Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Quyền của người bị hại và người làm chứng trong luật nhân quyền quốc tế và luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (980.55 KB, 102 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TH KIM OANH

QUYềN CủA NGƯờI Bị HạI Và NGƯờI LàM CHứNG
TRONG LUậT NHÂN QUYềN QUốC Tế
Và LUậT HìNH Sự VIệT NAM

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TH KIM OANH

QUYềN CủA NGƯờI Bị HạI Và NGƯờI LàM CHứNG
TRONG LUậT NHÂN QUYềN QUốC Tế
Và LUậT HìNH Sự VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Phỏp lut v quyn con ngi
Mó s: Chuyờn ngnh o to thớ im

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS V CễNG GIAO

H NI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đỗ Thị Kim Oanh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI BỊ HẠI VÀ
NGƢỜI LÀM CHỨNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ ...................... 7
1.1.
Khái niệm ngƣời bị hại ...................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm người bị hại nói chung ........................................................ 7
1.1.2. Người bị hại trong vụ án hình sự ......................................................... 7
1.2.

Khái niệm ngƣời làm chứng .............................................................. 9
Nội dung của quyền của ngƣời bị hại và ngƣời làm chứng
trong vụ án hình sự .......................................................................... 11
1.3.1. Nội dung quyền của người bị hại trong vụ án hình sự ....................... 12
1.3.2. Nội dung quyền của người làm chứng trong vụ án hình sự ............... 13
1.4.
Đặc điểm các quyền của ngƣời bị hại, ngƣời làm chứng .............. 16
1.3.

Các điều kiện bảo đảm thực hiện quyền của ngƣời bị hại,
ngƣời làm chứng ............................................................................... 20
1.5.1. Bảo đảm về chính trị .......................................................................... 20
1.5.2. Bảo đảm về pháp lý ............................................................................ 21
1.5.3. Bảo đảm về văn hóa ........................................................................... 22
1.5.4. Bảo đảm về kinh tế ............................................................................. 22
Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................ 24
1.5.

Chƣơng 2: QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI BỊ HẠI VÀ
NGƢỜI LÀM CHỨNG TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................................... 25
2.1.

Quyền của ngƣời bị hại và ngƣời làm chứng trong pháp luật
quốc tế................................................................................................ 25


2.1.1. Quyền của người bị hại trong pháp luật quốc tế ................................ 25
2.1.2. Quyền của người làm chứng trong pháp luật quốc tế ........................ 31
Quyền của ngƣời bị hại và ngƣời làm chứng trong pháp luật

hình sự Việt Nam .............................................................................. 40
2.2.1. Quyền của người bị hại trong pháp luật hình sự Việt Nam ............... 40
2.2.2. Quyền của người làm chứng trong pháp luật hình sự Việt Nam ....... 52
Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 68
2.2.

Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY BẢO VỆ QUYỀN
CỦA NGƢỜI BỊ HẠI VÀ NGƢỜI LÀM CHỨNG TRONG VỤ
ÁN HÌNH SỰ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ............................................ 69
3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.1.3.
3.1.4.
3.1.5.

Các quan điểm về việc thúc đẩy bảo vệ quyền của ngƣời bị hại
và ngƣời làm chứng trong vụ án hình sự ở nƣớc ta hiện nay ........ 69
Thúc đẩy quyền của người bị hại và người làm chứng cần dựa
trên phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người........................ 69
Thúc đẩy quyền của người bị hại và người làm chứng cần dựa
trên các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan ............................................ 71
Cần hoàn thiện pháp luật về quyền của người bị hại và người làm
chứng, bảo đảm tính toàn diện, thống nhất của hệ thống pháp luật... 71
Cần xác định rõ bảo vệ quyền của người bị hại, người làm chứng
trước hết là trách nhiệm của Nhà nước ................................................. 72
Cần xác định rõ bảo vệ quyền của người bị hại, người làm chứng
không chỉ là vấn đề nhân quyền mà còn là vấn đề cải cách tư pháp,
xây dựng nhà nước pháp quyền ............................................................ 72


Các giải pháp thúc đẩy quyền của ngƣời bị hại và ngƣời làm
chứng trong vụ án hình sự............................................................... 73
3.2.1. Các giải pháp thúc đẩy quyền của người bị hại ................................. 73
3.2.2. Các giải pháp thúc đẩy quyền của người làm chứng ......................... 79
3.2.3. Các giải pháp chung thúc đẩy quyền của người bị hại và người
làm chứng........................................................................................... 83
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 91
3.2.


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTHS:

Bộ luật TTHS

ICCPR:

Công ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị 1966

QPPL:

Quy phạm pháp luật

TNHS:

Trách nhiệm hình sự


TTHS:

Tố tụng hình sự

VBQPPL:

Văn bản quy phạm pháp luật

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là một trong ba mục tiêu chính trong hoạt động của
Liên Hợp Quốc. Từ khi thành lập (1945) đến nay, mọi hoạt động của Liên
Hợp Quốc đều dựa trên những chuẩn mực và nguyên tắc về quyền con
người. Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người được Đại Hội đồng Liên
hợp quốc thông qua năm 1948 ngày nay đã trở thành luật tập quán quốc tế,
được tất cả các quốc gia trên thế giới chấp nhận và tuân thủ. Tiếp cận dựa
trên quyền con người là được Liên hợp quốc cổ vũ áp dụng trong mọi hoạt
động của các quốc gia, bao gồm trong hoạt động tố tụng hình sự.
Ở Việt Nam, các quyền con người đã được hiến định và bảo vệ từ
Hiến pháp 1946 và xuyên suốt trong các bản hiến pháp về sau. Ngoài ra,
các quyền con người còn được ghi nhận và bảo vệ trong các văn bản pháp
luật chuyên ngành của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao
gồm các văn bản pháp luật về tố tụng hình sự.
Hiện nay đất nước ta đang thực hiện cải cách tư pháp với phương
hướng đặt ra “hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, đảm bảo tính đồng bộ,

dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”, “nâng
cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử” [17]. Vì vậy, việc bảo vệ
quyền con người trong tư pháp hình sự, bao gồm quyền của người bị hại và
người làm chứng rất được chú trọng. Trong quá trình giải quyết các vụ án
hình sự, những thông tin mà người làm chứng và người bị hại cung cấp có ý
nghĩa hết sức quan trọng giúp các cơ quan chức năng phát hiện tội phạm và
giải quyết đúng đắn, triệt để vụ án hình sự. Với nghĩa vụ công dân, những
người làm chứng, người bị hại thường tích cực phối hợp với cơ quan tố tụng
làm rõ tội phạm và người phạm tội; tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy trong

1


nhiều vụ án hình sự, người làm chứng, người bị hại tỏ ra e ngại, bất hợp tác
hoặc hợp tác không tích cực với các cơ quan tiến hành tố tụng. Có nhiều lý do
dẫn đến tình trạng này, trong đó bao gồm những hạn chế, bất cập của pháp
luật hiện hành của nước ta về bảo vệ người làm chứng, người bị hại, khiến
cho họ cảm thấy không an toàn khi cung cấp chứng cứ, lời khai.
Trong pháp luật hình sự của Việt Nam hiện đã ghi nhận các nguyên
tắc về việc bảo hộ tính mạng, sức khỏe nhân phẩm và tài sản của người bị
hại và người làm chứng. Cụ thể, người bị hại, người làm chứng và người
tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe doạ đến
tính mạng, sức khoẻ, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để
bảo vệ theo quy định của pháp luật” [38, Điều 7]. Người làm chứng còn có
quyền “yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham
gia tố tụng” [38, Điều 55].
Mặc dù vậy, đây mới chỉ là những quy định mang tính nguyên tắc. Để
bảo vệ hiệu quả quyền của người bị hại và người làm chứng trong vụ án hình

sự cần xây dựng một chế định pháp lý hoàn chỉnh về bảo vệ người làm
chứng, người bị hại, đảm bảo cơ sở pháp lý “cần và đủ” cho việc thực hiện
công tác này trên thực tế.
Bảo vệ người làm chứng, người bị hại là vấn đề có liên quan trực tiếp
đến thực thi các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
theo Hiến pháp năm 2013. Việc này cũng gắn liền với công cuộc cải cách tư
pháp mà đang được tiến hành ở nước ta, cũng như gắn với việc thực hiện các
công ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam đã tham gia, đặc biệt là Công
ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 (ICCPR). Bảo vệ quyền của
nhóm này cũng góp phần xây dựng một cơ chế toàn diện và hiệu quả để thúc
đẩy và bảo vệ nhân quyền ở nước ta trong những năm tới.

2


Trong bối cảnh đó, học viên đã chọn đề tài “Quyền của người bị hại
và người làm chứng trong luật nhân quyền quốc tế và luật hình sự Việt
Nam” để thực hiện luận văn thạc sĩ, với mong muốn góp phần thực hiện các
mục tiêu đã nêu trên.
2. Tình hình nghiên cứu
Quyền con người nói chung và quyền con người trong tố tụng hình sự
nói riêng đã được nghiên cứu bởi nhiều tác giả, thể hiện trong nhiều công
trình khoa học đã được công bố ở nước ta trong những năm gần đây. Liên
quan trực tiếp đến đề tài của luận văn, có thể nêu một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu như sau:
- Về người bị hại có các công trình: “Bàn về khái niệm nạn nhân của tội
phạm trong tội phạm học” của Trần Hữu Tráng, đăng trong Kỷ yếu Hội thảo
khoa học "Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam" do
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh tổ chức tháng 6/2006; “Người bị
hại và chức năng buộc tội của người bị hại trong tố tụng hình sự” của Thuỳ

Dương, đăng trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Bảo đảm quyền con người
trong tố tụng hình sự Việt Nam" do Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh tổ chức tháng 6/2006; “Người bị hại trong tố tụng hình sự” của Lê Tiến
Châu, đăng trên Tạp chí Khoa học Pháp lý số 1(38)/2007; “Một số vấn đề về
người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” của Lê Thị Thuý Nga,
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 15-2009; Luận án tiến sỹ luật học
“Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự Việt Nam” của
Nguyễn Văn Thanh, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2012.
- Về người làm chứng có các công trình: “Lời khai của người làm
chứng trong vụ án hình sự” của Trần Quang Tiệp, đăng trên Tạp chí Khoa
học Pháp lý số 4, năm 2005; “Bảo vệ người làm chứng và quyền miễn trừ
người làm chứng trong tố tụng hình sự” của Nguyễn Thái Phúc, đăng trên

