Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu - kém nhằm nâng cao chất lượng đại trà môn Ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.89 KB, 20 trang )

A. ĐẶT  VẤN ĐỀ
I. LỜI NÓI ĐẦU.
     Trong sự nghiệp giáo dục hiện nay, vấn đề bồi dưỡng học sinh giỏi là 
mục tiêu hết sức quan trọng đang đặt ra đối với tất cả các nhà trường. Bởi  
đó là nhân tố  điển hình để  có thể  lĩnh hội kiến thức nhanh nhất, áp dụng  
vào thời đại công nghệ  thông tin đang phát triển như  “ vũ bão”. Việc bồi 
dưỡng học sinh giỏi quả là vấn đề nan giải đối với biết bao thế hệ  “trồng 
người”. Để   có được những học sinh giỏi đã khó  thì vấn đề  phụ  đạo cho 
được những học sinh yếu kém lại càng khó hơn. Đặc biệt trong những năm 
gần đây, đang tích cực hưởng ứng liên tiếp các cuộc vận động do Bộ  giáo 
dục và đào tạo triển khai.
     Chúng ta phải thừa nhận rằng số lượng học sinh yếu ­ kém còn nhiều  
hơn số lượng học sinh khá giỏi, mà đây lại là những “ khối óc” khó  “ nạp”  
năng lượng kiến thức để vận hành vào bộ nhớ của mình. Khi đã không lĩnh 
hội được kiến thức thì làm bất kỳ  việc gì cũng khó thành công. Đúng như 
lời Bác Hồ đã từng nói: “ Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”.
     Như vậy, đứng trước yêu cầu cấp bách của thời đại, của sự nghiệp giáo  
dục   đã và đang đặt ra cho các nhà trường trách nhiệm hết sức nặng nề. 
Một trong những trách nhiệm ấy chính là phải đổi mới “Một số biện pháp 
phụ  đạo học sinh yếu ­ kém nhằm nâng cao chất lượng đại trà môn Ngữ 
văn 9” mà bản thân tôi được phân công giảng dạy.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
 1. Thực trạng. 
  a. Thuận lợi:
    ­ Ban giám hiệu luôn quan tâm đến quá trình giảng dạy, học tập của giáo  
viên và học sinh. Đặc biệt luôn theo dõi sát sao đến các đối tượng học sinh  

1


yếu kém, đề  ra kế  hoạch kịp thời để  giáo viên phụ  trách bộ  môn có biện  


pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng học sinh.
   ­ Đảng và chính quyền địa phương luôn quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện 
xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho công tác dạy và học.
    ­ Ban chấp hành Hội cha mẹ  học sinh đã phần nào giúp đỡ  nhà trường 
trong việc “ thông tin hai chiều”, tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên yên  
tâm công tác.
    ­ Bản thân tôi, luôn có tinh thần đoàn kết, yêu nghề, mến trẻ; luôn học  
hỏi để  nâng cao trình độ  tay nghề; luôn tìm tòi để  đổi mới phương pháp  
dạy học theo đúng chuyên đề thay sách. Đặc biệt là thường xuyên quan tâm 
tới những học sinh yếu kém để tạo điều kiện tốt nhất cho các em lĩnh hội  
kiến thức.
    ­ Một số  học sinh Nga Trường đã có ý thức học tập cao, luôn cố  gắng  
vươn lên, vượt qua hoàn cảnh khó khăn để đạt kết quả tốt.
 b. Khó khăn:
    ­ Nga Trường thuộc vùng đồng chiêm, đời sống nhân dân còn gặp nhiều  
khó khăn, 90% dân số  là nông nghiệp thuần túy, điều kiện sinh hoạt còn  
thấp kém, nhiều phụ huynh phải đi làm ăn xa không có thời gian để chăm lo  
cho con cái học hành cho nên nhiều em học sinh bị lôi kéo vào “vòng quay”  
của xã hội hiện nay như: tham gia vào các trò chơi điện tử, thích chơi hơn  
học; nhiều học sinh viết chữ  quá xấu; một số  học sinh đọc chưa thông, 
viết chưa thạo… 
   ­ Do tỷ lệ học sinh hộ nghèo chiếm 2/3 tổng số học sinh toàn trường, cho  
nên không ít học sinh phải giành nhiều thời gian vào việc giúp đỡ  gia đình  
hơn thời gian giành cho học tập.
   ­ Bên cạnh đó, nhiều phụ huynh học sinh lại chưa quan tâm đến việc học  
hành của con em mình mà coi vấn đề  học tập là trách nhiệm giáo dục của 

