nhau”. Xưng hô
là yếu tố quan trọng và không thể thiếu trong giao tiếp.
Theo Đỗ Hữu Châu trong “Cở sở ngữ dụng học” đã viết: “Xưng hô là
hành vi chiếu vật, ở đây là quy chiếu các đối ngôn trong ngữ cảnh, nó sẽ gắn
diễn ngôn với người nói, tiếp thoại. Xưng hô thể hiện vai trò giao tiếp” [4;
tr.264].
Theo tác giả Nguyễn Văn Khang: “Xưng hô là lớp từ dùng để chỉ tự gọi
tên mình (xưng) và gọi tên người khác (hô) khi giao tiếp”.
Có thể thấy có rất nhiều khái niệm khác nhau về xưng hô, nhưng các
quan điểm đều thể hiện được phương tiện quan trọng để thực hiện hành động
xưng hô chính là “từ xưng hô”. Trong khóa luận này, chúng tôi cho rằng:
“Xưng”: là tự gọi mình là gì đó khi nói với người khác, biểu thị tính chất
mối quan hệ giữa mình với người ấy. Khi giao tiếp thì người nói, người nghe
muốn xưng phải sử dụng đến ngôn ngữ giao tiếp. Mỗi người sẽ có vốn ngôn
ngữ riêng để từ đó làm tăng sự phong phú hấp dẫn cho cuộc giao tiếp. Khi sử
dụng ngôn ngữ người nói và người nghe đã nhằm ám chỉ mình ở trong đó.
Khi “xưng” một người sẽ ứng với ngôi thứ nhất, số ít, từ hai người trở lên sẽ
là ngôi thứ nhất, số nhiều.
Xưng ở ngôi thứ nhất chính là sự tự quy chiếu của người nói. Người nói
sẽ “xưng” với người nghe bằng các từ nhân xưng nhất định từ đó thể hiện mối
quan hệ giữa hai đối tượng giao tiếp. Tương tự, hô ứng với ngôi nhân xưng thứ

hai. Các phương tiện nhân xưng thứ hai là sự qui chiếu đến người nghe.
Kiều Thị Thảo

8

K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
học
“Hô”: là gọi người nói chuyện với mình là gì đó, biểu thị tính chất mối
quan hệ giữa mình với người ấy. Có thể hiểu “hô” tức là người nói gọi đối
tượng giao tiếp mà mình hướng đến là gì đó. Trong mỗi hoàn cảnh giao tiếp
cụ thể sẽ có cách “hô” khác nhau hướng đến các mục đích khác nhau.
Ví dụ:
Hoa: Tớ làm bài rồi. Cậu làm chưa?
Xuân: Tớ cũng làm rồi.
Trong đoạn hội thoại trên, có thể thấy cặp từ xưng hô “tớ - cậu” được
Hoa và Xuân sử dụng. Hoa xưng “tớ” và gọi Xuân là “cậu”, trong trường hợp
này, cặp từ xưng hô thể hiện sự gần gũi, thân mật trong mối quan hệ bạn bè.
Như vậy có thể thấy chức năng quan trọng của xưng hô trong giao tiếp:
chỉ thị người nói, người nghe trong một cuộc hội thoại. Xưng hô xuất hiện khi
có giao tiếp. Đằng sau mỗi cách xưng của người nói và hô với người nghe là
những mục đích riêng nhất định. Cũng có thể thấy xưng hô có ngôn ngữ, văn
hoá, tiềm ẩn trong nền văn minh cùng với sự chuẩn mực giao tiếp của cộng
đồng. Đây chính là yếu tố tất yếu không thể thiếu trong mỗi cuộc giao tiếp.
1.2. Phân loại từ xưng hô trong tiếng Việt
Có nhiều cách để phân loại từ xưng hô, trong giới hạn khóa luận chúng
tôi sẽ phân loại theo hai hướng: phân loại theo từ loại và phân loại theo phạm
vi sử dụng.

