Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp một

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.74 KB, 18 trang )

Phần thứ nhất

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI SKKN:

Đi học là một bước ngoặt lớn trong đời trẻ em. Năm đầu tiên cắp sách  
tới trường, trẻ vô cùng bỡ ngỡ  với việc chuyển hoạt động chủ  đạo từ  vui  
chơi sang học tập. Một trong những hạnh phúc lớn nhất của trẻ  là được 
đến trường, được học đọc, học viết, được vui chơi với bạn bè, ... Trẻ  em  
như trang giấy trắng tinh, Thầy cô giáo là người hướng dẫn các em đặt nét  
vẽ đầu tiên. Do đó, vấn đề rèn luyện chữ viết cho HS Tiểu học là vô cùng  
quan trọng và cấp thiết, bởi, chữ  viết của HS đặc biệt là HS lớp Một sẽ 
đặt nền móng cơ bản cho toàn bộ quá trình học tập, rèn luyện cho Học sinh 
những phẩm chất tốt như: tính kỉ  luật, tính cẩn thận, óc thẩm mỹ  và sáng 
tạo. Cố  Thủ  tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “ Chữ  viết cũng là một biểu  
hiện của nết người. Dạy cho HS viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp  
phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự  trọng đối với mình cũng  
như đối với thầy, cô và bạn đọc bài vở của mình ...”
Ngoài ra, Tập viết còn là một trong những phân môn có tầm quan 
trọng đặc biệt  ở  Tiểu học, nhất là đối với HS lớp Một. Tập viết không 
những có quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập của các môn học khác 
mà còn góp phần rèn luyện một trong những kĩ năng hàng đầu của việc học 
Tiếng việt trong nhà trường đó là kĩ năng viết chữ. Nếu viết đúng, viết  
đẹp, tốc độ  nhanh thì HS có điều kiện ghi chép bài học tốt, nhờ  vậy, kết 
quả  học tập sẽ cao hơn. Viết sai, viết chậm sẽ  ảnh hưởng không nhỏ  tới 
chất lượng học tập.
Nói chung, chữ  viết đẹp của HS là vấn đề  được mọi người trong và 
ngoài ngành Giáo dục quan tâm. Người xưa từng nói:   “ Nét chữ  ­ Nết  
người”­ đã hàm ý về hai vấn đề. Thứ nhất nét chữ thể hiện tính cách con  
người; thứ  hai thông qua việc rèn luyện chữ  viết mà giáo dục nhân cách 
con người. Vì vậy, phong trào “Vở sạch­ Chữ đẹp” vừa là mục đích vừa là 


phương tiện trong quá trình rèn luyện học sinh viết đúng, viết đẹp. Nó góp 
phần vào việc giáo dục toàn diện cho HS ngay từ khi vào lớp Một.
Các bậc cha mẹ  sẽ  hạnh phúc và sung sướng biết bao nhiêu khi nhìn  
vào trang vở tập viết của con trẻ với những dòng chữ đều tăm tắp, đúng và  
đẹp; những trang vở không bị giây mực, không bị quăn mép.
Chữ viết đúng, đẹp là một trong những yếu tố quan trọng nhất để góp 
phần hình thành nhân cách của học sinh đó cũng là mong muốn nguyện 
vọng của toàn ngành và xã hội đặt ra.

1


Đặc biệt là một giáo viên tiểu học, qua một số năm giảng dạy tôi thấy 
chữ  viết của giáo viên có  ảnh hưởng rất lớn tới chữ  viết của học sinh vì 
học sinh tiểu học rất hay bắt chước và chúng thường xuyên xem thầy cô 
giáo của mình là tấm gương để noi theo. Chữ viết của học sinh có quan hệ 
mật thiết tới chất lượng học tập ở các môn học khác. Nếu viết đúng mẫu,  
rõ ràng, tốc độ  nhanh thì học sinh có điều kiện ghi chép bài tốt, nhờ  vậy  
kết quả học tập sẽ cao hơn. Vì vậy, rèn chữ đẹp là việc cần thiết đối với 
giáo viên.
Mặt khác, quan sát thực tế của các lớp trong trường, bản thân tôi nhận 
thấy: chỉ  tiêu các lớp đạt  “Vở  sạch­ chữ  đẹp” chưa cao, vẫn còn tồn tại 
hiện tượng HS viết chưa đúng độ  cao, độ  rộng của từng con chữ; khoảng  
cách giữa các chữ chưa đều, thế chữ chưa chuẩn, ... 
Những lí do nêu trên chính là một trong những nguyên nhân thúc đẩy 
tôi viết SKKN với chủ  đề   “ Một số  biện pháp Rèn chữ   viết cho Học  
sinh lớp Một”.
II/ MỤC ĐÍCH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

­ Tìm hiểu bản chất của các nguyên nhân dẫn đến tình trạng HS viết 

xấu, viết sai và chậm.
­ Tìm hiểu tâm sinh lí lứa tuổi học sinh lớp Một.
­ Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy Tập viết ở tiểu học.
­ Đưa ra các giải pháp, biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và 
học của GV ­ HS trong giờ luyện chữ.