2



nhà trường, gia đình chỉ chủ yếu lo về vật chất để cung cấp cho con em mà  
thôi.
    Tất cả những điều đó đã ảnh hưởng không ít tới quá trình dạy ­ học của  
cả  thầy và trò, đặc biệt là việc nâng cao chất lượng học tập cho học sinh 
yếu kém  ở  các môn học nói chung và bộ  môn Ngữ  Văn nói riêng càng vô  
cùng khó khăn. 
  2. Kết quả  của thực trạng trên ( qua quá trình điều tra, khảo sát,  
kiểm tra, đánh giá đầu năm học 2010 ­ 2011) được thể hiện cụ thể.
Lớp

SS

9A
9B
Tổn

27
30

Giỏi
SL %
0
0
0
0

Khá
SL
%
3

11,1
2
6,7

TB
SL
14
17

Yếu
% SL %
51,9 8 29,6
56,6 9 30,0

Kém
SL
%
2
7,4
2
6,7

 57
4
7,0
0
0
5
8,8
31 54,4 17 29,8

g
    Nhìn vào bảng trên, ta cũng thấy tỷ lệ học sinh yếu ­ kém còn chiếm một 
số lượng rất lớn. Đó là điều băn khoăn không chỉ với giáo viên được phân 
công phụ trách, mà còn là vấn đề trăn trở của cả nhà trường và gia đình học 
sinh. Đặc biệt là theo kế hoạch đã đề ra  đến tháng 11/2010 nhà trường sẽ 
đón nhận danh hiệu: “Trường THCS Nga Trường đạt chuẩn Quốc gia” giai 
đoạn I. Vì vậy, việc phụ  đạo những học sinh yếu kém để  nâng cao chất 
lượng đại trà cho phù hợp với yêu cầu của trường chuẩn Quốc gia là một  
vấn đề vô cùng cấp thiết đối với bản thân tôi nói riêng và tất cả các đồng  
chí giáo viên trong nhà trường nói chung.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
 I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.
     Từ thực trạng trên, để giúp đỡ học sinh yếu ­ kém lĩnh hội kiến thức, tôi 
đã mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ của bản thân nhằm nâng cao chất 

3


lượng học tập của các em trong năm học 2010 ­ 2011 với một số giải pháp  
sau:
 1. Xác định nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ học sinh yếu, kém còn cao.  
 2. Phân loại đối tượng học sinh yếu, kém.
 3. Lập kế hoạch cụ thể trong quá trình theo dõi học sinh yếu ­ kém.
 4. Tiến hành việc phụ  đạo học sinh yếu , kém( đây là giải pháp quan 
trọng nhất).
 5. Theo dõi sự tiến bộ của các em qua từng đợt thi đua.
  6. Thường xuyên phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội  
trong việc “Thông tin hai chiều”. 
II. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN.

   1. Xác định rõ nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ học sinh yếu, kém còn cao. 
SốHS yếu 
kém
(KS đầu năm)

Nguyên nhân cơ bản dẫn đến yếu ­ 
kém
Học sinh lười học môn Ngữ Văn.
Học sinh viết chữ xấu.
Học sinh đọc chưa thông, viết chưa thạo

21 /57

( khuyết tật hòa nhập, thiểu năng trí tuệ)
Học sinh do thiếu sự quan tâm sát sao của 
gia đình.
Học sinh quá ham mê các trò chơi điện tử, 

SL%
15
13

71,4
61,9

3

14,3

5


23,8

8
30,1
thường xuyên bỏ học.
( có những học sinh ở nguyên nhân này nhưng cũng rơi vào các  nguyên  
nhân khác).
     Từ việc điều tra đó tôi đã nắm được các nguyên nhân cơ bản dẫn đến tỷ 
lệ học sinh yếu, kém còn cao để có biện pháp phù hợp với từng đối tượng  
học sinh này.

4


  2. Phân loại đối tượng học sinh yếu, kém.
       Khác với những năm học trước, tôi đã phân loại  đối tượng học sinh  
yếu kém ngay từ đầu năm học 2010 ­ 2011 chứ  không phụ  đạo chung cho  
tất cả các đối tượng yếu kém, để thuận tiện trong quá trình dạy phụ  đạo,  
cụ thể:
   ­ Đối với những em lười học, ham chơi, thiếu sự quan tâm của gia đình, 
học 1 buổi / tuần. 
   ­ Đối với học sinh viết chữ xấu, đọc chưa thông, viết chưa thạo thì học 
2 buổi/tuần.
      Sau quá trình theo dõi nếu các em tiến bộ  thì sẽ  tiến hành dạy chung 
thành một đối tượng( 2 buổi/ tuần).
      Điều đáng nói tới ở đây là khi dạy phụ đạo phải coi đó là trách nhiệm 
to lớn, không được bất kỳ lý do gì mà nản chí, bởi ta đang góp sức để làm 
cân bằng xã hội, giúp cho các em trở  thành những học sinh có vốn kiến  
thức ổn định trong cuộc sống sau này…

3. Lập kế hoạch cụ thể trong quá trình theo dõi học sinh yếu ­ kém
       ­ Để nắm bắt đầy đủ và chính xác việc học tập của các em cũng như 
theo dõi kết quả học tập qua từng tháng, tôi đã có sổ theo dõi nề nếp đi học  
phụ đạo và sổ theo dõi chất lượng học tập của học sinh yếu kém, mẫu cụ 
thể được thực hiện như sau:
                      SỔ THEO DÕI NỀ NẾP ĐI HỌC PHỤ ĐẠO
THÁNG........NĂM.......

