Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

SKKN: Một số biện pháp dạy từ vựng cho học sinh tiểu học bằng việc học từ mới qua các bài khóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.1 KB, 27 trang )

I.PHẦN MỞ ĐẦU
1.  Lý do chọn đề tài. 

     Đường lối quan điểm của Đảng và nhà nước ta đã xác định mục tiêu của giáo  
dục là đào tạo con người toàn diện để  đáp  ứng yêu cầu chung của đất nước ­ 
công nghiệp hóa hiện đại hóa. Trong đó, ngoại ngữ  ­ Tiếng Anh là một trong  
những ngôn ngữ  có vai trò như  một phương tiện tích cực hỗ  trợ  hiệu quả  nhất  
cho quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của nước nhà. Vì vậy nâng cao chất  
lượng giáo dục nói chung và chất lượng bộ  môn Tiếng Anh nói riêng là một 
trong những mối quan tâm hàng đầu của sự  nghiệp giáo dục hiện nay. Và điều 
đó được đặt biệt chú trọng hơn cho các đối tượng là học sinh ở  bậc tiểu học ­  
Người mới bắt đầu tiếp cận với ngoại ngữ.
Để thực hiện mục tiêu này cần có hỗ trợ  của Đảng, nhà nước, ngành giáo dục, 
nhất là đội ngũ các thầy cô giáo và các bậc phụ huynh học sinh góp sức.
     Trong bất kỳ một ngôn ngữ nào, vai trò của từ vựng cũng hết sức quan trọng.  
Có thể thấy một ngôn ngữ là tập hợp của các từ vựng. Không thể hiểu ngôn ngữ 
mà không hiểu biết từ vựng,hoặc qua các đơn vị bài học. Nhưng điều đó không 
phải chỉ hiểu những từ đơn lẻ, độc lập với nhau mà chỉ  có thể  năm vững được 
ngôn ngữ thông qua mối quan hệ biện chứng giữa các đơn vị từ vựng. Như vậy 
việc học từ  vựng và rèn luyện kỹ  năng sử  dụng từ  vựng là yếu tố  hàng đầu 
trong việc truyền thụ  và tiếp thu một ngôn ngữ  nói chung và và tiếng Anh nói  
riêng.
      Vì từ vựng là một ngôn ngữ nên nó được thể hiện giữa hai hình thức: Lời nói  
và chữ viết. Muốn sử  dụng được ngôn ngữ  đó tức là phải nắm vững hình thức 
biểu đạt của từ bằng lời nói hay chữ viết. Song do có mối liên quan của từ vựng  
với các yếu tố khác trong ngôn ngữ  ( ngữ pháp, ngữ  âm, ngữ  điệu..) hoặc trong 
tình huống giao tiếp cụ thể ta thấy từ vựng là các “ viên gạch” còn ngữ pháp và 
các yếu tố ngôn ngữ khác được coi như những “mạch vữa” để xây lên thành môt 
ngôi nhà “ ngôn ngữ”.
11/22/2019Confidential


Page 

1


Hiện nay tình trạng xao lãng việc học, học sinh học đối phó học vẹt mà không 
biết tự học, học sinh yếu kém khá nhiều. Làm thế nào để  khắc phục tình trạng  
này ? Làm thế  nào để  thu hút học sinh chú tâm vào việc học là vấn đề  đòi hỏi  
người làm giáo dục, các thầy cô tâm huyết với nghề, hội đồng sư  phạm nhà 
trường quan tâm hàng đầu, luôn nỗ lực đề ra kế hoạch, chương trình, hình thức,  
cải tiến phương pháp để  dạy và học tốt hơn, nâng cao chất lượng và hiệu quả 
giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu.
     Phần lớn các em học sinh chưa chú tâm và đầu tư cho môn ngoại ngữ, chuẩn  
bị bài một cách sơ sài, đối phó trong khi các em học rất yếu môn này. Từ đó, một  
số  em có tâm lý chán học bộ  môn Tiếng Anh. Trong các giờ học, đa số  các em 
thường thụ động, thiếu sự linh hoạt, ngại việc đọc ­ nói Tiếng anh và ít tham gia 
phát biểu để tìm hiểu bài học.
     Học sinh tiểu học là những trẻ em, mức độ nhận thức của các em còn thấp, 
chất lượng học tập bộ môn không đồng bộ. Thêm nữa, học sinh thư ờng chỉ quen 
cách học cũ, ít đọc thêm sách báo phù hợp lứa tuổi để mở rộng bổ sung, nâng cao 
kiến thức. Đồng thời đây là những năm đầu làm quen với một ngoại ngữ, trong 
khi vẫn có một số lượng không nhỏ học sinh còn chưa học tốt tiếng mẹ đẻ của  
mình. 
    Hơn nữa Tiếng Anh ở bậc tiểu học chỉ là môn học phụ tự chọn, thế nên bản  
thân học sinh và ngay cả  phụ  huynh cũng không quan tâm đến bộ  môn này, họ 
chỉ đầu tư cho con mình học nâng cao môn Toán, Tiếng Việt…. 
   Tuy Tiếng Anh  ở bậc tiểu học mới được coi là môn học chính khóa, năm học  
này mới là năm học thứ hai. Song, nó có tính chất khởi đầu quan trọng trong các  
năm học tiếp theo  ở cấp II. Vì thế nó giữ  một vai trò không nhỏ  trong quá trình 

