Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Đề tài khoa học: Nghiên cứu xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê an toàn xã hội trong hệ thống chỉ tiêu kinh tế-xã hội của thống kê nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.05 KB, 20 trang )

Đề tài khoa học
Số: 10-2003
Nghiên cứu xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê an
toàn x hội trong hệ thống chỉ tiêu kinh tế-x hội của
thống kê nhà nớc
1. Cấp đề tài

: Cơ sở

2. Thời gian nghiên cứu : 2003
3. Đơn vị chủ trì

: Vụ Thống kê Xã hội và Môi trờng

4. Đơn vị quản lý

: Viện Khoa học Thống kê

5. Chủ nhiệm đề tài

: CN. Nguyễn Phong

6. Những ngời phối hợp thực hiện:
CN. Võ Thành Sơn
CN. Hồ Thị Kim Nhung
CN. Nguyễn Văn Thuỷ
CN. Dơng Bạch Long
CN. Phạm Văn Đợc
CN. Phạm Quang Lộc
7. Kết quả bảo vệ: loại khá


225


I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng hệ thống
chỉ tiêu thống kê an toàn x hội
1.1. An toàn xã hội
An toàn xã hội là một vấn đề mới chỉ đợc đặt vấn đề nghiên cứu một
cách hoàn chỉnh và đầy đủ trong thời gian gần đây, khi mà thực tiễn cuộc sống
của thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển đã và đang làm nảy sinh những vấn
đề xã hội cấp thiết phải giải quyết, nh các tệ nạn xã hội xuất hiện và gia tăng,
đời sống giữa các tầng lớp dân c có sự phân hoá, sự ảnh hởng của những luồng
văn hoá độc hại, ngoại lai, môi trờng thiên nhiên bị xâm hại,v.v
An ninh nói chung là ''sự an toàn, ổn định chung của một chế độ, một xã
hội'' (Nguyễn Xuân Yêm, trang 12).
An ninh quốc gia ''thể hiện quan hệ chính trị giữa các giai cấp, khẳng định
vị trí của giai cấp cầm quyền đối với các nhà nớc khác trên thế giới'' (Nguyễn
Xuân Yêm, trang 12). Còn trật tự an toàn xã hội là ''trạng thái của các quan hệ xã
hội đợc hình thành và điều chỉnh bởi hệ thống quy phạm pháp luật của Nhà
nớc, quy phạm chính trị, quy phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục trong đời sống
cộng đồng của một dân tộc, một nhà nớc, là tình trạng xã hội ổn định, ở đó mọi
công dân sống và lao động có tổ chức, có kỷ cơng, mọi lợi ích chính đáng đợc
đảm bảo, không bị xâm hại'' (Lê Thế Tiệm, trang 18- 19).
Theo khái niệm trên, an toàn xã hội có nội dung rộng lớn, bao hàm những
khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội. Những khía cạnh này, nếu bị vi phạm,
sẽ ảnh hởng đến sự phát triển bình thờng của xã hội và ảnh hởng đến cuộc
sống bình thờng của những thành viên trong đó.
Đề tài sử dụng khái niệm về an toàn xã hội do tác giả Lê Thế Tiệm đa ra
trong việc tiến hành nghiên cứu của mình.
Một khía cạnh khác của an toàn xã hội là khả năng phục hồi lại trạng thái
cân bằng của xã hội, của đời sống dân c sau khi có những hiện tợng bất

thờng xảy ra, nh hoả hoạn, lụt bão,v.v Khả năng này phụ thuộc vào mức độ
dự phòng của xã hội, mức độ kịp thời của việc xử lý khi có những hiện tợng bất
thờng xảy ra.
Việc bảo vệ trật tự an toàn xã hội, cần tập trung vào các mặt chủ yếu sau:
226


- Phòng chống tội phạm.
- Giữ gìn trật tự công cộng.
- Phòng ngừa tai nạn
- Bài trừ tệ nạn xã hội.
- Chống ô nhiễm môi trờng.
Ngoài ra, để thể hiện tính toàn vẹn của việc bảo vệ an toàn xã hội, cũng
nên bao gồm một số vấn đề khác, nh vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống
lụt bão, thiên tai.
Giữa an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội có mối quan hệ biện chứng,
nhân quả lẫn nhau. Việc bảo vệ an ninh nói chung phải là những hoạt động tiến
hành đồng bộ trên cả hai mặt đối nội và đối ngoại, diễn ra trên phạm vi toàn xã
hội, giữa mọi tầng lớp nhân dân và có liên quan mật thiết đến những chính sách
kinh tế xã hội khác của nhà nớc cầm quyền.
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê
an toàn xã hội
Các chỉ tiêu thống kê an toàn xã hội là một bộ phận của hệ thống các chỉ
tiêu kinh tế xã hội nói chung góp phần tạo nên bức tranh toàn cảnh về sự phát
triển của xã hội nớc ta xét trên nhiều phơng diện. Bên cạnh đó, cũng nh hệ
thống chỉ tiêu thống kê kinh tế xã hội khác, có tác dụng làm cơ sở để dự báo sự
tăng trởng kinh tế cũng nh chiều hớng phát triển của xã hội, hệ thống chỉ tiêu
thống kê an toàn xã hội sẽ có tác dụng cảnh báo những chiều hớng gia tăng của
những yếu tố làm ảnh hởng đến an toàn xã hội và trật tự an ninh. Đặc biệt, hệ
thống chỉ tiêu này có tác dụng trong việc đánh giá về sự phát triển bền vững của

xã hội đất nớc.
An toàn xã hội là một vấn đề có tính giai cấp. Tăng cờng các biện pháp
bảo vệ an toàn xã hội chính là tăng cờng bảo vệ những quyền lợi của những giai
cấp thống trị trong xã hội. ở nớc ta, bảo vệ an toàn xã hội chính là bảo vệ
những quyền lợi chính đáng và hợp pháp của mọi công dân. An toàn xã hội là
một vấn đề có tính xã hội hoá. Mọi công dân đều có quyền và nghĩa vụ tham gia

