Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Đánh giá kết quả hoạt động của HTX nông sản hữu cơ lương sơn – tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (972.49 KB, 82 trang )

MỤC LỤC

i


DANH BẢNG BIỂU

ii


1. MỞ ĐẦU
1.1.

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Một vài năm trở lại đây do ảnh hưởng chung của tình hình kinh tế thế

giới mà nền kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nhiều, kinh tế tăng trưởng
chậm, nhiều bất ổn, lạm phát cao, nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ, phá sản. Trong
hoàn cảnh đó thì nông nghiệp thì vẫn có mức tăng trưởng ổn định, như một cứu
cánh của nền kinh tế, tốc độ tăng trưởng toàn ngành đạt 4%, tạo công ăn việc
làm cho hàng triệu người dân, tạo giá trị xuất khẩu đạt 25 tỷ USD (chiếm 22%
kim ngạch xuất khẩu). (Dự án Giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc, 2012).
Nhưng nói chung nền nông nghiệp Việt Nam vẫn còn nhỏ lẻ, manh mún.
Nông nghiệp muốn phát triển phải dựa trên một nền nông nghiệp sản xuất lớn.
Sự xuất hiện các mô hình trang trại với những thành công nhất định đã chứng
minh rằng hiệu quả của nông nghiệp quy mô lớn. Tuy nhiên với mô hình trang
trại lớn vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề: số nông dân làm chủ trang trại là ít, mô
hình trang trại gắn với việc tích tụ ruộng đất, mà đa số nông dân thường chỉ tìm
kiếm thu nhập trên số ruộng đất nhỏ lẻ của mình. Vì vậy mô hình Hợp tác xã
nông nghiệp (HTXNN) kiểu mới, đang là xu hướng phát triển của nền nông
nghiệp Việt Nam. Mô hình HTXNN phù hợp để đi lên sản xuất mà không tước


đi quyền sở hữu ruộng đất của người dân.
Việc hình thành các HTXNN chuyên sâu, chuyên ngành đang phát triển
và hoạt động có nhiều hiệu quả: Hợp tác xã (HTX) sản xuất rau an toàn, HTX
tiêu thụ trái cây… Trong bối cảnh đó thì vào năm 2011, tại huyện Lương Sơn –
tỉnh Hòa Bình, với sự phối hợp của Viện chính sách nông nghiệp và chiến lược
phát triển nông thôn (IPSARD – Bộ NN&PTNT), tỉnh Hòa Bình và các công ty
TNHH Kết nối Xanh đã thành lập nên “Hợp tác xã nông sản hữu cơ Lương
sơn”. Đây là mô hình HTX mới, đầu tiên của cả nước, sản phẩm của HTX là rau
hữu cơ, do các xã viên trồng và chăm sóc dưới sự giám sát, tư vấn của các

1


chuyên gia IPSARD và được hệ thống các công ty bao tiêu sản phẩm cung cấp
cho thị trường Hà Nội.
Huyện Lương Sơn là một huyện cửa ngõ của tỉnh miền núi Hoà Bình và
miền Τây Bắc Việt Nam, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 40 km, có đường
quốc lộ 6 và đường Hồ Chí Minh chạy qua. Huyện Lương Sơn nằm ở phần phía
Nam của dãy núi Ba vì, phía Tây giáp huyện Kỳ Sơn, phía Nam giáp huyện Kim
Bôi, phía Đông và phía Bắc giáp các huyện của thủ đô Hà Nội. Tỉnh Hòa Bình
nói chung, huyện Lương Sơn nói riêng ít bị chịu tác động của công nghiệp hóa,
đô thị hóa, đặc biệt có điều kiện để phát triển nền sản xuất nông nghiệp sạch.
Hơn nữa lại có giao thông tốt, vị trí gần Hà Nội vì thế định hướng phát triển
vùng sản xuất rau hữu cơ phục vụ Hà Nội và các tỉnh lân cận là một định hướng
tốt và phát huy lợi thế của tỉnh.
Tuy nhiên, mô hình HTX này là rất mới, đây là mô hình đầu tiên của cả
nước nên vẫn còn gặp nhiều khó khăn, cản trở, như: HTX quy mô còn nhỏ, trình
độ của đội ngũ cán bộ quản lý, các xã viên còn hạn chế, dẫn tới năng suất các
sản phẩm chưa đạt tối ưu... Xuất phát từ thực tế đó, đề tài “Đánh giá kết quả
hoạt động của HTX nông sản hữu cơ Lương Sơn – tỉnh Hòa Bình” được

nghiên cứu nhằm đánh giá một cách khách quan nhất về thực trạng và hiệu quả
từ mô hình HTX nông sản hữu cơ, từ đây rút ra được chi tiết các thuận lợi và
khó khăn mà HTX gặp phải; đưa ra được các giải pháp, kiến nghị, để hoàn thiện
mô hình, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, nhân rộng mô hình trong cả
nước nâng cao thu nhập cho nông dân.
1.2.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1.2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá kết quả hoạt động của HTX nông sản hữu cơ Lương Sơn sau khi
được sự hỗ trợ và tư vấn của IPSARD, trên cơ sở đó củng cố và hoàn thiện tổ
chức hoạt động của HTX, nâng cao hiệu quả sản xuất nông sản của HTX, góp
phần phát triển nông nghiệp, nông thôn huyện Lương Sơn.
2


1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa những lý luận và thực tiễn về kết quả hoạt động
của HTX nông sản hữu cơ;
- Đánh giá kết quả hoạt động của HTX nông sản hữu cơ Lương Sơn, tỉnh
Hòa Bình.
- Tìm hiểu những yếu tố khó khăn ảnh hưởng tới kết quả hoạt động của
HTX nông sản hữu cơ Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình;
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao kết quả hoạt động cho HTX nông sản
hữu cơ Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Kết quả hoạt động của HTX nông sản hữu cơ Lương Sơn.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về nội dung: Xem xét kết quả hoạt động của HTX nông sản
hữu cơ Lương Sơn
- Phạm vi không gian: đề tài được thực hiện tại HTX nông sản hữu cơ
Lương Sơn, huyện Lương Sơn – tỉnh Hòa Bình.
- Phạm vi thời gian: số liệu nghiên cứu được thu thập trong khoảng thời
gian từ 2011-2013. Số liệu sơ cấp điều tra phỏng vấn từ 1/2013-5/2013.