2


Phần thứ hai

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 
CƠ SỞ CHUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I/ CƠ SỞ LÍ LUẬN:        

Đối với HS lớp Một, để  có sự  thành công trong giờ  Tập viết, người  
GV phải hiểu được các yếu tố cảm xúc, tâm lí chi phối việc viết chữ của  
HS. Mỗi chữ  viết đối với các em là một phát minh. Quá trình lĩnh hội và 
thể hiện chữ viết  ở các em sẽ diễn ra rất nhanh nếu viết với tâm lí vui vẻ, 
phấn chấn. Giờ Tập viết phải đảm bảo đúng qui định được xây dựng trên 
cơ  sở  khoa học. Bởi quá trình tập viết của trẻ  lớp Một có quan hệ  đến 
nhiều bộ phận trong cơ thể của các em. Tư  thế ngồi viết có quan hệ  đến 
cột sống, đến phổi, đến lưng, ... cách cầm bút có quan hệ đến các ngón tay,  
bàn tay và cánh tay. Hình dáng kích thước chữ trong vở Tập viết có quan hệ 
đến mắt các em ... 
1. Đặc điểm đôi tay của trẻ lớp Một khi viết:
So sánh bàn tay người lớn với bàn tay trẻ  em ta có thể  thấy những 
điểm khác nhau rõ rệt: Các cơ  xương của người lớn đã hoàn chỉnh nên có  
thể cử động rõ ràng theo một hướng. Ngược lại, cơ và xương bàn tay của  

trẻ  đang  ở  độ  phát triển, nhiều chỗ  còn là sụn nên cử  động của các ngón 
tay còn vụng về, chóng mệt mỏi. Khi cầm bút, đối với trẻ lớp Một, các em 
có tâm lí sợ, điều này gây nên phản  ứng tự  nhiên là các em cầm bút rất  
chặt, các cơ  tay căng nên rất khó di chuyển. Do vậy, dường như  khi viết  
các em viết bằng toàn thân chứ không chỉ mình tay (khi viết môi mím, mắt  
tập trung cao độ, tăy nắm chặt bút, ...)
2. Đặc điểm đôi mắt của trẻ lớp Một khi viết:
Trẻ tiếp thu hình ảnh của chữ viết qua mắt nhìn. Khi viết các em phải 
phát hiện lại hình ảnh chữ viết đã thu được qua mắt lên đầu rồi mới ghi lại 
nó trên mặt giấy. Vì vậy, nếu nét chữ  mẫu trình bày với kích thước quá 

3


nhỏ hoặc ánh sáng kém thì bắt buộc các em phải cúi sát xuống để nhìn cho  
rõ chữ khi tập viết, từ đó HS dễ mắc bệnh cận thị.
Ngoài  chức năng ghi  lại hình của chữ  viết, mắt còn có nhiệm vụ 
hướng dẫn tác động để  tái hiện các đường nét của chữ  viết. Trong thời 
gian đầu có thể các em nhận ra đúng hình dạng của mẫu chữ. Chỉ sau một 
số  lần luyện tập, số  lần nhắc đi nhắc lại nhiều thì bản thân các em mới 
chép lại đúng mẫu.
3. Khả năng tập trung, chú ý của trẻ lớp Một:
Khả  năng tập trung của các em còn chưa cao, tư  duy chưa phát triển  
đều, các thao tác trí tuệ của các em chưa hoàn chỉnh. Vì thế, trong quá trình 
giảng bài, phân tích chữ mẫu GV phải phân tích rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn  
và chính xác. Ngoài ra, GV cần chú ý đến số lượng bài, số lượng chữ viết  
có trong một bài phải phù hợp với các em.
II/ CƠ SỞ THỰC TIỄN:

1. Thuận lợi:

­ HS lớp Một mới được đi học nên các em rất thích đến trường để 
học, ham học, ham viết.
­ Phụ  huynh HS lớp Một­ vì con mới được đến trường năm đầu nên 
cũng rất quan tâm đến việc học tập của con em mình.
­ Môi trường giao tiếp, bố mẹ, thầy cô giáo, phương tiện thông tin đại 
chúng ... đều biết Tiếng việt.
­ Nhà trường, ngành giáo dục đều quan tâm đến chữ viết của HS, nhất  
là HS lớp Một.
­ Nhà trường đã đầu tư cơ sở vật chất: ánh sáng (số lượng bóng điện 
đủ để chiếu sáng), bảng chữ mẫu (với nhiều kiểu chữ mẫu khác nhau), hệ 
thống bảng phụ ...
­ Mỗi GV được trang bị bộ chữ dạy Tập viết.
­ GV được tham dự  những chuyên đề  về  Tập viết và các cuộc thi 
“Viết chữ  đẹp”, “Triển lãm vở  sạch chữ  đẹp” để  học hỏi, trao đổi kinh 
nghiệm và trau dồi kiến thức.
­ Hàng tuần HS đều có thêm một tiết học dành cho luyện viết vào 
buổi học thứ hai.
­ Nội dung các bài Tập viết rõ ràng, cụ thể và phù hợp với đối tượng  
HS.
2. Khó khăn:
a/ Về phía GV:
­ Còn tồn tại một số ít GV chưa hiểu rõ bản chất của các nguyên tắc 
và PPDH Tập viết, thường có quan niệm xem nhẹ giờ dạy viết, luôn coi đó  
là một phân môn phụ. Điều đó đã dẫn đến tình trạng GV Tiểu học có 
những hiểu biết mơ  hồ  về  qui trình dạy Tập viết cho HS Tiểu học nói  

