Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Luận văn: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (588.14 KB, 34 trang )

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU
Phần 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ 

3

CÔNG   NGHIỆP   HÓA,   HIỆN   ĐẠI   HÓA   ĐẤT 
NƯỚC   VÀ   CÁCH   MẠNG   CÔNG   NGHIỆP   LẦN 
THỨ TƯ
1.1. Một số  vấn đề  lý luận về  công nghiệp hóa, hiện  

5

đại   hóa  đất  nước  và cách  mạng công  nghiệp  lần 
thứ tư 
1.2. Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 

5

thời gian qua 
14
MỘT SỐ  GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP 

Phần 2

HÓA, HIỆN  ĐẠI  HÓA  ĐẤT  NƯỚC  TRONG  ĐIỀU 


KIỆN CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
2.1. Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh  

21

tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả
21
2.2. Đẩy mạnh hoạt động liên kết vùng kinh tế
23
2.3. Phát triển khoa học ­ công nghệ, giáo dục ­ đào tạo, 
nâng cao năng lực sáng tạo, chất lượng nguồn nhân 
lực
25
2.4. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể  chế  kinh tế   thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.5. Đổi mới quản trị  nhà nước, xây dựng chính phủ 
điện tử, quản trị thông minh

26
28

KẾT LUẬN

28

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

30



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TT
1
2
2
3
4

Chữ viết tắt
CNH
CNH, HĐH
KHCN
KT ­ XH
KTCN

Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp hóa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Khoa học công nghệ
Kinh tế ­ xã hội
Kỹ thuật công nghệ

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Kể  từ  khi Đảng ta đề  ra đường lối CNH và lãnh đạo việc tiến hành  
công cuộc CNH  trong thực tiễn đường lối đó nhằm đưa đất nước ra khỏi 
tình trạng một nước nông nghiệp lạc hậu và kém phát triển về công nghiệp 

tính đến nay đã trên nửa thế kỷ. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt  
và kéo dài không những đã làm gián đoạn công cuộc CNH, mà bom đạn Mỹ 
còn phá huỷ hầu hết những gì mà nhân dân ta đã làm được trong thời kỳ hoà  
bình ở miền Bắc trước đó. Đồng thời, sau khi chiến tranh kết thúc, do nhiều  
nguyên nhân khác nhau, cả  chủ  quan lẫn khách quan, nên đất nước đã rơi 
vào tình trạng khủng hoảng nặng nề về KT ­ XH. Hơn thế nữa, quan niệm  
cũ về  CNH  đã trở  nên quá lạc hậu trước sự  biến đổi mạnh mẽ  của khoa 
học và công nghệ hiện đại. Những thành tựu mà nhân dân ta thu được trong 
quá trình đổi mới, sự  nhận thức mới về thời đại, về  vai trò của khoa học, 
công nghệ  và vai trò của con người trong phát triển KT ­ XH đương đại,  
cũng như những khó khăn và cả những sai lầm khó tránh... đã được Đảng ta  
đúc kết thành những bài học có giá trị trong việc chỉ đạo công cuộc xây dựng 
và phát triển đất nước. Công nghiệp hoá theo hướng hiện đại được coi là  
nhiệm vụ  trọng tâm để  sớm đưa nước ta cơ  bản trở  thành một nước công 
nghiệp. Sự đánh giá khách quan kinh nghiệm của các nước xung quanh nước  
ta đã CNH thành công đã góp phần giúp Đảng ta, qua các kỳ đại hội, đúc kết  
thành lý luận CNH đầy đủ  hơn  ở  một đất nước kém phát triển trong điều 

3


kiện toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và kinh tế  tri thức  
ngày càng đóng vai trò quan trọng.
Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển rất  
mạnh mẽ, tạo cơ  hội phát triển cho mọi quốc gia, nhất là các nước đang  
phát triển. Đối với nước ta, nếu tận dụng được những thành tựu của cuộc  
cách mạng này có thể  “đi tắt, đón đầu”, đẩy mạnh và rút ngắn thời gian 
tiến hành CNH, HĐH đất nước; đồng thời cũng có thể  làm n cho chúng ta  
sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn nếu không tận dụng được cơ hội này. Thực tế 
đó đang đặt ra vấn đề  cần phải có những giải pháp phù hợp đối với quá 

trình CNH, HĐH đất nước hiện nay.  Vì vậy, tác giả  chọn vấn đề:  Công  
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện cách mạng công nghiệp  
lần thứ tư làm đề tài nghiên cứu có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu 
* Mục tiêu nghiên cứu 
Luận giải làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNH, HĐH 
đất nước, cách mạng công nghiệp lần thứ tư; trên cơ sở đó đề xuất  một số 
giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong điều kiện cách mạng công 
nghiệp lần thứ tư. 
* Nhiệm vụ nghiên cứu 
­ Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về CNH, HĐH đất nước, cách 
mạng công nghiệp lần thứ tư.  
­ Phân tích, đánh giá thực trạng quá trình CNH, HĐH đất nước thời 
gian vừa qua. 
­ Đề  xuất  một số  giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong 
điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư. 
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 
* Đối tượng nghiên cứu 

4


Quá trình CNH, HĐH đất nước.
* Phạm vi nghiên cứu 
­ Về thời gian: từ năm 2010 đến nay.
­ Về không gian: trên phạm vi cả nước.
4. Kết cấu
Ngoài phần mở  đầu, đề  tài gồm 2 phần (7 tiết), kết luận và danh  
mục tài liệu tham khảo.