3


2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KẾT QỦA HOẠT ĐỘNG CỦA
HTX NÔNG SẢN HỮU CƠ LƯƠNG SƠN
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1. Khái niệm Kinh tế hợp tác
Kinh tế hợp tác phản ánh một phạm vi hợp tác trong lĩnh vực kinh tế. Mô
hình kinh tế hợp tác lúc ban đầu xuất hiện một cách sơ khai và tự phát không
chỉ ở nông thôn mà ở cả các thành thị, không chỉ ở trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp mà còn trong nhiều ngành sản xuất, dịch vụ khác. Các thành viên khởi
xướng ra các mô hình kinh tế hợp tác này thông thường là những chủ thể điều
khiển kinh tế tài chính có hạn nên thường bị thiệt thòi, chịu nhiều bất lợi trong
sản xuất kinh doanh cạnh tranh. Để có thể khắc phục đước các khó khăn duy trì
công việc cho mình, những người cùng lĩnh vực sản xuất kinh doanh tại một khu
vực địa bàn nhất định đã tìm cách liên kết hợp tác với nhau theo từng tổ từng
nhóm nhỏ là tiền thân của các tổ HTX sau này.
Hiện nay HTXNN của chúng ta rất hình thức, kém hiệu quả, xã viên
không gắn bó với HTX. Hộ nông dân nhỏ lẻ, tự lo liệu, tự định đoạt sản xuất.
Kinh doanh, kinh tế hợp tác ở nông thôn kém phát triển, đó là điều đáng suy
nghĩ. Hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp là một nhu cầu khách quan. Đó là con
đường phát triển tất yếu của kinh tế hộ nông dân, chỉ có hợp tác mang lại được
sức mạnh tập thể đủ điều kiện để giải quyết tốt công việc đặt ra. Chúng ta có thể

4


hiểu :“Kinh tế hợp tác là việc những người lao động chung sức, chung vốn để
cùng tiến hành một công việc, một lĩnh vực hoạt động sản xuất dịch vụ nào đó
theo kế hoạch nhằm mục đích chung và đem lại lợi ích cụ thể cho các thành viên
tham gia hợp tác”.
2.1.2. Khái niệm HTX, HTXNN
2.1.2.1. Khái niệm HTX
HTX là một hình thức của kinh tế hợp tác. HTX là một loại hình kinh tế
tập thể phổ biến, hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và hiện
diện ở các nền kinh tế có trình độ phát triển khác nhau. Kinh nghiệm thế giới
cho thấy, đến nay hợp tác xã vẫn là mô hình hoạt động hiệu quả, phù hợp với
điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Theo Liên minh HTX thì HTX là 1 tổ chức tự trị của những người tự
nguyện liên hiệp lại để đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh
tế, xã hội và văn hóa thông qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ.
Tổ chức lao động quốc tế ILO định nghĩa HTX: Là sự liên kết của những
người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên kết
nhau lại trên cơ sở bình đẳng quyền lợi, nghĩa vụ sử dụng tài sản mà họ chuyển
giao vào HTX. Phù hợp với nhu cầu chung và giải quyết những khó khăn đó chủ
yếu bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng cách sử dụng các chức năng
kinh doanh trong tổ chức hợp tác phục vụ cho lợi ích vật chất và tinh thần
chung…
Theo luật HTX 2003 thì: HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân,
hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức
lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên
tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản
xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.


5


HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ,
vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật.
Qua một số khái niệm trên ta có thể rút ra được những đặc trưng của HTX
như sau:
+ HTX thành lập để các xã viên có điều kiện giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau
phát triển sản xuất.
+ Các thành viên của HTX hoạt động dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình
đẳng.
+ HTX là tổ chức kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm với các hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình.
2.1.2.2. Khái niệm HTXNN
Trong sản xuất nông nghiệp có nhiều việc mà một cá nhân, hộ gia đình
giải quyết sẽ không hiệu quả bằng tập thể như thủy lợi, bảo vệ thực vật, giống…
nên cần có sự hợp tác, liên kết giữa các cá nhân, các hộ để giải quyết công việc
có hiệu quả hơn.
HTXNN là tổ chức liên kết kinh tế tự nguyện của những hộ nông dân có
chung yêu cầu về những dịch vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và đời sống
của mình mà bản thân từng hộ không làm được hoặc làm nhưng kém hiệu quả
Cơ sở để thành lập HTX là dựa vào sự cùng góp vốn của các thành viên,
quyền làm chủ hoàn toàn bình đẳng giữa các xã viên theo nguyên tắc mỗi xã
viên một phiếu biểu quyết, không phân biệt lượng vốn góp nhiều hay ít.
Mục đích kinh doanh của HTX là nhắm trước hết đáp ứng đủ, kịp thời về
số lượng, chất lượng của dịch vụ cho xã viên. Đồng thời cũng phải tuân theo
nguyên tắc bảo toàn và tái sản xuất mở rộng vốn bằng thực hiện mức giá và lãi
suất nội bộ thấp hơn giá thị trường. HTXNN thành lập và hoạt động theo nguyên

tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi.

6


Theo điều lệ mẫu HTXNN thì HTXNN là: tổ chức kinh tế tự chủ, do nông
dân và những người lao động , có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp
vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập
thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động
dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình của xã viên và kinh doanh trong lĩnh vực
sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và
kinh doanh các ngành nghề khác ở nông thôn, phục vụ sản xuất nông nghiệp
2.1.3. Phân loại HTX
Hiện nay ở nước ta, các HTX được phân loại theo lĩnh vực hoạt động như:
+ Nhóm HTX nông , lâm nghiệp, làm muối.
+ Nhóm HTX thủy sản
+ Nhóm HTX công nghiệp
+ Nhóm HTX sản xuất và phân phối điện khí đốt
+ Nhóm HTX xây dựng
+ Nhóm HTX thương nghiệp
+ Nhóm HTX vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc
+ Nhóm HTX tài chính và tín dụng
+ Nhóm HTX khoa học và công nghệ
+ Nhóm HTX kinh doanh bất động sản và dịch vụ tư vấn
+ Nhóm HTX giáo dục và đào tạo
+ Nhóm HTX y tế, cứu trợ xã hội, phục vụ cá nhân và cộng đồng.
Cách phân loại này gây ra không ít khó khăn trong quản lý nhà nước và
lúng túng trong việc xác định tỷ lệ giá trị giao dịch giữa HTX với xã viên.
Việc phân loại HTX theo tính chất quan hệ giao dịch giữa HTX với xã
viên. Theo đó có 4 loại hình HTX như sau:

+ HTX của người sản xuất: Đây là HTX do những người sản xuất (nông
dân nuôi bò sữa, trồng thanh long, sản xuất lúa, những người làm hàng thủ công,
mỹ nghệ… ) thành lập nên để tiêu thụ, gia tăng thêm giá trị sản phẩm của mình
7


bằng chế biến, xây dựng hương hiệu… HTX này do những người sản xuất sở
hữu nên tìm cách tối đa hoá giá bán trong điều kiện thị trường cho phép và tối
thiểu hoá chi phí hoạt động để mua hàng từ xã viên với giá càng cao càng tốt.
Như vậy, xã viên là người bán hàng hay người cung ứng (thành phẩm hoặc
nguyên liệu) cho HTX. Việc xác định tỷ lệ giá trị giao dịch của HTX với xã viên
trong trường hợp này là số lượng hàng hoá (sữa bò, thanh long, lúa, hàng mỹ
nghệ…) hay giá vốn hàng bán mà HTX giao dịch với xã viên so với tổng lượng
hàng hoá hay giá vốn hàng bán mà HTX thực hiện trong vòng một năm.
+ HTX của người tiêu dùng: Trái ngược với trường hợp trên, HTX của
người tiêu dùng tìm cách tối thiểu hoá giá vốn hàng bán và chi phí hoạt động để
có thể bán hàng hóa vật phẩm hay dịch vụ cho xã viên của mình với giá càng
thấp càng tốt. Trong trường hợp này, xã viên là người mua hàng (nguyên vật
liệu, vật tư hay hàng tiêu dùng) từ HTX. Tỷ lệ giá trị giao dịch của HTX với xã
viên được xác định trên phần doanh số mà HTX bán cho xã viên trong tổng số
doanh số mà HTX thực hiện trong một năm.
+ HTX của người lao động do tập thể người có nhu cầu tìm kiếm việc làm
thành lập nên: Thông qua phương thức quản lý, HTX tìm cách trả lương cho xã
viên của mình (những người lao động và cũng là người sở hữu HTX) càng cao
càng tốt và cung cấp điều kiện lao động tốt nhất. Ví dụ HTX làm răng giả, HTX
dịch vụ bệnh viện, HTX xây dựng… không thể là HTX tiêu dùng vì khách hàng
chỉ “mua” dịch vụ của HTX một vài lần trong suốt cuộc đời của mình. Sẽ hợp lý
hơn nếu xem đây là HTX của người lao động. Điều này có nghĩa là xã viên
chính là người lao động trong HTX. Như vậy, việc xác định tỷ lệ giá trị giao
dịch của HTX với xã viên được tính toán trên tỷ lệ xã viên trong tổng số người

lao động trong HTX.
+ HTX hỗn hợp: Là HTX có nhiều hơn một loại hình. Trong một số HTX,
xã viên có thể có 2 hoặc 3 loại quan hệ với HTX. Ví dụ, HTX hoạt động trong
lĩnh vực nông nghiệp có thể cung ứng vật tư cho xã viên và tiêu thụ nông sản do
8


xã viên sản xuất. Trong trường hợp này, xã viên vừa là người cung ứng, vừa là
người tiêu thụ, có thể vừa là người lao động trong HTX. Lúc này việc phân định
tỷ lệ giá giao dịch giữa HTX với xã viên khá phức tạp. HTX cần phân loại các
dịch vụ và xác định tỷ lệ giá trị giao dịch với xã viên trong từng loại dịch vụ
khác nhau.
2.1.3. Khái niệm nông nghiệp hữu cơ
Nông nghiệp hữu cơ (NNHC), theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc, là hệ
thống canh tác và chăn nuôi tự nhiên, không sử dụng hóa chất làm phân bón và
thuốc trừ sâu, giúp giảm thiểu ô nhiễm, bảo đảm sức khỏe cho người và vật
nuôi.
Định nghĩa của Liên đoàn các Phong trào Sản xuất Hữu cơ Quốc tế
(IFOAM): NNHC là một hệ thống sản xuất nhằm duy trì sức khỏe của đất, hệ
sinh thái và con người. Nó dựa chủ yếu vào các quy trình sinh thái, đa dạng sinh
học và các chu trình thích nghi với điều kiện địa phương hơn là sử dụng các yếu
tố đầu vào mang đến những ảnh hưởng bất lợi. NNHC kết hợp phương pháp
canh tác truyền thống với những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm mang lại lợi ích
chung cho môi trường, thúc đẩy mối quan hệ bình đẳng và nâng cao chất lượng
cuộc sống cho tất cả những thành phần tham gia
NNHC dựa trên:
+ Các nguyên tắc về sức khỏe.
+ Các nguyên tắc về sinh thái.
+ Các nguyên tắc về sự công bằng.
+ Các nguyên tắc về sự chăm sóc.

Các nguyên tắc cơ bản của NNHC:
+ NNHC là một hình thức nông nghiệp tránh hoặc loại bỏ phần lớn việc
sử dụng phân bón tổng hợp, thuốc trừ sâu, các chất điều tiết sự tăng trưởng của
cây trồng, và các chất phụ gia trong thức ăn gia súc.

9


+ Các nông dân canh tác theo hình thức NNHC dựa tối đa vào việc quay
vòng mùa vụ, các phần thừa sau thu hoạch, phân động vật và việc canh tác cơ
giới để duy trì năng suất đất để cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây trồng, và
kiểm soát cỏ, côn trùng và các loại sâu bệnh khác.
+ Mục đích hàng đầu của NNHC là tối đa hóa sức khỏe và năng suất của
các cộng đồng độc lập về đời sống đất đai, cây trồng, vật nuôi và con người.
Theo tổ chức NNHC quốc tế IFOAM: “Vai trò của nông nghiệp hữu cơ,
dù cho trong canh tác, chế biến, phân phối hay tiêu dùng, là nhằm mục đích duy
trì sức khỏe của hệ sinh thái và các sinh vật từ các sinh vật có kích thước nhỏ
nhất sống trong đất đến con người.”
Nhìn chung canh tác hữu cơ giống như tập quán canh tác hàng trăm năm
qua như ông bà ta đã làm trước đây, lúc mà chưa có các loại thuốc bảo vệ mùa
màng, các loại phân bón hóa học, thuốc diệt cỏ, kích thích tố tăng trưởng, cây
trồng biến đổi gien… như bây giờ, nói đúng hơn canh tác hữu cơ là phương
pháp canh tác trên nền tảng canh tác tự nhiên ngày xưa nhưng có sự kiểm soát,
tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là công nghệ sinh học
Các sản phẩm của NNHC không có chất thải từ thuốc trừ sâu và chất kích
thích tăng trưởng trong sản phẩm hữu cơ.
Rau quả hữu cơ có vị ngon hơn, nhiều dinh dưỡng hơn và bảo quản được
lâu hơn.
Rau quả hữu cơ có chứa nhiều chất chống ôxy hoá có tác dụng chống các
bệnh ung thư hơn các loại thực phẩm canh tác theo phương thức thông thường.