( Dùng ký hiệu đánh dấu học sinh đi học hoặc vắng).
TT

Họ và tên

Lớp

Thứ…
Ngày...

Thứ…
Ngày...

Thứ…
Ngày...

Ghi chú

5


   SỔ THEO DÕI CHẤT LƯỢNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH QUA TỪNG 

THÁNG

( Ghi số điểm đạt được theo bài kiểm tra từng tháng).
TT

Họ và tên

Lớp

Tháng…
Số điểm

Tháng…
Số điểm

Tháng…
Số điểm

Ghi chú

 4.  Tiến hành việc phụ đạo học sinh yếu­kém.
   * Soạn giảng những kiến thức cơ bản nhất trong khi dạy phụ đạo.
     ­ Chúng ta phải công nhận rằng, trong cùng một tiết dạy chính khóa có  
nhiều đối tượng học sinh mà thời gian có hạn, giáo viên có dừng laị giảng 
kỹ   ở  một số  vấn đề  khó, đối với học sinh khá giỏi thì các em nắm bắt  
được dung lượng kiến thức nhưng đối với học sinh yếu kém thì điều này 
càng gây nên sự nhàm chán đối với các em, bởi kiến thức đơn giản các em 
cũng chưa lĩnh hội được thì nói gì đến kiến thức khó. Vì vậy, trong tiết học 
phụ đạo giáo viên cần soạn ­ giảng kỹ những kiến thức trọng tâm của bài 
học để các em nắm bắt và sau đó cho các em vận dụng để lấy ví dụ ngoài 

thực tế rồi tiếp tục nâng dần lên một bước cao hơn, chẳng hạn ở học kỳ I  
lớp 9: Giáo viên yêu cầu học sinh cho biết “ Có mấy phương châm hội 
thoại mà chúng ta đã được học? Đó là những PCHT nào?”... Sau đó gọi một 
số  em khác nêu khái niệm từng loại PCHT. Nếu một em không trả  lời  
được thì sẽ gọi ba đến bốn em, nếu trong số đó không em nào trả lời được 
thì giáo viên sẽ  gợi ý tránh hiện tượng cho học sinh giở  sách ra để  đọc 
lại( vì đó chỉ là học vẹt). Từ khái niệm các em sẽ vận dụng để  đặt ví dụ,  
đặt câu hoặc ngược lại, giáo viên có thể đưa ra ví dụ trước rồi yêu cầu các  
em rút ra khái niệm. Sau khi học sinh biết vận dụng các yêu cầu trên, giáo  
viên sẽ  ra bài tập để các em tự tư duy. Nếu bài hơi khó, giáo viên sẽ  giúp 
các em nắm nội dung và phạm vi yêu cầu của bài tập đó.

6


 ­ Trong một buổi dạy phụ đạo, cần đi vào một mảng kiến thức hoặc một 
bài cụ thể( tránh tản mạn nhiều vấn đề) để các em không bị rối kiến thức 
vì đối tượng học sinh này khi thấy nhiều vấn đề sẽ dễ gây chán nản.
  * Chú ý việc luyện đọc, viết cho các em.
     ­ Ai cũng phải thừa nhận rằng: đối với học sinh bậc THCS mà đọc chưa  
thông, viết chưa thạo là một thách thức vô cùng lớn đối với những giáo  
viên trực tiếp giảng dạy. Bởi nền móng nhận biết đầu tiên các em không  
có thì làm sao có thể  tiếp thu được những vấn đề  có tính phức tạp trong  
quá trình học tập. Nhưng điều bất cập là trong các tiết học, giáo viên lại  
không thể  gọi các em “ ê a” đánh vần, bởi thời gian có hạn. Cho nên việc 
làm vô cùng cần thiết của mỗi giáo viên, đặc biệt là giáo viên dạy môn  
Ngữ văn phải làm sao để giảm đến mức tối thiểu nhất số lượng học sinh  
này bằng cách: 
   Thành lập “ Đôi bạn cùng tiến, nhóm bạn học chăm”, cử một số em học  
sinh viết chữ đẹp mà phải nhiệt tình để giúp đỡ bạn( chủ yếu tôi cử những  