Phần 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP 
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP  
LẦN THỨ TƯ
1.1. Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất 
nước và cách mạng công nghiệp lần thứ tư
1.1.1. Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa  đất  
nước
1.1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
Công nghiệp hoá có lịch sử  phát triển khoảng ba trăm năm nay, bắt 
đầu từ  nước Anh vào cuối thế  kỷ  XVIII, sau đó lan sang các nước  ở  Tây  
Âu, Bắc Mỹ... và ngày nay  ở  các nước đang phát triển. Theo đó, có nhiều 
cách hiểu khác nhau về công nghiệp hoá như: công nghiệp hoá tư bản chủ 
nghĩa, công nghiệp hoá xã hội chủ  nghĩa, công nghiệp hoá của các nước 
đang   phát   triển.   Tổ   chức   Phát   triển   công   nghiệp   của   Liên   Hiệp   Quốc 
(UNIDO) đã tổng kết hiện có 128 khái niệm về công nghiệp hoá. Các khái 
niệm này xét về mục đích, phương pháp tiến hành, về  điều kiện KT ­ XH  

5


là khác nhau; CNH có tính lịch sử gắn với những điều kiện của mỗi nước 
trong các thời kỳ khác nhau. Tuy nhiên, theo nghĩa chung nhất, công nghiệp  
hoá  là quá trình chuyển một nền kinh tế lạc hậu, nông nghiệp là chủ yếu 
thành một nước có nền kinh tế công nghiệp. 
Hội nghị  đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ  khoá VII của Đảng (1­
1994) tiếp tục coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng 
hàng đầu, là con đường khả dĩ duy nhất có thể đưa đất nước thoát khỏi nguy 
cơ tụt hậu xa hơn nữa so với các nước xung quanh, là cách thức để ổn định 
chính trị, xã hội, bảo vệ  độc lập, giữ  vững chủ  quyền quốc gia và định 

hướng   phát   triển   xã   hội   chủ   nghĩa.   Hội   nghị   một   lần   nữa   khẳng   định: 
“chúng ta tiến hành công nghiệp hoá không theo kiểu cũ, không lặp lại sai 
lầm nóng vội, chủ quan mà Đại hội VI đã phê phán. Công nghiệp hoá thực 
chất là xây dựng cơ sở vật chất ­ kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó không  
chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong 
nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về 
công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền 
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân” [7, tr. 27].
Ngày 30 tháng 7 năm 1994, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung 
ương khoá VII đã ra NQ số  07­NQ/HNTW về  phát triển công nghiệp, công 
nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và 
xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, trong đó  chỉ  rõ:  “Công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt  
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, từ sử dụng sức 
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với  
công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự  phát  

6


triển của công nghiệp và tiến bộ  KHCN, tạo ra năng suất lao động xã hội 
cao” [8, tr. 4].
1.1.1.2. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 
Một là, đổi mới, nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ của nền kinh  
tế theo hướng hiện đại
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là cuộc cách mạng về  lực 
lượng sản xuất nhằm chuyển nền kinh tế dựa trên trình độ KTCN thủ công, 
năng suất lao động thấp thành nền kinh tế  công nghiệp dựa trên trình độ 
KTCN hiện đại, năng suất lao động cao. Để thực hiện sự cải biến này phải  
đổi mới và nâng cao trình độ  KTCN của nền kinh tế theo hướng hiện đại; 

thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, tự động hoá sản xuất. 
Đối tượng đổi mới KTCN là tất cả  các ngành, các lĩnh vực của nền 
kinh tế  quốc dân. Trong đó, cần chú trọng các ngành sản xuất tư  liệu sản  
xuất, các ngành công nghiệp chế biến phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, một 
số ngành công nghiệp mới, công nghiệp dựa trên công nghệ cao. Phải đổi mới 
công nghệ ở các khâu của quá trình tái sản xuất nhằm bảo đảm tính đồng bộ, 
cân đối của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, cần đột phá 
vào những khâu có ý nghĩa quyết định đến nâng cao sức cạnh tranh của sản 
phẩm trên thị trường, các lĩnh vực phục vụ cho phát triển nông nghiệp, nông  
thôn.
Hai là, xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu  
quả
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, các yếu  
tố đó có vai trò, tỷ trọng khác nhau, song quan hệ chặt chẽ với nhau, phản 
ánh tình trạng phân công lao động xã hội và trình độ  phát triển của lực 
lượng sản xuất. Dưới những góc độ khác nhau có các dạng cơ cấu kinh tế 

7


như: cơ  cấu kinh tế  ngành (công nghiệp ­ nông nghiệp ­ dịch vụ); cơ  cấu 
kinh tế vùng; cơ cấu thành phần kinh tế... trong đó cơ cấu kinh tế ngành có  
tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 
Xây dựng cơ  cấu kinh tế  là nội dung cơ  bản của quá trình công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều quan trọng là phải tạo ra được một cơ cấu 
kinh tế hợp lý. Đó là một cơ cấu kinh tế phản ánh đúng các quy luật khách  
quan mà trước hết là quy luật kinh tế; phù hợp với xu thế  tiến bộ  của  
KHCN; cho phép khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước; thực 
hiện tốt sự phân công và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Công  
nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  từ  lạc  

hậu, mất cân đối, ít hiệu quả sang một cơ cấu kinh tế phù hợp với nền sản  
xuất lớn hiện đại dưới tác động của cách mạng KHCN và xu thế mở cửa,  
hội nhập.
Đối với nước ta, Đảng ta chủ  trương phải từng bước xây dựng cơ 
cấu kinh tế  công nghiệp ­ nông nghiệp ­ dịch vụ  hiện đại gắn với phân  
công lao động và hợp tác quốc tế  sâu rộng. Khi cơ  cấu kinh tế  này được 
được hình thành, nước ta sẽ kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 
1.1.2. Một số  vấn đề  lý luận về  cách mạng công nghiệp lần thứ  

Cách mạng công nghiệp lần thứ  tư  bắt đầu xuất hiện từ  thập niên  
đầu tiên của thế  kỷ  XXI. Khác với các cuộc cách mạng trước kia, cuộc 
cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự gắn quyện giữa các nền công nghệ 
làm xóa đi ranh giới giữa thế giới vật thể, thế giới số hóa và thế giới sinh  
học. Đó là các công nghệ  internet vạn vật, trí tuệ  nhân tạo, người máy, xe 
tự  lái, in ba chiều, máy tính siêu thông minh, công xưởng thông minh, công 
nghệ nano, công nghệ sinh học... 
Internet vạn vật (Internet of Things IoT) là hệ  thống mạng điện tử 