học tập của các em. Nó trang bị  cho các em vốn từ  vựng, ngữ  pháp và những 
mẫu câu tối thiểu, cơ  bản, đơn giản nhất xoay quanh những chủ  điểm rất gần  
gũi, được các em yêu thích và quen thuộc, là những chủ  điểm giới thiệu bản 
11/22/2019Confidential

Page 

2


thân, chủ  điểm trường lớp bạn bè, chủ  điểm gia đình, và chủ  điểm khác (thế 
giới xung quanh các em). Chính vì thế  việc gây hứng thú và củng cố  kiến thức 
cho học sinh là một việc vô cùng quan trọng thường xuyên. Bởi điều này  ảnh 
hưởng rất nhiều đến động cơ học tập của học sinh, một yếu tố tác động cơ bản 
đến quá trình học một ngôn ngữ: Không có động cơ  trẻ  sẽ  không học ­ và việc  
củng cố  kiến thức còn làm khắc sâu hơn những ngữ  liệu đã học trong các tiết 
học một cách có hệ thống, làm nền tảng vững chắc giúp các em học tốt hơn, tự 
tin hơn trong quá trình học tập sau này. 
     Để  chất lượng môn học của các em đạt kết quả  tốt nhất thì không phải là 
một chuyện dễ  dàng. Vậy làm thế  nào để  các em hình thành và phát triển kỹ 
năng học tập toàn diện nhất ? Làm thế  nào để  các em yêu mến, khắc sâu vốn  
kiến thức văn hóa nước ngoài ? Bằng hình thức nào giúp học sinh nắm bài vững  
mà không nhàm chán, phải thật sự  lôi cuốn, tạo không khí vui tươi thoải mái 
trong giờ  học, gây hứng thú cho học sinh  khi tiếp thu văn hoá nước ngoài mà 
bản thân các em chưa biết được chút gì.
   Ngày nay trên những phương tiện thông tin đại chúng xuất hiện rất nhiều trò 
chơi truyền hình thu hút đông đảo khán giả, nhất là khán giả  trẻ  tuổi như  học  
sinh, sinh viên.
   Tất cả những trò chơi, chương trình ca nhạc truyền hình, nếu được hỏi: “Hãy  
kể  tên các trò chơi, chương trình ca nhạc truyền hình mà em biết?” Các em sẽ 

trả lời vanh vách như “Rồng Vàng”, “Tam sao thất bản”, “Ki­ốt âm nhạc”, “Nào 
ta cùng hát” ... vì đây là lượng khán giả trung thành nhất.
       Chúng ta đều biết bất cứ  một thứ  tiếng nào trên thế  giới, muốn giao tiếp  
được với nó, đòi hỏi chúng ta phải có một vốn từ  bởi vì từ  vựng là một thành 
phần không thể thiếu được trong ngôn ngữ. Trong tiếng Anh chúng ta không thể 
rèn luyện và phát triển bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh mà không 
dựa vào nền tảng của từ vựng. 