3


Tạp chí Khoa học Pháp lý số 3, năm 2007; “Hoàn thiện cơ sở pháp lý về bảo
vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong vụ án hình sự” của
Trần Đình Nhã, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 12-2011; “Một số
vấn đề trong việc bảo vệ người làm chứng” của Đinh Tuấn Anh, đăng trên
Tạp chí Kiểm sát số 7/2008; “Một số vấn đề cần chú ý về tâm lý xã hội của
người làm chứng” của Đinh Tuấn Anh, đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 7/2008;
“Cần quy định rõ, đầy đủ tư cách pháp lý quyền và nghĩa vụ của người tham
gia tố tụng” của Đinh Văn Lý, đăng tên Tạp chí Kiểm sát số 17/2009; “Hoàn
thiện chế định người làm chứng trong tố tụng hình sự đảm bảo tính khách
quan, minh bạch tại phiên tòa” của Nguyễn Thị Tuyết, đăng trên Tạp chí Tòa
án nhân dân số 10, năm 2011; “Vấn đề bảo vệ người làm chứng, người tố
giác và những người tham gia tố tụng khác” của Phạm Mạnh Hùng, đăng trên
Tạp chí kiểm sát số 7, năm 2012; “Hoàn thiện quy định của BLTTHS nhằm
bảo vệ người làm chứng khi tham gia tố tụng”, luận văn thạc sĩ luật học của

Nguyễn Hải Ninh, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2010.
- Về quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung, có các công
trình: “Những vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật
trong lĩnh vực tư pháp hình sự” của Lê Cảm, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân
dân số 01/2006; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở “Các quyền cơ bản
hiến định của công dân trong lĩnh vực tố tụng hình sự” của Tô Văn Hòa,
trường Đại học Luật Hà Nội, bảo vệ năm 2013.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của nghiên cứu này là làm rõ các cơ sở lý luận, thực trạng các
quy định về quyền của người làm chứng và người bị hại trong luật nhân
quyền quốc tế và luật hình sự Việt Nam về nội dung các quy phạm pháp luật
và các thủ tục tố tụng, từ đó đề xuất sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật liên
quan đến bảo vệ quyền của người bị hại và người làm chứng trong các vụ án
hình sự ở nước ta.

4


Để thực hiện được mục đích trên, đề tài cần giải quyết các nhiệm vụ
chính sau đây:
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về quyền của người làm chứng và
người bị hại trong tố tụng hình sự.
- Phân tích làm rõ các quy định và nội hàm của các quy định về quyền
người làm chứng và người bị hại trong luật nhân quyền quốc tế và pháp luật
hình sự Việt Nam.
- Phân tích đánh giá mức độ tương thích giữa các quy định của luật
nhân quyền quốc tế và pháp luật hình sự Việt Nam về quyền người làm chứng
và người bị hại.
- Đề xuất những quan điểm, giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp luật
và cơ chế pháp lý bảo đảm hiệu quả quyền người làm chứng và người bị hại ở

nước ta trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là khuôn khổ pháp lý về quyền của
người làm chứng và người bị hại trong luật nhân quyền quốc tế và luật hình
sự Việt Nam về nội dung các quy phạm pháp luật và các thủ tục tố tụng.
Về phạm vi, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các quyền của người bị hại,
người làm chứng, không đề cập đến quyền của các nhóm đối tượng khác
trong luật hình sự về luật nội dung và luật tố tụng. Đề tài chỉ khảo sát các
quyền của người bị hại, người làm chứng trong pháp luật hình sự hiện hành
của Việt Nam và luật nhân quyền quốc tế và các luật có liên quan, không đề
cập đến các ngành luật khác và pháp luật của các quốc gia khác.
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của triết học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật, các tư tưởng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới và

5


hoàn thiện hệ thống pháp luật và tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học xã
hội, đặc biệt là phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các văn
bản và tài liệu liên quan để làm rõ các vấn đề nghiên cứu đặt ra.
6. Những đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
Các công trình nghiên cứu hiện có liên quan đến chủ đề của đề tài
thường mới chỉ tập trung phân tích chế định người bị hại hoặc người làm
chứng trong luật hình sự Việt Nam về nội dung và tố tụng. Đề tài này có đóng
góp khoa học mới là mở rộng phạm vi nghiên cứu theo hướng phân tích so
sánh các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam với các quy định của luật

nhân quyền quốc về quyền của hai nhóm đối tượng đã nêu, vì thế tạo ra một
góc nhìn mới toàn diện hơn về vấn đề. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của luận
văn sẽ làm phong phú thêm cơ sở khoa học của pháp luật tố tụng hình sự ở
nước ta. Những quan điểm và kiến nghị trong luận văn có thể có ích cho hoạt
động lập pháp, hoạt động cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam và là tài liệu
tham khảo đối với những người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự. Ngoài ra, luận văn sẽ còn là nguồn tài liệu tham khảo có ích cho
hoạt động học tập, nghiên cứu, giảng dạy của sinh viên, giảng viên trong các
trường đào tạo luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục Tài liệu tham khảo, luận
văn gồm ba chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền của người bị hại và người làm chứng
trong vụ án hình sự.
Chương 2: Quyền của người bị hại và người làm chứng trong pháp luật
quốc tế và pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
quyền của người bị hại và người làm chứng trong vụ án hình sự.
6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI BỊ HẠI VÀ NGƢỜI
LÀM CHỨNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm ngƣời bị hại
1.1.1. Khái niệm người bị hại nói chung
Người bị hại nói chung là người bị thiệt hại do sự tác động tiêu cực của
sự việc, hành vi hoặc bất kỳ sự tác động nào. Theo cách hiểu này, khái niệm
người bị hại đồng nghĩa với khái niệm nạn nhân, và dùng để chỉ cả cá nhân
(con người) và tổ chức – những đối tượng phải gánh chịu thiệt hại từ bên