227


bảo vệ trật tự an toàn xã hội. Những số liệu về an toàn xã hội cần phải đợc công
bố và ai cũng có thể tham gia theo dõi, sử dụng.
Nh đã trình bày, an toàn xã hội là một vấn đề có mối quan hệ nhân quả,
tác động qua lại với những quá trình phát triển kinh tế, xã hội khác. Tăng cờng
bảo vệ trật tự an toàn xã hội, do đó không chỉ là những biện pháp nhằm giữ gìn
an toàn xã hội, mà sâu xa hơn, bao gồm cả những biện pháp nhằm không để xảy
ra hiện tợng làm ảnh hởng đến an toàn xã hội, nh các chơng trình tạo việc
làm, tăng thu nhập, để tránh phá rừng. Thống kê an toàn xã hội phải đảm bảo cho
phép phân tích đợc những hậu quả xã hội của những chủ trơng, chính sách
phát triển kinh tế trên phạm vi cả nớc cũng nh ở từng địa phơng.
Trên giác độ thực tiễn, thống kê an toàn xã hội là một yếu tố cần thiết cho
công việc quản lý nhà nớc về trật tự an toàn xã hội. Những số liệu về an toàn xã
hội cho phép các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nớc có một cách nhìn tổng thể về
tình hình phát triển kinh tế xã hội nói chung, về an toàn xã hội nói riêng. Những
số liệu về tai nạn giao thông, về số lợng xe gắn máy đang lu hành, về tình hình
chấp hành luật giao thông đã dẫn tới những quyết định đúng đắn về việc sử dụng
mũ bảo hiểm khi sử dụng xe gắn máy trên những tuyến đờng nguy hiểm của
Chính phủ. Những số liệu về những vụ hoả hoạn, cháy rừng cho thấy có những
yếu tố đang ảnh hởng đến sự an toàn của đời sống xã hội, cần phải có những
biện pháp đề phòng, đối phó. Tỷ lệ tái nghiện cao của những ngời đã qua cai

nghiện đã dẫn đến quyết định mang tính sáng tạo là tiếp tục dạy nghề và tạo việc
làm cho những ngời đã qua cai nghiện ở Thành phố Hồ Chí Minh.
An toàn xã hội là một vấn đề lớn, bao hàm nhiều nội dung. Những yếu tố
cụ thể của an toàn xã hội nh phòng chống tội phạm, bảo vệ môi trờng, phòng
chống tai nạn giao thông,v.v trong thực tiễn do những ngành chức năng khác
nhau phụ trách. Những ngành này tuy thực hiện những chức năng quản lý nhà
nớc trên những lĩnh vực khác nhau, nhng đều có tính thống nhất trong việc
tham gia giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Thống kê an toàn xã hội, do đó, cần có sự
tham gia của những cơ quan chức năng này trong việc cung cấp thông tin và sử
dụng thông tin.
Trong việc xây dựng và thực hiện công tác thống kê an toàn xã hội, cơ
quan thống kê nhà nớc đóng vai trò rất quan trọng. Thuộc lĩnh vực chuyên môn
228


của mình, cơ quan thống kê nhà nớc sẽ đảm bảo cho thống kê an toàn xã hội
đợc tiến hành đầy đủ, liên tục, không trùng lắp và mang tính thực tiễn, tính
khoa học. Cơ quan thống kê nhà nớc sẽ đóng vai trò đầu mối, liên kết hoạt động
thống kê của những cơ quan chức năng. Vai trò của ngành thống kê sẽ là tham
gia xác định những đối tợng sử dụng thông tin thống kê an toàn xã hội, trong đó
quan trọng nhất là Quốc hội, các cơ quan Đảng và Chính phủ, các Bộ ngành và
cơ quan chính quyền địa phơng, xác định nhu cầu thông tin cụ thể của những
đối tợng này, cả về khối lợng và thời gian, tham gia xây dựng các chỉ tiêu
thống kê, hình thành các khái niệm, phơng pháp thu thập, tổng hợp thông tin,
cơ chế cung cấp thông tin,v.v Ngoài ra, ngành thống kê cũng sẽ chính là cơ
quan có trách nhiệm đa ra ý kiến về việc tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ
thống kê trong các ngành chức năng, vốn xa nay không đợc chú ý kiện toàn,
không đợc bồi dỡng kiến thức chuyên môn, không đợc trang bị các phơng
tiện làm việc hiệu quả.
Hiện nay, xuất phát từ tính cần thiết trong việc thống nhất công tác thống

kê tội phạm giữa các ngành có liên quan, là Kiểm sát, Công an, Toà án và Quân
đội, những ngành này đang tiến hành xây dựng chung một chế độ báo cáo thống
kê hình sự - thống kê tội phạm, do Cục Thống kê thuộc Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao chủ trì. Tuy nhiên, do tính không đồng nhất trong công việc giữa những
ngành này, việc xây dựng chế độ báo cáo đang gặp những khó khăn trong việc
thống nhất những ý kiến về những chỉ tiêu thống kê tội phạm đợc đề xuất. Điều
này càng cho thấy vai trò cần thiết của cơ quan thống kê nhà nớc trong việc
tham gia phát triển công tác thống kê trong những đơn vị ngoài ngành.
Cơ sở pháp lý của việc cơ quan thống kê nhà nớc tham gia xây dựng hệ
thống chỉ tiêu thống kê an toàn xã hội là Luật Thống kê do Quốc hội nớc Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá 9, kỳ họp thứ 3 năm 2003 ban hành, quy
định tại Điều 35: ''Cơ quan thống kê trung ơng giúp Chính phủ thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn thuộc nội dung quản lý nhà nớc về thống kê theo quy định của
Chính phủ'' và tại Điều 34 quy định về những nội dung quản lý nhà nớc về
thống kê, trong đó nêu rõ: ''Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lợc, quy
hoạch, kế hoạch phát triển công tác thống kê, hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc
gia, chơng trình điều tra thống kê quốc gia.