Sự khác nhau giữa sản phẩm NNHC và sản phẩm sạch, an toàn khác là
gì?
Sự khác biệt rõ nhất giữa các loại sản phẩm hữu cơ với sản phẩm sạch, an
toàn khác là quy trình sản xuất: Sản xuất các sản phẩm hữu cơ không sử dụng
thuốc trừ sâu và phân hoá học, nguồn thức ăn trong chăn nuôi là nguồn thức ăn
tự nhiên. Trong khi quy trình sản xuất rau quả và sản phẩm nông nghiệp sạch, an
10


toàn vẫn sử dụng một số lượng nhất định thuốc trừ sâu và phân bón hoá học,
thức ăn tăng trọng và các chất kích thích trong chăn nuôi.
2.1.4. Khái niệm HTX nông sản hữu cơ
HTXNN là: Tổ chức kinh tế tự chủ, do nông dân và những người lao động
, có nhu cầu,lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy
định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm
giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ gia
đình của xã viên và kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản
xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và kinh doanh các ngành nghề khác
ở nông thôn, phục vụ sản xuất nông nghiệp
NNHC là một hệ thống sản xuất nhằm duy trì sức khỏe của đất, hệ sinh
thái và con người. Nó dựa chủ yếu vào các quy trình sinh thái, đa dạng sinh học
và các chu trình thích nghi với điều kiện địa phương hơn là sử dụng các yếu tố
đầu vào mang đến những ảnh hưởng bất lợi. Nông nghiệp hữu cơ kết hợp
phương pháp canh tác truyền thống với những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm
mang lại lợi ích chung cho môi trường, thúc đẩy mối quan hệ bình đẳng và nâng
cao chất lượng cuộc sống cho tất cả những thành phần tham gia
Từ những định nghĩa trên, ta có thể rút ra được định nghĩa HTX nông sản
hữu cơ là: Tổ chức kinh tế tự chủ, do nông dân góp vốn và những người lao
động, có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo
quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể và của từng xã viên nhằm

giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất NNHC.
2.1.5. Vai trò của HTX nông sản hữu cơ đối với nông nghiệp
Mô hình HTX nói chung và mô hình HTX nông sản hữu cơ nói riêng ra
đời dựa trên tinh thần tự nguyện, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên. Thông
qua HTX nông sản hữu cơ mà các thành viên có thể tương trợ, giúp đỡ được cho
nhau, tự cứu được lấy mình, trước khi mất hết những cơ sở kinh tế để tồn tại nếu
không hợp tác lại với nhau. Thành viên cũng sẽ được tư vấn, cung cấp thông tin,
11


trao đổi kinh nghiệm thông qua HTX nông sản hữu cơ vì đó cũng thường là nơi
tập hợp kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm làm ăn của cả địa phương. Họ sẽ tự tạo
ra được công ăn việc làm cho bản thân và có thể còn cho cả địa phương. Họ
cũng được hưởng những quyền lợi từ HTX nông sản hữu cơ với tư cách là được
quyền tham gia biểu quyết, quyết định các chính sách kinh doanh của HTX nông
sản hữu cơ thông qua các bộ máy, cơ quan lãnh đạo để HTX nông sản hữu cơ
ngày càng phục vụ họ đắc lực và tốt hơn. Qua sự hỗ trợ này mà các hoạt động
kinh tế, sản xuất, kinh doanh của các thành viên đã được hỗ trợ thiết thực, cuộc
sống của họ được cải thiện rõ rệt và có những tích luỹ.
Qua hoạt động của HTX nông sản hữu cơ, ý thức tiết kiệm và tích luỹ của
người dân được nâng cao. Những đồng vốn nhàn rỗi được huy động để đưa vào
đầu tư phục vụ cho phát triển, giảm sự lãng phí tài nguyên cũng như tạo ra sự
phồn vinh cho xã hội. HTX nông sản hữu cơ vừa là người quản lý tài sản của
thành viên, dân cư, vừa là nhà đầu tư trên địa bàn. Đó cũng là nơi học nghề cho
nhiều người. Trình độ và nhận thức của người nhân trên địa bàn cũng sẽ được
nâng cao thông qua các hoạt động tư vấn, thông tin của bản thân HTX nông sản
hữu cơ, góp phần nâng cao trình độ dân trí tại địa phương. Khi địa phương có
HTX nông sản hữu cơ hoạt động, nạn cho vay nặng lãi lập tức bị đẩy lùi tiến tới
xoá sổ. Những ý nghĩa về xã hội như góp phần, xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ địa
phương chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, vật nuôi, cây trồng… cũng là những

đóng góp rất tích cực. Với tư cách là một HTX nông sản hữu cơ, HTX nông sản
hữu cơ đóng góp một cách đáng kể các khoản thuế hàng năm cho ngân sách địa
phương. Các HTX nông sản hữu cơ sẽ là những tổ chức hoạt động tại địa
phương, bám sát địa bàn, tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế ở địa
phương, hỗ trợ đắc lực nhất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách kịp thời,
tạo ra nhiều việc làm và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Như vậy, HTX nông
hữu cơ là một yếu tố kinh tế quan trọng ở địa phương, góp phần nâng cao đời

12


sống, thu nhập của người dân đem lại ổn định trật tự chính trị, xã hội trên địa
bàn, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế.
Xét trên góc độ Nhà nước, hoạt động của HTX nông sản hữu cơ sẽ bổ
sung cho những nỗ lực vĩ mô của Nhà nước như cung cấp vốn cho người nghèo,
nông thôn, nông nghiệp, thực hiện các mục tiêu xã hội lớn như tạo công ăn việc
làm, xoá đói giảm nghèo, ổn định tình hình trật tự kinh tế, chính trị, xã hội… ở
những nơi, lĩnh vực mà nhiều khi Nhà nước không có khả năng hay hoạt động
không hiệu quả thì mô hình HTX nông sản hữu cơ nói riêng và mô hình kinh tế
HTX nói chung lại là phù hợp. Mô hình HTX nông sản hữu cơ thể hiện rất rõ
tinh thần phát hút nội lực của người dân để tự giải quyết các khó khăn, vướng
mắc của chính bản thân. Mô hình HTX nông sản hữu cơ cũng góp phần thực
hiện các chương trình tiết kiệm, huy động tiềm năng trong nhân dân của Nhà
nước phục vụ cho đầu tư, hay tránh lãng phí tài nguyên, nguồn vốn nhàn rỗi
trong nhân dân
2.1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của HTX nông sản hữu