ngoài đưa đến
Thuật ngữ “nạn nhân” được sử dụng để miêu tả những người bị thiệt
hại, người bị thiệt hại. Theo từ điển tiếng Việt, nạn nhân được hiểu là:
“Người bị tai nạn” hoặc "Người, tổ chức gánh chịu hậu quả từ bên ngoài
đưa đến" [52, tr. 1165]. Cùng với tiến trình phát triển của xã hội, những nạn
nhân với nghĩa là những cá nhân hay tổ chức phải gánh chịu những thiệt hại
về tính mạng sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và tài sản ngày càng phong phú,
đa dạng dưới nhiều hình thức như: nạn nhân của thiên tai, nạn nhân của tai
nạn (giao thông, lao động), nạn nhân chiến tranh và nạn nhân của tội phạm.
Trong phạm vi của luận văn này chỉ tập trung vào một dạng nạn nhân (người
bị hại) của tội phạm.
1.1.2. Người bị hại trong vụ án hình sự
Người bị hại là một khái niệm phổ biến trong khoa học tố tụng hình sự,
tuy nhiên thế nào là người bị hại, phạm vi đối tượng được xem là người bị hại
cho đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi.
Dưới góc độ luật hình sự so sánh, có thể thấy ở các nước chưa có sự
thống nhất trong khái niệm người bị hại. Ở các nước theo hệ thống thông luật

7


(Common Law) thường sử dụng thuật ngữ “nạn nhân” (victims), trong khi các
nước theo hệ thống luật dân sự (Civil Law) lại thường dùng thuật ngữ “người
bị hại”, “người tố cáo”. Ngoài ra, người bị hại còn được gọi là “bị hại”,
“người bị thiệt hại”, “nạn nhân”, hoặc thậm chí là “dân sự nguyên cáo”
(người bị hại trong tố tụng dân sự).
Các quan điểm về người bị hại - nạn nhân của tội phạm - đã được các
nhà nghiên cứu tội phạm học tranh luận sôi nổi từ giữa thế kỉ XX. Các định
nghĩa về nạn nhân của tội phạm tuy còn nhiều điểm chưa thống nhất nhưng
nhìn chung đều xác định nạn nhân của tội phạm theo nghĩa hẹp và theo

nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, nạn nhân của tội phạm được xác định là những cá nhân
bị hành vi phạm tội xâm phạm gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tinh thần
hay thiệt hại về kinh tế. Quan điểm này cũng đã được ghi nhận trong Điều 1
Khoản 1 của Nghị quyết của Hội đồng Châu âu về địa vị của nạn nhân trong
tố tụng hình sự năm 2001 [22].
Ngược với quan điểm trên, nhiều nhà nghiên cứu về nạn nhân học đã
đưa ra định nghĩa về nạn nhân của tội phạm theo nghĩa rộng: nạn nhân của
tội phạm bao gồm cả cá nhân và các tổ chức bị hành vi phạm tội xâm hại.
Trong Bộ luật TTHS 2003, khái niệm người bị hại được định nghĩa tại
Điều 51 như sau: “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần,
tài sản do tội phạm gây ra” [38]. Theo đó, người bị hại trong vụ án hình sự
chỉ có thể là cá nhân, người mà thể chất, tinh thần, tài sản bị thiệt hại do tội
phạm gây ra.
Tuy nhiên, đến Bộ luật TTHS 2015 có hiệu lực thi hành vào 01/7/2016
khái niệm bị hại được mở rộng không chỉ bao gồm cá nhân mà còn có thể là
cơ quan, tổ chức. Tại Điều 62 BLTTHS 2015 quy định: “Bị hại là cá nhân
trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị
thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra” [39].

8


Về mặt nội dung pháp lý, có thể thông qua 3 dấu hiệu để xác định
người bị hại trong TTHS, đó là: Về chủ thể, là người, cá nhân, tổ chức bị tội
phạm xâm hại; Về thiệt hại, có sự thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc
các quyền và lợi ích hợp pháp khác; Về nguồn gốc của thiệt hại, do chính
hành vi phạm tội của người phạm tội trực tiếp gây ra.
Trong vụ án hình sự, bị hại đóng vai trò là người tham gia tố tụng,
được triệu tập để giải quyết vụ án hình sự theo giấy triệu tập của cơ quan

có thẩm quyền hoặc được xác định tư cách trong các biên bản tại cơ quan
tiến hành tố tụng mà giai đoạn ban đầu là các biên bản ghi lời khai của cơ
quan điều tra, đến tư cách tham gia tố tụng được xác định qua giấy triệu tập
trong các giai đoạn tố tụng tiếp theo là truy tố và xét xử.
Theo quy định của Bộ luật TTHS hiện hành của nước ta, “người bị
hại” chỉ cá nhân bị thiệt hại do tội phạm, còn pháp nhân hoặc tổ chức bị
thiệt hại do hành vi tội phạm tuy cũng là người tham gia tố tụng nhưng chỉ
với tư cách là nguyên đơn dân sự.
1.2. Khái niệm ngƣời làm chứng
Theo Từ điển tiếng Việt, người làm chứng là “người đứng ra xác nhận
những điều mình đã chứng kiến” [53].
Theo Từ điển Luật học thì:
Người làm chứng là người tham gia tố tụng. Người nào biết
được những tình tiết có liên quan đến vụ án đều có thể được triệu
tập đến làm chứng. Người làm chứng phải có mặt theo giấy triệu
tập của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án; có nghĩa vụ khai
trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án [67].
Như vậy, người làm chứng trước hết phải là người trực tiếp nhìn thấy,
nghe thấy hoặc do nguồn thông tin khác mà biết rõ những nội dung và đối
tượng có liên quan đến sự việc đã xảy ra. Đây là đặc điểm thể hiện bản chất