229


Để các hoạt động thu thập, tổng hợp, cung cấp và sử dụng thông tin thống
kê an toàn xã hội đợc diễn ra ổn định, việc hình thành một cơ chế cho việc cung
cấp và sử dụng thông tin là cần thiết. Cơ chế này giúp cho việc hình thành nguồn
thông tin đợc ổn định và liên tục, những đối tợng dùng tin cơ bản đợc xác
định và do đó, nhu cầu về nội dung thông tin của họ đợc đáp ứng. Cơ chế cung
cấp và sử dụng thông tin cũng xác định trách nhiệm và quyền hạn của những
cấp, ngành, những đối tợng có liên quan trong việc đảm bảo tính công khai của
công tác thống kê an toàn xã hội, nhng cũng đảm bảo tính bảo mật của những
thông tin về trật tự an toàn xã hội, vốn là những thông tin dễ bị khai thác để sử

dụng vào những mục đích tuyên truyền, chống phá chế độ, hoặc có những thông
tin thuộc phạm vi bí mật quốc gia.
Cơ chế cung cấp và sử dụng thông tin thống kê an toàn xã hội đợc xây
dựng dựa trên cơ sở pháp lý là tính tập trung dân chủ trong công việc quản lý của
nhà nớc ta. Nguyên tắc ''dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra'' đợc quán
triệt và thực hiện xuyên suốt trong toàn bộ quá trình quản lý và điều hành của
Chính phủ. Việc tăng cờng quản lý nhà nớc bằng Hiến pháp và pháp luật là
một yếu tố đảm bảo cho việc xây dựng những văn bản pháp quy quy định việc
thực hiện quá trình thống kê an toàn xã hội của các cơ quan chức năng và của cơ
quan thống kê nhà nớc. Ngoài ra, xu hớng hội nhập quốc tế ngày càng đa dạng
của nớc ta đặt ra yêu cầu phải xây dựng đợc hệ thống các chỉ tiêu thống kê
kinh tế, xã hội nói chung và hệ thống chỉ tiêu thống kê an toàn xã hội nói riêng
đảm bảo đánh giá sự phát triển của từng quốc gia theo những tiêu chuẩn chung,
đồng thời đảm bảo tính so sánh quốc tế giữa các mặt phát triển khác nhau của
các quốc gia.
II. Thực trạng của thống kê an toàn x hội ở nớc ta hiện
nay. Sự cần thiết của việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu
thống kê an toàn x hội.
2.1. Thực trạng thống kê an toàn xã hội ở nớc ta hiện nay.
Thống kê an toàn xã hội ở nớc ta thời gian đã đợc tiến hành với mục
đích chủ yếu là phục vụ cho nhu cầu quản lý, điều hành của các cơ quan chuyên
môn, nhằm cung cấp số liệu cho các kỳ họp Quốc hội và cho những nhu cầu đột
xuất của các cơ quan Đảng và Nhà nớc. Những số liệu về an toàn xã hội đã có
230


những tác dụng nhất định, phục vụ cho việc nắm bắt và theo dõi những diễn biến
về tình hình trật tự an toàn xã hội ở nớc ta qua từng thời kỳ, giúp cho các cơ
quan Đảng và Nhà nớc đề ra những quyết định quản lý nhằm đấu tranh bảo vệ
trật tự an toàn xã hội.

Tuy nhiên, thống kê an toàn xã hội ở nớc ta hiện đang có những hạn chế
cần đợc khắc phục để có thể phát triển tốt hơn nữa.
Thứ nhất: Thống kê an toàn xã hội cha đợc thực hiện nh một chỉnh thể.
An toàn xã hội nói chung vẫn đợc hiểu nh một khái niệm gắn liền với những
hoạt động của những ngành thuộc lĩnh vực hành pháp và t pháp, trong khi có
nhiều lĩnh vực khác liên quan chặt chẽ đến an toàn xã hội, nh phòng cháy chữa
cháy, phòng chống lụt bão,v.v
Thứ hai: Công tác thống kê giữa những ngành liên quan trong lĩnh vực
phòng chống tội phạm đợc tiến hành một cách độc lập. Điều này dẫn đến tính
chồng chéo trong việc tính toán các chỉ tiêu thống kê giữa các cơ quan này.
Việc xác định nội dung của nhiều chỉ tiêu thống kê an toàn xã hội cha
đợc thống nhất, hoặc cha rõ ràng;
Công tác tổ chức của một số ngành chức năng cũng ảnh hởng đến công
tác thu thập thông tin;
Thời gian thu thập vào tổng hợp thông tin thống kê giữa các ngành có liên
quan không thống nhất, gây khó khăn cho việc tổng hợp chung và so sánh giữa
chỉ tiêu thống kê giữa các ngành này. Thêm vào nữa, một trong những mục tiêu
tiến hành thống kê của những ngành trên là phục vụ cho những kỳ họp Quốc hội,
vốn không phải là cố định. Điều này làm cho công tác thống kê của những ngành
trên dễ rơi vào thế bị động.
Một đặc điểm khác nữa của thống kê an toàn xã hội nớc ta mà chủ yếu là
thống kê trong các ngành kể trên là có tính bảo mật cao, không công bố rộng rãi,
đối tợng dùng tin hạn hẹp. Số liệu về hoạt động của ngành nội chính nói chung
không đợc công bố rộng rãi.
Cuối cùng, hệ thống thống kê nhà nớc cha tham gia vào việc tiến hành
các hoạt động thống kê an toàn xã hội, chủ yếu đo phạm vi điều chỉnh hạn chế
của Pháp lệnh kế toán thống kê.
231