8


mới dựa trên công nghệ thông tin và công nghệ truyền thông, không chỉ kết 
nối con người với vật thể, con người với con người mà còn kết nối cả vật  
thể với vật thể, làm cho máy móc có thể  giao tiếp với máy móc trong môi 
trường chung đa tầng nấc, đa chiều cạnh thông qua việc sử dụng các công 
cụ  hiện đại: website, email, điện thoại thông minh, mạng truyền thông xã  
hội, thiết bị   điện tử, thiết bị  số  hóa, thiết bị  cảm biến siêu  cao... Với 
internet vạn vật, không gian thực (real sphere) và không gian  ảo (virtual  
sphere); hệ thống vật thể (physical system) và hệ  thống số  (digital system) 
giao hòa với nhau ngày càng hữu cơ, làm thay đổi căn bản phương thức tổ 

chức và vận hành đời sống xã hội cũng như  nền sản xuất ­ dịch vụ ­ kinh  
doanh. 
Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence ­ AI) là công nghệ mô phỏng 
các quá trình tư duy, nhận thức của con người, trong đó có các quá trình học 
tập, phân tích, xử lý, lập luận, dịch thuật, sáng tác, dự báo, tự điều chỉnh... 
Hơn nữa, trí tuệ  nhân tạo còn mô phỏng được cả  một số  hành vi của con 
người, trong đó chứa đựng trạng thái tinh thần, cảm xúc, khả năng ứng xử 
phù hợp với từng cảnh huống. Trên nền tảng của trí tuệ nhân tạo, các thiết 
bị tự  động sẽ xuất hiện ngày càng nhiều trong quá trình sản xuất vật chất 
hoạt động kinh doanh, tác chiến quân sự, an ninh và nhiều loại hình lao 
động khác cũng như trong đời sống thường nhật của con người. 
Công nghệ in 3 chiều (3D Printing) hay còn được gọi là chế tạo cộng 
(Additive Manufacturing), là công nghệ tạo ra một sản phẩm vật chất bằng 
cách bồi đắp dần các lớp vật liệu từ  một bản vẽ  hay một mô hình 3D có  
trước. Khác với công nghệ  chế  tạo truyền thống ­ chế  tạo trừ  (Reductive  
Manufacturing), đây là mô hình sản xuất mới, hết sức tùy biến sản xuất ra  
những sản phẩm theo “số   đo” của từng người, theo nhu cầu của từng  
khách hàng; ngoài ra, quá trình sản xuất những phụ  tùng thay thế  sẽ  rất 

9


tiện lợi: các yêu cầu và thông số  kỹ  thuật được chuyển cho các tổ  chức  
mẹ, khâu chế tạo sản phẩm sẽ được các công ty con thực hiện tại chỗ nhờ 
hệ  thống máy tính dữ  liệu lớn (big data) kết nối đa chiều. Đây thật sự  là 
điểm khởi đầu cho sự  hình thành các công xưởng, nhà máy thông minh  
(Smart   Factory)   triển   khai   một   nền   sản   xuất   được   cá   tính   hóa 
(individualized mass production) mà các nhà tư tưởng kinh tế xuất sắc của 
nhân loại đã dự báo cách đây gần 170 năm. Với mô hình sản xuất 3D ở các  
nhà máy thông minh, lợi thế cạnh tranh sẽ dịch chuyển từ chi phí, quy mô 

đầu tư... sang các yếu tố  khác (ý tưởng, thiết kế, chức năng riêng biệt,  
chuỗi cung ứng, dịch vụ...). Khi nền sản xuất này trở thành phổ biến, chắc  
chắn các quy luật của kinh tế thị trường và sản xuất hàng hóa sẽ phải biểu  
hiện dưới hình thức mới, khác nhiều so với thời kỳ kinh điển từ  trước tới  
nay. 
Công nghệ sinh học hiện đại (modern biotechnology) với hạt nhân là 
công nghệ  gen hay công nghệ  di truyền (genetic engineering) đã phát triển  
lên tầm cao của lực lượng sản xuất trực tiếp. Công nghệ gen bao gồm các 
kỹ  thuật thực hiện trên axit nucleic nhằm nghiên cứu cấu trúc của gen; 
điều chỉnh và biến đổi gen; tách, tổng hợp và chuyển các gen mong muốn 
vào các tế bào sinh vật chủ mới tạo ra các cơ thể mới (thực vật, động vật,  
vi sinh vật) mang đặc tính mới. Ngoài ra, công nghệ sinh học hiện đại còn 
bao gồm công nghệ tế bào, công nghệ enzym và protein, công nghệ vi sinh  
vật, công nghệ lên men, công nghệ môi trường... 
1.1.3. Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ  tư  đến công  
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cơ hội phát cũng như thách  
thức cho mọi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển trong quá trình  
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việt Nam có thể  tận dụng được những 

10


thành tựu khoa học ­ công nghệ  mới, có thể  “đi tắt, đón đầu”; đồng thời  
cũng có thể làm sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn nếu không tận dụng được cơ 
hội này. 
1.1.3.1. Về thời cơ
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang mở  ra nhiều cơ  hội cho các 
nước, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Đây có thể coi là 
một cơ  hội vàng nhằm thúc đẩy sự  phát triển của Việt Nam, tiến tới thu  

hẹp khoảng cách với các nước phát triển. Cụ thể là:
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có thể  tạo ra lợi thế  của những  
nước đi sau như Việt Nam so với các nước phát triển do không bị hạn chế 
bởi quy mô cồng kềnh; tạo điều kiện cho Việt Nam bứt phá nhanh chóng, 
vượt qua các quốc gia khác cho dù xuất phát sau. 
Việc đi sau và thừa hưởng những thành tựu từ cuộc cách mạng công 
nghiệp 4.0 giúp Việt Nam tiết kiệm được thời gian nghiên cứu để phát huy  
tối đa các tiềm năng và lợi thế sẵn có. 
Việt Nam có cơ hội phát triển nhanh nền kinh tế tri thức, đi tắt, đón  
đầu, tiến thẳng vào lĩnh vực công nghệ  mới, tranh thủ thành tựu khoa học 
và công nghệ,  đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện  đại hóa  đất 
nước, hội nhập quốc tế. 
Các chủ  thể  trong nền kinh tế  có điều kiện tiếp thu và  ứng dụng  
những tiến bộ, thành tựu công nghệ  của nhân loại, trước hết là công nghệ 
thông tin, công nghệ số, công nghệ điều khiển và tự  động hóa để nâng cao 
năng suất, hiệu quả trong tất cả các khâu của nền sản xuất xã hội. Điều này 
đã tạo ra khả  năng nâng cao mức thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc  
sống cho người dân. 
Với   ưu  thế   dân  số   trẻ,  tỷ   lệ   sử   dụng  điện   thoại   thông  minh   và  
Internet cao, mức độ tiếp cận ứng dụng khoa học công nghệ tốt, cuộc cách 

