MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Phần 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
3
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT
NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN
THỨ TƯ
1.1. Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện
5
đại hóa đất nước và cách mạng công nghiệp lần
thứ tư
1.2. Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
5
thời gian qua
14
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP
Phần 2
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC TRONG ĐIỀU
KIỆN CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
2.1. Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
21
tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả
21
2.2. Đẩy mạnh hoạt động liên kết vùng kinh tế
23
2.3. Phát triển khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo,
nâng cao năng lực sáng tạo, chất lượng nguồn nhân
lực
25
2.4. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.5. Đổi mới quản trị nhà nước, xây dựng chính phủ
điện tử, quản trị thông minh
26
28
KẾT LUẬN
28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
30
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TT
1
2
2
3
4
Chữ viết tắt
CNH
CNH, HĐH
KHCN
KT XH
KTCN
Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp hóa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Khoa học công nghệ
Kinh tế xã hội
Kỹ thuật công nghệ
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Kể từ khi Đảng ta đề ra đường lối CNH và lãnh đạo việc tiến hành
công cuộc CNH trong thực tiễn đường lối đó nhằm đưa đất nước ra khỏi
tình trạng một nước nông nghiệp lạc hậu và kém phát triển về công nghiệp
tính đến nay đã trên nửa thế kỷ. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt
và kéo dài không những đã làm gián đoạn công cuộc CNH, mà bom đạn Mỹ
còn phá huỷ hầu hết những gì mà nhân dân ta đã làm được trong thời kỳ hoà
bình ở miền Bắc trước đó. Đồng thời, sau khi chiến tranh kết thúc, do nhiều
nguyên nhân khác nhau, cả chủ quan lẫn khách quan, nên đất nước đã rơi
vào tình trạng khủng hoảng nặng nề về KT XH. Hơn thế nữa, quan niệm
cũ về CNH đã trở nên quá lạc hậu trước sự biến đổi mạnh mẽ của khoa
học và công nghệ hiện đại. Những thành tựu mà nhân dân ta thu được trong
quá trình đổi mới, sự nhận thức mới về thời đại, về vai trò của khoa học,
công nghệ và vai trò của con người trong phát triển KT XH đương đại,
cũng như những khó khăn và cả những sai lầm khó tránh... đã được Đảng ta
đúc kết thành những bài học có giá trị trong việc chỉ đạo công cuộc xây dựng
và phát triển đất nước. Công nghiệp hoá theo hướng hiện đại được coi là
nhiệm vụ trọng tâm để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp. Sự đánh giá khách quan kinh nghiệm của các nước xung quanh nước
ta đã CNH thành công đã góp phần giúp Đảng ta, qua các kỳ đại hội, đúc kết
thành lý luận CNH đầy đủ hơn ở một đất nước kém phát triển trong điều
3
kiện toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và kinh tế tri thức
ngày càng đóng vai trò quan trọng.
Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển rất
mạnh mẽ, tạo cơ hội phát triển cho mọi quốc gia, nhất là các nước đang
phát triển. Đối với nước ta, nếu tận dụng được những thành tựu của cuộc
cách mạng này có thể “đi tắt, đón đầu”, đẩy mạnh và rút ngắn thời gian
tiến hành CNH, HĐH đất nước; đồng thời cũng có thể làm n cho chúng ta
sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn nếu không tận dụng được cơ hội này. Thực tế
đó đang đặt ra vấn đề cần phải có những giải pháp phù hợp đối với quá
trình CNH, HĐH đất nước hiện nay. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề: Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện cách mạng công nghiệp
lần thứ tư làm đề tài nghiên cứu có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu
Luận giải làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNH, HĐH
đất nước, cách mạng công nghiệp lần thứ tư; trên cơ sở đó đề xuất một số
giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong điều kiện cách mạng công
nghiệp lần thứ tư.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về CNH, HĐH đất nước, cách
mạng công nghiệp lần thứ tư.
Phân tích, đánh giá thực trạng quá trình CNH, HĐH đất nước thời
gian vừa qua.
Đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong
điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
4
Quá trình CNH, HĐH đất nước.
* Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: từ năm 2010 đến nay.
Về không gian: trên phạm vi cả nước.
4. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, đề tài gồm 2 phần (7 tiết), kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo.
Phần 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP
LẦN THỨ TƯ
1.1. Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và cách mạng công nghiệp lần thứ tư
1.1.1. Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước
1.1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hoá có lịch sử phát triển khoảng ba trăm năm nay, bắt
đầu từ nước Anh vào cuối thế kỷ XVIII, sau đó lan sang các nước ở Tây
Âu, Bắc Mỹ... và ngày nay ở các nước đang phát triển. Theo đó, có nhiều
cách hiểu khác nhau về công nghiệp hoá như: công nghiệp hoá tư bản chủ
nghĩa, công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá của các nước
đang phát triển. Tổ chức Phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc
(UNIDO) đã tổng kết hiện có 128 khái niệm về công nghiệp hoá. Các khái
niệm này xét về mục đích, phương pháp tiến hành, về điều kiện KT XH
5
là khác nhau; CNH có tính lịch sử gắn với những điều kiện của mỗi nước
trong các thời kỳ khác nhau. Tuy nhiên, theo nghĩa chung nhất, công nghiệp
hoá là quá trình chuyển một nền kinh tế lạc hậu, nông nghiệp là chủ yếu
thành một nước có nền kinh tế công nghiệp.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (1
1994) tiếp tục coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng
hàng đầu, là con đường khả dĩ duy nhất có thể đưa đất nước thoát khỏi nguy
cơ tụt hậu xa hơn nữa so với các nước xung quanh, là cách thức để ổn định
chính trị, xã hội, bảo vệ độc lập, giữ vững chủ quyền quốc gia và định
hướng phát triển xã hội chủ nghĩa. Hội nghị một lần nữa khẳng định:
“chúng ta tiến hành công nghiệp hoá không theo kiểu cũ, không lặp lại sai
lầm nóng vội, chủ quan mà Đại hội VI đã phê phán. Công nghiệp hoá thực
chất là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó không
chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong
nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về
công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân” [7, tr. 27].