Sau đây là một số đặc điểm khác về hoạt động thống kê an toàn xã hội của
một số ngành.
- Ngành thống kê nhà nớc:
Nh đã trình bày, hiện nay hệ thống thống kê nhà nớc cha tham gia
nhiều vào các quá trình thống kê an toàn xã hội. Nằm trong hệ thống báo cáo
thống kê định kỳ, hiện nay cơ quan thống kê nhà nớc chỉ mới đang theo dõi
một số lĩnh vực nh sau:
Tình hình tai nạn giao thông (qua Uỷ ban an toàn giao thông quốc gia),
bao gồm: số các vụ tai nạn giao thông, thiệt hại về ngời (số ngời chết, số ngời
bị thơng). Những số liệu này chỉ có cho cả nớc, không phân theo địa phơng
và vùng lãnh thổ. Ngoài ra, những thiệt hại về tài sản qua các vụ tai nạn giao
thông cha theo dõi đợc.
Tình hình ngộ độc thực phẩm (qua báo cáo của Bộ Y tế), bao gồm: số vụ
và số ngời bị ngộ độc thực phẩm.
Tình hình lụt bão, thiên tai (qua các báo cáo nhanh của các Cục Thống kê
địa phơng), bao gồm: chi tiết về các loại thiệt hại về ngời, về tài sản, về cơ sở
hạ tầng do bão, lũ, gió lốc gây ra, ớc tính thiệt hại bằng tiền. Tuy nhiên, cơ sở
để tính toán các chỉ tiêu trong báo cáo này giữa các Cục Thống kê địa phơng
cha mang tính thống nhất.
Ngoài ra, thông qua các cuộc điều tra thống kê, một số chỉ tiêu về thống
kê trật tự xã hội đợc đề cập. Điều tra mức sống hộ gia đình, trong phiếu phỏng
vấn cộng đồng, có các câu hỏi về các tệ nạn nổi cộm ở địa phơng, số ngời
nghiện hút, số gái mại dâm có ở địa phơng. Tuy nhiên, đó chỉ là những câu hỏi
trong phiếu phỏng vấn cộng đồng tại các địa bàn có điều tra hộ gia đình, không
thể mang tính đại diện cho vùng, cho địa phơng.
Nh vậy, còn rất nhiều lĩnh vực khác nhau của thống kê an toàn xã hội cơ
quan thống kê nhà nớc cha tham gia thực hiện. Đây là những nội dung cần bổ
sung.
- Ngành Công an:
Ngành Công an có nhiệm vụ đấu tranh chống mọi âm mu và hoạt động

của các loại tình báo, gián điệp, phản động và tội phạm khác, bảo vệ an ninh
232


quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền,
bảo vệ tài sản của Nhà nớc và của nhân dân, bảo vệ nhân dân. Hoạt động thống
kê hình sự - thống kê tội phạm trong ngành Công an đợc thực hiện nhằm theo
dõi và phản ánh tình hình đấu tranh phòng chống tội phạm của lực lợng công an
nhân dân và đợc phát triển qua từng thời kỳ. Tuy nhiên, công tác thống kê trong
ngành Công an đợc đánh giá là còn những tồn tại nh độ chính xác của số liệu
cha cao, các chỉ tiêu thống kê còn ít, cha phản ánh đầy đủ tình hình tội phạm
và các kết quả điều tra, xử lý của lực lợng công an nhân dân, tính kịp thời cha
cao, công tác thống kê cha đợc tập trung và một đầu mối.
- Ngành Toà án:
Các chỉ tiêu về an toàn xã hội dới góc độ ngành Toà án bao gồm: tình
hình tội phạm, tình hình tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, hành
chính và kinh tế, yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và thi hành án hình sự.
Để thống kê các vụ án theo những nội dung trên, ngành Toà án căn cứ vào kết
quả xét xử sơ thẩm các loại vụ án này. Bên cạnh đó, để đánh giá chất lợng giải
quyết, xét xử các loại vụ án này của các Toà án các cấp, còn thống kê công tác
xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm các loại vụ án này. Các biểu mẫu thống kê của
từng loại án đợc chia ra theo các loại: xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử
giám đốc thẩm. Các loại biểu mẫu này đợc đánh giá là cha đợc đổi mới, bổ
sung cho phù hợp với sự thay đổi của các quy định pháp luật và các yêu cầu khai
thác số liệu, giá trị thông tin thu thập do đó đợc đánh giá là cha cao.
- Ngành Kiểm sát:
Các viện kiểm sát nhân dân, với cơ quan cao nhất là Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao, có nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t
pháp, góp phần đảm báo cho pháp luật đợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất. Công tác thống kê trong ngành kiểm sát nhân dân đợc thực hiện theo

nguyên tắc tập trung, thống nhất. Các chỉ tiêu thống kê hình sự trong ngành
Kiểm sát phản ánh toàn bộ quá trình phát hiện và xử lý các hành vi phạm tội
(bao gồm khởi tố, điều tra, tạm giam, tạm giữ, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, tái
thẩm, giám đốc thẩm, thi hành án). Hạn chế hiện nay của hệ thống thống kê hình
sự ngành kiểm sát là cha phản ánh tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội
phạm, mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra. Bên cạnh đó, do tính chất phức tạp
233


của các hành vi phạm pháp và tội phạm, các biểu mẫu thống kê hình sự phải rất
chi tiết để có thể phục vụ cho việc tổng hợp theo các tiêu thức khác nhau, phục
vụ cho nhu cầu nắm bắt thông tin khác nhau qua thời gian của các cấp lãnh đạo,
nhng điều này sẽ dẫn đến tính phức tạp, chi tiết của các biểu mẫu thống kê,
nhất là các biểu mẫu thống kê ban đầu. Mặt khác nữa là hồ sơ của một vụ án
trong quá trình giải quyết đợc lần lợt chuyển qua các cơ quan tiến hành tố
tụng khác nhau để giải quyết theo thẩm quyền, nhiều khi không chỉ một lần, mà
có thể chuyển đi chuyển lại nhiều lần, dẫn đến tính trùng lặp trong việc tính toán
các chỉ tiêu thống kê.
- Ngành T pháp:
Lĩnh vực T pháp nói chung bao gồm các hoạt động liên quan đến quyền
t pháp: phát hiện tội phạm, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án nhằm giữ gìn
bảo vệ pháp luật, bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng và quyền lợi hợp pháp của
các cá nhân. Nh vậy, hệ thống các cơ quan T pháp ở nớc ta bao gồm Toà án
nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Công an và Bộ T pháp. Bộ T pháp quản lý
các tổ chức hỗ trợ t pháp nh: tổ chức luật s, cơ quan công chứng nhà nớc,
các tổ chức giám định t pháp. Một trong những chức năng của Bộ T pháp, nh
đã đợc quy định tại Nghị định số 62/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ T pháp, có liên quan
đến các hoạt động an toàn xã hội là quản lý nhà nớc về giáo dục pháp luật và
thi hành án dân sự. Những chỉ tiêu về hai nội dung trên góp phần đánh giá về an