4


chung và HS lớp Một nói riêng.Chưa có kĩ năng, kĩ xảo cho các bước lên  

lớp của một giờ dạy Tập viết.
­ GV chưa hiểu rõ được vai trò, tác dụng của một số phương tiện trực 
quan trong giờ dạy Tập viết như bảng con, chữ mẫu, ...
­ Chưa có sự  thống nhất về  các kiểu chữ, mẫu chữ, tên gọi của các  
nét, của con chữ, ... trong một giờ dạy. VD: Đưa quá nhiều tên gọi cho một  
nét ­ Nét “  ’’ được GV gọi  với nhiều tên: nét khuyết trên, nét khuyết phải,  
nét bụng trên, ...
­ Khi dạy Tập viết, GV chưa có sự  phối hợp đồng bộ  trên các môn 
học khác. Bản thân GV nghĩ rằng để HS viết đẹp chỉ cần chú ý dạy tốt giờ 
Tập viết và chỉ cần HS viết đúng, đẹp, trình bày sạch sẽ các bài viết trong 
vở  Tập viết là đạt yêu cầu. GV chưa phát huy được tác dụng luyện chữ 
của HS  ở  các môn học khác. VD: Phân môn Tập đọc­ Học vần: giúp HS 
phát âm đúng, đọc đúng, hiểu đúng, để  từ  đó dẫn đến viết đúng, trình bày 
đúng. Hoặc phân môn Chính tả: khi học ở phân môn này HS nắm được các  
nguyên tắc chính tả để viết đúng, viết đẹp
­ Một số GV chưa có sự phối hợp chặt chẽ với gia đình HS trong lớp 
chủ nhiệm, điều đó hạn chế việc tạo điều kiện về tinh thần, vật chất cho  
HS học tập và rèn luyện chữ viết trong phong trào “Vở sạch ­ Chữ đẹp ’’
­ Đa số GV trong giờ dạy Tập viết chỉ chú ý đến kết quả, chất lượng  
chữ viết của HS, coi nhẹ việc hình thành nề nếp học của HS trong giờ Tập  
viết. Chưa chú ý đến tư  thế  ngồi viết của HS. Hiện nay, phần đông HS 
ngồi chưa đúng tư thế, cách cầm bút sai, vị trí đặt vở không đúng, ...
b/ Về phía HS:
­ Các em vào lớp Một là quá trình thay đổi môi trường học từ    mẫu  
giáo lên Tiểu học, thậm chí có em còn chưa qua mẫu giáo, nên hệ thống về 
chữ viết chưa thống nhất. Có em không biết viết, hoặc chỉ biết viết chữ in, 
chưa xác định đúng khoảng cách dòng kẻ, viết không đúng mẫu chữ: chưa 
xác định được điểm đặt bút, dừng bút khi viết chữ; chưa xác định được  
khoảng cách các con chữ hoặc các chữ trong một từ; các em viết sai về độ 
cao, thế  chữ; chưa biết viết nối các con chữ  (ch, th, ph, ng, ngh, gh, ...). 

Tóm lại, trình độ kiến thức ban đầu của các em không đồng đều.
­ HS chưa thực hiện tốt, nghiêm túc các qui trình viết trong giờ  Tập  
viết:
+ Tư thế ngồi.
+ Cách cầm bút.
+ Vị trí đặt vở khi viết chữ.
­ Mặt khác, chuyển từ  môi trường hoạt động vui chơi là chính sang 
môi trường với hoạt động học là chủ đạo, các em phải viết nhiều hơn, gây 
mỏi tay, mỏi mắt, ... dẫn đến tình trạng nản chí, ngại viết.

5


­ Phụ huynh chưa nắm được mẫu, qui trình viết của chữ mới nên hạn  
chế trong việc hướng dẫn, rèn luyện con mình viết ở nhà.
III/ CƠ SỞ GIÁO DỤC HỌC:

Khi dạy Tập viết ở Tiểu học, GV tuỳ theo kinh nghiệm và thực tế có 
thể áp dụng các PPDH khác nhau. Trong một bài dạy GV có thể vận dụng 
cùng một lúc nhiều PP khác nhau nhưng cần lưu ý phối hợp nhịp nhàng các  
PP đó, cần phát huy hết được mặt  ưu của từng PP, hạn chế  mặt nhược.  
Tuy nhiên, các PP sau đây thường được quan tâm, áp dụng nhiều hơn cả.
1. Phương pháp trực quan:
­ Đây là phương pháp GV có thể vận dụng ở bước giới thiệu bài, phân 
tích, so sánh chữ cái, luyện tập củng cố của tiết dạy tập viết. Đối với PP 
này, GV giúp HS khắc sâu biểu tượng về chữ bằng nhiều con đường: mắt  
nhìn, tai nghe, tay luyện tập. Qua đó, HS sẽ  chủ động phân tích hình dáng,  
kích thước, cấu tạo theo mẫu chữ, tìm được sự  giống nhau và khác nhau 
của chữ  cái đang học với chữ  cái đã học trước đó trong cùng một nhóm 
bằng PP so sánh tương đồng.