Ngày 30 tháng 7 năm 1994, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương khoá VII đã ra NQ số 07NQ/HNTW về phát triển công nghiệp, công
nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, trong đó chỉ rõ: “Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, từ sử dụng sức
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với
công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát
6
triển của công nghiệp và tiến bộ KHCN, tạo ra năng suất lao động xã hội
cao” [8, tr. 4].
1.1.1.2. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Một là, đổi mới, nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ của nền kinh
tế theo hướng hiện đại
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là cuộc cách mạng về lực
lượng sản xuất nhằm chuyển nền kinh tế dựa trên trình độ KTCN thủ công,
năng suất lao động thấp thành nền kinh tế công nghiệp dựa trên trình độ
KTCN hiện đại, năng suất lao động cao. Để thực hiện sự cải biến này phải
đổi mới và nâng cao trình độ KTCN của nền kinh tế theo hướng hiện đại;
thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, tự động hoá sản xuất.
Đối tượng đổi mới KTCN là tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền
kinh tế quốc dân. Trong đó, cần chú trọng các ngành sản xuất tư liệu sản
xuất, các ngành công nghiệp chế biến phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, một
số ngành công nghiệp mới, công nghiệp dựa trên công nghệ cao. Phải đổi mới
công nghệ ở các khâu của quá trình tái sản xuất nhằm bảo đảm tính đồng bộ,
cân đối của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, cần đột phá
vào những khâu có ý nghĩa quyết định đến nâng cao sức cạnh tranh của sản
phẩm trên thị trường, các lĩnh vực phục vụ cho phát triển nông nghiệp, nông
thôn.
Hai là, xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu
quả
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, các yếu
tố đó có vai trò, tỷ trọng khác nhau, song quan hệ chặt chẽ với nhau, phản
ánh tình trạng phân công lao động xã hội và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Dưới những góc độ khác nhau có các dạng cơ cấu kinh tế
7
như: cơ cấu kinh tế ngành (công nghiệp nông nghiệp dịch vụ); cơ cấu
kinh tế vùng; cơ cấu thành phần kinh tế... trong đó cơ cấu kinh tế ngành có
tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Xây dựng cơ cấu kinh tế là nội dung cơ bản của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều quan trọng là phải tạo ra được một cơ cấu
kinh tế hợp lý. Đó là một cơ cấu kinh tế phản ánh đúng các quy luật khách
quan mà trước hết là quy luật kinh tế; phù hợp với xu thế tiến bộ của
KHCN; cho phép khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước; thực
hiện tốt sự phân công và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ lạc
hậu, mất cân đối, ít hiệu quả sang một cơ cấu kinh tế phù hợp với nền sản
xuất lớn hiện đại dưới tác động của cách mạng KHCN và xu thế mở cửa,
hội nhập.
Đối với nước ta, Đảng ta chủ trương phải từng bước xây dựng cơ
cấu kinh tế công nghiệp nông nghiệp dịch vụ hiện đại gắn với phân
công lao động và hợp tác quốc tế sâu rộng. Khi cơ cấu kinh tế này được
được hình thành, nước ta sẽ kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Một số vấn đề lý luận về cách mạng công nghiệp lần thứ
tư
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư bắt đầu xuất hiện từ thập niên
đầu tiên của thế kỷ XXI. Khác với các cuộc cách mạng trước kia, cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự gắn quyện giữa các nền công nghệ
làm xóa đi ranh giới giữa thế giới vật thể, thế giới số hóa và thế giới sinh
học. Đó là các công nghệ internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, xe
tự lái, in ba chiều, máy tính siêu thông minh, công xưởng thông minh, công
nghệ nano, công nghệ sinh học...
Internet vạn vật (Internet of Things IoT) là hệ thống mạng điện tử
8
mới dựa trên công nghệ thông tin và công nghệ truyền thông, không chỉ kết
nối con người với vật thể, con người với con người mà còn kết nối cả vật
thể với vật thể, làm cho máy móc có thể giao tiếp với máy móc trong môi
trường chung đa tầng nấc, đa chiều cạnh thông qua việc sử dụng các công
cụ hiện đại: website, email, điện thoại thông minh, mạng truyền thông xã
hội, thiết bị điện tử, thiết bị số hóa, thiết bị cảm biến siêu cao... Với
internet vạn vật, không gian thực (real sphere) và không gian ảo (virtual
sphere); hệ thống vật thể (physical system) và hệ thống số (digital system)
giao hòa với nhau ngày càng hữu cơ, làm thay đổi căn bản phương thức tổ
chức và vận hành đời sống xã hội cũng như nền sản xuất dịch vụ kinh
doanh.
Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence AI) là công nghệ mô phỏng
các quá trình tư duy, nhận thức của con người, trong đó có các quá trình học
tập, phân tích, xử lý, lập luận, dịch thuật, sáng tác, dự báo, tự điều chỉnh...