toàn xã hội, trong đó các chỉ tiêu thi hành án dân sự còn có tác dụng đánh giá về
chất lợng và tính thực tiễn của các bản án dân sự đã đợc tuyên.
- Ngành Phòng chống lụt bão và thiên tai:
Ban chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ơng là đơn vị cung cấp những
thông tin về lụt bão và thiên tai. Một trong những chỉ tiêu về thiên tai đang gặp
khó khăn trong việc xác định một cách chính xác và thống nhất là mức độ thiệt
hại do thiên tai gây ra. Việc xác định giá trị của tài sản bị thiệt hại do lụt bão,
thiên tai gây ra nói chung không liên quan đến việc chủ nhân của những tài sản
này nhận đợc ủng hộ, hỗ trợ là bao nhiêu.

234


Hiện nay, Ban chỉ đạo đang tiến hành nghiên cứu nhằm xây dựng một
phơng pháp chuẩn về đánh giá thiệt hại do thiên tai gây ra và sẽ xây dựng một
mẫu đánh giá thống nhất áp dụng cho tất cả các địa phơng trong cả nớc.
- Ngành phòng cháy chữa cháy:
Chỉ tiêu Mức độ thiệt hại do hoả hoạn gây ra đối với những tài sản của
công dân, của các doanh nghiệp thờng đợc kê khai tăng lên nhiều lần, do có
liên quan đến việc đền bù. Cần thống nhất về phơng pháp xác định chỉ tiêu này.
Ngoài ra, những vụ cháy nổ nhỏ thờng không đợc thống kê, nếu cảnh sát
phòng cháy chữa cháy không tham gia giải quyết.
Tóm lại, thống kê an toàn xã hội ở nớc ta từ trớc đến nay cha đợc
thực hiện một cách đồng bộ và hiệu quả, cha đợc sử dụng một cách thống nhất
trong các cơ quan chức năng, cũng nh cha đợc phổ biến rộng rãi trên phạm vi
toàn xã hội nh những thống, kê kinh tế xã hội khác. Tác dụng của thống kê an
toàn xã hội đối với việc nghiên cứu các hiện tợng an toàn xã hội, do đó, cha
đợc phát huy đầy đủ.
Từ đây đặt ra vấn đề phải tiến hành hoàn thiện công tác thống kê an toàn
xã hội, nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý và nghiên cứu của các cấp lãnh đạo Đảng

và Nhà nớc, cũng nh của đông đảo những ngời có nhu cầu sử dụng thông tin
nhằm theo dõi, đánh giá về an toàn xã hội ở nớc ta.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê an toàn xã hội không chỉ có tác dụng phản ánh
ánh hình an toàn xã hội qua từng thời kỳ, mà còn phải có tác dụng phản ánh
những xu hớng nảy sinh và phát triển của những yếu tố có khả năng ảnh hởng
đến an toàn xã hội. Ví dụ: sự gia tăng của các phơng tiện giao thông không
đồng bộ với sự phát triển của hệ thống đờng xá có khả năng cảnh báo về sự gia
tăng của tai nạn giao thông, những quảng cáo hoặc về những tiện nghi hiện đại,
hoặc không phù hợp với thuần phong mỹ tục của nhân dân ta có thể chứa đựng
những yếu tố kích thích sự phát triển của tội phạm, của những tệ nạn xã hội.
2.2. Sự cần thiết của việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê an toàn xã hội
Thống kê, với chức năng phục vụ cho sự lãnh đạo và quản lý xã hội của
nhà nớc, phải đảm bảo đề cập toàn diện các mặt hoạt động khác nhau của đời
sống kinh tế xã hội. Vì lý do trên, thống kê an toàn xã hội đợc xác định là một
235


bộ phận của thống kê kinh tế xã hội nói chung, có chức năng phản ánh mặt lợng
trong mối liên hệ mật thiết với mặt chất của những hoạt động an toàn xã hội.
Thống kê an toàn xã hội gắn kết với thống kê các lĩnh vực khác để góp phần tạo
ra một cái nhìn tổng hợp, nhân quả về sự phát triển của xã hội, về động lực của
sự phát triển ấy. Đồng thời cũng là để cho thấy những nguy cơ tiềm ẩn, ảnh
hởng đến bản thân xã hội của chính sự phát triển ấy. Một ví dụ: Sự phân hoá
giàu nghèo trong xã hội ngày càng lớn, do các cơ hội lợi nhuận và việc làm
không thể có đều cho các thành viên trong xã hội hoặc giữa các vùng, miền,
thêm vào nữa là sự truyền bá rộng rãi những tiện nghi của đời sống hiện đại, đã
chứa đựng khả năng phát triển những tệ nạn xã hội, nảy sinh do sự gia tăng của
mức độ nghèo khổ tơng đối.
Để tiến hành quản lý xã hội một cách có hiệu quả, mọi quyết định quản lý
đều phải đợc xây dựng dựa trên cơ sở thực tiễn. Một trong những nguồn thông