Sử  dụng PP trực quan trong dạy tập viết đối với HS lớp Một là cần 
thiết vì nhận thức của trẻ còn mang tính cụ thể. Với phương tiện trực quan  
chủ yếu ở các giờ tập viết là chữ mẫu: chữ mẫu in sẵn, chữ mẫu phóng to 
trên bảng, chữ mẫu trong vở tập viết, hộp chữ mẫu, ... giúp trẻ có chỗ dựa 
cho hoạt động tư  duy bổ  sung vốn hiểu biết cho trẻ viết đúng, rõ ràng và 
đẹp.
 Một số yêu cầu cơ bản khi sử dụng PP trực quan:
­ Phương tiện trực quan phải phù hợp với từng giai đoạn của giờ tập 
viết, sử dụng đúng lúc, đúng mức độ.
­ Phương tiện trực quan phải đạt tiêu chuẩn cơ  bản đúng, rõ ràng và 
đẹp.
­ GV có ý thức tự  giác viết đúng, viết đẹp trên bảng lớp, trong lời  
nhận xét khi chấm bài cho HS.
 Tác dụng của  PP trực quan:
­ Chữ  mẫu phóng to trên bảng giúp HS dễ  quan sát, từ  đó tạo điều  
kiện để  các em phân tích hình dáng, kích thước và các nét cơ  bản cấu tạo 
chữ cái cần viết trong bài học.
­ Chữ mẫu của GV viết trên bảng lớp giúp HS nắm được thứ tự viết 
các nét chữ  của từng chữ  cái, cách nối các chữ  cái trong một chữ  nhằm  
đảm bảo yêu cầu viết liền mạch, viết nhanh.
­ Chữ  mẫu trong hộp chữ  giúp HS kết hợp mắt nhìn, tay sờ  để  phối 
hợp các thao tác viết chữ một cách đồng bộ.
­ Chữ viết của GV khi chữa bài, chấm bài cũng được HS quan sát như 
một loại chữ mẫu, vì thế  GV cần ý thức viết lời phê với những dòng chữ 

6


ngay ngắn,  đúng mẫu, rõ ràng có gạch chân ngay ngắn bên dưới điểm 
chấm.

2. Phương pháp đàm thoại ­ gợi mở:
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của tiết học. 
Đây chính là phương pháp GV sử  dụng một hệ  thống câu hỏi để  hướng 
dẫn HS suy nghĩ và trả  lời câu hỏi, từ  đó HS sẽ  tự  mình tìm ra kiến thức 
mới.
Sử dụng phương pháp này giúp HS tích cực, chủ  động suy nghĩ trong 
học tập. Lớp học sôi nổi, gây hứng thú học cho HS, rèn kĩ năng diễn đạt 
bằng lời nói.
Một số yêu cầu cơ bản khi sử dụng PP đàm thoại, gợi mở.
­ Câu hỏi phải phù hợp với từng đối tượng HS.
­ Câu hỏi rõ ràng, chính xác, thể hiện rõ  mục đích, yêu cầu nội dung  
của bài học.
­ Với những câu hỏi khó GV cần định hướng cách trả  lời cho HS.  
Tránh để thời gian “chết” sẽ ảnh hưởng đến tâm lí của trẻ, không gây hứng 
thú cho trẻ học tiếp, làm ảnh hưởng đến không khí giờ học.
3. Phương pháp thực hành­ luyện tập:
Đây là Phương pháp giúp HS tái hiện lại kiến thức vừa được học để 
trau dồi kĩ năng viết chữ. Sử dụng Phương pháp này giúp HS từng bước có  
được qui trình viết chữ và cách trình bày. Có 4 hình thức luyện tập:
+ Luyện tập trên bảng lớp.
+ Luyện tập vào bảng con của HS.
+ Luyện tập viết vào vở tập viết.
+ Luyện tập viết khi học các môn học khác.
Một số yêu cầu cơ bản khi sử dụng PP thực hành­ luyện tập:
­ Nội dung luyệntập phải được GV chuẩn bị chu đáo.
­ Việc hướng dẫn HS thực hành luyện tập cần tiến hành từ thấp đến 
cao.
­ GV cần tổ chức cho HS được luyện tập nhiều trong một tiết học.
­ Không chỉ dừng  ở chỗ thực hành­ luyện tập rèn nét chữ  mà GV cần 
luôn luôn chú ý đến tư  thế cầm phấn, cầm bút, tư  thế  ngồi viết đúng của  

HS.
­ Phương pháp luyện tập viết chữ  cần được củng cố  thường xuyên 
trong tất cả các môn học.
­ Phương pháp này đòi hỏi  ở  người GV cần có sự  kiên trì, cẩn thận, 
lòng yêu nghề, mến trẻ.

7


CHƯƠNG 2
MỘT SỐ GIẢI PHÁP

8


Để phát huy thuận lợi và khắc phục những khó khăn, tồn tại nêu trên, 
qua những năm dạy học lớp một, qua quá trình học hỏi kinh nghiệm của 
các đồng chí GV trong trường, trong TP; tham khảo ý kiến của Ban giám 
hiệu, bản thân tôi đã rút ra một số kinh nghiệm về “ Rèn chữ viết cho học  
sinh lớp Một” như sau:
1. Nâng cao chất lượng đội ngũ GV:
­ Là một Giáo viên tiểu học cần có ý thức viết đúng, viết đẹp. Phải có 
sự  phấn đấu kiên trì, rèn luyện thường xuyên không mệt mỏi trong việc  
uốn nắn từng nét chữ, con chữ. Quá trình rèn luyện chữ  viết của GV tiến  
hành đồng bộ trên cả hai hình thức: rèn luyện chữ viết trên bảng lớp và rèn  
luyện chữ viết trên giấy.
Bản thân mỗi GV cần nắm vững những nội dung trọng tâm của PP 
dạy học tập viết  ở  tiểu học. Có ý thức tự  giác, đầu tư  chuẩn bị  cho một  
tiết dạy. trong quá trình dạy và học tập viết nên đưa ra những mẩu chuyện, 
các giai thoại lịch sử về các danh nhân trong việc rèn luyện chữ  viết như:  

