Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Tiểu luận môn Kinh tế chính trị: Các điều kiện phát triển kinh tế tri thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.22 KB, 13 trang )

1. MỞ ĐẦU
Kinh tế tri thức xuất hiện như một thời đại kinh tế mới, với một nguyên 
lý sáng tạo của cải hoàn toàn khác với các thời đại kinh tế nông nghiệp hoặc 
công nghiệp. Đó là nền kinh tế dựa trên sự  dẫn dắt của nguồn lực trí tuệ và  
khả năng kết nối sâu, rộng trên không gian toàn cầu. Điều đó khiến cho toàn  
cầu hóa trở thành một quá trình khó đảo ngược, diễn tiến nhanh, sâu rộng và 
vận hành trên cơ  sở  của chính nó ­ một nền kinh tế  tri thức, mang bản chất  
toàn cầu. Trong bối cảnh đó, một nước đang phát triển như  Việt Nam, dù có  
điểm xuất phát thấp, cũng phải tham gia vào quá trình của kinh tế tri thức trên 
cơ sở xem xét lại các khía cạnh khác nhau của tư duy phát triển, để tiến bước 
theo yêu cầu của thời đại, tăng cường năng lực hội nhập thực sự  vào nền 
kinh tế  thế  giới. Hiện nay, Đảng, Nhà nước ta đang quyết liệt xây dựng và  
phát triển nền kinh tế tri thức. Vậy kinh tế tri thức là gì, xây dựng kinh tế tri  
thức tại Việt Nam như thế nào và các điều kiện phát triển kinh tế tri thức  ở 
Việt Nam là gì… là những vấn đề  cần tiếp tục nghiên cứu. Trong tiểu luận 
này, đề  tài tập trung nghiên cứu các điều kiện kinh tế  tri thức  ở  Việt Nam  
hiện nay. 
2. NỘI DUNG
2.1. Khái niệm kinh tế tri thức
Từ những năm 80 của thế kỷ XX trở lại đây, sự phát triển của khoa học 
và công nghệ đã tác động mạnh mẽ và đã làm cho nền kinh tế thế giới đang  
biến đổi sâu sắc, toàn diện, chuyển từ  kinh tế  công nghiệp sang kinh tế  tri  
thức. Đây là một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử  trọng đại đối với quá trình 
phát triển của nhân loại.
Khái niệm “kinh tế tri thức” được nhắc đến với các cách diễn đạt khác 
nhau, nhưng quan điểm thông thường cho rằng nền kinh tế  tri thức là nền  
kinh tế  trong đó tri thức trở  thành yếu tố  quyết định. Theo định nghĩa của  
World Bank, kinh tế  tri thức là: “Nền kinh tế  dựa vào tri thức như  động lực  
chính cho sự tăng trưởng kinh tế”. Kinh tế tri thức là biểu hiện hay xu hướng 
của nền kinh tế hiện đại, trong đó tri thức, lao động chất xám được phát huy 
khả năng sinh lợi của nó và mang lại hiệu quả kinh tế lớn lao trong tất cả các 


ngành kinh tế: công nghiệp, nông ­ lâm ­ ngư nghiệp và dịch vụ, phục vụ cho 
phát triển kinh tế.

1


Kinh tế tri thức cũng được hiểu là nền kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở tri  
thức, khoa học; dựa trên việc tạo ra và sử  dụng tri thức, phản ánh sự  phát 
triển của lực lượng sản xuất  ở  trình độ  cao. Hoặc cũng được hiểu là một 
loại môi trường kinh tế  ­ kỹ  thuật, văn hóa ­ xã hội mới, có những đặc tính  
phù hợp và tạo thuận lợi nhất cho việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong 
môi trường đó, tri thức sẽ tất yếu trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất,  
đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội.
Trong nền kinh tế tri thức, việc tạo ra và sử dụng tri thức chiếm ưu thế 
trong quá trình tạo ra của cải vật chất. Đó không chỉ đơn giản là sự thúc đẩy 
vượt qua các giới hạn của tri thức, mà còn là sử  dụng hiệu quả  tất cả  các 
dạng tri thức trong các hoạt động của nền kinh tế.  Nền kinh tế  tri thức cần 
dựa trên những hoạt động có hàm lượng tri thức cao, từ đó thúc đẩy các tiến 
bộ về khoa học và công nghệ, vì vậy những tri thức hiện hữu cũng trở nên lỗi  
thời nhanh chóng. Đặc điểm chính của một nền kinh tế tri thức là tăng trưởng  
phụ  thuộc vào năng lực trí thức của con người nhiều hơn là các yếu tố  đầu 
vào vật chất hay tài nguyên thiên nhiên.
Có thể  hiểu nền kinh tế  tri thức là nền kinh tế  sử  dụng tri thức như là 
động lực chính của tăng trưởng kinh tế, trong đó tri thức được hấp thu, tạo ra, 
phổ  biến và sử  dụng hiệu quả để  thúc đẩy sự  phát triển kinh tế. Tuy nhiên,  
nền kinh tế tri thức không nhất thiết phải xoay quanh công nghệ cao và công 
nghệ thông tin. Ví dụ, việc áp dụng những kỹ thuật mới trong canh tác nông 
nghiệp có thể nâng cao sản lượng đáng kể, hay việc sử dụng những dịch vụ 
logistic hiện đại có thể  cho phép những ngành nghề  thủ  công truyền thống  
mở rộng thị trường tiêu thụ hơn so với trước đây.