tin quan trọng góp phần nhận thức xã hội là thông qua những số liệu thống kê.
Thống kê an toàn xã hội, với vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu mức độ an
toàn xã hội, do vậy cần đợc thực hiện một cách thờng xuyên và đầy đủ.
Với những lý do trên, việc xây dựng một hệ thống chỉ tiêu thống kê an
toàn xã hội và đa vào sử dụng trong hệ thống thống kê nhà nớc ở nớc ta, vốn
hiện nay đợc đánh giá là cha đợc thực hiện một cách đồng bộ và hiệu quả, là
một vấn đề cần thiết. Nó không chỉ sẽ phục vụ cho nhu cầu nhận thức về sự phát
triển của xã hội ở nớc ta một cách toàn diện hơn, mà còn góp phần phục vụ tốt
hơn cho hoạt động quản lý, điều hành của các ngành chuyên môn về an toàn xã
hội ở nớc ta.
III. Đề xuất hệ thống chỉ tiêu thống kê an toàn x hội
trong hệ thống chỉ tiêu thống kê nhà nớc.
3.1. Nguyên tắc xây dựng
An toàn xã hội là một khái niệm rộng lớn, bao gồm toàn bộ những yếu tố
có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến tính an toàn của xã hội và của các thành
viên trong cộng đồng. Để phản ánh đầy đủ các mặt khác nhau của an toàn xã
hội, phải có một hệ thống bao gồm rất nhiều các chỉ tiêu thống kê. Hệ thống chỉ
tiêu này không chỉ đảm bảo phản ánh thực trạng của trật tự an toàn xã hội trong

236


thời kỳ nghiên cứu, mà còn phải cho phép nhận xét, dự báo những hiện tợng có
thể xảy ra làm ảnh hởng đến an toàn xã hội trong tơng lai.
Việc xây dựng các chỉ tiêu thống kê an toàn xã hội trong hệ thống chỉ tiêu
thống kê nhà nớc cần chú ý một số vấn đề nh sau:
- Hệ thống chỉ tiêu thống kê an toàn xã hội trong hệ thống chỉ tiêu thống
kê nhà nớc phải đảm bảo phản ánh đầy đủ các nội dung khác nhau của trật tự
an toàn xã hội. Những thông tin thu thập với những chỉ tiêu này làm cơ sở để xây
dựng những báo cáo chính thức của Ngành Thống kê về trật tự an toàn xã hội

trình Chính phủ, đồng thời để cung cấp rộng rãi cho các đối tợng khác trong xã
hội.
- Giữa các chỉ tiêu thống kê an toàn xã hội trong hệ thống chỉ tiêu thống
kê nhà nớc và các chỉ tiêu thống kê an toàn xã hội của các ngành chức năng có
sự khác nhau về số lợng các chỉ tiêu và sự phân tổ chi tiết trong các chỉ tiêu.
Với chức năng chỉ đạo tác nghiệp và quản lý nhà nớc trong lĩnh vực chuyên
môn, thông tin về những nội dung an toàn xã hội có liên quan dành cho các
ngành chức năng đòi hỏi phải chi tiết, đầy đủ. Trong khi đó, những thông tin về
an toàn xã hội trong các báo cáo của Tổng cục Thống kê chỉ có thể trên giác độ
chung, tơng tự nh thông tin về các lĩnh vực kinh tế xã hội khác.
- Hệ thống chỉ tiêu thống kê an toàn xã hội có thể đợc bổ sung, điều
chỉnh qua thời gian. Điều này xuất phát từ việc có những vấn đề về an toàn xã
hội nảy sinh theo thời gian, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, mà ngay từ
đầu không có cơ sở để dự kiến, hình thành. Ví dụ: cùng với sự gia tăng các
phơng tiện giao thông mới nh ô tô, đã nảy sinh các vấn đề về tiếng ồn, ô
nhiễm do khí thải của các phơng tiện giao thông, về sự không đồng bộ của hệ
thống đờng, dẫn tới tai nạn giao thông.
- Vì an toàn xã hội là một vấn đề liên quan đến tính ổn định và an toàn của
một xã hội, một quốc gia, những thông tin về tội phạm, về tệ nạn xã hội có thể bị
sử dụng vào các mục đích tuyên truyền, chống đối chế độ, do vậy, tính bảo mật
của những thông tin về an toàn xã hội cần phải đợc chú ý. Với lý do trên, hệ
thống chỉ tiêu thống kê an toàn xã hội trong hệ thống chỉ tiêu thống kê nhà nớc
sẽ chỉ nên bao gồm những thông tin đánh giá về trật tự an toàn xã hội không quá
chi tiết, đồng thời sẽ không bao gồm những thông tin nằm trong phạm vi bí mật
237


theo quy định của Nhà nớc. Mặt khác, có những thông tin đợc phổ biến dới
hình thức những số tơng đối, không nêu số lợng cụ thể của các chỉ tiêu.
3.2. Hệ thống chỉ tiêu thống kê an toàn xã hội trong hệ thống chỉ tiêu thống

kê nhà nớc
Đề tài đa ra Hệ thống chỉ tiêu thống kê trật tự an toàn xã hội trong hệ
thống chỉ tiêu thống kê Nhà nớc bao gồm các nhóm chỉ tiêu sau:
Nhóm chỉ tiêu thống kê tội phạm.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đợc, quy định trong Bộ Luật
hình sự, do ngời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá quốc phòng, an ninh, trật tự,
an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của
công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Một số chỉ tiêu thống kê về tội phạm:
1. Tỷ lệ số ngời phạm tội
Đối tợng đợc coi là phạm tội khi thực hiện hành vi mà đã đợc cảnh sát
xác nhận hay có yếu tố cấu thành hành vi vi phạm theo Bộ luật hình sự. Nếu một
đối tợng vi phạm nhiều loạt tội phạm khác nhau thì chỉ thống kê đối tợng ở
một loại tội phạm nghiêm trọng nhất.
2- Tỷ lệ về mức độ nghiêm trọng của tội phạm
Theo điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999, tội phạm đợc phân thành 4 loại:
tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3- Tỷ lệ phạm tội do cố ý, vô ý.
Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trờng hợp sau đây:
- Ngời phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
thấy trớc hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra;