Nhân tố tự nhiên
Tính đặc thù của sản xuất không những chi phối trực tiếp đến quá trình
sản xuất kinh doanh mà còn ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển các hình

thức kinh tế hợp tác và HTX, trên từng vùng sinh thái, vùng KT-XH khác nhau.
Chính vì vậy, sự phát triển một cách đa dạng, nhiều hình, nhiều vẻ, nhiều trình
độ của các hình thức kinh tế hợp tác, HTX là một tất yếu khách quan, nó quy
định đối với quá trình hình thành, phát triển cũng như hình thức tổ chức hoạt
động của các tổ chức kinh tế đó.
Nhân tố quản lý của cán bộ HTX
Cán bộ là cái gốc thành công của mọi công việc, không có cán bộ tốt thì
không có phong trào tốt, trong kinh tế cũng vậy, nhất là trong điều kiện của nền

13


kinh tế thị trường hiện nay đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn
nghiệp vụ, có đạo đức phẩm chất và bản lĩnh vững vàng.
Một khi, cán bộ yếu kém, không năng động, linh hoạt, lúng túng trong
quản lý và điều hành thì hiệu quả hoạt động thấp. Trình độ quản lý ở đây trước
hết là nói đến Ban quản trị và chủ nhiệm HTX, đóng vai trò hết sức quan trọng
trong sự tồn tại và phát triển của HTX, Chủ nhiệm phải thật sự là người có trình
độ và năng lực thực sự, biết tổ chức hoạt động và đánh giá thực tiễn, am hiểu
luật pháp, nhạy bén trong SXKD. Chủ nhiệm ví như động lực của cỗ máy quản
lý HTX, nếu thiếu cỗ máy này sẽ hoạt động khó hoặc kém hiệu quả.
Nhân tố môi trường, xã hội và pháp lý
HTX hoạt động trong mối quan hệ với chính quyền địa phương và các tổ
chức chính trị, xã hội cơ sở. Chính vì vậy, sự ủng hộ hay không ủng hộ của các
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, của các tổ chức đoàn thể đối với HTX
thật sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng, to lớn đến việc tồn tại và phát triển của
HTX.
Sự phát triển KT-XH của đất nước, với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế
như hiện nay tác động mạnh mẽ, ảnh hưởng đến hoạt động của các thành phần
kinh tế, trong đó có HTX. Cho nên, HTX muốn tồn tại và phát triển phải tự vận

động, tự đổi mới để thích ứng với những tác động của xu thế hội nhập kinh tế
thế giới và khu vực, mà đặc biệt, Việt Nam là thành viên thứ 150 của tổ chức
thương mại thế giới (WTO).
Yếu tố quan trọng tạo ra sự phát triển của HTX là môi trường pháp lý,
trong nền kinh tế thị trường, cùng với các chủ thể kinh tế khác, HTX phải hoạt
động theo những nguyên tắc, khuôn khổ nhất định do luật pháp quy định. Ngoài
những quy định pháp lý chung, để HTX phát triển có hiệu quả để đóng góp cho
phát triển KT-XH của đất nước. Nhà nước đã ban hành luật HTX và các văn bản
hướng dẫn thi hành luật HTX, đây là cơ sở xác lập quyền và nghĩa vụ của HTX,
tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích HTX phát triển trong nền kinh tế hàng hóa
14


nhiều thành phần, có sự quản lý của Nhà nước định hướng XHCN. Bên cạnh,
luật HTX và các văn bản hướng dẫn thi hành luật HTX, trong thời gian qua
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích, ưu tiên, ưu
đãi, hỗ trợ HTX phát triển, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức
hoạt động của HTX để góp phần vào sự nghiệp phát triển KT-XH của đất nước
nói chung và kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
Các nhân tố khác
- Về lao động
Bên cạnh cán bộ chủ chốt thì lực lượng lao động cũng là yếu tố quan
trọng tác động đến công việc hàng ngày của HTX, lao động được xem xét cả
hai mặt số lượng và chất lượng. Cho nên việc sắp xếp, bố trí, sử dụng lao động
hợp lý thì mang lại kết quả, hiệu quả cao và ngược lại sẽ trì trệ, kém hiệu quả.
- Cơ sở vật chất của HTX
Hệ thống máy móc, thiết bị, cơ sở hạ tầng có vai trò vô cùng quan trọng
trong hoạt động SXKD của HTX. Mức độ cơ sở vật chất, kỹ thuật nhiều hay ít,
chất lượng mới hay cũ (tiên tiến hay lạc hậu) ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất,
chất lượng, giá thành hàng hóa, sản phẩm làm ảnh hưởng đến hiệu quả SXKD.

2.1.7. Lý luận về hoạt động HTX nông sản hữu cơ
Kết quả hoạt động kinh tế là phạm trù KT-XH nó phản ánh mặt chất lượng
của hoạt động sản xuất kinh tế và là đặc trưng của mọi nền sản xuất xã hội. kết
quả được hiều là mối tương quan so sánh giữa tổng giá trị thu được của sản
phẩm đầu ra với tổng giá trị của các yếu tố, nguồn lực đầu vào. Mối tương quan
này được xem xét cả về giá trị so sánh tương đối và tuyệt đối giữa hai đại lượng
đó.
Bản chất của kết quả chính là hiệu quả lao của lao động xã hội được xác
định bằng tương quan so sánh giữa lượng kết quả hữu ích thu được với lượng
hao phí lao động xã hội. ở mỗi quốc gia bản chất của kết quả đều xuất phát từ

15


mục đích của sxkd, dịch vụ và phát triển KT-XH, mục đích làm thế nào để đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng trong khi nguồn lực ngày càng giới hạn.
Nội dung hoạt động và đánh giá HTX nông sản hữu cơ
Đánh giá HTX nông sản hữu cơ là một hoạt động cần thiết nhằm giúp htx
nhận rõ những mặt mạnh, mặt yếu của mình để có những điều chỉnh cần thiết
trong tổ chức, quản lý và thực hiện các hoạt động sản xuất nhằm nâng cao kết
quả và hiệu quả hoạt động của HTX. Việc đánh giá hoạt động của htx có tầm
quan trọng đặc biệt đối với cấp quản lý là nhằm để đề ra những chính sách, giải
pháp cần thiết nhằm khuyến khích, thúc đẩy HTX phát triển. thông thường đánh
giá HTX dựa vào các tiêu chí cơ bản sau:
1. Về tổ chức
- Đánh giá việc thành lập HTX theo quy định của luật HTX: về số lượng
xã viên. Tính tự chủ của xã viên khi tham gia htx, mức độ dân chủ và sự tham
gia của xã viên vào xây dựng, thực hiện điều lệ htx, mức độ tin cậy của xã viên
đối với HTX.
- Qui mô HTX. Mô hình tổ chức hoạt động HTX, trình độ cán bộ quản lý.