1.2.1. Phân loại theo từ loại
Đây là cách phân chia phổ biến nhất, vì xét trong tổng thể thì từ xưng hô
là một bộ phận trong hệ thống từ loại tiếng Việt. Mặc dù các nhà nghiên cứu
đã có sự tìm hiểu, phân tích, và đi đến sự thống nhất chung việc phân chia từ
xưng hô theo từ loại tuy nhiên mỗi tác giả lại có sự nghiên cứu khác nhau
theo tính chất đặc thù của từ loại. Chính vì vậy từ xưng hô được xem xét trên
ba quan niệm sau: quan điểm của Ngữ pháp học, quan điểm của Ngữ dụng
học, quan điểm của Phong cách học.
Kiều Thị Thảo

9

K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
học
1.2.1.1. Quan điểm của Ngữ pháp học
Trong Ngữ pháp học, đồng nhất từ xưng hô với đại từ xưng hô. Theo
quan điểm này thì các tác giả chia từ xưng hô thành hai nhóm: đại từ xưng hô
chuyên dụng và đại từ xưng hô lâm thời.
Theo tác giả Lê Biên, gọi nhóm đại từ xưng hô chuyên dụng này là các
đại từ xưng hô gốc, đích thực và có số lượng khá ít. Đa số các đại từ này
thường chỉ xuất hiện ở những sắc thái biểu cảm không lịch sự, ở những mối
quan hệ thân mật, suồng sã, thô tục, đôi khi là khinh thường. Bạn đọc dễ dàng
bắt gặp các đại từ như: “tôi, tao, ta, mày, nó, hắn…”
Nhóm từ xưng hô chuyên dụng, theo Lê Biên có thể được tóm tắt qua
bảng sau:
Số


Số ít

Ngôi

Ngôi gộp hỗn Số nhiều

Các

số

thể

biến

Ngôi

thứ Tôi

Ta Mình

Chúng tao

Tau (tao)

nhất

Tao

Chúng ta


Chúng tôi

Tui (tôi)

(người nói)

Tớ

Chúng tớ

.............

Mình

Chúng mình (tôi)=(choa)

Ta

Chúng ta

Min,

Qua

(2)
Ngôi thứ hai

Mày

Chúng


Chúng mày

Mi (mày)

(người nghe)

Bay

Mình

Chúng bay

Bây

(mi)

(bay)

(1)
(mày): bậu
(2)

Ngôi thứ ba



Chúng nó

(người,


vật Y

Họ

được

nói Thị

Chúng

Kiều Thị Thảo

10



K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
học
đến)
(1): biến thể ngữ âm.
(2): biến thể từ vựng (phương ngữ).
Tác giả Lê Biên gọi nhóm đại từ xưng hô chuyên dụng này là các đại từ
xưng hô gốc, đích thực và nó có số lượng khá ít. Các đại từ như: tao, ta, mày,
nó, hắn chỉ xuất hiện ở những sắc thái biểu cảm không lịch sự.
Nhóm đại từ xưng hô chuyên dụng theo quan điểm của ngữ pháp học có
đặc điểm sau:

- Những từ: tôi, tao, tớ, chúng tôi, chúng tao, chúng tớ là những từ
chuyên dùng làm lời “xưng” của người nói.
- Những từ: mày, bay, cậu,… chuyên dùng cho người nghe.
- Có những từ vừa dùng gộp cho cả người nói và người nghe như: ta,
chúng ta, chúng mình...
- Đại từ “mình” có thể chỉ người nói, là đại từ tự xưng. Có thể chỉ người
nghe khi dùng trong sự đối xứng với đại từ “ta”.
- Đại từ “nó” chưa được dùng rộng rãi và phổ biến, còn là một trở ngại
cho giao tiếp xã hội.
- Đại từ “tôi” dùng để “xưng” trong giao tiếp xã hội có khác trong quan
hệ thân thuộc.
Đối với nhóm đại từ xưng hô lâm thời thì ở mỗi tác giả lại có sự phân
chia khác nhau. Theo hai tác giả Đỗ Kim Liên thì đại từ xưng hô lâm thời bao
gồm các danh từ thân tộc như: ông, bà, cha, mẹ, anh, em, cô, bác, chú, dì…
Còn với tác giả Đinh Văn Đức thì cho rằng đại từ xưng hô lâm thời còn bao
gồm cả những đại từ chỉ định như: đây, đấy, kia, kìa.
Đầy đủ và chi tiết hơn là cách phân chia của tác giả Lê Biên. Trong “Từ
loại tiếng Việt hiện đại”, Lê Biên đã gọi nhóm đại từ xưng hô lâm thời là
những “yếu tố được đại từ hóa dùng để xưng hô” [3;tr.123]. Bao gồm:
- Những từ nguyên là danh từ đã trở thành đại từ thực sự: tôi, tớ, mình,
Kiều Thị Thảo