11


mạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra cho doanh nghiệp Việt Nam những cơ 
hội lớn trong việc xây dựng và phát triển dữ  liệu lớn. Tại sự  kiện ngày 
Internet 2017 do Hiệp hội Internet Việt Nam tổ chức ngày 22 tháng 11 năm 
2017 thì Việt Nam hiện có 64 triệu người dùng Internet, xấp xỉ 67% dân số,  
đạt mức số lượng người dùng Internet đứng thứ 6 châu Á và thứ 12 trên thế 
giới. Ngoài ra, Việt Nam là nước có kết nối internet bằng điện thoại di 

động cao, có đến 55% người Việt sở hữu điện thoại thông minh, trong khi 
chỉ  có 46% người sở  hữu máy tính cá nhân. Đến năm 2020 cứ  10 người  
Việt sẽ  có 8 người dùng điện thoại di động, hoạt động kinh doanh online  
sẽ  tăng trưởng 40%. Theo bà Tammy Phan ­ Giám đốc đối tác chiến lược  
và kênh bán hàng Việt Nam của Google thì sử  dụng dụng điện thoại di 
động giúp phát triển 11 kinh tế. Cứ  tăng thêm 1% số  người dùng sẽ  đóng  
góp hơn 100 triệu USD và GDP năm 2020, và tạo thêm 140.000 việc làm 
mới. Như vậy, có thể thấy, Việt Nam đang có cơ  hội trong việc xây dựng 
dữ liệu lớn, làm nền tảng triển khai các trụ cột khác của nền công nghiệp  
4.0.
1.1.3.1. Về thách thức
Một là, thách thức trong lĩnh vực giải quyết việc làm: chuyển dịch cơ 
cấu lao động trong gần 30 năm qua của Việt Nam rất chậm và chậm hơn 
nhiều nếu so với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam hiện  
nay vẫn dựa nhiều vào các ngành sử  dụng lao động giá rẻ  và khai thác tài 
nguyên thiên nhiên. Trình độ  lạc hậu của người lao động và của cả  nền 
kinh tế  chính là trở  ngại lớn nhất để  chúng ta bắt kịp với các thành tựu 
khoa học, công nghệ  trong thời  đại cách mạng công nghiệp 4.0. Trong 
tương lai, nhiều lao động trong các ngành nghề  của Việt Nam có thể  thất 
nghiệp, ví dụ như lao động ngành dệt may, giày dép. 
Hai là, chất lượng nguồn nhân lực của Việt nam còn rất nhiều hạn  

12


chế. Tỷ  lệ  lao động trong độ  tuổi đã qua đào tạo còn thấp. Theo số  liệu 
thống kê điều tra lao động việc làm quý 2 năm 2017 thì có tới 78.4% lao 
động không có trình độ  chuyên môn kỹ  thuật; 9.48% lao động có trình độ 
đại học trở  lên; 3.17% lao động có trình độ  cao đẳng; 5.42% lao động có 
trình độ trung cấp; 3.53% lao động có trình độ sơ cấp. Thêm vào đó, những  

người lao động có trình độ đại học trở lên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu 
của thị  trường lao động. Vì vậy tỷ  lệ  thất nghiệp đang có xu hướng gia 
tăng trong số lao động có trình độ cao. Theo Bản tin Thị trường lao động số 
15, tại thời điểm quí 3 năm 2017 số  người thất nghiệp có trình độ  từ  đại 
học trở  lên tăng 53,9 nghìn người so với quí 2 năm 2017  ở  mức 237 nghìn 
người, tương đương 4,51%6 . 
Ba là, năng suất lao động còn thấp so với khu vực. Theo số liệu của  
Tổng cục Thống kê, năng suất lao động toàn nền kinh tế theo giá hiện hành 
năm   2017   ước   tính   đạt   93,2   triệu   đồng/lao   động   (tương   đương   4.166 
USD/lao động). Tính theo năng suất lao động theo sức mua tương đương 
năm 2011, năng suất lao động của Việt Nam năm 2016 đạt 9.894 USD, chỉ 
bằng 7,0% mức năng suất của Xin­ga­po; 17,6% của Ma­lai­xi­a; 36,5% 
của Thái Lan; 42,3% của In­đô­nê­xi­a và bằng 56,7% năng suất lao động 
của Phi­li­pin. Đáng báo động là chênh lệch về  năng suất lao động giữa 
Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng. Điều này cho thấy khoảng  
cách và thách thức nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt trong việc bắt kịp  
mức năng suất lao động của các nước. 
Bốn là, trình độ khoa học công nghệ của nước ta đang ở vị trí thấp so 
với mức trung bình của thế giới. Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công 
nghệ năm 2015, thì hiện nay cả nước có gần 600 nghìn doanh nghiệp, với  
hơn 90% là doanh nghiệp nhỏ  và vừa. Phần lớn đều đang sử  dụng công 
nghệ  tụt hậu so với mức trung bình của thế  giới từ  2­3 thế hệ. Trong đó, 

13


có đến 76% máy móc, dây chuyền công nghệ  nhập thuộc thế  hệ  những  
năm 60 ­ 70 của thế kỷ trước, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% thiết bị 
là đồ  tân trang..., chỉ  có 20% là nhóm ngành sử  dụng công nghệ  cao. Một 
khảo sát khác từ Chương trình phát triển của Liên hợp quốc cho thấy, tỷ lệ 