em có lực học trung bình) cùng với giáo viên bộ  môn, kèm cặp những học  
sinh đọc chưa thông, viết chưa thạo. Lý do tôi chọn những học sinh này vì 
những học sinh đọc chưa thông, viết chưa thạo thường hay tự  ti khi tiếp 
xúc với những bạn học khá giỏi. Đồng thời, tôi tập hợp riêng những em 
học sinh này yêu cầu luyện đọc ­ luyện viết( 2 buổi/ tuần), có sự  hướng  
dẫn của giáo viên.
   ­ Bên cạnh mội số học sinh đọc chưa thông, viết chưa thạo nói trên thì số 
lượng học sinh viết chữ xấu lại chiếm tỷ lệ khá cao. Mặc dù trong khi học, 
nhiều em tiếp thu bài khá nhanh, hiểu được kiến thức mà giáo viên truyền  
tải. Nhưng khi vận dụng vào làm bài thì kết quả không đạt yêu cầu ( vì chữ 
viết quá xấu). Chính vì vậy, chúng tôi vô cùng trăn trở  đã họp tổ  chuyên 
môn, đề  xuất với Ban giám hiệu nhà trường tìm biện pháp khắc phục. 

7


Ngoài việc dạy đại trà, phụ  đạo theo lịch phân công, tôi còn thường xuyên 
chấm vở  luyện viết và động viên các em trong những bài kiểm tra, nếu  
trình bày sạch sẽ  ­ tiến bộ  là được khuyến khích hơn so với mặt bằng 
chung ( từ 0,5 đến 1 điểm).
     Để công việc này đạt kết quả, tôi đã thực hiện như sau:
    + Yêu cầu các em viết từng bài theo quy định { không được thích là viết  
luôn một  mạch (vài  bài)   để  hôm sau lại nghỉ, nghiêm cấm việc mượn 
người khác viết hộ}, sau đó đúng thời gian quy định giáo viên thu, chấm để 
theo dõi sự tiến bộ của học sinh.
    + Trong khi chấm, giáo viên lưu ý chữa lỗi cho các em và nhắc nhở trực  
tiếp bằng lời phê ở những bài chưa đạt yêu cầu; còn những bài có tiến bộ,  
giáo viên lại nhận xét bằng những lời động viên, khích lệ.  Có như vậy các  
em mới thấy được những hạn chế  để  sửa chữa, cũng như  thấy được sự 
tiến bộ của mình để  phát huy cho các bài tiếp theo.

 * Ứng dụng CNTT vào những bài dạy phù hợp.
  ­ Việc  ứng dụng CNTT trong dạy học hiện nay là điều rất cần thiết. Sử 
dụng CNTT sẽ giúp học sinh có hứng thú hơn, tiếp thu bài nhanh hơn, làm  
chủ kiến thức của mình từ việc quan sát qua hình ảnh để nắm nội dung bài  
học. Điều này, không chỉ  tạo không khí sôi nổi đối với học sinh khá giỏi 
mà kể cả những học sinh yếu kém cũng rất ham mê. Tuy nhiên không phải  
bất kỳ  bài nào cũng  ứng dụng CNTT mà chỉ  đối với những tiết dạy phù 
hợp   với   phương   pháp   này,   chẳng   hạn:   khi   dạy   các   tiết   bài   :   “   Đồng 
chí”( Chính Hữu), “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính”( Phạm Tiến Duật), 
“ Đoàn thuyền đánh cá”
 ( Huy Cận), “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” ( Nguyễn Khoa  
Điềm), “ Lặng lẽ Sa Pa”( Nguyễn Thành Long), “ Bến quê”( Nguyễn Minh 
Châu)… Các em rất chăm chú quan sát những hình  ảnh được chiếu trên 

8


màn hình ( Cảnh núi rừng Việt Bắc, cảnh ra khơi đánh cá của người dân 
vùng biển Hòn Gòn ­ Quảng Ninh, Cảnh người mẹ dân tộc Tà ­ ôi địu con 
tham gia kháng chiến chống Mỹ   ở  phía Tây Thừa Thiên Huế, cảnh Sa Pa  
thơ  mộng và những con người ngày đêm miệt mài với công việc, cảnh bãi  
bồi sông Hồng nơi chưa một lần Nhĩ đặt chân tới… và rất nhiều những 
hình ảnh khác hỗ  trợ cho các tiết dạy thêm hấp dẫn. Trong những tiết bài  
như thế cần chú ý nhiều đến đối tượng học sinh yếu, kém ­ Hình thức phụ 
đạo ngay trong giờ  học chính khóa, vì có một số  học sinh dù đọc chưa 
thông, viết chưa thạo nhưng khi quan sát qua hình ảnh minh họa, các em có  
thể nắm được nội dung bài học. Giáo viên gọi các em trả  lời để  quen dần 
với cách học tự  lập, không lệ  thuộc vào ngôn ngữ  có sẵn hoặc từ  bạn 
nhắc…Có thể trong nội dung câu  trả lời của các em chưa được thông suốt,  
trôi chảy thì giáo viên sẽ gợi mở để  các  em trả  lời liền mạch. Đó cũng là  