11/22/2019Confidential

Page 

3


     Thật vậy, nếu không có số vốn từ cần thiết, các em sẽ không nghe được và 
hệ quả của nó là không nói được, đọc không được và viết cũng không xong, cho 
dù các em có nắm vững các mẫu câu. 
       Do vậy, giúp học sinh nắm vững các từ  đã học để  vận dụng vào việc rèn 
luyện các kỹ  năng là việc làm rất quan trọng khiến tôi trăn trở  và quyết định  
thực hiện đề  tài : “  Một số  biện pháp dạy từ  vựng cho học sinh tiểu học  
bằng việc học từ mới qua các bài khóa.”  Xin ghi ra đây những kinh nghiệm 
nhỏ bé của mình, có thể nó không mới nhưng tôi đã thực hiện và có một số kết  
quả  tương đối. Mong rằng những kinh nghiệm này góp phần bổ  sung và làm  
phong phú hơn phương pháp dạy học của các bạn đồng nghiệp.
3.Thời gian địa điểm.
 Trong năm học 2013­2014 tôi được phân công giảng dạy môn tiếng Anh khối  
lớp 5. Giáo trình tiếng Anh mới của bộ.Do vậy tôi đã  áp dụng đề tài này với học 
sinh lớp 5 tại trường Tiểu học Quyết Thắng. Năm học 2013 ­ 2014.
4.Đóng góp mới về về mặt thực tiễn.

Hiện nay tình trạng xao lãng việc học, học sinh học đối phó học vẹt mà không 
biết tự học, học sinh yếu kém khá nhiều. Làm thế nào để  khắc phục tình trạng  
này ? Làm thế  nào để  thu hút học sinh chú tâm vào việc học là vấn đề  đòi hỏi  
người làm giáo dục, các thầy cô tâm huyết với nghề, hội đồng sư  phạm nhà 
trường quan tâm hàng đầu, luôn nỗ lực đề ra kế hoạch, chương trình, hình thức,  
cải tiến phương pháp để  dạy và học tốt hơn, nâng cao chất lượng và hiệu quả 
giáo dục.
Trong nhà trường phổ  thông hiện nay, cũng giống như  các bộ  môn khác ,việc 
dạy và học Tiếng  Anh đang diễn ra cùng với sự đổi mới phương pháp giáo dục,  
cải cách sách giáo khoa, giảm nội dung chương trình học nhằm làm phù hợp với 
nhận thức của học sinh, làm cho học sinh tiếp cận với các nội dung, kiến thức  
11/22/2019Confidential

Page 

4


hiện đại. Vốn từ vựng tiếng Anh trong trương trình học cũng được sử dụng phù 
hợp với sự phát triển chung của xã hội.
     Trước hết, xuất phát từ  đối tượng giảng dạy là học sinh ở  lứa tuổi từ  6­12  
về hiểu biết về xã hội chưa có do vậy vốn từ  vựng dạy cho các em ở  cấp học  
này thường phải được kết hợp với các kỹ  năng dạy học phù hợp để  gây hứng  
thú cho học sinh. Bên cạnh đó việc dạy và học tiếng Anh trong nhà trường còn  
diễn ra trong môi trường giao tiếp giữa thầy và trò còn nhiều hạn chế. Số lượng  
học sinh  ở  mỗi lớp rất đông, nhiều lớp tới 35 học sinh.Trình độ  nhận thức có 
nhiều cấp độ  khác nhau phương tiện giảng dạy còn thiếu thốn…Điều này làm 
ảnh hưởng không nhỏ tới việc rèn kĩ năng cho học sinh và sự phân bố thời gian  
cho từng phần nội dung bài sao cho phù hợp từng loại bài giảng( thực hành, kĩ 
năng) cũng là một tác động tới việc lựa chọn, nghiên cứu và áp dụng kĩ năng dạy 

từ vựng sao cho phù hợp.
    Qua thực tế dạy học những năm qua, tôi nhận thấy phương pháp cũ dạy học  
từ  vựng thường theo kiểu cũ. Giáo viên đọc bài rồi liệt kê ra từng từ, cho học  
sinh đọc và giải thích nghĩa của từ, từ  loại, cách sử  dụng từ  đó…Nó còn có  
những hạn chế cơ bản như sau: Học sinh học từ một cách thụ động, sử dụng từ 
trong từng ngữ cảnh giao tiếp bị hạn chế, không linh hoạt và còn lệ thuộc nhiều  
vào cấu trúc ngữ pháp. Do đó vấn đề được đặt ra là nghiên cứu áp dụng  kĩ năng  
dạy từ vựng, cụ thể là các kĩ năng dạy từ vựng, khả năng giới thiệu và kiểm tra 
từ vựng sao cho phù hợp và đạt hiệu quả cao.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. CHƯƠNG TRÌNH 1: TỔNG QUAN
1.1. Cơ sở lý luận.