giá trị nhập khẩu công nghệ, thiết bị mỗi năm tại Việt Nam chưa đến 10% 
tổng kim ngạch nhập khẩu, trong khi tỷ  lệ  tại các nước đang phát triển  
khác lên đến 40%. Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2017­ 2018, Việt 
Nam được xếp hạng chung là 55/137 quốc gia, trong khi các chỉ  số  cấu 
phần liên quan đến đổi mới sáng tạo lại thấp hơn nhiều. 
Năm là, quy mô doanh nghiệp Việt Nam quá nhỏ bé, số doanh nghiệp 
vừa, nhỏ  và siêu nhỏ  chiếm gần 98% tổng số  doanh nghiệp của cả  nước,  
phần lớn doanh nghiệp chưa đạt được quy mô tối ưu (50 ­ 99 lao động) để 
có được mức năng suất lao động cao nhất. Số lượng doanh nghiệp lớn còn ít  
(chỉ  chiếm 2,1%), doanh nghiệp chưa xâm nhập được vào các thị  trường,  
trung tâm công nghệ  của thế  giới, do đó, chưa thực hiện được chức năng  
cầu nối về công nghệ tri thức của thế giới vào thị trường trong nước. Doanh  
nghiệp tham gia các hoạt động liên quan đến sáng tạo còn hạn chế, chưa 
tham gia sâu trong chuỗi cung ứng toàn cầu nên chưa tận dụng được tính lan 
tỏa của tri thức, công nghệ  và năng suất lao động từ  các công ty, tập đoàn 
xuyên quốc gia vào doanh nghiệp trong nước. Thêm vào đó mức độ sẵn sàng 
cho nền sản xuất tương lai. 
Sáu là, các nước công nghiệp mới nổi và nhiều nước đang phát triển 
đều cạnh tranh quyết liệt, tìm cách thu hút, hợp tác để  có đầu tư, chuyển 
giao công nghệ, nhanh chóng ứng dụng những thành tựu công nghệ từ cuộc 
Cách mạng công nghiệp thứ tư đem lại để giành lợi thế phát triển. Đây cũng 
chính là áp lực lớn cho Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa đất nước. Việt Nam cần tỉnh táo trong hội nhập, hợp tác quốc tế, phát 

14


triển nền kinh tế thị trường nhất là thị trường khoa học công nghệ, cải thiện 
đổi mới môi trường đầu tư  kinh doanh, tích lũy đầu tư  để  thu hút chuyển 
giao,  ứng dụng nhanh những thành tựu khoa học công nghệ  vào phát triển 

nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 
Bảy là, quản trị nhà nước cũng là một trong những thách thức lớn nhất 
đối với nước ta. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ gặp 
nhiều khó khăn nếu công cuộc cải cách cơ  cấu kinh tế, đổi mới mô hình  
tăng trưởng được Nhà nước đề ra trong thời gian qua thực hiện không thành 
công. Bên cạnh đó, những thách thức về an ninh phi truyền thống sẽ tạo ra 
áp lực lớn nếu Nhà nước không đủ trình độ  về công nghệ và kỹ năng quản 
lý để ứng phó.

1.2. Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thời gian 
qua  1.2.1. Một số thành tựu công nghiệp hóa, hiện đại hóa  đất nước thời  
gian qua 
1.2.1.1. Về khoa học công nghệ 
* Tiềm lực khoa học và công nghệ đã được tăng cường và phát triển
Nhờ có sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, trong nhiều thập  
kỷ qua, chúng ta đã đào tạo được trên 1,8 triệu cán bộ  có trình độ  đại học  
và cao đẳng trở lên với trên 30 nghìn người có trình độ trên đại học (trên 14  
nghìn tiến sĩ và 16 nghìn thạc sĩ) và khoảng hơn 2 triệu công nhân kỹ thuật;  
trong đó, có khoảng 34 nghìn người đang làm việc trực tiếp trong lĩnh vực 
KHCN  thuộc khu vực nhà nước. Đây là nguồn nhân lực quan trọng cho 
hoạt động  KHCN  của đất nước. Thực tế  cho thấy, đội ngũ này có khả 
năng tiếp thu tương đối nhanh và làm chủ  được tri thức, công nghệ  hiện  
đại trong một số ngành và lĩnh vực.

15


Thời gian qua, đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức  KHCN 
với trên 1.100 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc mọi thành phần kinh  
tế, trong đó có gần 500 tổ chức ngoài nhà nước; 197 trường đại học và cao  

đẳng, trong đó có 30 trường ngoài công lập. Cơ  sở  hạ  tầng kỹ  thuật của  
các viện, trung tâm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các trung tâm thông  
tin khoa học công nghệ, thư  viện, cũng được tăng cường và nâng cấp. Đã 
xuất hiện một số  loại hình gắn kết tốt giữa nghiên cứu khoa học, phát 
triển công nghệ với sản xuất ­ kinh doanh.
Mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nhưng với sự  nỗ  lực rất 
lớn của Nhà nước, từ năm 2000 tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho KHCN đã 
đạt 2%, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách  
đầu tư phát triển KHCN của Đảng và Nhà nước.
* Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới
Hệ  thống quản lý nhà nước về  KHCN được tổ  chức từ  trung  ương 
đến địa phương đã đẩy mạnh phát triển  KHCN  , góp phần thực hiện các 
mục tiêu phát triển KT ­ XH của ngành và địa phương.
Thực hiện Luật Khoa học và công nghệ, các chương trình, đề tài, dự 
án  KHCN    đã bám sát hơn nhiệm vụ  phát triển KT ­ XH. Cơ  chế  tuyển  
chọn tổ  chức, cá nhân chủ  trì nhiệm vụ  KHCN  đã bước đầu được thực 
hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai. 
Hoạt động của các tổ  chức KHCN đã mở rộng từ  nghiên cứu ­ phát 
triển đến sản xuất và dịch vụ  KHCN . Quyền tự  chủ  của các tổ  chức, cá 
nhân trong hoạt động KHCN bước đầu được tăng cường. Quyền tự chủ về 
hợp tác quốc tế của tổ chức, cá nhân hoạt động KHCN được mở rộng.
Vốn huy động cho KHCN từ  các nguồn hợp đồng với khu vực sản  
xuất ­ kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tài trợ  quốc tế  và các nguồn khác, 

16


tăng đáng kể nhờ chính sách đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho  KHCN. Đã 
cải tiến một bước việc cấp phát kinh phí đến nhà khoa học theo hướng 
giảm bớt các khâu trung gian.

Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về   KHCN  từng 
bước được hoàn thiện thông qua các quy định về  chức năng, nhiệm vụ  và 
trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố 
trực thuộc trung ương.
* Trình độ  nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ  của nhân 
dân ngày càng được nâng cao
Nhờ có sự quan tâm của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động 
tích cực của các tổ chức KHCN, các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư và công 
tác phổ biến, tuyên truyền rộng rãi về tác động của KHCN đến sản xuất và 
đời sống, nhận thức và khả  năng tiếp thu,  ứng dụng tri thức   KHCN  của 
người dân trong thời gian qua đã tăng lên rõ rệt. Hoạt động KHCN ngày càng 
được xã hội hoá trên phạm vi cả nước.
1.2.1.2. Về cơ cấu kinh tế
* Về cơ cấu thành phần kinh tế: 
Cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự chuyển dịch khá rõ. Trước hết là 
trong cơ cấu GDP, tỷ trọng khu vực Nhà nước đã giảm xuống còn dưới 1/3; 
của khu vực tập thể còn rất thấp (5,05%); của khu vực có vốn đầu tư nước  
ngoài đã chiếm gần 20%; còn khu vực kinh tế  tư  nhân chiếm trên dưới 
11%... Vốn đầu tư đã có sự chuyển dịch theo hướng khai thác các nguồn lực  
của các thành phần kinh tế ở trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 
Trong tổng vốn đầu tư  phát triển toàn xã hội, tỷ  trọng vốn đầu tư  của khu 
vực Nhà nước đã giảm xuống còn 39,3% (thời kỳ 2011­2013); của khu vực 
ngoài Nhà nước tăng lên 38,1%; của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 

17


lên 22,6% (thời kỳ 2011­2013). Về  tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu 
dịch vụ  tiêu dùng, tỷ  trọng kinh tế  Nhà nước giảm xuống còn 10,2% năm 
2013; tỷ  trọng của khu vực ngoài Nhà nước tăng lên 86,7%, trong đó của 

kinh tế tập thể giảm còn 1%, của kinh tế tư nhân đã chiếm trên dưới 1/3; 
tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 3,1%...
* Về cơ cấu vùng kinh tế: 
Đã xây dựng được một cơ cấu vùng hợp lý theo hướng phát huy lợi 
thế từng vùng. Hiện nay cả nước có sáu vùng KT ­ XH và bốn vùng kinh tế 
trọng điểm. Sáu vùng KT ­ XH bao gồm:  vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ 
(Tây Bắc và Đông Bắc), vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung Bộ, 
Duyên hải Nam Trung Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng 
bằng sông Cửu Long. Bốn vùng kinh tế  trọng điểm bao gồm: vùng kinh tế 
trọng điểm Bắc Bộ, gồm 7 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, 
Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Quảng Ninh; vùng kinh tế  trọng điểm  
phía Nam gồm 8 tỉnh, thành phố: Hồ  Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa ­ Vũng  
Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang; vùng Kinh  
tế  trọng điểm miền Trung gồm 5 tỉnh, thành phố: Thừa Thiên ­ Huế, Đà  
Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định; vùng Kinh tế trọng điểm Đồng  
bằng sông Cửu Long, gồm 4 tỉnh, thành phố: Cần Thơ, An Giang, Cà Mau và 
Kiên Giang.
* Về cơ cấu ngành kinh tế: 
Cơ  cấu các ngành kinh tế  đã có sự  dịch chuyển tích cực theo hướng 
CNH, HĐH. Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP giảm xuống còn 18,9% 
năm 2010 và  ở  mức 18,12% năm 2014. Tỷ  trọng ngành công nghiệp và xây 
dựng trong GDP tăng lên 38,5% năm 2014. Tỷ  trọng khu vực dịch vụ  trong 
GDP đã tăng lên 42,88% năm 2010 và khoảng 43,38% năm 2014. Quá trình 

18


chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành cũng đã gắn nhiều hơn với các yêu cầu  
về CNH, HĐH. Trong cơ cấu ngành công nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất của 
công nghiệp khai khoáng giảm dần, trong khi tỷ trọng của ngành công nghiệp 

chế biến tăng. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, từng bước đáp ứng tốt 
hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Trong đó, các ngành dịch vụ gắn với 
CNH, HĐH như dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý, bưu chính viễn  
thông... phát triển nhanh, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong GDP.
* Về cơ cấu lao động:
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực. Gắn liền với quá trình  
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phục vụ tốt hơn các mục tiêu CNH, HĐH. Tỷ 
trọng lao động ngành nông nghiệp đã giảm mạnh xuống khoảng 47% năm 
2014. Tỷ trọng lao động ngành công nghiệp ­ xây dựng và dịch vụ tăng liên  
tục, trong đó, ngành công nghiệp, xây dựng tăng lên 20,8% năm 2014; ngành  
dịch vụ  tăng lên 32,2% năm 2014. Tỷ  lệ  lao  động qua đào tạo tăng lên 
khoảng 40% năm 2010 và đến năm 2014 là 49%.
  1.2.2. Một số  hạn chế  của quá trình  công nghiệp hóa, hiện đại  
hóa đất nước thời gian qua 
1.2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao động diễn ra  
chậm
Chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  bao gồm cả  cơ  cấu ngành, cơ  cấu lao 
động đã “chững lại” trong nhiều năm nhưng chậm có sự  điều chỉnh phù  
hợp. Các ngành dịch vụ sử dụng tri thức, KHCN phát triển còn chậm. Nếu  
như trong giai đoạn đầu của quá trình CNH, HĐH, cơ cấu kinh tế có tốc độ 
chuyển dịch khá, cơ cấu ngành nông nghiệp trong GDP giảm mạnh xuống  
19,3% năm 2005, thì từ  năm 2006 đến nay, tỷ  trọng ngành nông nghiệp 
trong GDP giảm không đáng kể. Năm 2014, ngành nông nghiệp vẫn chiếm  

19


hơn 18% GDP, năm 2018 là 14,57%, cao hơn đáng kể so với tỷ trọng ngành 
nông nghiệp trong GDP của các nước xung quanh (tỷ  trọng ngành nông 
nghiệp trong GDP của Trung Quốc là 10,1%, của Indonesia là 14,4%, của 