một “nghệ thuật” phụ đạo trong quá trình giáo dục đối tượng học sinh này. 
Khi trả  lời được yêu cầu của giáo viên trước tập thể  lớp sẽ  tạo khí thế 
học tập và làm cho các em yêu thích môn học hơn, tự tin vào chính bản thân 
mình hơn.
­ Ví dụ một số hình ảnh minh họa khi ta dạy bài “ Những ngôi sao xa xôi”
( Lê Minh Khuê). Trước tiên, học sinh được quan sát chân dung tác giả, 
trang bìa một số tác phẩm tiêu biểu của bà…Sau đó các em được quan sát 
hình  ảnh con đường Trường Sơn huyền thoại đã đi vào lịch sử  oai hùng 
của dân tộc ta  như  một mốc son chói lọi trong những năm tháng chống 
giặc ngoại xâm thời kỳ  kháng chiến chống Mỹ  cứu nước. Những hình 
ảnh mà các  em được quan sát đã phản ánh rất rõ cuộc sống, chiến đấu vô 
cùng gian khổ  và ác liệt của những cô gái thanh niên xung phong trên 
tuyến đường Trường Sơn mà các em lại nhớ  rất kỹ  về  nội dung của bài 
học này.

9


  

Một số hình ảnh về Trường Sơn ­ Năm 1971

Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước ­  Mà lòng phơi phới dậy tương lai

10


Sự tàn phá ác liệt của máy bay Mỹ
Con đường bị đánh 
lở loét, màu đất đỏ, 

trắng   lẫn   lộn.   Hai 
bên   dường   không 
có   lá   xanh.   Chỉ   có 
những   thân   cây   bị 
tước khô cháy…

                                    
                                        Có ở đâu như thế này không…?

11


Tất cả vì miền Nam thân yêu
 
*  Phân công học sinh, khá giỏi kèm cặp học sinh yếu kém
   ­ Trong quá trình dạy phụ đạo, tôi đã chia thành các nhóm( theo xóm) để 
giúp cho việc theo dõi học sinh và dễ dàng so sánh sự tiến bộ của các nhóm 
với nhau. Ngoài ra, tôi còn chọn trong lớp một số  học sinh khá, giỏi kèm  
cặp những học sinh yếu kém (theo cặp) điển hình như: 
Lớp

HS khá, giỏi

9A

 Mai Phương Uyên
Nguyễn Thị Hằng
   Lại Thị Thi
   Mai Thị Trang
   Mai  Ánh Hồng


HS Yếu ­ kém
   Lại Thị Duyên
    Mai Việt Anh
    Phạm Thị Thu
    Mai Thị Mai
   Lê Thị Trang

Những vấn đề
 cần giúp đỡ
Học yếu (chung)
Kỹ năng làm bài yếu 
Đọc, kể còn chậm…
Đọc, kể còn chậm…
Kỹ năng làm bài yếu
12


   Dương Thị Hà
9B

   Mai Thanh Loan

    Lê Thị Hằng
Mai Tiến Thịnh

Kỹ năng trình bày yếu
Thiếu sự quan tâm của 

gia đình, học yếu… 

Phan Linh Trang
 Trần Thị Phượng Học yếu (chung)
   Trần Thị Linh
   Lê Minh Chiến
Kỹ năng làm bài yếu
      Các em luôn luôn theo dõi sự tiến bộ của bạn và thường xuyên báo cáo 
kết quả  với giáo viên bộ  môn… Đồng thời đối với những học sinh dưới  
trung bình, trong khi dạy, tôi luôn dành cho các em lượng thông tin dễ hiểu 
nhất để  cùng tham gia đàm thoại. Có như  vậy mới tạo được sự  hứng thú  
học tập cho các em, tránh được hiện tượng chán học và sinh ra quậy phá ở 
đối tượng học này. 
    ­ Qua từng tháng dạy, tôi đã ra đề  kiểm tra để  học sinh làm bài (lượng  
kiến thức cũng được nâng dần theo mức độ  tiếp thu của học sinh), sau đó 
giáo viên chấm, chữa bài đồng thời tuyên dương những em có tiến bộ, 
động viên những em chưa đạt điểm cao hơn tháng trước, bài kiểm tra cũng  
như kết quả làm bài phải nộp về tổ chuyên môn để tổ trưởng tổng hợp và 
báo cáo về Ban giám hiệu nhà trường.    
*Thường xuyên kiểm tra vở ghi, vở bài tập của các em.
    ­ Tôi thiết nghĩ việc thu vở  ghi, vở  bài tập đối với những em học sinh 
yếu kém là rất cần thiết, vì có rất nhiều em không chịu ghi bài, lười làm bài  
tậ p
( có em mượn vở của bạn fo to lại làm vở  của mình, có em nhờ  bạn khác 
ghi hộ…). Cho nên cần phải theo sát để kịp thời nhắc nhở.
   ­ Mỗi khi thu những loại vở nói trên, tôi thường chấm điểm, đồng thời có  
nhận xét cụ  thể  vào vở  về  sự  tiến bộ  hoặc tồn tại của học sinh, yêu cầu 
phát huy hoặc khắc phục những tồn tại thiếu sót. Điều đó cũng sẽ  rèn 
được ý thức tự giác cho các em.  
 5. Theo dõi sự tiến bộ của các em qua từng đợt thi đua.