Tóm lại, có thể định nghĩa rằng tri thức là nguồn lực chính của nền kinh  
tế  tri thức so với các nguồn lực vật chất khác. Nó cũng quan trọng như  đất 
đai và lao động trong nền kinh tế nông nghiệp, hay tài nguyên thiên nhiên và  
máy móc trong nền kinh tế công nghiệp, thậm chí còn quan trọng hơn do tính 
không ngừng đổi mới và sáng tạo của nó nhằm tăng năng suất lao động và  
đóng góp mạnh mẽ vào quá trình tăng trưởng và chất lượng của quá trình này.
2.2. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức
Kinh tế  tri thức có những nét khác so với các nền kinh tế  trước  đó. 
Những đặc điểm này còn đang định hình và tiếp tục phát hiện. Tuy vậy, có 
thể nêu lên những đặc trưng cơ bản có tính xuyên suốt.
2


­ Thứ  nhất, kinh tế  tri thức là nền kinh tế  được hình thành, phát triển  
trên cơ sở các ngành sản xuất và dịch vụ sử dụng công nghệ cao và sáng tạo  
công nghệ trở thành loại hình sản xuất tiêu biểu nhất.
Trong sản xuất, kinh tế  tri thức lấy các ngành công nghệ  cao làm nền  
tảng. Những ngành công nghệ  cao như  công nghệ  thông tin, công nghệ  sinh 
học, công nghệ  nano,… chúng đang hội tụ  với nhau tạo thành nền tảng cho 
một hệ thống công nghệ mới của thế kỷ XXI ­ công nghệ của nền kinh tế tri 
thức. Hệ  thống công nghệ  mới này đang làm biến đổi sâu sắc quá trình sản 
xuất, cách thức sản xuất kinh doanh, phương thức tổ chức quản lý... Và như 
vậy, nó chi phối toàn bộ quá trình vận động, phát triển của nền kinh tế quốc 
dân. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của các nhà kinh tế học cho  
rằng, chỉ khi nào có được các ngành công nghệ cao mà giá trị  do tri thức mới  
mang lại chiếm 2/3 tổng giá trị sản phẩm là ngành kinh tế tri thức và khi  nào 
nền kinh tế bao gồm chủ yếu các ngành kinh tế tri thức thì gọi là nền kinh tế 
tri thức.
Trong hệ thống công nghệ mới thì công nghệ thông tin có ý nghĩa quyết  
định. Mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội hiện đại đều có tác động và in dấu 

ấn của công nghệ thông tin. Sự phát triển của công nghệ thông tin (siêu xa lộ 
thông tin, Internet,…) giúp cho thông tin và tri thức phát huy được những mặt 
mạnh của nó. Với tốc độ  truyền tải thông tin nhanh chóng đã làm cho nhịp  
điệu cuộc sống, sản xuất kinh doanh sôi động hẳn lên, thế  giới dường như 
đang thu hẹp lại, vòng đời của kỹ thuật và sản phẩm càng rút ngắn.
Công nghệ thông tin là điểm tựa, xương sống của nền kinh tế quốc dân, 
nên các ngành kinh tế phải dựa vào đó để đổi mới và phát triển. Vì vậy, hoạt 
động sáng tạo trở thành hoạt động đặc trưng của nền sản xuất tương lai và  
“sáng tạo cái mới” được coi là nhân tố nội tại, là linh hồn của nền kinh tế tri  
thức. Hoạt động sáng tạo chủ yếu là sáng tạo công nghệ mới, sản phẩm mới, 
phương thức quản lý mới,… trong đó sáng tạo công nghệ mới là loại hình sản 
xuất tiêu biểu nhất.
­ Thứ  hai, vốn quý nhất trong nền kinh tế  tri thức là tri thức, tri thức  
khoa học công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là lực lượng sản xuất thứ  
nhất, là lợi thế để  phát triển. Học tập là nhu cầu thường xuyên đối với mọi  
người và phát huy nhân tố  con người trở  thành nhiệm vụ  trung tâm của xã  
hội.
3