Cao Bá Quát, Thần Siêu luyện chữ  để giáo dục HS học tập theo.
Tự trau dồi, tìm hiểu các kiến thức cơ bản có liên quan đến PPDH tập 
viết ở trường tiểu học.
2. Xây dựng nề nếp trong giờ tập viết cho HS:
­  Thực hiện nghiêm chỉnh các qui trình khoa học về tập viết:
+ Tư thế ngồi viết.
+ Cầm bút đúng cách.
+ Vị trí đặt vở viết.
­ Tham gia đầy đủ  các phong trào, các cuộc thi Viết chữ  đẹp do Nhà 
trường, phòng GD & ĐT Thành phố, các cơ quan đoàn thể phát động.
­ Từng bước tự  hình thành cho bản thân tính cẩn thận, lòng kiên trì, 
khiếu thẩm mĩ, óc sáng tạo, biết quí trọng và giữ  gìn tiếng nói, chữ  viết  
của dân tộc Việt Nam.
3. Chuẩn bị điều kiện, vật chất để học sinh tập viết:
Để  làm tốt được công tác chuẩn bị  điều kiện, vật chất để  HS học 
viết, ngay từ dầu năm học, bản thân tôi đã đưa kế hoạch, báo cáo với BGH 
Nhà trường, sau đó, buổi Họp phụ huynh đầu năm tôi cũng đã đưa ra thông 
qua phụ huynh.
a/ Ánh sáng phòng học:
­ Phòng học phải đủ ánh sáng cho mọi HS ngồi học theo qui định của  
vệ sinh học đường.
­ Độ chiếu sáng trong không gian lớp học từ 200­ 500lux.
­ Đối với phòng học thiếu ánh sáng tự  nhiên có thể  sử  dụng ánh sáng 
nhân tạo. Mỗi phòng cần có 4 bóng đèn tròn 200W hoặc 4 đèn  ống (đèn 
tuýp) 1,2m.
b/ Bảng lớp:

9



học.

­ Bảng lớp được treo  ở  độ  cao vừa phải ngang tầm với đầu HS ngồi  

­ Kích thước tối thiểu của bảng 1,2m x 2,4m
­ Chất lượng của bảng: Bảng từ  chống lóa ... trên bảng có dòng kẻ 
phù hợp: bên phải là dòng kẻ ô li nhỏ giống trong vở ô li của HS, giúp GV 
dễ dàng phân tích kích cỡ chữ cho HS.
c/ Bàn ghế học sinh:
­ Đầy đủ  về  số  lượng và đảm bảo về  chất lượng: Trung bình 2 HS/ 
bàn.
­ Kích thước bàn ghế phải phù hợp với độ  cao trung bình của HS lớp  
Một.
d/ Bảng con, phấn viết, giẻ lau:
­ Chất lượng: Yêu cầu HS dùng bảng Mic ­ hai mặt bảng có dòng kẻ 
li phù hợp trong quà trình dạy HS viết chữ... Phấn hộp 10 viên, phấn Mic  
hoặc Thiên Long. Không dùng phấn cứng quá, phấn kém chất lượng, có 
sạn, ... Giẻ lau phải mềm, sợi bông, thấm nước, giữ được độ ẩm vừa phải, 
có thể gấp lại nhiều lần, độ dày thích hợp và luôn luôn sạch.
­ Số lượng: Bảng con, giẻ lau đảm bảo đủ  cho từng HS (1 cái /1HS)  
riêng phấn đảm bảo đủ 2­ 3 viên/1 HS.
e/ Vở tập viết và bút:
­ Chất lượng: Vở tập viết phải do nhà XBGD ấn hành hàng năm. Giấy 
viết đảm bảo không bị thấm mực, có độ dai vừa phải, dòng kẻ ngay ngắn, 
đặc biệt chữ mẫu phải đúng chuẩn. Ngòi bút phải gọn nét (bút chì), đối với  
bút mực, yêu cầu ngòi không thanh quá cũng không đậm quá, mực xuống 
đều, kích thước thân bút phải tương  ứng với kích thước bàn tay HS lớp 
Một.
­ Số  lượng: Vở  viết luôn đủ  cho từng HS  ở  mỗi giai đoạn (Tập viết 
tập 1, Tập viết tập 2). Riêng bút, mỗi HS phải có hai chiếc.

4. Thống nhất tên gọi các nét cơ bản:
Trong giờ dạy Tập viết, GV cần có sự thống nhất tên gọi các nét một 
cách rõ ràng để HS dễ nhớ, không bị nhầm lẫn, tránh tình trạng có 2 ­ 3 tên  
gọi cho một nét. VD: Nét “   “ GV lại có nhiều tên gọi: Nét khuyết trên, nét  
bụng trên, nét bụng phải.
­ Nét sổ thẳng:
­ Nét cong hở trái:
­ Nét xiên phải:
­ Nét cong hở phải:
­ Nét xiên trái:
­ Nét cong kín:
­ Nét móc xuôi:
­ Nét khuyết trên:
­ Nét móc ngược:
­ Nét khuyết dưới:
­ Nét móc hai đầu:
­ Nét thắt giữa:
5. Phối kết hợp với Phụ huynh học sinh.