11

K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
học
hoặc còn dấu ấn danh từ khá rõ: chàng, nàng, thiếp, người, ngài, người ta…

- Những danh từ lâm thời đảm nhận chức năng đại từ, đó là những danh
từ chỉ người thuộc quan hệ gia tộc, thân thuộc như: cụ, ông, bà, cha, mẹ, chú,
bác, cậu, cô, dì, mợ, thím, anh, chị, em, con, cháu… Những từ như: trai,
gái… được dùng xưng hô trong gia đình, và ngoài xã hội. Những từ: dâu, rể,
vợ, chồng cũng không được dùng làm từ xưng hô.
- Các danh từ: bạn, đồng chí
Ví dụ: “Đồng chí về làng có việc gì không?”
- Các từ chỉ học hành, học vị, tước hiệu: giáo sư, tiến sĩ, đại tướng…
Ví dụ: “Thưa đại tướng, tôi đã nghe rõ hiệu lệnh!”
- Các danh từ chỉ chức danh, nghề nghiệp: bác sĩ, tổ trưởng,…
Ví dụ: “Bác sĩ ơi, xin hãy cứu lấy con tôi”
- Các từ chỉ tên riêng của người: Thảo, Hồng, Hà, Ngân…
Ví dụ: “Thảo cho tớ mượn cái bút nhé”
- Các từ ngữ chỉ nơi chốn: ấy, đấy, đừng, đằng…
Ví dụ: “Đây nói cho đằng ấy biết nhé, đây không thích to tiếng đâu nhé”
- Một số từ có nguồn gốc vay mượn:
Từ gốc Hán:
+ y, thị, chúng… (đại từ đã Việt Hóa)
+ huynh, đệ, đại ca, tiên sinh… (danh từ)
Từ gốc Pháp: moa, toa…
1.2.1.2. Quan điểm Ngữ dụng học
Đại diện tiêu biểu cho quan điểm của ngữ dụng học là tác giả Đỗ Hữu
Châu. Theo ông“để xưng hô, ngoài các đại từ, các ngôn ngữ còn có thể dùng
các từ thuộc từ loại khác như tên riêng, tên chức danh, tên nghề nghiệp, các
từ chỉ quan hệ thân tộc, các từ chỉ không gian như đây, đấy, ấy, đàng này,