238


- Ngời phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,

thấy trớc hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhng
vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trờng hợp sau đây:
- Ngời phạm tội tuy thấy trớc hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
nguy hại cho xã hội, nhng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể
ngăn ngừa đợc;
- Ngời phạm tội không thấy trớc hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trớc và có thể thấy trớc hậu quả đó.
4- Tỷ lệ đồng phạm.
Đồng phạm là trờng hợp có hai ngời trở lên cố ý cùng thực hiện một tội
phạm. Những ngời đồng phạm bao gồm ngời tổ chức, ngời thực hành, ngời
xúi giục và ngời giúp sức.
Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa
những ngời cùng thực hiện tội phạm.
5- Tỷ lệ tái phạm.
Tái phạm là trờng hợp đã bị kết án, cha đợc xoá án mà lại phạm tội do
cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
6- Số vụ phạm pháp hình sự.
Số vụ phạm pháp hình sự là số vụ xâm phạm tài sản của nhà nớc, của tập
thể, của công dân và số vụ xâm phạm tính mạng công dân mà tội danh đã qui
định trong Bộ Luật hình sự.
7- Tỷ lệ số vụ phạm tội đã đợc giải quyết.
Tỷ lệ số vụ phạm tội đã đợc giải quyết là tỷ lệ phần trăm so với tổng số
vụ việc, số vụ đợc giải quyết phải đợc tính trong năm yêu cầu sẽ không tính
nếu vụ việc chỉ là những vụ đợc thông báo cho cảnh sát trong cùng năm đó
hoặc những năm trớc.
8- Thống kê kết quả tiếp nhận và xử lý tin báo tố giác tội phạm.

239



Thống kê kết quả tiếp nhận và xử lý tin báo tố giác tội phạm bao gồm
thống kê các tin báo, tố giác tội phạm đã đợc tiếp nhận, xử lý.
9- Thống kê thi hành án dân sự. Bao gồm các chỉ tiêu:
- Tổng số việc phải thi hành;
- Số việc có điều kiện thi hành;
- Số việc cha có điều kiện thi hành;
- Số việc đã giải quyết xong;
- Số việc thi hành đều;
- Số việc thi hành dở dang;
- Số việc thi hành cha có kết quả.
Nhóm chỉ tiêu thống kê tệ nạn xã hội.
Tệ nạn xã hội là hiện tợng xã hội bao gồm những hành vi sai lệch chuẩn
mực xã hội (chuẩn mực về truyền thống văn hoá, lối sống, đạo đức của dân.
tộc, và những chuẩn mực đã trở thành quy định của pháp luật), mang tính phổ
biến, có xu hớng phát triển lan rộng trong xã hội, gây ảnh hởng xấu về đạo
đức và những hậu quả nghiêm trọng trong đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội của
nhân dân.
Một số chỉ tiêu về tệ nạn xã hội:
10- Tỷ lệ mại dâm.
Mại dâm là những hành vi đợc thoả thuận nhằm thực hiện quan hệ tình
dục có tính chất mua bán trên cơ sở đợc trả hoặc hứa trả một giá trị vật chất
nhất định (tiền hoặc hiện vật) và nằm ngoài phạm vi hôn nhân.
11- Tỷ lệ nghiện ma tuý
Ngời nghiện ma tuý là ngời sử dụng lặp đi lặp lại một hay nhiều chất
ma tuý dẫn đến trạng thái nhiễm độc chu kỳ hay mãn tính, bị lệ thuộc về thể chất
và tinh thần vào chất đó. Ngời nghiện ma tuý nếu ngừng sử dụng thuốc sẽ bị
hội chứng cai.
Nhóm chỉ tiêu thống kê môi trờng sinh hoạt và thiên tai.


240


Môi trờng là tổng hợp các điều kiện bên ngoài có ảnh hởng đến một vật
thể hoặc sự kiện. Đó là trạng thái tự nhiên và xã hội tồn tại quanh ta, là hệ thống
điều kiện tự nhiên và xã hội, trong đó con ngời tồn tại và phát triển. Môi trờng
sinh hoạt là những yếu tố bên ngoài, bao gồm môi trờng tự nhiên có sự tác động
của con ngời và môi trờng nhân tạo, có ảnh hởng đến sự phát triển của xã hội
và đời sống của các thành viên trong đó.
Theo Nghị định 32CP/ ngày 20/05//996 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành Pháp lệnh phòng chống lụt bão, nội dung của các hiện tợng lụt bão,
thiên tai bao gồm: Lũ, ngập lụt, nớc biển dâng cao, bão, áp thấp nhiệt đới, lốc,
sạt lở đất.
Một trong những chỉ tiêu phản ánh mức độ đảm bảo an toàn cho sản xuất
và đời sống là phòng chống cháy nổ. Các vụ cháy, nổ gây thiệt hại về ngời, về
tài sản, xảy ra trong các khu dân c, các cơ sở sản xuất kinh doanh, cháy
rừng,v.v
Một số chỉ tiêu thống kê về môi trờng sinh hoạt và thiên tai.
12- Tiếng ồn
Tiếng ồn là một khái niệm chỉ cờng độ âm thanh, nếu vợt quá mức độ
cho phép, có thể ảnh hởng đến đời sống, sinh hoạt cộng đồng và sức khoẻ của
con ngời. Gây ra tiếng ồn có thể là những hoạt động công nghiệp, xây dựng,
giao thông vận tải,v.v
l 3- Tỷ lệ dân số sử dụng nớc sạch
Dân số sử dụng nớc sạch là những ngời có khả năng tiếp cận và sử dụng
các nguồn nớc an toàn cho sinh hoạt; tiêu dùng hàng ngày.
14- Thiệt hại về ngời do lụt bão.
Bao gồm những ngời chết, bị thơng và mất tích trực tiếp do lụt bão gây
ra trong thời gian lụt, bão hoạt động trên một địa bàn nhất định.
15- Thiệt hại về tài sản do lụt bão.