10


Để  giúp HS luôn có ý thức “Giữ  vở  sạch – viết chữ  đẹp” ngay cả   ở 
nhà thì việc phối kết hợp với Phụ  huynh HS thường xuyên là một trong  
những biện pháp mang lại kết quả cao. Chính vì vậy, ngay từ đầu năm học,  
buổi họp Phụ  huynh HS đầu năm, tôi đã thông báo tới Phụ  huynh một số 
yêu cầu về VSCĐ:
Một số yêu cầu đánh giá về Vở sạch:
­ Vở viết đủ bài học theo thời khóa biểu.
­ Bài viết trình bày khoa học, rõ ràng, sạch đẹp, không bỏ giấy, không 

giây mực, không được tẩy xóa hoặc bị nhòe, bẩn.
­ Bìa vở  phải phẳng, không quăn mép, vở  phải bọc và dán nhãn đầy 
đủ, không được xé vở hoặc để long bìa.
Một số yêu cầu đánh giá về Chữ đẹp:
­ Chữ  viết đúng mẫu chữ, đúng cỡ  chữ, thống nhất một kiểu chữ 
( kiểu chữ đứng hoặc kiểu chữ nghiêng)
­ Các nét chữ phải đều, chữ viết có sự liên kết giữa các con chữ trong  
một chữ.
­ Chữ viết thẳng hàng, khoảng cách giữa các con chữ phải đều nhau.
6. Khi rèn chữ  viết cho HS, GV phải có sự  phối hợp dạy đồng bộ  
trên các môn học khác. 
VD : Phân môn Tập đọc ­ Học vần : Giúp HS phát âm đúng, đọc đúng, 
hiểu đúng, để viết đúng, trình bày đúng.
­ Phân môn Chính tả : Giúp HS nắm được các nguyên tắc Chính tả để 
viết đúng, viết đẹp.
7. Bản thân có ý thức xây dựng phong trào " Vở  sạch ­ Chữ  đẹp"  
ngay từ đầu năm học.
­ GV chưa đề  ra chỉ  tiêu phấn đấu cho bản thân và lớp phụ  trách đạt 
thành tích cao về " Giữ vở sạch  ­ Viết chữ đẹp ".
­ GV hướng dẫn HS thực hiện các qui định về  "Vở sạch ­ Chữ đẹp"  
thường xuyên trong các môn học, bài học.
­ Giáo viên động viên HS trong lớp hưởng  ứng tích cực các qui định 
cuộc thi về " Vở sạch ­ Chữ đẹp" do trường tổ chức.
­ Phát động Phong trào thi đua “Giữ vở sạch ­ viết chữ đẹp” giữa các 
tổ theo 4 đợt/ năm.
8. Yêu nghề “Trồng người”, tỉ mỉ với việc rèn chữ viết:
­ Bản thân có DS theo dõi chữ viết của từng HS trong lớp.
­ Có sổ ghi nhật kí chữ viết: GV ghi lại sự tiến bộ của HS, ghi lại lỗi  
sai của từng HS, … để từ đó đưa ra bước khắc phục.
­ GV in nhãn vở, bọc dán nhãn đồng loạt cho HS


11


­ Giai đoạn đầu, khi HS viết các nét cơ bản: VD: Nét khuyết trên “   “, 
nét cong trái “    “  …  tôi yêu cầu HS nhớ tên từng nét, qui trình viết từng 
nét.
­ Giai đoạn viết con chữ: VD: o, ô, c, b, … Tôi chú trọng vào phân tích,  
cấu tạo từng chữ để  HS viết từng nét trong mỗi con chữ đúng: đúng điểm 
đặt bút, dừng bút, điểm liên kết và giao, cắt giữa các nét.
­ Giai đoạn HS viết từ, câu: Khi này HS đã nắm chắc cách viết của 
từng con chữ, khi rèn viết cho HS, tôi chú trong vào bước hướng dẫn HS  
viết nối giữa các con chữ  trong một chữ. Các em nắm chắc được khoảng  
cách giữa các chữ trong từng từ, từng câu, khoảng cách giữa các con chữ.
­ Trường hợp nhiều HS sai lỗi giống nhau, GV sẽ tách nhóm để luyện.
­ Trường hợp HS sai các lỗi cơ bản của từng chữ như: nét khuyết viết  
chưa đúng: độ  rộng hẹp, ngửa chữ, …hoặc viết liên kết các chữ  ghép: nh, 
th, kh, ngh, … liên giữa các con chữ chưa đúng. Bản thân tôi có biện pháp: 
tách riêng các chữ HS viết hay sai, viết mẫu lại để HS luyện riêng, khi HS  
viết đúng, tôi mới cho HS viết liên kết chữ.