Kiều Thị Thảo

12


K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
học
thậm chí cả sự trống vắng từ xưng hô” [4; tr.266]. Cụ thể như sau:
- Đại từ nhân xưng: Theo tác giả thì: “Các đại từ nhân xưng tiếng Việt
không có sự phân chia rạch ròi về ngôi như trong tiếng Anh, gồm các đại từ:
tôi, tớ, tao, tui, qua, mày, mi, mình; choa, chúng tao, chúng tôi, chúng ta,
chúng mình, chúng tớ, bầy (bi), choa chúng mày; bay, hắn, nó, y, thị, va,
chúng nó; nhau” [4; tr.266].
Nhóm đại từ này theo quan điểm của Đỗ Hữu Châu có các đặc điểm sau:
+ Đại từ nhân xưng phân chia theo ngôi mà chúng biểu đạt, nhưng để
biểu đạt ngôi không nhất thiết bao giờ cũng phải dùng đại từ.
+ Nghĩa chiếu vật của các đại từ (và các từ khác) chỉ ngôi thứ ba phải có
mặt trong tiền ngôn cảnh.
+ Trong các từ xưng hô của Tiếng Việt có những từ chuyên ngôi và kiêm
ngôi. Từ chuyên ngôi là những từ chỉ dùng cho một ngôi: tôi, tớ, mày… Từ
kiêm ngôi là từ được dùng cho nhiều ngôi. Đại từ “mình” là một ví dụ điển
hình:
Ví dụ:
(1) Mình rất thích cậu.
Mình (1) được dùng để chỉ người nói (ngôi thứ nhất). Lúc này từ mình
phải mượn từ thân tộc hoặc từ chỉ xuất không gian lập thành cặp tương ứng:
mình - cậu, mình - đằng ấy.
(2) Mình về mình có nhớ ta
Mình (2) được dùng để chỉ người đối thoại (ngôi thứ hai), câu thơ trong
bài Việt Bắc của Tố Hữu. “Mình” ở đây là chỉ chiến sĩ, cán bộ, “ta” chỉ
người dân Việt Bắc, đây chính là lời của người dân Việt Bắc khi chia tay các
chiến sĩ, cán bộ cách mạng trở về Hà Nội. “Mình” không còn ở trị trí của

ngôi thứ nhất như ví dụ một nữa, mà chuyển sang ngôi thứ hai.
Hay như đại từ “người” vốn là một đại từ ngôi thứ ba phiếm chỉ
Kiều Thị Thảo

13

K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
học
(3) Cháu thấy người ta bắt dọn hết các quán ăn ở trên vỉa hè ông ạ.
Trong ví dụ này, đại từ “người” để chỉ ngôi thứ ba, “người ta” để nhằm
chỉ một thành phần nào đó có thể là các chú công an, các lực lượng có
quyền… mà người cháu đang kể lại cho ông mình nghe.
Nhưng lại có trường hợp đại từ “người” được dùng ở ngôi thứ nhất:
(4) Hôm nay nghỉ học mà cũng không bảo người ta, làm người ta phải
dậy từ sớm để đến lớp!
Ở ví dụ này, câu nói có ý trách móc, sử dụng “người ta” ở ngôi thứ nhất,
trách một nhân vật ở ngôi thứ hai là bạn học cùng lớp khi không thông báo
nghỉ học.
Lại có những trường hợp dùng ở ngôi thứ hai:
(5) Định không về ăn cơm nhưng sợ người ta giận.
“Người ta” trong ví dụ này lại chỉ ngôi thứ hai, đó có thể là lời của một
người chồng nói với người vợ, sợ rằng nếu không về ăn cơm thì vợ mình sẽ
giận mình, cách xưng hô thể hiện sự yêu thương, quan tâm và cả sự dí dỏm
trong cách nói của người chồng.
+ Có sự phân biệt đại từ xưng hô ngôi thứ nhất số nhiều bao gộp và
không bao gộp. Từ xưng hô ngôi thứ nhất số nhiều bao gồm một nhóm người,
kể cả người nghe lấy người nói làm trung tâm. Từ xưng hô ngôi không bao

gộp gồm một nhóm người với người nói là trung tâm không kể người nghe.
“Chúng ta” là đại từ bao gộp, “chúng tôi” là đại từ không bao gộp,
“chúng mình” vừa là đại từ bao gộp vừa là đại từ không bao gộp.
Ví dụ:
(1) Chúng mình đi đánh cầu lông đây, cậu trông phòng Hoa nhé?
Xét ví dụ, “chúng mình” là đại từ không bao gộp, trường hợp này chỉ
người nói ở ngôi thứ nhất và kèm thêm một ngôi thứ ba khác, đó là một người
bạn nào đó đi cùng đánh cầu lông. Ngôi thứ hai là Hoa được tách riêng, Hoa
không đi đánh cầu lông. Đây được coi như một câu hỏi mang tính chất nhờ
Kiều Thị Thảo