Hơn nữa, trí tuệ nhân tạo còn mô phỏng được cả một số hành vi của con
người, trong đó chứa đựng trạng thái tinh thần, cảm xúc, khả năng ứng xử
phù hợp với từng cảnh huống. Trên nền tảng của trí tuệ nhân tạo, các thiết
bị tự động sẽ xuất hiện ngày càng nhiều trong quá trình sản xuất vật chất
hoạt động kinh doanh, tác chiến quân sự, an ninh và nhiều loại hình lao
động khác cũng như trong đời sống thường nhật của con người.
Công nghệ in 3 chiều (3D Printing) hay còn được gọi là chế tạo cộng
(Additive Manufacturing), là công nghệ tạo ra một sản phẩm vật chất bằng
cách bồi đắp dần các lớp vật liệu từ một bản vẽ hay một mô hình 3D có
trước. Khác với công nghệ chế tạo truyền thống chế tạo trừ (Reductive
Manufacturing), đây là mô hình sản xuất mới, hết sức tùy biến sản xuất ra
những sản phẩm theo “số đo” của từng người, theo nhu cầu của từng
khách hàng; ngoài ra, quá trình sản xuất những phụ tùng thay thế sẽ rất
9
tiện lợi: các yêu cầu và thông số kỹ thuật được chuyển cho các tổ chức
mẹ, khâu chế tạo sản phẩm sẽ được các công ty con thực hiện tại chỗ nhờ
hệ thống máy tính dữ liệu lớn (big data) kết nối đa chiều. Đây thật sự là
điểm khởi đầu cho sự hình thành các công xưởng, nhà máy thông minh
(Smart Factory) triển khai một nền sản xuất được cá tính hóa
(individualized mass production) mà các nhà tư tưởng kinh tế xuất sắc của
nhân loại đã dự báo cách đây gần 170 năm. Với mô hình sản xuất 3D ở các
nhà máy thông minh, lợi thế cạnh tranh sẽ dịch chuyển từ chi phí, quy mô
đầu tư... sang các yếu tố khác (ý tưởng, thiết kế, chức năng riêng biệt,
chuỗi cung ứng, dịch vụ...). Khi nền sản xuất này trở thành phổ biến, chắc
chắn các quy luật của kinh tế thị trường và sản xuất hàng hóa sẽ phải biểu
hiện dưới hình thức mới, khác nhiều so với thời kỳ kinh điển từ trước tới
nay.
Công nghệ sinh học hiện đại (modern biotechnology) với hạt nhân là
công nghệ gen hay công nghệ di truyền (genetic engineering) đã phát triển
lên tầm cao của lực lượng sản xuất trực tiếp. Công nghệ gen bao gồm các
kỹ thuật thực hiện trên axit nucleic nhằm nghiên cứu cấu trúc của gen;
điều chỉnh và biến đổi gen; tách, tổng hợp và chuyển các gen mong muốn
vào các tế bào sinh vật chủ mới tạo ra các cơ thể mới (thực vật, động vật,
vi sinh vật) mang đặc tính mới. Ngoài ra, công nghệ sinh học hiện đại còn
bao gồm công nghệ tế bào, công nghệ enzym và protein, công nghệ vi sinh
vật, công nghệ lên men, công nghệ môi trường...
1.1.3. Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cơ hội phát cũng như thách
thức cho mọi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việt Nam có thể tận dụng được những
10
thành tựu khoa học công nghệ mới, có thể “đi tắt, đón đầu”; đồng thời
cũng có thể làm sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn nếu không tận dụng được cơ
hội này.
1.1.3.1. Về thời cơ
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang mở ra nhiều cơ hội cho các
nước, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Đây có thể coi là
một cơ hội vàng nhằm thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam, tiến tới thu
hẹp khoảng cách với các nước phát triển. Cụ thể là:
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có thể tạo ra lợi thế của những
nước đi sau như Việt Nam so với các nước phát triển do không bị hạn chế
bởi quy mô cồng kềnh; tạo điều kiện cho Việt Nam bứt phá nhanh chóng,
vượt qua các quốc gia khác cho dù xuất phát sau.
Việc đi sau và thừa hưởng những thành tựu từ cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 giúp Việt Nam tiết kiệm được thời gian nghiên cứu để phát huy
tối đa các tiềm năng và lợi thế sẵn có.
Việt Nam có cơ hội phát triển nhanh nền kinh tế tri thức, đi tắt, đón
đầu, tiến thẳng vào lĩnh vực công nghệ mới, tranh thủ thành tựu khoa học
và công nghệ, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, hội nhập quốc tế.
Các chủ thể trong nền kinh tế có điều kiện tiếp thu và ứng dụng
những tiến bộ, thành tựu công nghệ của nhân loại, trước hết là công nghệ
thông tin, công nghệ số, công nghệ điều khiển và tự động hóa để nâng cao
năng suất, hiệu quả trong tất cả các khâu của nền sản xuất xã hội. Điều này
đã tạo ra khả năng nâng cao mức thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc
sống cho người dân.