9


của người làm chứng. Nếu một người không trực tiếp nhìn thấy hoặc không
biết những nội dung có liên quan đến sự việc xảy ra thì không không thể trở
thành người làm chứng. Vì vậy, người làm chứng là người không thể thay thế,
không thể cử người đại diện tham gia tố tụng thay cho người làm chứng.
Những vấn đề mà người làm chứng đã được trực tiếp nhìn thấy, nghe
thấy hoặc biết đến có ý nghĩa chứng minh, làm rõ nội dung cụ thể của sự việc

đã xảy ra (về thời gian, địa điểm xảy ra sự việc, về đối tượng, hành vi và diễn
biến cụ thể của hành vi..). Tuy nhiên, người trực tiếp nhìn thấy hay biết đến
sự việc không đương nhiên trở thành người làm chứng. Họ phải được cơ quan
có thẩm quyền triệu tập đến, tiến hành lấy lời khai theo trình tự, thủ tục mà
pháp luật quy định. Những quy định về trình tự, thủ tục này sẽ tạo ra mối
quan hệ về mặt pháp lý giữa người làm chứng với cơ quan có thẩm quyền tiến
hành lấy lời khai, từ đó vị trí pháp lý của người làm chứng được xác lập, đồng
thời xác định trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của người làm chứng, xác định
hậu quả pháp lý khi người làm chứng khi có hành vi khai báo gian dối hoặc từ
chối khai báo.
Ở Việt Nam, quy định về người làm chứng từng được ghi nhận trong
Bộ Quốc triều Hình luật thời Lê sơ (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức). Điều
714 Bộ luật này quy định:
Những người làm chứng trong việc kiện tụng nếu xét ra ngày
thường đôi bên kiện tụng là người thân tình hay có thù oán, thì
không cho phép ra làm chứng. Nếu những người ấy giấu giếm ra
làm chứng, thì khép vào tội không nói đúng sự thật. Hình quan,
ngục biết mà dung túng việc đó đều bị tội [51].
Trong thời kỳ Pháp thuộc, người làm chứng được quy định trong Bộ luật
tố tụng áp dụng tại Bắc Kỳ như sau: "Phàm người chứng đã liệt danh trong
đơn khống chế và các người mà quan thẩm phán liệu nghĩ đến chất vấn trong
khi thẩm cứu, thì đều phải bị đòi gọi đến Tòa án để chất vấn" [28, Điều 20].

10


Bộ luật Tố tụng Hình sự các năm 1988, 2003 và 2015 đều có quy định
về người làm chứng. Theo Bộ luật TTHS năm 2003, người làm chứng là
“người biết được những tình tiết có liên quan đến vụ án đều có thể được triệu
tập đến làm chứng”, người làm chứng chỉ có thể là cá nhân. Cá nhân đó biết

được những tình tiết liên quan đến vụ án và chứng minh được vì sao họ biết
các tình tiết đó. Pháp luật không quy định về độ tuổi và giới tính của người
làm chứng, do vậy bất kỳ người nào biết được các tình tiết của vụ án đều có
thể làm chứng. Tuy nhiên, người làm chứng phải có khả năng nhận thức được
sự việc có ý nghĩa cho việc chứng minh, giải quyết vụ án hình sự phải có ý
nghĩa đối với quá trình chứng minh vụ án hình sự và trình bày lại những tình
tiết đã được chứng kiến cho các cơ quan tiến hành tố tụng ghi nhận.
Bộ luật TTHS 2015, tại điều 66 quy định: “Người làm chứng là người
biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và
được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng” [39].
Theo đó, người làm chứng tham gia tố tụng trong vụ án hình sự khi được cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng,
1.3. Nội dung của quyền của ngƣời bị hại và ngƣời làm chứng trong
vụ án hình sự
Quyền là khái niệm chỉ những gì mà theo lẽ công bằng và chính đáng
một người phải được hưởng, được làm, được bảo vệ và được đòi hỏi, yêu cầu
chủ thể khác tôn trọng và bảo đảm. Khái niệm quyền gắn với khả năng tự do
hành động của chủ thể quyền. Nói cách khác, quyền là những gì mà chủ thể
của quyền có thể thực hiện hay từ bỏ.
Như đã đề cập, quyền của người bị hại và người làm chứng thuộc về
những quyền con người mà mang tính tự nhiên, vốn có của họ, được ghi nhận
trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Trong luật nhân quyền quốc tế,
quyền của người làm chứng và người bị hại thuộc về các quyền con người
trong quản lý tư pháp, hay trong tố tụng hình sự.