Nội dung của cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, máy móc thay thế 
lao động cơ  bắp của con người, còn ngày nay máy tính giúp con người trong 
lao động trí óc, nhân lên gấp bội sức mạnh trí tuệ, sức sáng tạo của con 
người. Tri thức vừa được sử  dụng để  quản lý, điều khiển, tham gia vào quá 
trình sản xuất, vừa trực tiếp là thành tố trong sản phẩm như nguyên liệu sản 
xuất. Tri thức để  xử  lý tri thức, làm ra tri thức,… Tri thức đang trở  thành 
nguồn lực cơ  bản nhất, quan trọng hơn cả vốn, tài nguyên và sức lao động, 
“Tri thức là nhân tố  trực tiếp của chức năng sản xuất” ­ dự  báo của Mác đã 
trở thành hiện thực.
Trong nền kinh tế  tri thức, hoạt động chủ  yếu nhất là tạo ra tri thức, 

quảng bá tri thức, sử dụng tri thức, biến tri thức thành giá trị. Lực lượng sản 
xuất xã hội loài người từ  dựa vào tài nguyên thiên nhiên đang chuyển dần  
sang dựa chủ yếu vào năng lực trí tuệ của con người.
Có thể  khẳng định, nền kinh tế  tri thức hình thành và phát triển là nhờ 
năng lực sáng tạo của con người, năng lực tạo ra tri thức mới và tận dụng tri  
thức mới. Sáng tạo và đổi mới là động lực của sự phát triển kinh tế ­ xã hội,  
là nguồn gốc của kinh tế tri thức ngày nay.
Không giống như  các nguồn lực khác bị  mất đi khi sử  dụng, tri thức và 
thông tin càng sử  dụng càng được hoàn thiện, giá trị  của nó cáng nhân lên. 
Đặc điểm nổi bật của tri thức trong thời đại ngày nay là tốc độ gia tăng nhanh  
chóng, khả  năng lan truyền rộng rãi buộc mọi người đều học tập để  phát 
triển trí sáng tạo, chủ  động theo kịp sự  đổi mới và có khả  năng thúc đẩy sự 
đổi mới. Do đó, một nền kinh tế  tri thức đòi hỏi phải đầu tư  mạnh vào sự 
phát triển tri thức mới nhằm duy trì và tăng cường vai trò dẫn dắt của tri thức.
Yếu tố cốt lõi của nền kinh tế là tri thức lại gắn với con người, do con  
người tạo ra, còn tố chất của con người lại liên quan trực tiếp đến hoạt động 
giáo dục, cho nên hệ thống giáo dục phải đảm bảo cho mọi người được học  
tập, chú trọng phát triển tài năng của con người thông qua đổi mới hệ  thống  
giáo dục. Giáo dục phải biến tri thức thành kỹ năng, tri thức thành trí lực, dân  
trí thành nhân lực. Giáo dục phải đặt con người vào vị trí trung tâm.
­ Thứ ba, kinh tế tri thức là nền kinh tế có cấu trúc mạng toàn cầu.
Nền kinh tế thế giới đang được cấu trúc thành một mạng lưới toàn cầu.  
Về  bản chất, hệ  thống mạng được cấu trúc “ngang” khác cơ  bản với nền 

4


kinh tế trước đây vận động theo cấu trúc “dọc”. Mạng lưới toàn cầu của nền  
kinh tế tri thức được kiến tạo bởi:
+ Các “chất liệu” phát triển cơ bản khác trước như: máy tính, mạng viễn 

thông, Internet, các vật liệu mới,…
+ Hệ  thống phân công lao động quốc tế  ­ toàn cầu thay cho hệ  thống 
phân công lao động quốc tế  ­ quốc gia. Nó vận động theo qui tắc sản xuất, 
thương mại và tài chính mới trong không gian toàn cầu hóa.
+ Quá trình phi tập trung hóa cấu trúc kinh tế  ­  xã hội. Quá trình đô thị 
hóa diễn ra theo những xu hướng mới. Các đô thị  khổng lồ  không còn là sự 
lựa chọn chủ  yếu: Khái niệm văn phòng, chỗ  làm việc, thị  trường… đang 
thay đổi mạnh mẽ khi công việc chủ  yếu của nhân loại là sản xuất tri thức,  
được tiến hành trong môi trường tự  động hóa cao trên cơ  sở  mạng thông tin 
với công cụ chính là máy tính nối mạng.
+ Sự thay đổi cơ cấu quyền lực trong nền kinh tế. Quan hệ lệ thuộc ­ cai 
trị  của nền kinh tế  trước đây được thay bằng quan hệ  tham dự  ­ bình đẳng. 
Lực lượng nào sở hữu nhiều tri thức và nhân tài sẽ quyết định vận mệnh của  
mỗi dân tộc.
­ Thứ tư, nền kinh tế tri thức có tốc độ phát triển cực kỳ cao.
Đặc điểm quan trọng nhất của kinh tế tri thức là tốc độ biến đổi cực kỳ 
cao. Nó thể hiện ở tốc độ sản sinh tri thức, sự thay đổi về giá cả, tốc độ  ứng 
dụng các phát minh khoa học ­ công nghệ vào thực tiễn và hệ  quả  đi liền là  
tốc độ biến đổi của đời sống trên mọi phương diện.
Tốc độ sản sinh tri thức ngày càng nhanh, thời gian cần thiết để tăng gấp 
đôi lượng tri thức của nhân loại càng rút ngắn. Các nhà khoa học đã nhận 
định: Tri thức của loài người  ở  thế kỷ XIX cứ 50 năm thì tăng gấp đôi, sang 
đầu thế kỷ XX cứ 30 năm tăng gấp đôi, vào giữa thế kỷ XX cứ 10 năm tăng  
gấp đôi, đến những năm 1970 cứ 5 năm tăng gấp đôi và đến những năm 1980 
cứ  3 năm tăng gấp đôi. Có thể  nói, càng lùi vào quá khứ  thì quãng thời gian 
nhân đôi tri thức càng lớn, đo bằng thế kỷ, thiên niên kỷ.
Tốc độ biến đổi giá cả của các sản phẩm càng mới càng nhanh. Một tri  
thức hôm nay có giá trị hàng tỷ USD, ngày mai có thể vô giá trị. Dường như có 
một quy luật: các sản phẩm càng hiện đại thì tốc độ  biến đổi giá càng cao.  
Nếu phải cần đến 60 năm để  cước vận tải biển và phí cảng biển giảm đi 