Với ưu thế dân số trẻ, tỷ lệ sử dụng điện thoại thông minh và
Internet cao, mức độ tiếp cận ứng dụng khoa học công nghệ tốt, cuộc cách
11
mạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra cho doanh nghiệp Việt Nam những cơ
hội lớn trong việc xây dựng và phát triển dữ liệu lớn. Tại sự kiện ngày
Internet 2017 do Hiệp hội Internet Việt Nam tổ chức ngày 22 tháng 11 năm
2017 thì Việt Nam hiện có 64 triệu người dùng Internet, xấp xỉ 67% dân số,
đạt mức số lượng người dùng Internet đứng thứ 6 châu Á và thứ 12 trên thế
giới. Ngoài ra, Việt Nam là nước có kết nối internet bằng điện thoại di
động cao, có đến 55% người Việt sở hữu điện thoại thông minh, trong khi
chỉ có 46% người sở hữu máy tính cá nhân. Đến năm 2020 cứ 10 người
Việt sẽ có 8 người dùng điện thoại di động, hoạt động kinh doanh online
sẽ tăng trưởng 40%. Theo bà Tammy Phan Giám đốc đối tác chiến lược
và kênh bán hàng Việt Nam của Google thì sử dụng dụng điện thoại di
động giúp phát triển 11 kinh tế. Cứ tăng thêm 1% số người dùng sẽ đóng
góp hơn 100 triệu USD và GDP năm 2020, và tạo thêm 140.000 việc làm
mới. Như vậy, có thể thấy, Việt Nam đang có cơ hội trong việc xây dựng
dữ liệu lớn, làm nền tảng triển khai các trụ cột khác của nền công nghiệp
4.0.
1.1.3.1. Về thách thức
Một là, thách thức trong lĩnh vực giải quyết việc làm: chuyển dịch cơ
cấu lao động trong gần 30 năm qua của Việt Nam rất chậm và chậm hơn
nhiều nếu so với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam hiện
nay vẫn dựa nhiều vào các ngành sử dụng lao động giá rẻ và khai thác tài
nguyên thiên nhiên. Trình độ lạc hậu của người lao động và của cả nền
kinh tế chính là trở ngại lớn nhất để chúng ta bắt kịp với các thành tựu
khoa học, công nghệ trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0. Trong
tương lai, nhiều lao động trong các ngành nghề của Việt Nam có thể thất
nghiệp, ví dụ như lao động ngành dệt may, giày dép.
Hai là, chất lượng nguồn nhân lực của Việt nam còn rất nhiều hạn
12
chế. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo còn thấp. Theo số liệu
thống kê điều tra lao động việc làm quý 2 năm 2017 thì có tới 78.4% lao
động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật; 9.48% lao động có trình độ
đại học trở lên; 3.17% lao động có trình độ cao đẳng; 5.42% lao động có
trình độ trung cấp; 3.53% lao động có trình độ sơ cấp. Thêm vào đó, những
người lao động có trình độ đại học trở lên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu
của thị trường lao động. Vì vậy tỷ lệ thất nghiệp đang có xu hướng gia
tăng trong số lao động có trình độ cao. Theo Bản tin Thị trường lao động số
15, tại thời điểm quí 3 năm 2017 số người thất nghiệp có trình độ từ đại
học trở lên tăng 53,9 nghìn người so với quí 2 năm 2017 ở mức 237 nghìn
người, tương đương 4,51%6 .
Ba là, năng suất lao động còn thấp so với khu vực. Theo số liệu của
Tổng cục Thống kê, năng suất lao động toàn nền kinh tế theo giá hiện hành
năm 2017 ước tính đạt 93,2 triệu đồng/lao động (tương đương 4.166
USD/lao động). Tính theo năng suất lao động theo sức mua tương đương
năm 2011, năng suất lao động của Việt Nam năm 2016 đạt 9.894 USD, chỉ
bằng 7,0% mức năng suất của Xingapo; 17,6% của Malaixia; 36,5%
của Thái Lan; 42,3% của Inđônêxia và bằng 56,7% năng suất lao động
của Philipin. Đáng báo động là chênh lệch về năng suất lao động giữa
Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng. Điều này cho thấy khoảng
cách và thách thức nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt trong việc bắt kịp
mức năng suất lao động của các nước.
Bốn là, trình độ khoa học công nghệ của nước ta đang ở vị trí thấp so
với mức trung bình của thế giới. Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công
nghệ năm 2015, thì hiện nay cả nước có gần 600 nghìn doanh nghiệp, với
hơn 90% là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Phần lớn đều đang sử dụng công
nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới từ 23 thế hệ. Trong đó,
13
có đến 76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ những
năm 60 70 của thế kỷ trước, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% thiết bị
là đồ tân trang..., chỉ có 20% là nhóm ngành sử dụng công nghệ cao. Một
khảo sát khác từ Chương trình phát triển của Liên hợp quốc cho thấy, tỷ lệ
giá trị nhập khẩu công nghệ, thiết bị mỗi năm tại Việt Nam chưa đến 10%
tổng kim ngạch nhập khẩu, trong khi tỷ lệ tại các nước đang phát triển
khác lên đến 40%. Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2017 2018, Việt
Nam được xếp hạng chung là 55/137 quốc gia, trong khi các chỉ số cấu
phần liên quan đến đổi mới sáng tạo lại thấp hơn nhiều.
Năm là, quy mô doanh nghiệp Việt Nam quá nhỏ bé, số doanh nghiệp
vừa, nhỏ và siêu nhỏ chiếm gần 98% tổng số doanh nghiệp của cả nước,
phần lớn doanh nghiệp chưa đạt được quy mô tối ưu (50 99 lao động) để
có được mức năng suất lao động cao nhất. Số lượng doanh nghiệp lớn còn ít
(chỉ chiếm 2,1%), doanh nghiệp chưa xâm nhập được vào các thị trường,
trung tâm công nghệ của thế giới, do đó, chưa thực hiện được chức năng
cầu nối về công nghệ tri thức của thế giới vào thị trường trong nước. Doanh
nghiệp tham gia các hoạt động liên quan đến sáng tạo còn hạn chế, chưa
tham gia sâu trong chuỗi cung ứng toàn cầu nên chưa tận dụng được tính lan
tỏa của tri thức, công nghệ và năng suất lao động từ các công ty, tập đoàn
xuyên quốc gia vào doanh nghiệp trong nước. Thêm vào đó mức độ sẵn sàng
cho nền sản xuất tương lai.