12


CHƯƠNG 3
DẠY THỰC NGHIỆM
I/ MỤC ĐÍCH THỰC NGHIỆM:

Thông qua thực nghiệm tôi muốn làm rõ một số vấn đề sau:
­ GV cần đổi mới PPDH: Lấy học sinh làm trung tâm, GV là người tổ 

chức hướng dẫn, HS tự  tìm tòi khám phá kiến thức mới. Cần đưa Công 
nghệ thông tin vào chương trình dạy tập viết.
­ GV nhận thức đúng đắn về phân môn tập viết: Tập viết là một trong 
những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt.
­ Nhận thức đúng về nề nếp và phong trào “Vở sạch ­ Chữ đẹp”.
II/ NỘI DUNG THỰC NGHIỆM:

1. Nội dung chương trình:
­ Học sinh viết các chữ  cái cỡ  vừa, viết các vần, tiếng, từ   ứng dụng 
cỡ vừa và cỡ nhỏ.
­ Tô các chữ hoa và viết các chữ số cỡ vừa.
­ Biết viết đúng và rõ ràng các chữ thường, ghi dấu thanh đúng vị trí.
2. Nội dung thực nghiệm:
Chọn 2 lớp thực nghiệm: 
 Lớp 1A: Sĩ số: 38 HS do cô Lê Thị Lệ chủ nhiệm
 Lớp 1B: Sĩ số: 38 HS do cô Nguyễn Thị Kim Nhung chủ nhiệm
­ Thời gian thực nghiệm: 1 năm (năm học 2010­ 2011)
­ Tổ chức theo dõi, kiểm tra kết quả “Vở sạch­ Chữ đẹp” của lớp 1A,  
lớp 1B ( 3 đợt/ năm).
­ Tổ chức cho học sinh dự thi các bài thi Viết chữ đẹp (3 bài).
­ Kiểm tra theo dõi, đánh giá sự  chuyển biến của từng đối tượng học  
sinh trong lớp thực nghiệm.
­ GVchủ nhiệm hai lớp thực nghiệm có hồ sơ theo dõi chi tiết từng bộ 
vở của mỗi học sinh
III/ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM:

13


1. Kết quả  về  chất lượng  “Vở  sạch­ Chữ  đẹp”  trong quá trình  

triển khai thực nghiệm:
.BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐIỀU TRA CHỮ VIẾT CỦA HS
ĐẦU NĂM HỌC 2010- 2011

L HS dự 
ớp
KT
A

B

1

Xếp loại chữ viết
A
B
16
22
55,3%
44,7%

38

1

C
0
0%

A

38
100

Xếp loại vở
B
0
0%

C
0
0%

%
15
39,5%

38

23
60,5%

0
0%

%

38
100

0

0%

0
0%

BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ “ VỞ SẠCH - CHỮ ĐẸP” HKI
NĂM HỌC 2010- 2011

p

Lớ

1A
1B

HS dự 
KT
38
38

A
21
55,3
%
23
60,5
%

Xếp loại chữ viết
B

17
44,7
%
15
39,5
%

C
0
0%

%

0
0%

A
38
100
38
100

Xếp loại vở
B
0
0%
0
0%

C

0
0%
0
0%

%

BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ “ VỞ SẠCH - CHỮ ĐẸP” GIỮA HKII (TUẦN 27)
NĂM HỌC 2010- 2011

p

Lớ

1A
1B

HS dự 
KT
38
38

A
21
55,3
%
28
73,7
%


Xếp loại chữ viết
B
17
44,7
%
10
26,3
%

C
0
0%

%

0
0%

A
30
100
31
100

Xếp loại vở
B
0
0%
0
0%


C
0
0%
0
0%

%

2. Kết quả về các bài dự thi của học sinh:
Trong quá trình thực nghiệm, tôi có tổ chức cho học sinh thực nghiệm  
dự thi 3 đợt. 
Tổng số học sinh dự thi: 76 HS
Đợt 1: Tổ chức vào ngày 07/ 10/ 2010
Đợt 2: Tổ chức vào ngày 03/ 12/ 2010
Đợt 3: Tổ chức vào ngày 18 /02/ 2011

14


Kết quả như sau:
thi

                                                   Đợt 

Đợt 1

Đợt 2

Đợt 3


TS bài dự thi
Tổng số bài đạt điểm giỏi 
( điểm 9­ 10)

32HS
42,1%

39HS
51,3%

49HS
64,5%

Tổng số bài đạt điểm khá
( điểm 7­ 8)

33HS
43,4%

30HS
39,5%

24HS
31,6%

Tổng số bài đạt điểm TB 
( điểm 5­ 6)

10 HS

13,2%

7 HS
9,2%

3 HS
3,9%

Tổng số bài đạt điểm dưới TB

1HS
1,3%

0HS
0%

0HS
0%

3. Một số thành tích đáng ghi nhận của lớp thực nghiệm:
Nhìn chung các giờ dạy Tập viết đều đạt kết quả  tốt. Trong giờ học 
đã phát huy được tâm lí ham viết của học sinh. Các em luôn thích thú, say 
mê trong phong trào “Viết chữ đẹp ­ Giữ vở sạch”
Các em đạt thành tích cao trong phong trào “Vở sạch­ Chữ đẹp”:
Lớp   1A:   Em:   Phạm   Nguyễn   Trường   Giang,   Nguyễn   Khánh   Linh, 
Trịnh Thu Hồng, Nguyễn Mai Phương, Nguyễn Phương Thảo, ...
Lớp 1B: Em: Nguyễn Phương Anh, Nguyễn Thảo Anh, Hoàng Thị 
Thùy Vi, Nguyễn Hoàng Bảo Ngọc, Nguyễn Anh Đức,  ...
Các em luôn đạt điểm tuyệt đối trong 3 đợt thi:
Lớp 1A: Em: Vũ Đình Huy, Phạm Nguyễn Trường Giang, Nguyễn  