Bao gồm trị giá toàn bộ hay một phần trị giá các công trình sản xuất phục
vụ sản xuất, công trình đê điều, công trình văn hoá - phúc lợi xã hội, đất đai, nhà
cửa, kho tàng, máy móc thiết bị, vật t hàng hoá, sản phẩm,... do lụt, bão trực
241


tiếp phá huỷ làm h hỏng hoặc cuốn trôi trong thời gian lụt, bão hoạt động trên
một địa bàn nhất định.
16- Cháy nổ
Là các vụ cháy, nổ gây thiệt hại về ngời, về tài sản, xảy ra trong các khu
dân c, các cơ sở sản xuất kinh doanh, cháy rừng,v.v
Nhóm chi tiêu thống kê tai nạn giao thông.
''Tai nạn giao thông là sự kiện bất ngờ, nằm ngoài ý muốn chủ quan của
con ngời. Nó xảy ra khi các đối tợng tham gia giao thông đang hoạt động trên
đờng giao thông công cộng, đờng chuyên dùng hoặc ở các địa bàn giao thông
công cộng; nhng do chủ quan, vi phạm các quy tắc an toàn giao thông hoặc do
gặp phải các tình huống; sự cố đột xuất không kịp phòng tránh; đã gây ra những
thiệt hại nhất định cho tính mạng sức khoẻ con ngời hoặc tài sản của Nhà nớc
và nhân dân'' (Kỷ yếu hội thảo khoa học về TNGT, nguyên nhân và giải pháp
phòng ngừa - Tổng cục cảnh sát nhân dân. 1997).
Một số chỉ tiêu về TNGT:
17- Số ngời chết.
18- Số ngời bị thơng.
19- Số vụ tai nạn giao thông.
Kết luận
Việc xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu thống kê về an toàn xã hội là rất
cần thiết trong việc hoàn thiện và nâng cao tính hữu ích của các thông tin về an
toàn xã hội. Việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu này phải đảm bảo tuân theo những
nguyên tắc về tính toàn vẹn, tính chọn lọc và tính bảo mật. Một đặc điểm cần
chú ý trong việc xây dựng và sử dụng các chỉ tiêu thống kê an toàn xã hội là hệ

thống này phải đợc đặt trong mối quan hệ với những chỉ tiêu kinh tế xã hội
khác, do trật tự an toàn xã hội luôn có mối quan hệ nhân quả với những chính
sách, những hành động kinh tế xã hội khác của quốc gia, của từng địa phơng.
Việc sử dụng thông tin và qua đó, việc đánh giá về tình hình an toàn xã hội cần
phải kết hợp với việc phát hiện ra những nhân tố kinh tế xã hội có liên quan và
tìm ra mối liên hệ giữa chúng. ''ở các nớc t bản phát triển (Mỹ, Nhật, Tây Âu)
242


khi hoạch định những chính sách, giải pháp kinh tế lớn ở tầm vĩ mô nh chính
sách đầu t, lãi suất ngân hàng, chính sách thuế đều có sự tham gia của cố vấn an
ninh của Tổng thống, Thủ tớng, của Bộ Nội vụ và đại diện của cơ quan tình
báo, phản gián; Vì những chính sách này sẽ tác động đến mọi mặt của đời sống
xã hội và sớm muộn trực tiếp, gián tiếp cũng trút hậu quả cho nhiệm vụ bảo vệ
an ninh, trật tự'' (Nguyễn Xuân Yêm, trang 22). ở nớc ta, việc ban hành những
quyết định hành chính về quản lý nhà nớc cũng phải tuân theo nguyên tắc phù
hợp với đờng lối và sự lãnh đạo của Đảng, đảm bảo phục vụ cho lợi ích toàn
cục, kết hợp giữa lợi ích lâu dài và lợi ích trớc mắt của toàn xã hội.
Nằm trong hệ thống các chỉ tiêu thống kê nhà nớc, các chỉ tiêu thống kê
an toàn xã hội gặp phải giới hạn về tính tổng hợp, tính bảo mật. Do vậy, để tiến
hành nghiên cứu chi tiết về các hiện tợng thuộc lĩnh vực trật tự an toàn xã hội,
cần phải tìm hiểu những thông tin chi tiết hơn thống kê trong các ngành chức
năng cần xác định đợc nhu cầu thông tin một cách rộng rãi, từ đó xây dựng hệ
thống chỉ tiêu chuyên ngành đảm bảo có đầy đủ thông tin và mang tính hệ thống,
nhằm sẵn sàng phục vụ những nhu cầu chính đáng của các cá nhân, những đơn
vị sử dụng thông tin chuyên biệt.
Tài liệu tham khảo chính
1- Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trờng- Cục Môi trờng: Báo cáo thu
thập số liệu cho các phiếu chỉ thị môi trờng khả thi nghiên cứu đề xuất quy
trình có tính pháp lý để thu thập số liệu tại các Bộ ngành liên quan - Đề tài do

trung tâm Thông tin Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ NN &PTNT thực
hiện. Hà Nội tháng 12/2000.
2- Nghị quyết (dự thảo) về việc ban hành và thực hiện quy định về chế độ
thống kê hình sự - thống kê tội phạm, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công
an, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng.
3- PGS, PTS Nguyễn Xuân Yêm: Một số vấn đề quản lý nhà nớc về an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội 1999.

243


4- Lê Thế Tiệm: Tăng cờng quản lý nhà nớc bằng pháp luật về trật tự an
toàn xã hội trong hoạt động của lực lợng cảnh sát nhân dân ở nớc ta hiện nay.
Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội-2001.
5- Luật Thống kê và các văn bản hớng dẫn thi hành. Nhà xuất bản Thống
kê, Hà Nội-2004.
6- Bộ Nội vụ: Những vấn đề cơ bản về Nhà nớc và quản lý hành chính
nhà nớc. Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội-2002.
7- Phiếu phỏng vấn Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002, Tổng cục
Thống kê.
8- Kỷ yếu hội thảo khoa học về TNGT, nguyên nhân và giải pháp phòng
ngừa - Tổng cục Cảnh sát nhân dân, 1997.

244



×