5


một nửa, thì cũng trong thời gian  ấy, cước hàng không giảm đi 6 lần và giá  
dịch vụ điện thoại giảm 82 lần. Kinh ngạc hơn chỉ trong vòng 30 năm, từ năm 
1960 đến năm 1990, giá máy tính đã giảm đi 125 lần. Vì vậy, trong thời đại 
ngày nay việc tiếp cận và trao đổi tri thức ở phạm vi toàn cầu có ý nghĩa sống 
còn, cạnh tranh trong kinh tế tri thức trước hết là cạnh tranh về tốc độ, về tư 
duy.
Tốc độ  áp dụng và phổ  biến các thành tựu khoa học kỹ  thuật và công  
nghệ  ngày càng cao. Nếu dịch vụ  điện thoại cần 74 năm để  đạt con số  50 
triệu thuê bao, thì chỉ 30 năm số  người sử dụng radio đã đạt con số  50 triệu,  
máy tính cá nhân chỉ cần đến 16 năm, tivi cần 13 năm và mạng thông tin toàn  
cầu chỉ cần có 4 năm.
Đặc điểm tốc độ biến đổi nhanh chóng trên nhiều phương diện của nền 
kinh tế  này nói lên rằng, khả  năng bắt kịp các nước đi trước cũng lớn như 
khả năng tụt hậu xa hơn. Mức độ hiện thực hóa mỗi một khả năng tùy thuộc 
vào nhiều yếu tố, nhưng trước hết là tính hợp lý của mô hình và chiến lược 
“đi tắt” được lựa chọn cũng như quyết tâm theo đuổi nó.
­ Thứ  năm, nền kinh tế  tri thức là nền kinh tế  lấy toàn cầu làm thị  
trường và là nền kinh tế phát triển bền vững.
Nền kinh tế  thị  trường lấy thị  trường toàn cầu làm hướng hoạt động 
chính. Tri thức, thông tin không có biên giới làm cho nền kinh tế  thị  trường  
mang tính toàn cầu. Công nghệ  thông tin làm cho hợp tác kinh tế, văn hóa  
mang tính toàn cầu, đồng thời cạnh tranh gay gắt trên cả bình diện trong nước  
lẫn quốc tế.
Tư tưởng chỉ đạo của phát minh kỹ thuật truyền thống là đơn nhất, tận 
dụng hết khả năng khai thác tài nguyên thiên nhiên để giành lấy lợi nhuận cao 
nhất, ít quan tâm đến môi trường sinh thái và lợi ích xã hội; phát triển trên cơ 
sở tài nguyên thiên nhiên vô tận và dung lượng môi trường không bao giờ cạn 

kiệt. Còn tư tưởng chỉ đạo của kỹ thuật cao, công nghệ mới là lợi dụng một 
cách khoa học, hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên hiện có, đồng thời khám 
phá nguồn tài nguyên mới để  thay thế tài nguyên thiên nhiên đã cạn kiệt. Do 
đó, mục tiêu của kinh tế  thị  trường là phát triển bền vững, thúc đẩy sự  hài 
hòa giữa con người với tự nhiên.
2.3. Giải pháp phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam
6