14

K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
học
cậy Hoa trông phòng.
(2) Hoa ơi, chúng mình đi đánh cầu lông đi?
Chúng mình (2) là đại từ bao gộp, ở đây người nói sử dụng “chúng
mình” ý chỉ cả người nghe là Hoa. Đây được coi là câu hỏi mang tnh chất
mời gọi Hoa đi đánh cầu lông.
+ Các đại từ xưng hô, cả những đại từ ngôi thứ ba khác với các đại từ
xưng hô lấy từ các từ thân tộc như: cha, mẹ, ông, bà, anh, em… ở chỗ chúng
không mang nét nghĩa chỉ quan hệ gia đình, họ tộc. Chúng lập thành từng cặp
tự xưng và đối xứng Đỗ Hữu Châu gọi “Hành vi người nói dùng từ để chỉ mình
hành vi tự xưng, dùng từ chỉ người tếp thoại là đối xưng và dùng từ chỉ ngôi
thứ ba là tha xưng” [4; tr.265, 266]. Cụ thể như sau:
Tớ


(Cậu)

Tao

(Tui) mày (mi)

Ta

Mình

Ta

Ngươi

Chúng tao

Chúng mày, chúng bay, bay, bọn bay

Choa (bầy choa)

Bay, chúng bay, bọn bay...

và một vài cặp khác nữa. Tất cả các cặp này đều mang nét nghĩa hoặc
khinh thị, hoặc thân tình.
+ Các đại từ xưng hô tiếng Việt không phân định về tuổi tác, về giới
tính. Ngoài hai nét nghĩa thân tình và khinh thị đi kèm với nghĩa vai giao tiếp,
đại từ xưng hô còn có sự đối lập về số: choa, bay và các đại từ có hình vị:
chúng, bọn, bầy (bi) đều có nghĩa số nhiều, còn lại là số ít.
+ Đại từ xưng hô chính thức tiếng Việt chỉ được dùng ngoài xã hội trong

ngữ vực cực thân tình hoặc “xung đột”, một ngữ vực chưa được đưa vào bảng
xếp loại các ngữ vực.
- Các từ chỉ quan hệ thân tộc: “Từ chỉ quan hệ thân tộc trong tiếng Việt
15
Kiều Thị Thảo
K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
học
là những từ chỉ người trong gia đình, họ tộc có quan hệ huyết thống,
nội ngoại xa gần với nhau” [4; tr.274]. Trong “Đại cương ngôn ngữ học”,
Đỗ Hữu Châu chia từ thân tộc trong tếng Việt thành ba nhóm: thứ nhất là
nhóm gồm những từ như: u, bầm, bủ, ta, ba, má...; thứ hai là nhóm gồm
các từ như: anh, chị, em, chú, bác, cha, mẹ, cháu, con... thứ ba là nhóm gồm
các từ như: anh họ, ông nội, chị họ, dâu, rể...[5; tr.76]
Theo tác giả, đặc điểm của nhóm từ này là:
+ Chỉ những từ thuộc nhóm thứ nhất và thứ hai mới dùng để xưng hô,
nhóm thứ ba không dùng để xưng hô
được.
+ Nhóm thứ nhất chỉ dùng để xưng hô, không dùng để miêu tả quan hệ,
còn nhóm thứ ba chỉ dùng để miêu tả quan hệ, không dùng để xưng hô.
Nhóm thứ hai vừa dùng để miêu tả vừa dùng để xưng hô. Đặc biệt, Đỗ Hữu
Châu đã đưa ra hai cách sử dụng từ thân tộc để xưng hô, đó là xưng hô trong
gia đình, họ tộc và xưng hô ngoài xã hội.
“Các từ thân tộc khi dùng thay cho đại từ xưng hô có thể dùng để xưng
hô giữa những người trong gia đình, họ tộc và giữa những người ngoài xã
hội [4; tr.281].
+ Xưng hô trong gia đình, họ tộc: Theo Đỗ Hữu Châu, có hai cách xưng hô
bằng từ thân tộc: xưng hô theo chỉ xuất chủ quan và xưng hô theo chỉ xuất