Sáu là, các nước công nghiệp mới nổi và nhiều nước đang phát triển
đều cạnh tranh quyết liệt, tìm cách thu hút, hợp tác để có đầu tư, chuyển
giao công nghệ, nhanh chóng ứng dụng những thành tựu công nghệ từ cuộc
Cách mạng công nghiệp thứ tư đem lại để giành lợi thế phát triển. Đây cũng
chính là áp lực lớn cho Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Việt Nam cần tỉnh táo trong hội nhập, hợp tác quốc tế, phát
14
triển nền kinh tế thị trường nhất là thị trường khoa học công nghệ, cải thiện
đổi mới môi trường đầu tư kinh doanh, tích lũy đầu tư để thu hút chuyển
giao, ứng dụng nhanh những thành tựu khoa học công nghệ vào phát triển
nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bảy là, quản trị nhà nước cũng là một trong những thách thức lớn nhất
đối với nước ta. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ gặp
nhiều khó khăn nếu công cuộc cải cách cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình
tăng trưởng được Nhà nước đề ra trong thời gian qua thực hiện không thành
công. Bên cạnh đó, những thách thức về an ninh phi truyền thống sẽ tạo ra
áp lực lớn nếu Nhà nước không đủ trình độ về công nghệ và kỹ năng quản
lý để ứng phó.
1.2. Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thời gian
qua 1.2.1. Một số thành tựu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thời
gian qua
1.2.1.1. Về khoa học công nghệ
* Tiềm lực khoa học và công nghệ đã được tăng cường và phát triển
Nhờ có sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, trong nhiều thập
kỷ qua, chúng ta đã đào tạo được trên 1,8 triệu cán bộ có trình độ đại học
và cao đẳng trở lên với trên 30 nghìn người có trình độ trên đại học (trên 14
nghìn tiến sĩ và 16 nghìn thạc sĩ) và khoảng hơn 2 triệu công nhân kỹ thuật;
trong đó, có khoảng 34 nghìn người đang làm việc trực tiếp trong lĩnh vực
KHCN thuộc khu vực nhà nước. Đây là nguồn nhân lực quan trọng cho
hoạt động KHCN của đất nước. Thực tế cho thấy, đội ngũ này có khả
năng tiếp thu tương đối nhanh và làm chủ được tri thức, công nghệ hiện
đại trong một số ngành và lĩnh vực.
15
Thời gian qua, đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức KHCN
với trên 1.100 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc mọi thành phần kinh
tế, trong đó có gần 500 tổ chức ngoài nhà nước; 197 trường đại học và cao
đẳng, trong đó có 30 trường ngoài công lập. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của
các viện, trung tâm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các trung tâm thông
tin khoa học công nghệ, thư viện, cũng được tăng cường và nâng cấp. Đã
xuất hiện một số loại hình gắn kết tốt giữa nghiên cứu khoa học, phát
triển công nghệ với sản xuất kinh doanh.
Mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nhưng với sự nỗ lực rất
lớn của Nhà nước, từ năm 2000 tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho KHCN đã
đạt 2%, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách
đầu tư phát triển KHCN của Đảng và Nhà nước.
* Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới
Hệ thống quản lý nhà nước về KHCN được tổ chức từ trung ương
đến địa phương đã đẩy mạnh phát triển KHCN , góp phần thực hiện các
mục tiêu phát triển KT XH của ngành và địa phương.
Thực hiện Luật Khoa học và công nghệ, các chương trình, đề tài, dự
án KHCN đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển KT XH. Cơ chế tuyển
chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KHCN đã bước đầu được thực
hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai.
Hoạt động của các tổ chức KHCN đã mở rộng từ nghiên cứu phát
triển đến sản xuất và dịch vụ KHCN . Quyền tự chủ của các tổ chức, cá
nhân trong hoạt động KHCN bước đầu được tăng cường. Quyền tự chủ về
hợp tác quốc tế của tổ chức, cá nhân hoạt động KHCN được mở rộng.
Vốn huy động cho KHCN từ các nguồn hợp đồng với khu vực sản
xuất kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tài trợ quốc tế và các nguồn khác,
16
tăng đáng kể nhờ chính sách đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho KHCN. Đã
cải tiến một bước việc cấp phát kinh phí đến nhà khoa học theo hướng
giảm bớt các khâu trung gian.
Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về KHCN từng
bước được hoàn thiện thông qua các quy định về chức năng, nhiệm vụ và
trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương.
* Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân
dân ngày càng được nâng cao
Nhờ có sự quan tâm của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động
tích cực của các tổ chức KHCN, các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư và công
tác phổ biến, tuyên truyền rộng rãi về tác động của KHCN đến sản xuất và
đời sống, nhận thức và khả năng tiếp thu, ứng dụng tri thức KHCN của
người dân trong thời gian qua đã tăng lên rõ rệt. Hoạt động KHCN ngày càng
được xã hội hoá trên phạm vi cả nước.