Đại hội VIII đã khẳng định “Đến năm 2020 về cơ bản nước ta trở thành  
một nước “công nghiệp theo hướng hiện đại” và đến Đại hội X, Đảng ta đã 
cụ  thể  hóa thêm:  “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát  
triển kinh tế  tri thức”. Do đó, chiến lược phát triển nước ta là dựa vào tri 
thức và thông tin. Nền kinh tế nước ta phải phát triển theo mô hình hai tốc độ: 
chuyển nền kinh tế  nông nghiệp sang kinh tế  công nghiệp và kinh tế  công 
nghiệp sang kinh tế tri thức. Hai nhiệm vụ  ấy phải thực hiện đồng thời, lồng 
ghép, đan xen, hỗ  trợ  cho nhau. Điều đó có nghĩa là đẩy mạnh công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; nâng cao năng lực sản xuất các 
ngành công nghiệp và dịch vụ  cơ  bản; đồng thời nhanh chóng phát triển các  
ngành dựa vào tri thức và công nghệ  cao, chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  theo  
hướng tăng nhanh các ngành kinh tế dựa vào tri thức.
­ Một là, đổi mới cơ  chế, chính sách và luật pháp phù hợp với sự  phát  
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; tạo lập môi trường thuận lợi để  
phát huy các nguồn lực của xã hội cho đầu tư phát triển.
Nhà nước tôn trọng yêu cầu khách quan của nền kinh tế  thị  trường, 
nhanh chóng xây dựng các yếu tố  của nền kinh tế  thị  trường hiện đại; thực 
hiện quản lý Nhà nước bằng hệ  thống pháp luật, giảm sự  can thiệp hành 
chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Tách biệt rõ chức năng  
quản lý Nhà nước và chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp nhằm  
phát huy tính tự chủ, sáng tạo của các doanh nghiệp.

Nhà nước chăm lo đầu tư  phát triển kết cấu hạ  tầng kinh tế và xã hội, 
điều tiết sự  phát triển của nền kinh tế  nhằm phát huy mặt tích cực và hạn  
chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ 
thể  sản xuất kinh doanh hoạt động bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công 
khai, minh bạch và có trật tự kỷ cương.
Không có ý tưởng mới, các công nghệ  thành sản phẩm sẽ  không có tri 
thức khoa học công nghệ và do đó không có tri thức mới. Cho nên, Nhà nước 
khuyến khích các doanh nghiệp luôn luôn tự  đổi mới, tạo môi trường thuận 
lợi để thúc đẩy sự ra đời của các doanh nghiệp tri thức, các ngành kinh tế dựa 
vào tri thức.
­ Hai là, đổi mới mạnh mẽ, toàn diện hệ thống giao dục đào tạo và phát  
triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao.

7


Tăng đầu tư để phát triển giáo dục, đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục 
đào tạo từ  mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục, cơ  chế 
quản lý. Giáo dục phải hướng tới xây dựng những thế hệ người Việt  Nam có 
lý tưởng, bản lĩnh, sức khỏe, năng lực, có khả  năng sáng tạ  và làm chủ  tri 
thức mới. Đây là giải pháp quyết định nhất.
Chuyển mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở, bằng 
nhiều phương thức, để tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học.
Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, xây dựng cả nước trở thành một xã hội  
học tập với ý nghĩa “một nền giáo dục cho mọi người và do mọi người”.
Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo, tiếp cận chuẩn đào  
tạo tiên tiến của thế giới phù hợp với yêu cầu phát triển của Việt Nam. Xây 
dựng một số trường đại học đạt trình độ quốc tế.
Điều chỉnh cơ cấu đào tạo để tạo ra nguồn nhân lực đồng bộ, chú trọng 
nhân lực khoa học công nghệ  có trình độ  cao; đội ngũ cán bộ  khoa học kỹ 

thuật, công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp,…
Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, sử dụng bố trí hợp lý 
nguồn nhân lực được đào tạo.
­ Ba là, phát triển và ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa học công  
nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ thông tin.
Xây dựng một nền khoa học công nghệ nội sinh đủ  sức tiếp thu và làm 
chủ  công nghệ  nhập khẩu, tiến tới cải biến, sáng tạo và xuất khẩu công 
nghệ.
Có chính sách  ưu tiên phát triển công nghệ  cao, công nghệ  sạch. Tập 
trung phát triển mạnh công nghệ  thông tin và truyền thông, công nghệ  sinh 
học, vật liệu mới… Xây dựng và phát triển các trung tâm nghiên cứu,  ứng 
dụng công nghệ cao.
Tăng đầu tư, thúc đẩy hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khoa học và công 
nghệ. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ phù hợp với cơ chế thị 
trường. Xây dựng và phát triển thị trường khoa học công nghệ.
Ứng dụng phổ  biến công nghệ  thông tin trong các lĩnh vực kinh tế  xã  
hội. Xác định công nghệ  thông tin là ngành kinh tế  có vị  trí quan trọng hàng  
đầu, là mũi nhọn của chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Muốn vậy,  
phải nhanh chóng hình thành mạng thông tin quốc gia, phát triển thương mại 
8