13



    ­ Trong một năm học nhà trường phát động 3 đợt thi đua: Đợt 1( Từ đầu  
năm học đến 20/11), đợt 2( Từ 20/11 đến 26/3) và đợt 3( Từ 26/3 đến cuối 
năm học) có chế  độ  khen thưởng cụ  thể: những em có tiến bộ  từ  lực học 
yếu kém vươn được đến trung bình trở lên,  những em tiến bộ về chữ viết,  
đọc ­ kể…  đều  được tuyên dương trước toàn trường, trong xóm, thôn,  
đồng   thời   được   thưởng   vở,  bút  hoặc   tiền(   tùy  theo   ngân   sách   của   nhà 
trường và quỹ Hội phụ huynh…). Bản thân tôi  đã tham mưu với BGH, Hội  
cha mẹ học sinh của lớp, của trường có phần thưởng  xứng đáng động viên  
các em.
    Trong quá trình giảng dạy, tôi đã triển khai một cách cụ thể, việc thi đua  
không chỉ riêng các chi đội lớp mà ở  cả  lớp phụ  đạo tôi cũng tổ  chức cho  
các em  thi đua giữa các nhóm với nhau( mỗi nhóm 3 em có thể  1 em lớp  
9A, 2 em lớp 9B hoặc ngược lại). Tôi đề ra quy định: Trong một tháng nếu 
ở nhóm mình không thành viên nào bị nhắc nhở về việc không làm bài tập, 
bị điểm yếu, kém… và một trong số đó đạt từ điểm 7 trở lên( tính cả điểm 
kiểm tra miệng, chấm vở  bài tập hoặc kiểm tra 15 phút…) là cả  nhóm 
được tuyên dương trong buổi chào cờ vào sáng thứ hai trước toàn trường( ở 
tuần đầu tiên của tháng tới) và cứ như vậy, tôi theo dõi sự tiến bộ dần của 
các em cho đến hết mỗi đợt thi đua mà nhà trường phát động, tôi lập danh 
sách nộp lại cho Ban giám hiệu để  có phần thưởng cho các em về  sự tiến 
bộ  trong quá trình học tập. Đồng thời cũng thông báo với gia đình các em  
về  sự  tiến bộ  đó để  các em thấy được việc làm của mình có ý nghĩa lớn  
lao( làm bố mẹ vui lòng, thầy cô phấn khởi, bạn bè tin yêu …). Như vậy, từ 
lớp học phụ đạo sẽ tạo hứng thú cho các em trong khi học chính khóa.  
   6. Thường xuyên phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội  
trong việc “Thông tin hai chiều”.

14



      ­ Trong quá trình dạy học, khi thấy học sinh vắng học từ 1 đến 2 buổi, 
giáo viên phải tìm hiểu nguyên nhân và động viên kịp thời; nếu thấy học  
sinh bỏ học từ 3 buổi trở lên và có nguy cơ bỏ học, giáo viên phải có biện  
pháp
( đến tận gia đình các em để trao đổi với phụ huynh, thông qua Hội cha mẹ 
học sinh, trao đổi với các đoàn thể  trong xóm: Hội khuyến học, Hội phụ 
nữ, Đoàn thanh niên…) của xóm, để  động viên các em một cách kịp thời 
nhất  nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các em đi học đầy đủ, tránh hiện 
tượng “làm ngơ” khi thấy các em bỏ hoc nhiều ngày. 