khách quan.
 Khi xưng hô theo chỉ xuất chủ quan, ngôi thứ nhất tự đồng nhất mình
với Ego (Đỗ Hữu Châu gọi “Ego là một khái niệm dân tộc chỉ bản thân cái
người được xem là trung tâm để xác định tư cách của người khác xét
theo quan hệ họ tộc... Ego cũng tức là điểm mốc, là trung tâm định vị của các
từ thân tộc”[4; tr.276, 277] ) và cũng gọi ngôi thứ hai bằng từ thân tộc
nghịch đảo với từ mà Ego đã dùng để chỉ mình. Ví dụ khi ngôi thứ nhất tự
Kiều Thị Thảo

16

K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
gọi mình là con thì gọi ngôi thứ hai là cha (mẹ), nếu tự xưng mình là cha
học
(mẹ) thì gọi

Kiều Thị Thảo

17

K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
học
ngôi thứ hai là con.
 Xưng hô theo chỉ xuất khách quan còn được gọi là xưng hô thay ngôi

Ví dụ:
Thức ăn bữa tối, em đã để trong tủ, còn quần áo của bố nó em treo trên
đường dây.
Đây là câu căn dặn của bà vợ dành cho chồng trong ngày vắng nhà. Bà
tự xưng là em, nên theo chỉ xuất chủ quan, sẽ gọi chồng là anh (hoặc mình).
Bà đối xưng chồng thay con, gọi chồng mình là “bố”, tức là bố của các con
mình.
Trong gia đình, họ tộc, xưng hô bằng từ thân tộc luôn luôn thể hiện sự
đối lập bậc trên, bậc dưới. Tuy nhiên, sự đối lập theo bậc này chỉ chặt chẽ khi
người bậc dưới còn nhỏ tuổi, chưa gia đình, chưa con cái và chưa có danh phận.
Lối gọi thay ngôi theo ngôi con, cháu thường chỉ được dùng trong ngữ
vực cực thân tnh và hoàn toàn trong không khí gia đình, không có sự có mặt
của những người ngoài gia đình, họ hàng.
+ Xưng hô ngoài xã hội: Đỗ Hữu Châu cho rằng có hai cách sử dụng từ
thân tộc để xưng hô với người ngoài gia đình, họ tộc (nói tắt là người ngoài),
đó là: xưng hô thân tộc hóa và xưng hô phi thân tộc hóa.
 Xưng hô thân tộc hóa: tức là cách người nói mượn một quan hệ thân
tộc nào đó, tự đặt mình và người tiếp thoại của mình vào rồi dùng các từ
thân tộc tương ứng mà tự xưng và đối xưng.
Ví dụ:
Chú ơi, cháu nhìn thấy cánh diều chú thả rồi ạ.
Ở đây, đứa trẻ chăn trâu và người làng tự đặt mình vào quan hệ
chú cháu, tự xưng là “cháu” và đối xưng là “chú”.
Cách xưng hô thân tộc hóa thường chỉ được dùng khi giữa người nói và
người tiếp thoại có sự chênh nhau rõ rệt về tuổi và về vị thế xã hội.
Kiều Thị Thảo