2. Về quản lý
Tình hình quản lý quỹ, tài sản HTX, thực hiện chế độ kế toán, xử lý lãi lỗ
trong các hoạt động dịch vụ của HTX.
3. Về kết quả hoạt động
- Mức độ hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch hoạt động dịch vụ đã được Đại
hội XV biểu quyết thông qua.
- Doanh thu, chi phí, lãi lỗ của các hoạt động SXKD
4. Về hiệu quả
- Hiệu quả kinh tế: mức lãi, hiệu quả sử dụng các nguồn lực của HTX.
- Hiệu quả xã hội: mức độ phúc lợi chung của HTX tạo ra cho tập thể xã
viên. Mức độ đoàn kết, hợp tác giữa các xã viên và xây dựng cộng đồng HTX và
xã viên đối với phát triển KT-XH trên địa bàn.
16


- Hiệu quả môi trường.
2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ HTX NÔNG SẢN HỮU CƠ
HTX nông sản hữu cơ là một mô hình mới, vì vậy hiện nay vẫn chưa có
công trình nghiên cứu cụ thể nào về HTX nông sản hữu cơ. Tuy nhiên, HTX
nông sản hữu cơ cũng là một HTX nông sản nông nghiệp kiểu mới, vì vậy ta có
thể lấy dẫn chứng qua một số mô hình HTX nông nghiệp kiểu mới trong nước
và trên thế giới.
2.2.1. Bài học kinh nghiệm phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới trong nước
Xây dựng mô hình HTX kiểu mới đang là xu thế chung của cả nước, với
nhiều mô hình thành công trong nước tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cao cho
người dân. Tiêu biểu như một số HTX kiểu mới sau:
- HTX dịch vụ nông nghiệp Thụy Hương
Xã Thụy Hương, huyện Chương Mỹ (Hà Nội) là một trong 11 xã điểm
được Ban chỉ đạo Xây dựng Nông thôn mới (NTM) Trung ương chọn làm mô
hình xây dựng NTM của toàn quốc. Sau hơn 2 năm triển khai thực hiện, đến thời

điểm này, 15/19 tiêu chí NTM ở Thụy Hương đã đạt với mức cao từ 90-100%; 4
tiêu chí còn lại cũng đã đạt ở mức trên 70%. Các HTX hoạt động hiệu quả đã
góp phần giảm được tỷ lệ hộ nghèo ở Thụy Hương từ 14,98% ở thời điểm bắt
đầu lập đề án xây dựng NTM xuống còn 7% hiện nay và mức thu nhập bình
quân đầu người của xã so với mức bình quân chung cả thành phố từ 0,81 lần
tăng lên 1,3 lần hiện nay. So với tiêu chí quy định của Ban chỉ đạo xây dựng
NTM Trung ương là mức thu nhập của xã đạt chuẩn NTM phải gấp 1,5 lần so
với bình quân chung của thành phố đó và số hộ nghèo chỉ còn 3%.
Để có được những bước tiến như vậy thì HTX đã có nhiều bước thay đổi
như:
+ Đối với HTX Nông nghiệp, Ban Chủ nhiệm HTX được xã viên tin
tưởng giao quản lý 300 ha sản xuất lúa, trong đó có 100 ha thực hiện đưa cơ giới
hoá vào đồng ruộng từ khâu gieo thẳng lúa theo hàng đến khâu thu hoạch. Đặc
17


biệt, ở mỗi mùa vụ, HTX này đều có sự liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp
để tiêu thụ sản phẩm cho người nông dân. Mỗi xã viên tham gia HTX đóng góp
cổ phần, được HTX đảm nhiệm toàn bộ các khâu dịch vụ trong quá trình sản
xuất như cung ứng vật tư, giống, thực hiện việc phòng trừ sâu bệnh. HTX
khuyến khích xã viên dồn điền, đổi thửa, tạo thành vùng sản xuất tập trung. Các
hộ dân có đất có thể góp đất thành vốn tham gia cổ phần trong HTX, còn nếu
không cũng có thể cho HTX thuê lại. Đội dịch vụ của HTX Nông nghiệp được
thành lập với 4 máy gặt đập liên hoàn, ứng phân bón cho bà con; lúa khi chín
được thu hoạch tập trung, nhanh, gọn và giảm tổn thất sau thu hoạch.
+ Bên cạnh HTXNN, một số HTX theo từng ngành nghề cụ thể trong sản
xuất nông nghiệp như hoa cây cảnh, cây ăn quả, rau an toàn cũng đươc thành lập
trên cơ sở tự nguyện, đồng thuận của mỗi xã viên. Với phương châm mạnh dạn
nhưng không liều lĩnh, chủ quan và nhất định phải có được sự nhất trí của tất cả
xã viên, HTX hoa cây cảnh, HTX cây ăn quả và HTX rau an toàn ở Thụy Hương

được “khai sinh” với sự liên kết của các doanh nghiệp để giúp đỡ xã viên về
nguồn giống, kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm.
+ Với HTX hoa cây cảnh và các HTX khác, muốn bà con xã viên tin
tưởng, gắn bó lâu dài thì điều quan trọng nhất là phải tạo được đầu ra ổn định.
Chính vì vậy, Ban Chủ nhiệm HTX đã tìm cách giới thiệu, quảng bá rộng rãi sản
phẩm và đảm bảo được chất lượng hoa đảm bảo để có được hợp đồng tiêu thụ
ổn định.
HTX hoạt động và chia lãi suất sau từng lứa hoa cho xã viên tuỳ theo số
vốn mà xã viên đóng góp theo tương ứng với 40% số vốn đã đóng góp. Số còn
lại sẽ được đầu tư để sản xuất lứa hoa tiếp theo.
Nói thì đơn giản nhưng hơn 1 năm qua kể từ ngày thành lập, để có được
thành quả thu lãi hơn 1 tỷ đồng/lứa từ sản xuất một số loại hoa cao cấp như lan,
ly..., Ban chủ nhiệm HTX và mỗi xã viên đã phải nỗ lực hết mình để xây dựng
hoàn chỉnh khu nhà kính rộng hơn 7.000 m2, có hệ thống quạt thông gió, phun
18