điện tử, thúc đẩy tin học hóc trong tất cả  các ngành. Đâu tư  mạnh hơn nữa 
đào tạo nhân lực cho công nghệ thông tin.
Kinh tế  tri thức là thực tế  khách quan, những đặc trưng cơ  bản của nó 
đang được bộc lộ rõ ở các nước phát triển. Điều này vừa tạo cho nước ta vận 
hội lớn, vừa đặt ra những yêu cầu, thách thức mới cần phải vượt qua. Việc 
nghiên cứu, đánh giá đúng đắn những tác động thuận nghịch mà xu hướng này 
mang lại để  chủ  động tìm kiếm “mô hình phát triển”, xây dựng lộ  trình phù  
hợp là vấn đề  có ý nghĩa quyết định. Kinh nghiệm thực tế  từ  các nước phát  

triển và đang phát triển cho thấy cần phải tạo ra một nền kinh tế thị trường  
phát triển, một hệ  thống giáo dục và đào tạo tốt để  tạo ra nguồn nhân lực  
chất lượng cao và một hệ thống đổi mới quốc gia năng động, xây dựng một  
nền khoa học công nghệ nội sinh, trong đó công nghệ thông tin phát triển cao 
độ. Đây là những điều kiện cơ bản nhất cho sự hình thành và phát triển kinh 
tế tri thức.
2.4. Điều kiện phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Phát triển kinh tế tri thức  ở nước ta gắn với công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa đất nước, là một quá trình phát triển không phải một sớm một chiều, mà 
phải trải qua thời gian lâu dài. Để phát triển kinh tế tri thức  ở Việt Nam bền  
vững cần làm rõ các điều kiện cho sự phát triển kinh tế tri thức như sau: 
­ Thứ  nhất, bảo đảm  ổn định về  chính trị, kinh tế, xã hội là điều kiện  
tiên quyết để phát triển kinh tế tri thức.
+ Ổn định về chính trị  là độ  bền vững và tính toàn vẹn của một chế độ 
chính trị hiện hành. Một xã hội ổn định là một xã hội trong đó người dân hài 
lòng với đảng cầm quyền và hệ  thống quản lý của các cấp chính quyền nhà 
nước. Ổn định về chính trị có vai trò đảm bảo điều kiện cho các lĩnh vực khác  
phát triển, làm cho quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở nên  
sâu sắc và ý nghĩa.
Ổn định chính trị  được thể  hiện  ở  tính nhất quán, tính đồng bộ  và  ổn 
định lâu dài của đường lối, phải có tầm nhìn dài hạn, phải xây dựng cơ  sở 
khoa học cho việc hoạch định và triển khai đường lối, chính sách công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa đạt hiệu quả  cao với tốc độ  nhanh, tức là phải có chiến 
lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế  tri 
thức. Phải ổn định luật pháp, chính sách, nhất là luật pháp, chính sách kinh tế 
(luật kinh tế, chính sách phát triển công nghiệp, nông nghiệp và phát triển các 
9


ngành   dịch   vụ,   chính   sách   tài   chính,   chính   sách   tiền   tệ,   phát   triển   ngoại  

thương, an toàn thực phẩm, môi trường, chính sách đất đai, tài chính công, 
ngân hàng, ngoại hối...).
Để ổn định về chính trị, cần phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, 
nâng  cao  hiệu lực và hiệu quả  quản lý của Nhà nước và thực sự  phát huy  
quyền làm chủ của mọi tầng lớp nhân dân.
+ Ổn định về kinh tế  là sự ổn định về môi trường sản xuất, kinh doanh 
của nền kinh tế. Nó được thể hiện ở sự ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó trước 
hết là sự   ổn định thị  trường,  ổn định tài chính, tiền tệ, giá cả, việc làm, thu  
nhập. Điều kiện để duy trì sự ổn định này là Nhà nước phải duy trì được cân  
bằng tổng cung ­ tổng cầu, phải kiểm soát được lạm phát, xây dựng và bảo 
vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh...
+ Ổn định về  xã hội là sự cân bằng xã hội, trong đó mọi người hợp lại  
với nhau cùng hướng đến một xã hội an toàn, đồng thuận và phát triển. Nó 
đòi hỏi sự  hợp tác giữa các thành viên tập trung vào việc làm thế  nào để  tất  
cả các bộ phận trong xã hội hợp tác với nhau.
Sự ổn định về xã hội khi đã được duy trì thường xuyên, lâu bền là nhân 
tố  quan trọng kích thích tiến bộ  xã hội.  Ổn định về  xã hội là một điều kiện  
tiên quyết cho sự ổn định về chính trị và phát triển kinh tế, xã hội nói  chung, 
cho thực hiện các mục tiêu chiến lược và kế  hoạch phát triển của Đảng và  
Nhà nước nói riêng. Chỉ  có  ổn định xã hội, thì người dân, các doanh nghiệp 
mới yên tâm đầu tư  sản xuất kinh doanh và mới thu hút được các chủ  doanh 
nghiệp nước ngoài vào ta hợp tác đầu tư. Mọi sự  bất  ổn về xã hội đều dẫn  
đến triệt tiêu động lực phát triển.
Bởi vậy, phải coi việc tạo sự đồng thuận, duy trì, giữ  vững sự  ổn định 
về xã hội là điều kiện tiên quyết để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa  
gắn với phát triển kinh tế tri thức  ở nước ta. Điều kiện tối cần thiết để  giữ 
vững ổn định về xã hội là Đảng và Nhà nước phải coi trọng dân chủ trong đó  
quyền và lợi ích cơ bản của tuyệt đại đa số tầng lớp nhân dân được bảo vệ.
Bảo đảm  ổn định về  chính trị, kinh tế, xã hội, xét về  thực chất, đó là 
bảo đảm sự  ổn định về  môi trường đầu tư. Một nền kinh tế không thể  phát 