Khánh Linh, Trịnh Thu Hồng, ...
Lớp 1B: Em: Nguyễn Phương Anh, Nguyễn Anh Đức, Lê Thảo Nhi, 
Hoàng Thị Thùy Vi,  ...
Các em có nhiều cố  gắng trong quá trình rèn luyện chữ  viết, kết quả 
chữ viết đã chuyển biến rõ rệt :
Loại B lên loại A:  Lữ  Trang Ly, Lê Bảo Châu, Lê Thu Huyền, Ngô 
Tiến Dũng,  Lê Thị Như Quỳnh, Lê Đình Hiếu, Lê Hữu Ngọc Quang, ...
Loại C lên loại B: Đàm Thị Hồng Nhung

15


Phần thứ ba

KẾT LUẬN – KHUYẾN NGHỊ
  Để  nâng cao chất lượng chữ  viết của học sinh tiểu học chúng ta  
không thể làm trong ngày một ngày hai mà phải có sự nỗ lực hết mình của 
các thầy cô giáo.
 Để thực hiện tốt phong trào “Vở sạch­ Chữ đẹp” đòi hỏi cả một quá 
trình phấn đấu lâu dài, liên tục, không biết mệt mỏi của tất cả  các thành 
viên trong nhà trường. Nhà trường phải có chiến lược lâu dài cho từng 
khâu, từng giai đoạn trong công tác “Rèn nét chữ­ Luyện nết người” tránh 
tình trạng nóng vội, đốt cháy giai đoạn.
Dạy học sinh lớp Một nắm chắc qui trình viết các nét cơ bản ngay từ 
đầu năm học. Giờ tập viết ở tiểu học không chỉ đòi hỏi người GV viết chữ 
đẹp, hiểu biết giỏi về chuyên môn mà còn cần sự kiên trì, cẩn thận và lòng 
yêu mến trẻ. Bản thân người GV phải tận tâm, nhiệt tình trong công tác 
giảng dạy, kiên trì bền bỉ trong hướng dẫn HS luyện viết.

16



 Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp để trau dồi kiến 
thức chuyên môn. Phối hợp với phụ huynh để  rèn HS viết bài ở  nhà trong  
ngày nghỉ.
Bản thân mỗi GV cần nắm vững những nội dung trọng tâm của PP 
dạy học tập viết  ở  tiểu học. Có ý thức tự  giác, đầu tư  chuẩn bị  cho một  
tiết dạy. trong quá trình dạy và học tập viết nên đưa ra những mẩu chuyện, 
các giai thoại lịch sử về các danh nhân trong việc rèn luyện chữ  viết như:  
Cao Bá Quát, Thần Siêu luyện chữ  để giáo dục HS học tập theo.
Tự trau dồi, tìm hiểu các kiến thức cơ bản có liên quan đến PPDH tập 
viết ở trường tiểu học.
 ­ Luôn đặt ý thức viết đúng, viết đẹp cho từng GV. 100% GV trong  
nhà trường nắm vững những nội dung trọng tâm của PPDH tập viết.
­ Thường xuyên thăm lớp, dự  giờ  đội ngũ Gv trong nhà trường. Tổ 
chức các cuộc trao đổi, nhận xét về chữ viết, giờ dạy.
­ Động viên, tạo điều kiện cho GV tham gia đầy đủ các chuyên đề về 
chữ viết, các lớp bồi dưỡng chuyên môn, đổi mới PPDH, ...
­ Đẩy mạnh phong trào  “Vở  sạch ­ chữ  đẹp”  trong nhà trường để 
từng bước nâng cao chất lượng chữ  viết của HS tiểu học, nâng cao giờ 
dạy tập viết cho giáo viên.
­ BGH kiểm tra VSCĐ bằng các hình thức khác nhau: định kì, báo 
trước, không báo trước, nghe báo cáo...
­ Đưa CNTT vào chuyên đề giảng dạy tập viết.
­ Sau mỗi đợt thi đua có sơ  kết, tổng kết, đánh giá, tuyên dương khen 
thưởng kịp thời để động viên khích lệ GV, HS.
­ Tổ chức các chuyên đề, hội thảo triển khai kinh nghiệm về việc rèn 
chữ viết, phong trào “Vở sạch ­ chữ đẹp” giữa các nhà trường Tiểu học.
Công tác chăm lo bồi dưỡng đội ngũ các thầy cô giáo làm công tác  “vở 
sạch­ chữ đẹp” là quan trọng. Chất lượng chữ viết của GV, các thói quen,  

các nề nếp làm việc có kế hoạch, khoa học có tác dụng rất lớn, nó sẽ khắc 
sâu vào tâm trí của HS trong những ngày tháng ngồi trên ghế nhà trường.
Trên đây là một số  biện pháp cơ  bản để  giúp HS lớp Một rèn luyện  
chữ viết, giúp các em viết đúng, viết đẹp. Bản thân rất mong nhận được sự 
trao đổi, đóng góp ý kiến của đồng nghiệp, của các cấp lãnh đạo. 
                                                     Thanh Hoá, ngày 12 tháng 4 năm 2011
                                                                       GV thực hiện

17


                                                           Nguyễn Thị Kim Nhung
   

18



×