tưới nước tự động. Có trách nhiệm với đồng vốn mình đóng góp, tất cả xã viên
HTX đã cùng tìm hướng trồng và tiêu thụ hoa sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Sẵn
sàng chi kinh phí để Ban chủ nhiệm HTX và các cán bộ kỹ thuật đưa lên Sapa
chăm sóc trong 1 thời gian, giúp hoa "hưởng” khí hậu mát mẻ của Sa Pa để bông
hoa được to, thắm hơn, bán được giá hơn chính là minh chứng cho sự đồng
thuận và quyết tâm làm ăn lớn, đạt hiệu quả bền vững để từng bước nâng cao thu
nhập cho chính mình. Không những thế, các xã viên HTX hoa, cây cảnh Thụy
Hương còn mời 3 kỹ sư nông nghiệp về làm việc ở HTX với mức lương xứng
đáng để hướng dẫn bà con cách trồng, chăm sóc, thực hiện việc thâm canh, tăng
vụ các loại hoa cao cấp.
Tin tưởng ở sự hoạt động thành công của HTX kiểu mới, xã viên HTX
cây cảnh Thụy Hương đã mở rộng quy mô trồng từ hơn 3 vạn gốc hoa ly và 1,5
vạn cành hoa lan ngày đầu thành lập lên trên 6 vạn bông hoa ly và hơn 2 vạn

bông hoa lan hiện nay.
- HTX dịch vụ nông nghiệp Duy Phú:
Đầu năm 2009, HTX chính thức khai trương và đi vào hoạt động với sự
góp vốn của 10 xã viên, cơ sở đặt tại thôn Mỹ Sơn. Nhưng khác với tổ hợp tác
trước đây chỉ sản xuất đá thô để làm móng các công trình xây dựng, HTX Duy
Phú lấy đá sa thạch mỹ nghệ dùng ốp tường, trang trí nội thất làm sản phẩm chủ
yếu.
Từ 700 triệu đồng nguồn vốn tự có vào năm 2009, sang năm 2010, HTX
Duy Phú đã nâng con số này lên thành 1,32 tỷ đồng. Doanh thu tăng từ 2,4 tỷ
đồng trong năm 2009 lên 5,1 tỷ đồng trong năm 2010. Cổ tức xã viên mỗi năm
đạt từ 15 - 16 %. Sản phẩm đá sa thạch được HTX Duy Phú bán với giá 90
nghìn đồng/m2 ốp tường.
Chọn hướng đa dạng hóa sản phẩm, HTX Duy Phú còn kinh doanh thêm
các mặt hàng mây tre, vật tư nông nghiệp. Theo đó, HTX đã đầu tư thêm máy
móc thiết bị, tuyển thêm nhân công, mở rộng thị trường tiêu thụ trên nền tảng là
19


sự đồng lòng của các xã viên. Đến nay, HTX đang sở hữu 5 máy cắt đá tự động,
đang lắp đặt 1 máy cắt 12 lưỡi công nghệ cao từ nguồn hỗ trợ của Liên minh
HTX Quảng Nam; có khoảng 60 công nhân làm việc từ khâu cắt đá, chế tác đến
chuyên chở; hệ thống phân phối cấp 1 gồm 30 đại lý tiêu thụ trên toàn quốc, sản
phẩm đá còn được xuất sang Trung Quốc, Lào, Campuchia. Kinh doanh hiệu
quả nên đời sống công nhân cũng đổi thay.
2.2.2. Bài học kinh nghiệm phát triển nông nghiệp kiểu mới trên thế giới
2.2.2.1. Kinh nghiệm phát triển hợp tác xã nông nghiệp của Nhật Bản
Ở Nhật Bản, các hợp tác xã nông nghiệp được tổ chức theo ba cấp: Liên
đoàn toàn quốc HTXNN, Liên đoàn HTXNN tỉnh; HTXNN cơ sở. Các HTXNN
cơ sở gồm hai loại: đơn chức năng và đa chức năng. Từ năm 1961 trở về trước
các hợp tác xã đơn chức năng khá phổ biến. Nhưng từ năm 1961 trở về đây, do

chính phủ Nhật Bản khuyến khích hợp nhất các HTXNN nhỏ thành HTXNN
lớn, nên mô hình hoạt động chủ yếu của HTXNN Nhật Bản hiện nay là đa chức
năng. Các HTXNN đa chức năng chịu trách nhiệm đối với nông dân trên tất cả
các lĩnh vực dịch vụ như cung cấp nông cụ, tín dụng, mặt hàng, giúp nông dân
chế biến, tiêu thụ sản phẩm và bảo hiểm cho hoạt động của nông dân. Có thể
thấy ưu nhược điểm của HTXNN Nhật Bản qua phân tích cơ chế quản lý và
chức năng hoạt động của chúng.
Các HTXNN đa chức năng của Nhật bản thường đảm đương các nhiệm
vụ sau:
+ Cung cấp dịch vụ hướng dẫn nhằm giáo dục, hướng dẫn nông dân trồng
trọt, chăn nuôi có năng suất, hiệu quả cao cũng như giúp họ hoàn thiện kỹ năng
quản lý hoạt động sản xuất. Thông qua các cố vấn của mình, các hợp tác xã
nông nghiệp đã giúp nông dân trong việc lựa chọn chương trình phát triển nông
nghiệp theo khu vực; lập chương trình sản xuất cho nông dân; thống nhất trong
nông dân sử dụng nông cụ và kỹ thuật sản xuất tiên tiến,… Các tổ chức Liên

20


hiệp tỉnh và Trung ương thường quan tâm đào tạo bồi dưỡng cố vấn cho
HTXNN cơ sở.
+ Mục tiêu của hợp tác xã là giúp nông dân tiêu thụ hàng hoá có lợi nhất.
Do đó, mặc dù các HTXNN là đơn vị hạch toán lấy thu bù chi nhưng các hợp tác
xã không đặt lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu mà chủ yếu là trợ giúp nông dân.
Các hình thức giao dịch giữa hợp tác xã với nông dân khá linh hoạt. Nông dân
có thể ký gửi hàng hoá cho hợp tác xã, HTX sẽ thanh toán cho nông dân theo giá
bán thực tế với một mức phí nhỏ; nông dân cũng có thể gửi hợp tác xã bán theo
giá họ mong muốn và hợp tác xã lấy hoa hồng; thông thường nông dân ký gửi và
thanh toán theo giá cả thống nhất và hợp lý của HTX.
+ Để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản do HTX tiêu thụ,

HTX đã đề nghị nông dân sản xuất theo kế hoạch với chất lượng và tiêu chuẩn
thống nhất với nhau và ưu tiên bán cho HTX. Về phần mình, HTX định tỷ lệ hoa
hồng thấp. Các HTX tiêu thụ nông sản theo quy mô lớn, không chỉ ở chợ địa
phương mà thông qua liên đoàn tiêu thụ trên toàn quốc với các khách hàng lớn
như xí nghiệp, bệnh viện,… HTX đã mở rộng hệ thống phân phối hàng hoá khá
tốt ở Nhật Bản.
+ HTX cung ứng hàng hoá cho xã viên theo đơn đặt hàng và theo giá
thống nhất và hợp lý. Các HTX đã đạt đến trình độ cung cấp cho mọi xã viên
trên toàn quốc hàng hoá theo giá cả như nhau, nhờ đó giúp cho những người ở
các vùng xa xôi có thể có được hàng hoá mà không chịu cước phí quá đắt. Hàng
tiêu dùng không cần đặt hàng theo kế hoạch trước. Thông thường các HTX nhận
đơn đặt hàng của xã viên, tổng hợp và đặt cho liên hiệp HTX tỉnh, sau đó tỉnh
đặt cho liên hiệp HTX toàn quốc. Đôi khi liên hiệp HTXNN tỉnh hoặc HTXNN
cơ sở đặt hàng trực tiếp cho doanh nghiệp sản xuất. Nhìn chung các liên hiệp
HTXNN tỉnh và Trung ương không phải là cấp quản lý thuần tuý mà là các tổ
chức kinh tế, các trung tâm phân phối và tiêu thụ hàng hoá.