                                 C. KẾT LUẬN
1. KẾT QUẢ  CỦA VIỆC ĐƯA RA MỘT SỐ  GIẢI  PHÁP PHỤ  ĐẠO 
HỌC SINH YẾU ­ KÉM MÔN NGỮ VĂN 9.
      Dưới sự chỉ đạo của Phòng giáo dục; sự  lãnh đạo của Ban giám hiệu  
nhà   trường;   sự   quan   tâm,   chỉ   đạo   sát   sao   của   Đảng,   chính   quyền   địa 
phương; sự giúp đỡ của Hội cha mẹ học sinh cùng các đoàn thể khác trong 
các xóm của xã; sự phối hợp chặt chẽ với các đồng chí giáo viên dạy môn 
Ngữ văn ở các khối lớp; sự nhiệt tình, nỗ lực của bản thân đã áp dụng một 
số biện pháp phụ đạo học sinh yếu kém, nâng cao chất lượng đại trà cùng 
với sự  cố  gắng vươn lên của các em học sinh thuộc đối tượng này. Năm 
học 2010 ­ 2011 kết thúc, số  lượng học sinh có điểm dưới trung bình đã 
giảm xuống đáng kể…Đặc biệt học kỳ II năm học 2010 ­ 2011, Phòng giáo  
dục và Đào tạo huyện Nga Sơn vẫn tiếp tục tổ chức coi thi và chấm chéo 8  
môn học do SGD & ĐT ra đề để  nắm bắt chất lượng giảng dạy của giáo 
viên và quá trình học tập của học sinh xuyên xuốt một quá trình dạy­ học  
từ  lớp 6 đến lớp 9. Từ  đó lấy cơ  sở  để   đánh giá thi đua giữa các trường 
trong toàn huyện. Môn học Ngữ  văn khối 9 mà tôi được phân công phụ 
trách đã đạt được kết quả  tương đối cao so với mặt bằng chung của cả 

15


huyện( xếp  ở  tốp đầu). Điều đó cho thấy việc áp dụng  “Một số  biện 
pháp phụ  đạo học sinh yếu kém, nâng cao chất lượng đại trà” mà tôi 
đã đưa ra có tác dụng rất lớn trong quá trình dạy học ở  trường THCS Nga 
Trường nói riêng và đối với các trường THCS nói chung. Đó là nguồn động 
viên lớn đối với bản thân tôi và cũng là niềm mong mỏi của tất cả những ai 
quan tâm đến “ Sự nghiệp trồng người”. Và kết quả theo dõi đó được thể 
hiện rõ qua các kỳ thi kiểm tra chất lượng cũng như chất lượng đại trà của 
môn học.
  a.   Điểm   các   kỳ   thi   kiểm   tra   chất   lượng   trong   năm   học   2010  2011( 5lần).
Lớ
p

SS

  Kỳ 
thi

Đầu năm

Giữa 
kỳI

SL

SL

%


0
0
1
3,7
2
7,4
2
7,4
Giỏi
3
11,1
3
11,1
4
14,8
6
22,2
  Khá
14
51,9
16 59,3 17 63,0
16 59,3
9A 27   TB
29,6
6
22,2
4
14,8
3

11,1
  Yếu 8
7,4
1
3,7
0
0
0
0
 Kém 2
0
0
1
3,3
2
6,7
3
10,0
Giỏi
2
6,7
3
10,0
4
13,3
6
20,0
Khá
17 56,6
19 63,4 21 70,0

19 63,3
9B 30   TB
9
30,0
6
20,0
3
10,0
2
6,7
Yếu
2
6,7
1
3,3
0
0
0
0
Kém
0
0
2
3,5
4
7,0
5
8,8
Giỏi
5

8,8
6
10,6
8
14,0
12 21,0
  Khá
31
54,4
35 61,4 38 66,7
35 61,4
57   TB
5
8,8
  Yếu 17 29,8 12 21,0 7 12,3
7,0
2
3,5
0
0
0
0
 Kém 4
b. Chất lượng đại trà  môn Ngữ văn 9  năm học 2010 ­ 2011.
Xếp loại
SS ĐTBM
Giỏi
Khá
TB
Yếu

SL % SL % SL % SL %

2
10
14
1

7,4
37,1
51,9
3,6

0

0

3
12
14
1

10,0
40,0
46,7
3,3

0

0


5
22
28
2

8,8
38,6
49,1
3,5

0

0

Tổng

SL

Lớp

%

SL

Giữa kỳ  Cuối kỳ 
II
II
%

Điểm


%

Cuối 
kỳI
%

SL

Kém
SL %

16


9A

Tổng

9B

27

30

57

H.Kỳ I

1


H.Kỳ II

3

Cả năm

2

7,4

11

H.Kỳ I

0

0

7

H.Kỳ II

4

Cả năm

3

H.Kỳ I


1

H.Kỳ II

7

Cả năm

5

3,7
11,
1

13,
3
10,
0
1,8
12,
3
8,8

3
10

13
10
10

23
21

11,
1
37,
0
40,
7
23,
3
43,
3
33,
3
17,
5
40,
3
36,

20
13
13
20
12
16
40
25


79,
1
48,
2
48,
2
66,
7
40,
0
53,
3
70,
2
43,
9
50,

29
8
9
 c. Số học sinh được thưởng qua các đợt thi đua.  