1.2.1.2. Về cơ cấu kinh tế
* Về cơ cấu thành phần kinh tế:
Cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự chuyển dịch khá rõ. Trước hết là
trong cơ cấu GDP, tỷ trọng khu vực Nhà nước đã giảm xuống còn dưới 1/3;
của khu vực tập thể còn rất thấp (5,05%); của khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đã chiếm gần 20%; còn khu vực kinh tế tư nhân chiếm trên dưới
11%... Vốn đầu tư đã có sự chuyển dịch theo hướng khai thác các nguồn lực
của các thành phần kinh tế ở trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, tỷ trọng vốn đầu tư của khu
vực Nhà nước đã giảm xuống còn 39,3% (thời kỳ 20112013); của khu vực
ngoài Nhà nước tăng lên 38,1%; của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng
17
lên 22,6% (thời kỳ 20112013). Về tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng, tỷ trọng kinh tế Nhà nước giảm xuống còn 10,2% năm
2013; tỷ trọng của khu vực ngoài Nhà nước tăng lên 86,7%, trong đó của
kinh tế tập thể giảm còn 1%, của kinh tế tư nhân đã chiếm trên dưới 1/3;
tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 3,1%...
* Về cơ cấu vùng kinh tế:
Đã xây dựng được một cơ cấu vùng hợp lý theo hướng phát huy lợi
thế từng vùng. Hiện nay cả nước có sáu vùng KT XH và bốn vùng kinh tế
trọng điểm. Sáu vùng KT XH bao gồm: vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ
(Tây Bắc và Đông Bắc), vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung Bộ,
Duyên hải Nam Trung Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng
bằng sông Cửu Long. Bốn vùng kinh tế trọng điểm bao gồm: vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ, gồm 7 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương,
Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Quảng Ninh; vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam gồm 8 tỉnh, thành phố: Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng
Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang; vùng Kinh
tế trọng điểm miền Trung gồm 5 tỉnh, thành phố: Thừa Thiên Huế, Đà
Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định; vùng Kinh tế trọng điểm Đồng
bằng sông Cửu Long, gồm 4 tỉnh, thành phố: Cần Thơ, An Giang, Cà Mau và
Kiên Giang.
* Về cơ cấu ngành kinh tế:
Cơ cấu các ngành kinh tế đã có sự dịch chuyển tích cực theo hướng
CNH, HĐH. Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP giảm xuống còn 18,9%
năm 2010 và ở mức 18,12% năm 2014. Tỷ trọng ngành công nghiệp và xây
dựng trong GDP tăng lên 38,5% năm 2014. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong
GDP đã tăng lên 42,88% năm 2010 và khoảng 43,38% năm 2014. Quá trình
18
chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành cũng đã gắn nhiều hơn với các yêu cầu
về CNH, HĐH. Trong cơ cấu ngành công nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất của
công nghiệp khai khoáng giảm dần, trong khi tỷ trọng của ngành công nghiệp
chế biến tăng. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, từng bước đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Trong đó, các ngành dịch vụ gắn với
CNH, HĐH như dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý, bưu chính viễn
thông... phát triển nhanh, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong GDP.
* Về cơ cấu lao động:
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực. Gắn liền với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phục vụ tốt hơn các mục tiêu CNH, HĐH. Tỷ
trọng lao động ngành nông nghiệp đã giảm mạnh xuống khoảng 47% năm
2014. Tỷ trọng lao động ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ tăng liên
tục, trong đó, ngành công nghiệp, xây dựng tăng lên 20,8% năm 2014; ngành
dịch vụ tăng lên 32,2% năm 2014. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng lên
khoảng 40% năm 2010 và đến năm 2014 là 49%.
1.2.2. Một số hạn chế của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước thời gian qua
1.2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao động diễn ra
chậm
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu lao
động đã “chững lại” trong nhiều năm nhưng chậm có sự điều chỉnh phù
hợp. Các ngành dịch vụ sử dụng tri thức, KHCN phát triển còn chậm. Nếu
như trong giai đoạn đầu của quá trình CNH, HĐH, cơ cấu kinh tế có tốc độ
chuyển dịch khá, cơ cấu ngành nông nghiệp trong GDP giảm mạnh xuống
19,3% năm 2005, thì từ năm 2006 đến nay, tỷ trọng ngành nông nghiệp
trong GDP giảm không đáng kể. Năm 2014, ngành nông nghiệp vẫn chiếm
19
hơn 18% GDP, năm 2018 là 14,57%, cao hơn đáng kể so với tỷ trọng ngành
nông nghiệp trong GDP của các nước xung quanh (tỷ trọng ngành nông
nghiệp trong GDP của Trung Quốc là 10,1%, của Indonesia là 14,4%, của
Malaixia là 10,1% và của Thái Lan là 12,3%).
1.2.2.2. Cơ cấu vùng kinh tế còn nhiều bất cập
Bên cạnh những kết quả tích cực mang lại từ liên kết vùng, thực tế
cũng cho thấy quy hoạch tổng thể phát triển KTXH vùng và quy hoạch
ngành theo vùng hiện nay của nước ta chưa thực sự là công cụ hữu hiệu để
định hướng, điều phối, phân bổ ngân sách, thu hút nguồn lực, đầu tư, quản
trị không gian KTXH, đặc biệt là thực hiện vai trò liên kết nội vùng.
Các vùng kinh tế trọng điểm chưa thực sự phát huy vai trò đầu tàu,
thiếu tác dụng lan tỏa, hiệu quả đầu tư chưa vượt trội; các vùng khó khăn
phát triển thiếu bền vững, khoảng cách giữa các vùng chưa được thu hẹp;
liên kết vùng còn yếu, nhất là giữa các tỉnh và thành phố.