11


1.3.1. Nội dung quyền của người bị hại trong vụ án hình sự
Theo pháp luật hình sự Việt Nam, người bị hại có những quyền hiến

định và quyền luật định như sau:
- Quyền được bình đẳng trước pháp luật;
- Quyền tố giác tội phạm;
- Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự, các quyền và lợi ích hợp pháp khác;
- Quyền được yêu cầu khởi tố vụ án hình sự;
- Quyền được rút yêu cầu khởi tố; quyền được có người
bào chữa;
- Quyền được đưa tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
- Quyền được thông báo về kết quả điều tra;
- Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ khi tham
gia tố tụng;
- Quyền được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch;
- Quyền được tham gia phiên tòa;
- Quyền được trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
- Quyền được đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo
đảm bồi thường;
- Quyền được trình bày ý kiến về kết luận giám định;
- Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
- Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần
hình phạt đối với bị cáo; quyền kháng cáo bản án, quyết định của
Toà án về phần bồi thường.
Bên cạnh các quyền, người bị hại cũng có các nghĩa vụ nhất định. Ví

12



dụ theo Bộ luật TTHS hiện hành, người bị hại có những nghĩa vụ như: Có
mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; nếu từ
chối khai báo mà không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu trách
nhiệm hình sự.
1.3.2. Nội dung quyền của người làm chứng trong vụ án hình sự
Trước hết, với tư cách là công dân, người làm chứng cũng có những
quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận, ví dụ như quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự và nhân phẩm. Bộ luật hình sự 1999 cũng chỉ rõ một trong những
nhiệm vụ của bộ luật này là “…bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân”
[35, Điều 1] trong đó có quyền và lợi ích hợp pháp của người làm chứng.
Bên cạnh các quy định nói trên, Bộ luật TTHS hiện hành, người làm
chứng có một số quyền đặc thù, cụ thể như quyền yêu cầu cơ quan triệu tập
họ bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền lợi
ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng; quyền khiếu nại quyết định,
hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng; quyền được cơ
quan triệu tập thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định
của pháp luật.
Khái niệm các chi phí khác được cụ thể hoá trong Nghị định số
81/2014/NĐ-CP ngày 14/8/2014 của Chính phủ, theo đó bao gồm chi phí
giám định, định giá, chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch
trong tố tụng....
Bên cạnh đó, người làm chứng còn có một quyền đặc biệt, đó là quyền
miễn trừ làm chứng. Quyền này có cội nguồn sâu xa trong lịch sử xã hội loài
người là một quy định vô cùng nhân văn. Ví dụ, Bộ luật Hình sự hiện hành
của nước ta đã quy định hành vi không tố giác tội phạm của những người là
ông bà, cha, mẹ, con, cháu, anh, chị em ruột, vợ hoặc chồng của kẻ phạm tội
là hành vi tội phạm (trừ trường hợp không tố giác tội phạm xâm phạm an ninh

13



quốc gia hoặc các tội đặc biệt nghiêm trọng). Quy định này thể hiện tính nhân
đạo của Nhà nước, phản ánh khía cạnh đạo đức trong quá trình giải quyết mối
quan hệ giữa nhà nước và công dân.
Quyền miễn trừ làm chứng cũng được đề cập trong pháp luật hình sự và
tố tụng hình sự của đa số quốc gia và trong một số điều ước quốc tế, như
Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền 1948 và Công ước về các quyền dân
sự và chính trị 1966 của Liên hiệp quốc. Hiến pháp của một số nước cũng ghi
nhận quyền này như là nguyên tắc hiến định, thí dụ như Hiến pháp của Liên
bang Nga quy định: “Không ai buộc phải trình bày lời khai chống lại chính
mình, vợ (hay chồng), người thân của mình”. Quy định này của Hiến pháp có
ảnh hưởng sâu rộng trong toàn bộ hệ thống pháp luật. Các nội dung của nó
được thể hiện trong luật nội dung cũng như trong luật TTHS. Cụ thể, BLHS
Liên bang Nga tại Điều 308 quy định: “Người làm chứng không phải chịu
TNHS trong trường hợp từ chối trình bày lời khai chống lại bản thân mình,
vợ hoặc chồng hoặc người thân của mình” [48]. Bộ luật TTHS Liên bang
Đức tại các Điều 52, 53, 54, 55 quy định:
Người làm chứng có quyền từ chối làm chứng trong một số
trường hợp sau: Người thân hoặc họ hàng của bị cáo có thể từ chối đưa
ra chứng cứ nếu thấy rằng việc đó có thể dẫn đến xung đột, ảnh hưởng
tới việc thực hiện bổn phận đạo đức của họ [49, Điều 52]; Những người
làm ở một số nghề nghiệp luật định được quyền từ chối đưa ra chứng
cứ vì lý do bí mật nghề nghiệp. Quy định này được áp dụng đối với linh
mục, luật sư, bác sỹ và các cộng sự của họ [49, Điều 53]. Viên chức
nhà nước, gồm các Thẩm phán và những người làm việc tại các nhiệm
sở, có quyền từ chối đưa ra chứng cứ về những vấn đề bí mật liên
quan đến công việc của [48, Điều 54]; Các người làm chứng không
nhất thiết phải khai báo nếu câu trả lời câu hỏi cụ thể nào đó có thể