Malaixia là 10,1% và của Thái Lan là 12,3%).
1.2.2.2. Cơ cấu vùng kinh tế còn nhiều bất cập
Bên cạnh những kết quả tích cực mang lại từ liên kết vùng, thực tế 
cũng cho thấy quy hoạch tổng thể  phát triển KT­XH vùng và quy hoạch 
ngành theo vùng hiện nay của nước ta chưa thực sự là công cụ hữu hiệu để 
định hướng, điều phối, phân bổ ngân sách, thu hút nguồn lực, đầu tư, quản  
trị không gian KT­XH, đặc biệt là thực hiện vai trò liên kết nội vùng.
Các vùng kinh tế  trọng điểm chưa thực sự  phát huy vai trò đầu tàu, 
thiếu tác dụng lan tỏa, hiệu quả đầu tư chưa vượt trội; các vùng khó khăn 
phát triển thiếu bền vững, khoảng cách giữa các vùng chưa được thu hẹp; 
liên kết vùng còn yếu, nhất là giữa các tỉnh và thành phố.
Trong khi đó, vai trò vĩ mô của Nhà nước trong việc xây dựng quy 
hoạch, kế hoạch phát triển các vùng kinh tế; tập trung các nguồn lực quốc  
gia và xã hội phát triển hạ  tầng để  phát triển kinh tế  vùng và tăng cường  
liên kết vùng còn hạn chế.
Hiện nay, vẫn còn tồn tại tình trạng hầu hết các tỉnh, thành và các 
vùng đều có những dấu hiệu “thu nhỏ” của quốc gia, nên quy hoạch, kế 
hoạch chưa làm rõ được tính đặc thù, thế mạnh của mỗi địa phương và liên 
kết nội vùng.
Chất lượng quy hoạch phát triển KT­XH vùng còn nhiều bất cập, 
tình trạng quá nhiều quy hoạch  ở  cấp  địa phương, quy hoạch dàn trải, 
không tính đến lợi ích kinh tế chung và lợi ích cộng đồng đã gây ra lãng phí  
và phức tạp trong thực hiện.

20


Chuỗi giá trị  sản phẩm liên kết vùng là yếu tố  quan trọng đặc biệt  
để  bảo đảm cho liên kết vùng có hiệu quả  nhưng lại là khâu yếu nhất 
trong quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch liên kết vùng hiện nay. Cách  

phân vùng KT­XH còn nhiều mặt hạn chế, chưa phát huy được lợi thế  so 
sánh từng vùng theo chuỗi giá trị  sản phẩm, các chuỗi giá trị  liên kết kinh 
tế nội vùng và liên vùng vẫn còn bị bỏ ngỏ.
Đây là yêu cầu bức thiết bởi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và 
đang đặt ra những thách thức lớn đối với tất cả các doanh nghiệp sẽ  tham  
gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu về  những thay đổi liên quan đến chi phí, 
quản trị  rủi ro, giảm thiểu tính linh hoạt và sự  độc lập trong chiến lược  
kinh doanh.
1.2.2.3. Một số hạn chế về khoa học công nghệ
Thứ  nhất, tổng chi quốc gia cho nghiên cứu khoa học và phát triển 
công nghệ  còn thấp trong tương quan so sánh với các quốc gia khác trong  
khu vực và trên thế  giới. Theo Điều tra nghiên cứu và phát triển 2014, tỷ 
trọng tổng chi quốc gia cho KHCN/GDP năm 2013 là 0,87%, trong đó chi 
cho nghiên cứu và phát triển chiếm 43%. Như  vậy, năm 2013, tỷ  lệ  chi  
quốc gia cho nghiên cứu và phát triển/GDP đạt 0,37%. Tỷ lệ chi cho nghiên 
cứu và phát triển/GDP của Việt Nam so với các nước là rất thấp. Điều  
đáng nói là trong tổng chi quốc gia cho nghiên cứu và phát triển, ngân sách 
Nhà nước chiếm hơn một nửa (56,7%), nguồn đầu tư từ doanh nghiệp đạt 
41,8%, còn lại chỉ có 1,5% là từ nguồn vốn nước ngoài.
Thứ  hai, đội ngũ cán bộ  KHCN của Việt Nam tuy tăng về  số  lượng 
nhưng so với tổng dân số  thì tỷ  lệ  này còn thấp so với các nước trong khu  
vực. Bình quân cán bộ  nghiên cứu trên vạn dân năm 2013 tính theo đầu 
người của Việt Nam là 14,3 người. Tỷ  lệ  này thấp hơn của Trung Quốc  

21


năm 2012 (15,3); bằng 1/5 của Nhật Bản (70,2), 1/6 của Hàn Quốc (82,0) và 
gần 1/5 của Singapore (74,8). Bên cạnh  đó, chất lượng nguồn nhân lực 
nghiên cứu của Việt Nam chưa cao, thiếu hụt nhiều cán bộ  đầu ngành,  

chuyên gia giỏi, đặc biệt là các chuyên gia về công nghệ. Điều này dẫn đến  
chất lượng nghiên cứu KHCN của Việt Nam năm 2014 xếp hạng 89, trong 
khi   ở   chỉ   tiêu   này,   Malaysia   xếp   thứ   27,   Indonesia   46,   Thái   Lan   60,  
Philippines 91. Tỷ  lệ  bằng sáng chế  và  ứng dụng (trên một triệu dân) của 
nước ta năm 2014 xếp thứ 92 thế giới, trong khi tỷ lệ này của Malaysia xếp 
thứ 31, Thái Lan 71, Philippines 84.
Thứ  ba, trình độ  công nghệ  thấp, không đồng bộ  và chậm được đổi 
mới. Tỷ lệ  ứng dụng KHCN vào sản xuất và đời sống còn hạn chế. Theo 
kết quả  điều tra “Công nghệ  và cạnh tranh ngành chế  biến, chế  tạo giai 
đoạn 2009­2012”, chỉ có khoảng 11% số doanh nghiệp đã phát triển những 
loại hình công nghệ mới. Riêng hoạt động nghiên cứu phát triển, chỉ có 8%  
số doanh nghiệp có hoạt động và khoảng 5% chỉ là cải tiến công nghệ sẵn 
có. Đáng lưu ý, 84% doanh nghiệp cho biết là không hề có bất cứ  chương 
trình cải tiến hoặc phát triển công nghệ  nào. Mức độ  sẵn sàng về  công 
nghệ   mới,   đặc   biệt   là   công   nghệ   thông   tin   được   coi   là   nền   tảng   của  
phương thức phát triển mới. Tuy nhiên, theo xếp hạng năm 2014 của Diễn  
đàn Kinh tế thế giới (WEF), Việt Nam chỉ đứng khiêm tốn ở vị trí thứ  102 
thế  giới, trong đó, giai đoạn 2008­2014, mức độ  sẵn sàng trong áp dụng 
công nghệ mới của Việt Nam đã giảm từ vị trí 71/134 trong năm 2008­2009 
xuống vị trí 134/148 năm 2013­2014, thấp hơn rất nhiều so với Malaysia (vị 
trí 37), Philippines (47), Indonesia (60), Thái Lan (75).
Thứ  tư, mặc dù Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách thúc đẩy 
chuyển giao công nghệ  nhưng hiệu quả  và chuyển giao công nghệ  từ  các 