3

11,1

0

0


1

3,7

0

0

1

3,7

0

0

3

10,0

0

0

1

3,4

0


0

1

3,4

0

0

6

10,5

0

0

2

3,5

0

0

2

3,5


0

0

         Trong năm học 2010 ­ 2011 có 5 học sinh yếu kém của khối 9 được 
thưởng qua 3 đợt thi đua mà nhà trường phát động:
  ­ Đợt 1: Em Lê Thị Trang ­ Lớp 9A( chữ viết tiến bộ nhiều, nắm được kỹ 
năng làm bài văn): Tuyên dương trước toàn trường, được thưởng 3 cuốn vở 
và 1 chiếc bút.
  ­ Đợt 2: Em Lê Thị Hằng ­ Lớp 9B ( vươn lên đạt HL trung bình khá),em  
Lê Minh Chiến ­ Lớp 9B( Đạt học lực Trung bình khá): Tuyên dương trước  
toàn trường và được thưởng  mỗi em 5 cuốn vở.
   ­ Đợt 3:   Em Mai Việt Anh ­ Lớp 9A( Đạt học lực khá), em Mai Tiến  
Thịnh , Lớp 9B( học tiến bộ  nhiều, không còn bỏ  học vô lý do): Tuyên  
dương trước toàn trường và được thưởng 5 cuốn vở. Đồng thời cả  5 em 

17


nhà trường thưởng mỗi em 20.000đ và 5 em được phân công giúp đỡ  bạn  
đã tiến bộ( Mai Ánh Hồng, Dương Thị  Hà, Trần Thị  Linh, Nguyễn Thị 
Hằng, Mai Thanh Loan) cũng được thưởng 20.000đ/em vào ngày tổng kết 
năm học. Phần thưởng tuy không nhiều nhưng đó là sự  động viên đối với 
những em vươn lên trong học tập và khích lệ  những em có tinh thần giúp  
đỡ bạn những khi bạn gặp phải khó khăn. Đặc biệt là các em học yếu kém 
khối 6,7,8 cũng thấy được sự  quan tâm sát sao của các thầy  cô giáo cũng 
như  Ban giám hiệu nhà trường đối với những học sinh có lực học dưới  
trung bình. 
        Như vậy, qua kết quả đạt được của môn học Ngữ văn lớp 9, năm 

học 2010 ­ 2011 mà tôi đã áp dụng, ta có thể  dễ  dàng nhận thấy chất  
lượng học  tập  của học sinh   được nâng lên rõ rệt.  Đặc  biệt  là  số 
lượng học sinh yếu ­ kém đã giảm xuống đáng kể  so với chất lượng 
khảo sát đầu năm, số  lượng học sinh đạt từ  trung bình trở  lên cũng 
cao hơn rất nhiều.
2. BÀI HỌC KINH  NGHIỆM VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ ­ ĐỀ XUẤT.
  a. Bài học kinh nghiệm.    
    Năm học 2010 ­ 2011 kết thúc, với những kinh nghiệm rất nhỏ giúp tôi 
đạt được một số kết quả nhất định trong quá trình phụ  đạo học sinh yếu ­  
kém môn Ngữ  Văn   khối 9 mà mình được phân công phụ  trách.   Điều đó 
cũng giúp tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây :
   ­ Trong quá trình dạy, người giáo viên cần phải:
     + Là người gương mẫu trong quá trình ứng xử, đặc biệt với những học  
sinh thuộc đối tượng yếu ­ kém cần phải nhẹ nhàng uốn nắn.
     + Luôn nhiệt tình, tâm huyết với nghề, trăn trở với bộ  môn mình được 
phân công để   tìm ra phương pháp mới trong quá trình giảng dạy phù hợp  
với đối tượng học sinh.
18


     + Luôn giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho các em học sinh, đặc biệt  
quan tâm hơn đối với những em có lực học dưới trung bình.
     + Luôn tạo mối quan hệ mật thiết với đồng nghiệp, phụ  huynh và các 
em học sinh.
     + Luôn giúp đỡ giáo viên chủ nhiệm lớp có học sinh yếu ­ kém để tìm ra 
những giải pháp cùng giáo dục các em trở thành người tiến bộ. 
  b. Kiến nghị ­ Đề xuất.
       Chúng tôi mong muốn rằng, chính quyền địa phương; các ban ngành,  
đoàn thể cần quan tâm, phối hợp chặt chẽ và có những biện pháp tích cực 
hơn nữa để cùng với nhà trường nâng cao chất lượng dạy và học, đặc biệt  

là nâng cao chất lượng học sinh yếu ­ kém trong giai đoạn hiện nay.
         Trên đây là một số ý kiến nhỏ đứng về phương diện của cá nhân tôi, 
chắc chắn còn nhiều hạn chế, thiếu sót và có thể  còn có những ý kiến  
không giống nhau về quan điểm chung. Rất mong được sự  góp ý của Hội  
đồng giám khảo và các bạn đồng nghiệp.
                                               Tôi xin chân thành cảm ơn!
                                                 
                                                       Nga Trường, ngày 06 tháng  05 năm  
2011.
                                                                                         
                                                                                 Người thực hiện
                                                                                                   Hoàng Thị Nhu

19


20



×