21


+ HTXNN cung cấp tín dụng cho các xã viên của mình và nhận tiền gửi
của họ với lãi suất thấp. Các khoản vay có phân biệt: cho xã viên khó khăn vay
với lãi suất thấp (có khi chính phủ trợ cấp cho hợp tác xã để bù vào phần lỗ do
lãi suất cho vay thấp). HTXNN cũng được phép sử dụng tiền gửi của xã viên để
kinh doanh. Ở Nhật Bản có tổ chức một trung tâm ngân hàng HTXNN để giúp
các hợp tác xã quản lý số tín dụng cho tốt. Trung tâm này có thể được quyền cho
các tổ chức kinh tế công nghiệp vay nhằm phục vụ phát triển nông nghiệp.
+ HTXNN còn sở hữu các phương tiện sản xuất nông nghiệp và chế biến
nông sản để tạo điều kiện giúp nông dân sử dụng các phương tiện này hiệu quả
nhất, hạn chế sự chi phối của tư nhân. Các loại phương tiện thuộc sở hữu HTX

thường là: Máy cày cỡ lớn, phân xưởng chế biến, máy bơn nước, máy phân loại,
đóng gói nông sản. HTX trực tiếp quản lý việc sử dụng các tài sản này.
Các HTX còn là diễn đàn để nông dân kiến nghị Chính phủ các chính
sách hợp lý cũng như tương trợ lẫn nhau giữa các HTX và địa phương.
- Ngoài ra, các HTXNN Nhật Bản còn tiến hành các nhiệm vụ giáo dục xã
viên tinh thần hợp tác xã thông qua các tờ báo, phát thanh, hội nghị, đào tạo,
tham quan ở cả ba cấp hợp tác xã nông nghiệp cơ sở, tỉnh và Trung ương.
Như vậy, có thể thấy rằng HTXNN Nhật Bản đã phát triển từ các đơn vị
đơn năng đến ngày nay trở thành các đơn vị đa năng dịch vụ mọi mặt cho cho
nhu cầu của nông dân và tổ chức liên kết qui mô lớn toàn quốc. Một nước công
nghiệp hoá như Nhật Bản, hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp hiệu quả vẫn
là hộ gia đình, do đó HTXNN, một mặt được thành lập để hỗ trợ nông dân, giúp
cho họ vừa nâng cao hiệu quả sản xuất, vừa cải thiện cuộc sống ở nông thôn,
mặt khác vẫn tôn trọng mô hình kinh tế nông hộ và chỉ thay thế hộ nông dân và
tư thương ở khâu nào hợp tác xã tỏ ra có ưu thế hơn hẳn trong tương quan với
mục tiêu hỗ trợ nông dân.
2.2.2.2. Bài học kinh nghiệm phát triển HTX kiểu mới ở Hàn Quốc

22


Trên toàn lãnh thổ Hàn Quốc hiện có 1239 HTXNN (bao gồm các HTX
dịch vụ nông nghiệp, sản xuất lương thực, chăn nuôi gia súc) và hơn 88 HTX
trồng cây ăn quả, hoa, rau, nhân sâm, thu hút 100% nông dân tham gia làm xã
viên (2,4 triệu người). Tất cả các HTX này đều là thành viên của Liên đoàn
HTXNN Hàn Quốc, tạo thành một hệ thống thống nhất triển khai các dịch vụ hỗ
trợ nông dân từ khâu lập kế hoạch và hướng dẫn kỹ thuật sản xuất, cung ứng
nguyên vật liệu đầu vào, chế biến và tiêu thụ nông sản cho đến cung cấp các
dịch vụ ngân hàng và bảo hiểm. Hệ thống HTXNN hiện có 4.600 các chợ và cửa
hàng bán nông sản trên cả nước giúp tiêu thụ sản phẩm cho nông dân với tổng

doanh thu đạt 37 ngàn tỷ won/năm; 5.041 văn phòng, các điểm giao dịch phục
vụ các hoạt động ngân hàng trên toàn quốc với 36 triệu khách hàng, chiếm 67%
dân số Hàn Quốc. Dưới sự hỗ trợ của Liên đoàn quốc gia, các HTXNN được
xây dựng thành nhưng trung tâm tài chính, văn hóa và phúc lợi của địa phương,
đáp ứng nhu cầu đa dạng của nông dân và người nông thôn.
2.2.2.3. Nông nghiệp hữu cơ - Kinh nghiệm từ Malaysia
Trong nhiều thập kỷ qua, nền nông nghiệp thế giới đã có những thay đổi
mạnh mẽ về khoa học kỹ thuật, cơ giới hoá, hoá học hoá. Mặc dù sự thay đổi đó
đã nâng cao đáng kể sản lượng lương thực, thực phẩm. Nhưng nó cũng gây
không ít vấn đề như ô nhiễm, xói mòn đất, ngộ độc, sự bột phát của các loài dịch
hại, mà nguyên nhân là do việc sử dụng các chất hoá học đã làm phá vỡ cân
bằng sinh thái.Để khắc phục tình trạng đó, một phong trào nông nghiệp hữu cơ
đang lan rộng trên thế giới. Phong trào này sử dụng các biện pháp nông nghiệp
mang tính sinh thái bền vững, dựa trên mối quan hệ tác động qua lại của các yếu
tố đất đai, cây trồng, vật nuôi, con người, môi trường sinh thái. NNHC không
phải là "Sự trở lại với tự nhiên" hoặc là kiểu "Nông nghiệp ăn chay" mà là nền
nông nghiệp dựa trên cơ sở khoa học kỹ thuật cao, với các biện pháp kỹ thuật
đầu vào tiên tiến, sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt trong một hệ thống bền
vững. Đối với Việt nam điều này rất có ý nghĩa, bởi chúng ta đang đứng trước
23


×