14


làm cho họ hoặc một trong số những người họ hàng của họ có nguy cơ
bị truy tố hình sự hoặc kết tội [49, Điều 55].
Pháp luật tố tụng hình sự Nhật Bản cũng quy định người làm chứng
được từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào buộc tội những người thân thích của
họ. Điều 147 Bộ luật TTHS Nhật Bản quy định:
Một người làm chứng có thể từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào
mà có thể nghiêng về hướng buộc tội những người sau đây: Vợ
chồng, người thân ruột thịt trong phạm vi ba đời hoặc người bà con
gần gũi trong phạm vi hai đời của người làm chứng hoặc người đã
có mối quan hệ với người làm chứng; Người giám hộ, người giám
sát của người giám hộ hoặc người phụ trách của người làm chứng;
Người mà được người làm chứng giám hộ, phụ trách hoặc giám sát
người giám hộ của người đó [46, tr. 26]
Trong tố tụng hình sự quyền miễn trừ làm chứng được nhìn nhận ở
ba góc độ:
- Miễn trừ làm chứng như là một đặc quyền pháp lý, có tính chất bất
khả xâm phạm. Một số chủ thể tham gia TTHS có quyền không phải làm
chứng, tức là quyền không trình bày lời khai với tư cách người làm chứng và
không thể bị truy cứu trách nhiệm về việc này;
- Miễn trừ làm chứng như một chế định bảo vệ quyền của những người
tham gia tố tụng;
- Miễn trừ làm chứng như một quyền tố tụng cụ thể [31].
Làm chứng, như đã nói ở trên, có nghĩa là khai báo, cung cấp những
thông tin mà mình biết được về vụ án. Quyền miễn trừ làm chứng bao hàm
quyền im lặng, tức là không trình bày lời khai về bất kỳ tình tiết sự kiện nào
của vụ án khi thấy lời khai của mình có thể được sử dụng để truy cứu TNHS
đối với bản thân mình hoặc đối với người thân của mình. Quyền miễn trừ làm


15


chứng được thừa nhận không phải chỉ vì lợi ích của người làm chứng mà còn
vì mục đích thực hiện tổng thể các quyền tự do dân chủ - một trong những
tiền đề cần thiết và quan trọng bảo đảm một cách hiện thực vấn đề quyền con
người trong TTHS. Quyền miễn trừ làm chứng đồng nghĩa là bảo đảm quyền
về nhân phẩm, quyền bất khả xâm phạm đời tư của công dân trong lĩnh vực
TTHS. Khi giải thích quyền im lặng như là một yếu tố của quyền miễn trừ
làm chứng, Tòa án Châu Âu về quyền con người cho rằng những nội dung
này được các quy phạm điều ước quốc tế thừa nhận và là nền tảng của khái
niệm “thủ tục tư pháp công bằng”.
Cũng theo Bộ luật TTHS hiện hành của Việt Nam, người làm chứng có
những nghĩa vụ sau: Có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án. Trong trường hợp cố ý không đến mà không có lý do chính
đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì
có thể bị dẫn giải. Khai trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án
cho cơ quan có thẩm quyền. Người làm chứng từ chối hoặc trốn tránh việc
khai báo mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo
Điều 308 của BLHS năm 1999, khai báo gian dối thì phải chịu trách nhiệm
hình sự theo Điều 307 của Bộ luật Hình sự.
1.4. Đặc điểm các quyền của ngƣời bị hại, ngƣời làm chứng
Các quyền của người bị hại, người làm chứng cũng là quyền con người,
thể hiện nhu cầu tự nhiên vốn có được đối xử bình đẳng, công bằng, được bảo
vệ an toàn của những đối tượng này trong khi tham gia vào tố tụng hình sự,
đồng thời có một vài đặc điểm riêng mà có thể khái quát như sau:
Thứ nhất, tính phổ biến.
Tính phổ biến của các quyền của người bị hại, người làm chứng thể
hiện ở việc chúng có tính phổ quát, là giá trị và quyền chung của nhân loại.

Con người, không phân biệt quốc gia dân tộc, tôn giáo, địa vị xã hội, thành
phần xã hội… về nguyên tắc đều có quyền này.

16


Quyền của người bị hại, người làm chứng là những quyền con người đã
nhận được sự đồng thuận cao của cộng đồng quốc tế. Mặc dù cho đến nay
chưa có một điều ước quốc tế riêng mang tính ràng buộc nào quy định về
quyền của người bị hại, người làm chứng và các điều ước quốc tế về nhân
quyền cũng chưa có quy định riêng về các quyền này; tuy nhiên Liên hợp
quốc đã ban hành một số văn bản hướng dẫn về bảo vệ người bị hại, người
làm chứng trong đó đề cập đến các quyền của họ. Hướng dẫn tuy về mặt pháp
lý chỉ có hiệu lực khuyến nghị, nhưng các nguyên tắc và quy định của nó hiện
vẫn được các quốc gia tuân thủ triệt để. Hầu hết các quốc gia đã quy định các
quyền của nhóm này trong luật tố tụng hình sự và hình thành cơ chế bảo đảm
và bảo vệ quyền của người bị hại, người làm chứng trong các vụ án hình sự.
Thứ hai, tính đặc thù.
Các quyền của người bị hại, người làm chứng vừa có tính phổ biến
vừa có tính đặc thù, như là hai mặt của một vấn đề. Tính đặc thù thể hiện ở
chỗ tuy các quyền của người bị hại, người làm chứng là giá trị chung của
nhân loại được thế giới thừa nhận và tuân thủ, nhưng ở khía cạnh bảo đảm,
việc thực hiện các quyền này trên thực tế phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh
cụ thể của mỗi quốc gia cũng như phong tục, tập quán văn hóa của quốc gia
đó. Hai đặc tính này của quyền của người bị hại, người làm chứng không
mâu thuẫn, loại trừ nhau mà cùng tồn tại song song. Tuy nhiên, trong khi
tính đến những yếu tố đặc thù, các quốc gia vẫn phải bảo đảm những nguyên
tắc chung nền tảng của các quyền của người bị hại, người làm chứng, bao
gồm nguyên tắc về sự bình đẳng, công bằng và tính tự nhiên, vốn có của các
quyền như đã nói ở trên.