18

K39C - SP Ngữ Văn



Khóa luận tốt nghiệp đại
học
 Xưng hô phi thân tộc hóa: theo cách này, người nói không đặt mình với
người tiếp thoại của mình vào quan hệ thân tộc nào cả, tự xưng và đối xưng
như những người ngoài xã hội với nhau. Đối với ngôi thứ nhất, khi xưng hô
phi thân tộc hóa với người ngoài thường tự xưng “tôi” và đối xưng bằng các
từ thân tộc khác như: cụ, ông, bà, bác, cô, anh, chị, em, con…
- Tên riêng: Trước đây, ở Việt Nam có rất nhiều loại tên: Tên cúng cơm,
tên húy, tên hiệu, tên tự… ngoài ra những người theo đạo Thiên Chúa còn có
tên thánh, theo đạo Phật còn có pháp danh.
Đỗ Hữu Châu quan niệm, tên chính có thể dùng một mình để tự
xưng, đối xưng, tha xưng.
- Từ chỉ người theo chức danh, nghề nghiệp (gọi tắt là từ chức danh,
nghề nghiệp).
Trong “Cơ sở ngữ dụng học”, Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Từ chức danh
nghề nghiệp lập thành bốn kết cấu sau đây để xưng hô:
Thứ nhất: Từ chức danh, nghề nghiệp dùng một mình
Thứ hai: Từ chức danh nghề nghiệp kết hợp với từ thân tộc hoặc từ
“ngài”, từ “quan” ở trước.
Thứ ba: Từ chức danh, nghề nghiệp dùng với tên riêng ở sau
Thứ tư: Từ chức danh, nghề nghiệp kết hợp với từ thân tộc hoặc từ
“ngài” (từ “quan”) ở trước và tên riêng ở sau” [4; tr.300]
Cũng theo tác giả thì cả bốn kết cấu trên đều có thể được dùng để
tha xưng với các sắc thái biểu cảm, trong những thoại trường, trong ngữ
vực và quan hệ liên cá nhân khác nhau. Đáng chú ý là việc dùng các kết cấu
từ chức danh, nghề nghiệp để đối xưng.
Trước đây, kết cấu thứ nhất hầu như không bao giờ được dùng một mình
để đối xưng (trừ trường hợp “bá tước”, “nam tước”, nhưng “công tước, hầu

tước, tử tước…” lại không được dùng như vậy). Hiện nay, kết cấu từ chức
19
Kiều Thị Thảo
K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
học
danh, nghề nghiệp một mình đã được dùng để đối xưng.
Ví dụ:
Xin Bác sĩ giúp đỡ con tôi
Chủ tịch đã quyết định, chúng tôi xin chấp hành
Cảm ơn Bộ trưởng rất nhiều
Tuy nhiên, kết cấu này được dùng vẫn rất có hạn.
Thuộc kết cấu thứ hai là những tổ hợp từ thân tộc + từ chức danh như
cụ bá, ông lí, bác phán, chú tham, thầy thừa, quan đốc... và những tổ hợp
từ thân tộc + từ nghề nghiệp: bác tài, bác lái, thầy kí...
Cả hai thành phần: từ chức danh, nghề nghiệp và từ thân tộc (ngài,
thầy, quan...) trong kết cấu này đều chịu trách nhiệm thể hiện ý nghĩa trọng,
khinh nhưng trọng trách thể hiện ý nghĩa này rơi vào thành phần thứ
nhất, thành phần khởi đầu kết cấu. Bằng chứng là khi đối xưng, người ta
có thể bỏ từ chức danh, nghề nghiệp chứ không thể bỏ các từ thân tộc.
Ví dụ:
Bẩm cụ lớn, tên lí trưởng này hỗn láo quá.
Một số tổ hợp từ thân tộc + từ nghề nghiệp như: ông tài, bác lái... và
những từ tổ hợp mới như: anh taxi, bác xích lô, anh hải quan, anh công
an… được dùng chủ yếu để gọi.
Kết cấu thứ ba: từ chức danh, nghề nghiệp + tên riêng và kết cấu thứ tư:
từ thân tộc + từ chức danh, nghề nghiệp + tên riêng trước kia và hiện nay
đều không được dùng để đối xưng, chủ yếu chỉ được dùng để tha xưng.

Chúng cũng được dùng để thưa hoặc giới thiệu những người có vị thế xã hội
cao.
Ví dụ:
Xin trân trọng giới thiệu thầy hiệu trưởng Nguyễn Văn Hiện lên phát
biểu
kiến.
KiềuýThị
Thảo

20

K39C - SP Ngữ Văn


Khóa luận tốt nghiệp đại
- Bán đại từ: Đỗ Hữu Châu tạm dùng tên gọi này để chỉ những từ xưng
học

Kiều Thị Thảo

21

K39C - SP Ngữ Văn


×