triển được nếu môi trường đầu tư ở tình trạng bất ổn. Chỉ có sự  ổn định về 
chính trị, kinh tế  và xã hội, thì mới khuyến khích được tính tích cực của 
người dân phát huy các nguồn lực, đặc biệt là nguồn tài nguyên trí lực vào tìm 
10


kiếm dự án và đầu tư vì sự  nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.  
Đại hội XI của Đảng yêu cầu: “Phải đặc biệt coi trọng giữ  vững  ổn định 
chính trị ­ xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, 
chủ  quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ  để  bảo đảm cho đất nước phát  
triển nhanh và bền vững”1.
­ Thứ hai, đổi mới cơ chế tổ chức, quản lý khoa học, hiệu quả góp phần  
vận hành xã hội.
Trước hết và căn bản nhất là phải đổi mới mạnh mẽ  cơ  chế  quản lý  
(thể  chế, chính sách, luật pháp, bộ  máy). Nói theo thuật ngữ  thông tin, đây 
chính là phần mềm hệ  thống để  vận hành xã hội. Người Việt Nam thường 
được coi là thông minh, nhưng đó mới chỉ  là thông minh cá nhân, chưa phải 
thông minh cộng đồng. Ta cũng thường nói dân tộc ta có tiềm năng trí tuệ lớn,  
nhưng từ lâu chúng ta cứ tự hào mãi về cái tiềm năng ấy mà đất nước vẫn cứ 
lạc hậu, Việt Nam vẫn thuộc những nước nghèo nhất thế  giới, GDP bình 
quân của Việt Nam mới bằng 1/14 Malaysia, 1/30 Hàn Quốc, tại sao như vậy?  
Tại sao cái tiềm năng ấy chưa được phát huy, điều gì ngăn trở giải phóng cái 
tiềm năng ấy? Giải đáp nghịch lý này chỉ có một cách trả lời: vì cơ chế quản  
lý chưa thuận, vì trí tuệ cộng đồng chưa cao, vì cái phần mềm hệ thống còn 
nhiều trục trặc, vì trí tuệ  và tài năng đang bị  vướng mắc bởi một cơ  chế tự 
thân mâu thuẫn, thiếu nhất quán. Do đó vấn đề cốt tử là nên tập trung trí tuệ 
cải cách quản lý, xây dựng một môi trường kinh tế  xã hội lành mạnh và  
thoáng đãng, tự nó khuyến khích mọi sáng kiến chủ động, tự nó phát huy mọi 
tài năng sáng tạo, đồng thời tự  nó hạn chế, loại trừ  những yếu tố  và xu 
hướng tiêu cực.

Trong cơ chế  quản lý thì bộ  phận lạc hậu cần cải cách nhất là quản lý  
tài chính, tiền tệ  và quản lý hành chính. Tài chính tiền tệ  là lĩnh vực nhạy 
cảm nhất trong kinh tế thời nay, còn hành chính là bộ máy trực tiếp hàng ngày 
với người dân. Riêng đối với chúng ta, có hai căn bệnh kinh niên trầm trọng, 
mà nếu không khắc phục được thì có bàn tới kinh tế tri thức cũng vô ích:
+ Tham nhũng.  Chuyện này quá cũ, quá nhàm, nếu cứ  tiếp tục cách 
chống tham nhũng như chúng ta đã làm từ  hàng chục năm nay thì có lẽ mười 
năm nữa tình hình cũng chẳng sáng sủa gì hơn. Cần phải thay đổi cách nhìn, 
1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 
tr.99.

11


đi sâu vào những nguyên nhân gì đưa đẩy cả  một xã hội vốn rất tốt đến chỗ 
một bộ phận tham nhũng, dối trá xuất hiện ở mọi ngành, mọi nơi. Trong y tế 
có thời chúng ta đã đề  ra một khẩu hiệu cực kỳ sáng suốt: Phòng bệnh hơn 
chữa bệnh. Khẩu hiệu ấy cũng đúng cho mọi lĩnh vực. Chống tham nhũng tất  
nhiên phải trừng trị  và trừng trị  nghiêm, song điều quan trọng hơn là phải 
phòng tham nhũng, và muốn vậy phải có phương thức quản lý tài chính và 
chế  độ  phân phối thu nhập hợp lý. Trong khi tiền lương không đủ  sống thì 
chống tham nhũng thế nào đây? Do đó, nếu không khẩn trương cải cách quản  
lý tài chính tiền tệ như các nước văn minh thì mọi cải cách khác đều khó.
+ Quan liêu, lãng phí. Chuyện này cũng quá cũ và cũng như tham nhũng, 
đây  là  hậu  quả   không  thể   tránh  của   cách  quản  lý   tài  chính  tiền  tệ   luộm 
thuộm, và chế  độ  lương phi lý, khiến cho các cơ  quan hành chính, thay vì 
phục vụ  dân, đã vi phạm quyền làm chủ  của dân. Do đó phải coi cải cách 
hành chính là việc cấp bách để  có thể thực hiện thuận lợi các cuộc cải cách  
khác. Vấn đề chỉ ở chỗ cải cách như thế nào cho có hiệu quả vì sau mấy năm 
thực hiện, dư luận chung cho rằng chính công tác này cũng chưa làm tốt: chưa 