Trong khi đó, vai trò vĩ mô của Nhà nước trong việc xây dựng quy
hoạch, kế hoạch phát triển các vùng kinh tế; tập trung các nguồn lực quốc
gia và xã hội phát triển hạ tầng để phát triển kinh tế vùng và tăng cường
liên kết vùng còn hạn chế.
Hiện nay, vẫn còn tồn tại tình trạng hầu hết các tỉnh, thành và các
vùng đều có những dấu hiệu “thu nhỏ” của quốc gia, nên quy hoạch, kế
hoạch chưa làm rõ được tính đặc thù, thế mạnh của mỗi địa phương và liên
kết nội vùng.
Chất lượng quy hoạch phát triển KTXH vùng còn nhiều bất cập,
tình trạng quá nhiều quy hoạch ở cấp địa phương, quy hoạch dàn trải,
không tính đến lợi ích kinh tế chung và lợi ích cộng đồng đã gây ra lãng phí
và phức tạp trong thực hiện.
20
Chuỗi giá trị sản phẩm liên kết vùng là yếu tố quan trọng đặc biệt
để bảo đảm cho liên kết vùng có hiệu quả nhưng lại là khâu yếu nhất
trong quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch liên kết vùng hiện nay. Cách
phân vùng KTXH còn nhiều mặt hạn chế, chưa phát huy được lợi thế so
sánh từng vùng theo chuỗi giá trị sản phẩm, các chuỗi giá trị liên kết kinh
tế nội vùng và liên vùng vẫn còn bị bỏ ngỏ.
Đây là yêu cầu bức thiết bởi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và
đang đặt ra những thách thức lớn đối với tất cả các doanh nghiệp sẽ tham
gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu về những thay đổi liên quan đến chi phí,
quản trị rủi ro, giảm thiểu tính linh hoạt và sự độc lập trong chiến lược
kinh doanh.
1.2.2.3. Một số hạn chế về khoa học công nghệ
Thứ nhất, tổng chi quốc gia cho nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ còn thấp trong tương quan so sánh với các quốc gia khác trong
khu vực và trên thế giới. Theo Điều tra nghiên cứu và phát triển 2014, tỷ
trọng tổng chi quốc gia cho KHCN/GDP năm 2013 là 0,87%, trong đó chi
cho nghiên cứu và phát triển chiếm 43%. Như vậy, năm 2013, tỷ lệ chi
quốc gia cho nghiên cứu và phát triển/GDP đạt 0,37%. Tỷ lệ chi cho nghiên
cứu và phát triển/GDP của Việt Nam so với các nước là rất thấp. Điều
đáng nói là trong tổng chi quốc gia cho nghiên cứu và phát triển, ngân sách
Nhà nước chiếm hơn một nửa (56,7%), nguồn đầu tư từ doanh nghiệp đạt
41,8%, còn lại chỉ có 1,5% là từ nguồn vốn nước ngoài.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ KHCN của Việt Nam tuy tăng về số lượng
nhưng so với tổng dân số thì tỷ lệ này còn thấp so với các nước trong khu
vực. Bình quân cán bộ nghiên cứu trên vạn dân năm 2013 tính theo đầu
người của Việt Nam là 14,3 người. Tỷ lệ này thấp hơn của Trung Quốc
21
năm 2012 (15,3); bằng 1/5 của Nhật Bản (70,2), 1/6 của Hàn Quốc (82,0) và
gần 1/5 của Singapore (74,8). Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực
nghiên cứu của Việt Nam chưa cao, thiếu hụt nhiều cán bộ đầu ngành,
chuyên gia giỏi, đặc biệt là các chuyên gia về công nghệ. Điều này dẫn đến
chất lượng nghiên cứu KHCN của Việt Nam năm 2014 xếp hạng 89, trong
khi ở chỉ tiêu này, Malaysia xếp thứ 27, Indonesia 46, Thái Lan 60,
Philippines 91. Tỷ lệ bằng sáng chế và ứng dụng (trên một triệu dân) của
nước ta năm 2014 xếp thứ 92 thế giới, trong khi tỷ lệ này của Malaysia xếp
thứ 31, Thái Lan 71, Philippines 84.
Thứ ba, trình độ công nghệ thấp, không đồng bộ và chậm được đổi
mới. Tỷ lệ ứng dụng KHCN vào sản xuất và đời sống còn hạn chế. Theo
kết quả điều tra “Công nghệ và cạnh tranh ngành chế biến, chế tạo giai
đoạn 20092012”, chỉ có khoảng 11% số doanh nghiệp đã phát triển những
loại hình công nghệ mới. Riêng hoạt động nghiên cứu phát triển, chỉ có 8%
số doanh nghiệp có hoạt động và khoảng 5% chỉ là cải tiến công nghệ sẵn
có. Đáng lưu ý, 84% doanh nghiệp cho biết là không hề có bất cứ chương
trình cải tiến hoặc phát triển công nghệ nào. Mức độ sẵn sàng về công
nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông tin được coi là nền tảng của
phương thức phát triển mới. Tuy nhiên, theo xếp hạng năm 2014 của Diễn
đàn Kinh tế thế giới (WEF), Việt Nam chỉ đứng khiêm tốn ở vị trí thứ 102
thế giới, trong đó, giai đoạn 20082014, mức độ sẵn sàng trong áp dụng
công nghệ mới của Việt Nam đã giảm từ vị trí 71/134 trong năm 20082009
xuống vị trí 134/148 năm 20132014, thấp hơn rất nhiều so với Malaysia (vị
trí 37), Philippines (47), Indonesia (60), Thái Lan (75).