22


doanh nghiệp FDI còn thấp. Chuyển giao công nghệ   ở  Việt Nam chủ  yếu 
diễn ra giữa các doanh nghiệp trong nước. Việc thiếu học hỏi giữa các 
doanh nghiệp nước ngoài và trong nước cho thấy rằng cần có những nỗ lực 

chính sách bổ sung trong việc thu hút và quản lý FDI để có được hiệu ứng  
lan tỏa.
Phần 2
MỘT SỐ  GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN 
ĐẠI   HÓA   ĐẤT   NƯỚC   TRONG   ĐIỀU   KIỆN   CÁCH   MẠNG   CÔNG 
NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
2.1. Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo  
hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả 
Đây là nội dung cốt lõi của chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế quốc 
dân. Phải xác định định hướng của việc chuyển dịch, trong đó xác định rõ 
đặc trưng phát triển và vị trí của mỗi ngành trong tổng thể kinh tế, trên cơ 
sở đó xác định các chính sách phát triển. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 
phải dựa trên sự đánh giá chính xác những lợi thế của đất nước, phải xuất 
phát từ  nhu cầu của thị trường trên cơ  sở  khai thác có hiệu quả  khả  năng  
(chứ  không phải xuất phát từ  khả  năng), phải có dự  báo triển vọng cạnh  
tranh của sản phẩm, của ngành kinh tế trên thị trường trong nước và quốc 
tế. Chuyển dịch cơ  cấu ngành kinh tế  phải bảo đảm khả  năng thích nghi 
nhanh với sự biến đổi của môi trường trong nước và quốc tế, trước hết và  
chủ  yếu là tiến bộ  khoa học và công nghệ  dưới tác động của cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ tư, chi phí cho điều chỉnh cơ  cấu kinh tế thấp.  
Cụ thể là:
Ngành công nghiệp, tập trung nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh 
của các sản phẩm; phát triển các sản phẩm công nghiệp có lợi thế  cạnh 

23


tranh, có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, ưu tiên 
phát triển những sản phẩm có chất lượng, giá trị gia tăng cao, áp dụng công 
nghệ  mới, công nghệ  sạch, sử  dụng tiết kiệm năng lượng và bảo vệ  môi 

trường. Đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp theo 
hướng tăng nhanh công nghiệp chế  biến, chế  tạo, công nghiệp có hàm 
lượng công nghệ  cao, góp phần hình thành cơ  cấu kinh tế  hiện đại. Các  
ngành công nghiệp nền tảng được  ưu tiên để  đáp ứng nhu cầu về  tư  liệu 
sản xuất cơ bản của nền kinh tế.
Tập trung phát triển công nghiệp hỗ  trợ, hình thành cơ  chế  liên kết,  
hợp tác, phân công sản xuất trong việc tham gia chế  tạo từng công đoạn 
sản phẩm. Phân bố không gian công nghiệp phù hợp nhằm phát huy lợi thế 
so sánh của các vùng, miền và tạo điều kiện để  liên kết ngành mang lại 
hiệu quả cao.
Phát triển mạnh công nghiệp chế  biến, cơ  khí, công nghiệp công 
nghệ thông tin, công nghiệp sinh học và công nghiệp môi trường.
Tập trung lấp đầy các khu công nghiệp gắn với việc đầu tư bổ sung  
các công trình, dịch vụ hạ tầng xã hội (nhà  ở, trường học, y tế, chợ,...) và 
thực hiện tốt bảo vệ môi trường.
Ngành nông nghiệp, cần hướng vào phát triển nền nông nghiệp nhiệt 
đới có năng lực cạnh tranh cao và thương hiệu tốt. Phát triển nông nghiệp  
toàn diện, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn thực phẩm; 
phát huy lợi thế  so sánh về  điều kiện tự  nhiên và sinh thái của mỗi vùng, 
mỗi địa phương. Tập trung đầu tư khâu nghiên cứu và phát triển giống cây  
trồng, vật nuôi, nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học. Thúc đẩy tích tụ 
ruộng đất, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, các “cánh đồng 
mẫu lớn”; các trang trại nuôi trồng thủy, hải sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm 

24


lớn; phát triển sản xuất gắn với bố  trí, chuyển đổi hiệu quả  cơ  cấu lao 
động trong nông nghiệp. 
Trong những năm trước mắt, đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại  

hóa nông nghiệp, nông thôn  bằng cách đổi mới đào tạo nhân lực, đưa tri 
thức sản xuất, kinh doanh, tri thức khoa học công nghệ đến với người nông 
dân; sử  dụng công nghệ  sinh học làm gia tăng giá trị  các mặt hàng nông­
lâm­thủy sản. Gắn bó chặt chẽ quá trình chuyển dịch cơ  cấu kinh tế nông 
nghiệp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng hợp  
lý, hiệu quả, bảo đảm cơ  sở  cho thực hiện chương trình xây dựng nông  
thôn mới.
Ngành dịch vụ cần được đẩy mạnh phát triển, nhất là các dịch vụ có 
giá trị, hàm lượng tri thức cao, tiềm năng lớn, có lợi thế  và có sức cạnh 
tranh, như du lịch, hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, y 
tế; hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc 
tế. 
Hiện đại hóa và mở  rộng các dịch vụ  có giá trị  gia tăng cao, như  tài 
chính, ngân hàng, bảo hiểm, logistics, dịch vụ  phát triển phần mềm công 
nghệ  thông tin và các dịch vụ  hỗ  trợ  kinh doanh khác. Đẩy mạnh tham gia 
mạng phân phối toàn cầu, phát triển nhanh hệ  thống phân phối các sản 
phẩm có lợi thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước; xây dựng thương hiệu 
hàng hóa và dịch vụ Việt Nam.
2.2. Đẩy mạnh hoạt động liên kết vùng kinh tế
Vùng kinh tế  được xác định là một bộ  phận lớn của lãnh thổ  quốc 
gia có các hoạt động kinh tế  xã hội tiêu biểu, thực hiện sự  phân công lao  
động xã hội trên phạm vi cả  nước. Đây là loại vùng có qui mô diện tích, 
dân số   ở  cấp lớn nhất, phục vụ  việc hoạch định các chiến lược, các kế 

25


×