Thứ ba, tính không thể tước đoạt.
Với ý nghĩa là một quyền tự nhiên, vốn có của con người, các quyền
của người bị hại, người làm chứng là thiêng liêng và bất khả xâm phạm.
17


Không chủ thể nào, kể cả các Nhà nước, có thể tuỳ tiện tước đoạt hoặc hạn
chế các quyền này.
Điều đó có nghĩa là các quyền của người bị hại, người làm chứng
không phải là tuyệt đối. Trong một số trường hợp, các quyền này có thể bị
giới hạn để bảo vệ các lợi ích cao hơn, bao gồm lợi ích của quốc gia, cộng
đồng, lợi ích hợp pháp, chính đáng của những người tham gia tố tụng khác.
Tuy nhiên, việc giới hạn quyền phải được quy định trong pháp luật và phải
dựa trên những cơ sở hợp lý.
Thứ tư, tính không thể phân chia.
Tính không thể phân chia xuất phát từ nhận thức rằng tất cả các quyền
con người đều là nhu cầu tự nhiên của con người, đều có tầm quan trọng như
nhau. Về nguyên tắc, không nên coi bất kỳ quyền con người nào có giá trị cao
hơn các quyền con người khác. Tuy nhiên, tùy vào từng hoàn cảnh cụ thể một
số quyền có thể được ưu tiên thực hiện và chú ý bảo vệ hơn. Chẳng hạn, trong
bối cảnh tố tụng hình sự khi mà các quyền của người bị hại, người làm chứng
đang ngày một bị xâm phạm một cách phổ biến thì các nhà nước cần có
những chính sách, pháp luật bảo vệ chặt chẽ quyền này.
Thứ năm, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau
Giữa các quyền của người bị hại, người làm chứng có mối liên hệ chặt
chẽ với các quyền khác của con người trong tố tụng hình sự. Các quyền con
người nói chung về nguyên tắc không thể tồn tại một cách biệt lập mà luôn
liên kết với nhau trong một tổng thể, vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau.
Việc đảm bảo các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần nằm trong mối
liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián

tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác.
Chẳng hạn, khi các quyền của người bị hại, người làm chứng không
được bảo đảm, vụ án hình sự không thể được thực hiện đúng thời gian và
không thể được xử lý một cách chính xác, do đó sẽ dẫn tới vi phạm quyền của
18


những người tham gia tố tụng khác, bao gồm quyền của bị can, bị cáo. Trong
một số trường hợp, việc này còn có thể dẫn đến oan sai nghiêm trọng, ảnh
hưởng đến cả quyền sống của bị can, bị cáo.
Bên cạnh những đặc tính chung như trên, các quyền của người bị hại,
người làm chứng còn có một số đặc điểm riêng như sau:
- Các quyền của người bị hại, người làm chứng gắn với truyền thống tư
pháp của quốc gia. Mặc dù có những nguyên tắc chung, áp dụng phổ biến, với
mỗi quốc gia, hệ thống tư pháp có thể quy định các quyền và cách thức thực
hiện khác nhau với các quyền của nhóm này.
- Các quyền của người bị hại, người làm chứng phát sinh trong quá
trình tham gia tố tụng hình sự. Chỉ khi con người tham gia vào quá trình pháp
lý đặc biệt này thì các quyền đó mới phát sinh. Điều này khiến cho các quyền
của người bị hại khác biệt với nhiều quyền con người khác về mặt thời điểm,
hoàn cảnh và chủ thể.
- Các quyền của người bị hại, người làm chứng đồng thời thuộc về
nhóm các quyền dân sự và nhóm các quyền con người trong tố tụng hình sự
Do thuộc về nhóm các quyền dân sự, các quyền này gắn liền với danh dự,
nhân phẩm của người bị hại, người làm chứng, đòi hỏi các nhà nước phải có
biện pháp bảo đảm, bảo vệ ngay mà không phụ thuộc vào điều kiện, hoàn
cảnh kinh tế của quốc gia. Thuộc về nhóm các quyền con người trong tố tụng
hình sự, các quyền của người bị hại, người làm chứng sẽ được bảo đảm thực
thi theo quy trình tố tụng chặt chẽ. Chủ thể chính có nghĩa vụ bảo đảm các
quyền của người bị hại, người làm chứng là các cơ quan tiến hành tố tụng.

Như vậy, để bảo đảm thực thi hiệu quả các quyền của người bị hại, người làm
chứng, điều kiện đầu tiên là cần phải có một hệ thống pháp luật hình sự quy
định đầy đủ và phù hợp các quyền con người nói chung, quyền của hai nhóm
chủ thể này nói riêng.
- Các quyền của người bị hại, người làm chứng thuộc về quyền của các

19


×