Thứ tư, mặc dù Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách thúc đẩy
chuyển giao công nghệ nhưng hiệu quả và chuyển giao công nghệ từ các
22
doanh nghiệp FDI còn thấp. Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam chủ yếu
diễn ra giữa các doanh nghiệp trong nước. Việc thiếu học hỏi giữa các
doanh nghiệp nước ngoài và trong nước cho thấy rằng cần có những nỗ lực
chính sách bổ sung trong việc thu hút và quản lý FDI để có được hiệu ứng
lan tỏa.
Phần 2
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC TRONG ĐIỀU KIỆN CÁCH MẠNG CÔNG
NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
2.1. Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo
hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả
Đây là nội dung cốt lõi của chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế quốc
dân. Phải xác định định hướng của việc chuyển dịch, trong đó xác định rõ
đặc trưng phát triển và vị trí của mỗi ngành trong tổng thể kinh tế, trên cơ
sở đó xác định các chính sách phát triển. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
phải dựa trên sự đánh giá chính xác những lợi thế của đất nước, phải xuất
phát từ nhu cầu của thị trường trên cơ sở khai thác có hiệu quả khả năng
(chứ không phải xuất phát từ khả năng), phải có dự báo triển vọng cạnh
tranh của sản phẩm, của ngành kinh tế trên thị trường trong nước và quốc
tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải bảo đảm khả năng thích nghi
nhanh với sự biến đổi của môi trường trong nước và quốc tế, trước hết và
chủ yếu là tiến bộ khoa học và công nghệ dưới tác động của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, chi phí cho điều chỉnh cơ cấu kinh tế thấp.
Cụ thể là:
Ngành công nghiệp, tập trung nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh
của các sản phẩm; phát triển các sản phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh
23
tranh, có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, ưu tiên
phát triển những sản phẩm có chất lượng, giá trị gia tăng cao, áp dụng công
nghệ mới, công nghệ sạch, sử dụng tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi
trường. Đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp theo
hướng tăng nhanh công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp có hàm
lượng công nghệ cao, góp phần hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại. Các
ngành công nghiệp nền tảng được ưu tiên để đáp ứng nhu cầu về tư liệu
sản xuất cơ bản của nền kinh tế.
Tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, hình thành cơ chế liên kết,
hợp tác, phân công sản xuất trong việc tham gia chế tạo từng công đoạn
sản phẩm. Phân bố không gian công nghiệp phù hợp nhằm phát huy lợi thế
so sánh của các vùng, miền và tạo điều kiện để liên kết ngành mang lại
hiệu quả cao.
Phát triển mạnh công nghiệp chế biến, cơ khí, công nghiệp công
nghệ thông tin, công nghiệp sinh học và công nghiệp môi trường.
Tập trung lấp đầy các khu công nghiệp gắn với việc đầu tư bổ sung
các công trình, dịch vụ hạ tầng xã hội (nhà ở, trường học, y tế, chợ,...) và
thực hiện tốt bảo vệ môi trường.
Ngành nông nghiệp, cần hướng vào phát triển nền nông nghiệp nhiệt
đới có năng lực cạnh tranh cao và thương hiệu tốt. Phát triển nông nghiệp
toàn diện, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn thực phẩm;
phát huy lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên và sinh thái của mỗi vùng,
mỗi địa phương. Tập trung đầu tư khâu nghiên cứu và phát triển giống cây
trồng, vật nuôi, nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học. Thúc đẩy tích tụ
ruộng đất, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, các “cánh đồng
mẫu lớn”; các trang trại nuôi trồng thủy, hải sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm
24
lớn; phát triển sản xuất gắn với bố trí, chuyển đổi hiệu quả cơ cấu lao
động trong nông nghiệp.
Trong những năm trước mắt, đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn bằng cách đổi mới đào tạo nhân lực, đưa tri
thức sản xuất, kinh doanh, tri thức khoa học công nghệ đến với người nông
dân; sử dụng công nghệ sinh học làm gia tăng giá trị các mặt hàng nông
lâmthủy sản. Gắn bó chặt chẽ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng hợp
lý, hiệu quả, bảo đảm cơ sở cho thực hiện chương trình xây dựng nông
thôn mới.
Ngành dịch vụ cần được đẩy mạnh phát triển, nhất là các dịch vụ có
giá trị, hàm lượng tri thức cao, tiềm năng lớn, có lợi thế và có sức cạnh
tranh, như du lịch, hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, y
tế; hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc
tế.
Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao, như tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm, logistics, dịch vụ phát triển phần mềm công
nghệ thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác. Đẩy mạnh tham gia
mạng phân phối toàn cầu, phát triển nhanh hệ thống phân phối các sản
phẩm có lợi thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước; xây dựng thương hiệu
hàng hóa và dịch vụ Việt Nam.
2.2. Đẩy mạnh hoạt động liên kết vùng kinh tế
Vùng kinh tế được xác định là một bộ phận lớn của lãnh thổ quốc
gia có các hoạt động kinh tế xã hội tiêu biểu, thực hiện sự phân công lao
động xã hội trên phạm vi cả nước. Đây là loại vùng có qui mô diện tích,
dân số ở cấp lớn nhất, phục vụ việc hoạch định các chiến lược, các kế
25