ổn, tiêu tốn nhiều tiền của, công sức, thì giờ, mà kết quả chẳng được mấy.
­ Thứ  ba, nâng cao sức cạnh tranh  ở  các lĩnh vực công nghiệp thấp và  
vừa của nông, công nghiệp truyền thống.
Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa và 
kinh tế tri thức phải bắt đầu từ  việc nâng cao sức cạnh tranh  ở  các lĩnh vực 
công nghiệp thấp và vừa của nông, công nghiệp truyền thống. Tình trạng 
hiện nay, trong các lĩnh vực này, năng suất lao động quá thấp, không đủ  sức 
cạnh tranh với các nước vì làm ăn kém thông minh, thể  hiện  ở sự  thiếu tính 
toán hiệu quả, không có tư duy so sánh (mía đường, xi­măng là thí dụ). Ta băn 
khoăn cân nhắc giữa tư  nhân hay Nhà nước, tập thể  hay cá nhân, mà không 
thấy điều quan trọng hơn là phân phối của cải làm ra sao cho công bằng để 
kích thích được kinh tế phát triển lành mạnh.
­ Thứ tư, xây dựng kết cấu hạ tầng thích hợp
Phát triển kinh tế tri thức hiển nhiên đòi hỏi phải xây dựng kết cấu hạ 
tầng thích hợp. Tuy nhiên, đi đôi với kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật sờ mó 
được, và hơn nữa có tiền là xây dựng được, phải hết sức chú trọng kết cấu 
hạ tầng tâm lý xã hội, trước hết là giáo dục và khoa học, là những thứ mà chỉ 
có tiền thôi cũng chưa đủ để xây dựng tốt.
12


Chúng ta đã bàn nhiều về  giáo dục, đã có Nghị  quyết trung  ương, đã có  
luật Giáo dục, chẳng còn thiếu thứ  gì, mà vẫn ì  ạch, tại sao? Muốn tiến  
nhanh và vững trong thời đại kinh tế  tri thức,  ưu tiên hàng đầu phải đặt vào  
việc chấn hưng, cải cách, hiện đại hóa giáo dục, và hơn nữa, phải nhanh 
chóng tiến tới phổ cập đại học. Phổ cập đại học sẽ giải quyết được nạn thất  
học, nhu cầu học tập chính đáng của nhân dân, sẽ  có điều kiện tốt hơn để 
phát hiện và bồi dưỡng tài năng trẻ, mở  rộng các cánh cửa vào kinh tế  tri  
thức, đồng thời là biện pháp gián tiếp giải quyết nhiều vấn đề bức xúc: phát 
triển dân chủ, hạn chế và chống tội phạm, tạo công ăn việc làm ổn định.

3. KẾT LUẬN
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc phát triển kinh tế tri thức để 
tăng khả  năng cạnh tranh, nâng cao sức mạnh của nền kinh tế  Việt Nam là 
một vấn đề  hết sức quan trọng. Việt Nam tuy là một nước đang phát triển 
nhưng nền kinh tế  tăng trưởng vẫn còn chậm, thiếu bền vững và sự  chắc 
chắn. Nhiệm vụ  quan trọng của chúng ta là vừa thực hiện việc công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa đất nước, lại vừa kết hợp với xây dựng, phát triển nền kinh 
tế  tri thức. Với chủ trương đúng đắn, sáng tạo như  vậy, việc lựa chọn một  
mô hình kinh tế tri thức phù hợp với điều kiện, tình hình đất nước là điều rất 
quan trọng. Xuất phát từ  thực tế  đất nước cùng với tư  duy linh hoạt, sáng 
tạo, Đảng ta đã chủ trương lựa chọn phát triển kinh tế tri thức ở nước ta trên 
cơ  sở   kết hợp hai mô hình: tự  xây dựng và kế  thừa đồng thời kế  thừa có  
chọn lọc và vận dụng những thành tựu phát triển kinh tế tri thức trên thế giới.  
Hơn bao giờ  hết, việc xác định, xác lập các điều kiện và triển khai đồng bộ 
các giải pháp cho sự  phát triển kinh tế  tri thức bền vững  ở  nước ta vô cùng  
quan trọng, đòi hỏi phải huy động sức mạnh của toàn Đoàn và toàn dân ta.

13



×