11/22/2019Confidential

Page 

5


Như  chúng ta đã biết, năm học 2013 ­ 2014 là năm học tiếp theo toàn 
ngành giáo dục ta thực hiện cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung nhằm  
nâng cao chất lượng giáo dục. Ở trường trung học cơ sở giáo viên dạy học sinh 
các môn học khác nhau trên cơ sở trang bị cho học sinh hệ thống những kỹ năng, 
kỹ xảo cần thiết, nhằm đào tạo đội ngũ lao động có tri thức, có tay nghề, có kỹ 
năng thực hành, năng động và sáng tạo …
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “ Giúp học sinh phát triển toàn diện về 
đạo đức, trí tuệ, thể  chất, thẩm mỹ và các kỹ  năng cơ  bản, phát triển năng lực 
cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam  
Xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư  cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị  cho học  

sinh tiếp tục học lên những lớp cao hơn hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham  
gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. 
Chương   trình   giáo   dục   phổ   thông   ban   hành   kèm   theo   quyết   định   số 
16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo 
cũng đã nêu:“Phải phát huy tính tích cực, tự  giác, chủ  động, sáng tạo của học 
sinh , phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện 
từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự  học, khả  năng hợp tác,  
rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm, đem 
lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
a. Thuận lợi :
     ­ Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi về cơ 
sở  vật chất và tài liệu chuyên môn phục vụ  cho việc giảng dạy bộ  môn : bộ 
tranh giáo trình Let’s go, máy cassette, máy chiếu Overhead …..
     ­ Chính quyền địa phương và các đoàn thể trong và ngoài nhà trường luôn hỗ 
trợ giáo viên trong quá trình công tác.
    ­ Bản thân giáo viên bộ môn luôn nhận được sự  hỗ trợ từ các giáo viên cùng  
tổ chuyên môn và các đồng nghiệp.
11/22/2019Confidential

Page 

6


     ­ Đa số các em học sinh trong lớp đều yêu thích học Tiếng Anh và chuẩn bị 
tốt sách vở, đồ dùng cho việc học tập.
      ­ Phần lớn phụ  huynh học sinh luôn quan tâm và tạo điều kiện để  con em 
mình học tập.
b. Khó khăn:

      ­ Đa số các em chưa có phương pháp học từ vựng thật sự hiệu quả. Về phía 
phụ  huynh, cũng rất khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng dẫn các em tự 
học ở nhà bởi môn ngoại ngữ, không phải phụ huynh nào cũng biết. 
      ­ Một số  học sinh nhất là các học sinh nam thường xao lãng và ít quan tâm 
đến việc học tập cũng như học từ vựng.
     ­ Một số học sinh ít có thời gian học bài ở  nhà vì ngoài giờ  học các em còn  
phải phụ  giúp cha mẹ  làm việc nhà, nhiều gia đình cũng rất vất vả  về  kinh tế 
nên muốn mua cho con môt quyển sách để học còn khó thì nói gì đến sách tham  
khảo để nâng cao vốn từ ngoài những từ vựng mà sách giáo khoa cung cấp.
      ­ Các em ít có điều kiện để  giao tiếp bằng tiếng Anh và các em cũng ngại  
giao tiếp, trao đổi nhau bằng tiếng Anh ngoài giờ học.

2.  CHƯƠNG 2:  
NỘI DUNG VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU
2.1. Thực trạng
* Khảo sát.
Để phát huy tốt tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập,  
thì chúng ta cần tổ  chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động 
của người học, trong quá trình dạy và học, giáo viên chỉ là người truyền tải kiến 
thức đến học sinh, học sinh muốn lĩnh hội tốt những kiến thức đó, thì các em 
phải tự học bằng chính các hoạt động của mình.
11/22/2019Confidential

Page 

7


Phương pháp chủ  đạo trong dạy học ngoại ngữ của chúng ta là lồng ghép, 
nghĩa là từ mới cần được dạy trong ngữ cảnh, ngữ cảnh có thể  là một bài đọc,  

một đoạn hội thoại hay một bài khoá. Tuy nhiên, nói đến cùng thì việc dạy và  
học ngoại ngữ vẫn là việc dạy từ mới như thế nào ? Dạy cấu trúc câu mới như 
thế  nào để  học sinh biết. cách sử  dụng từ  mới và cấu trúc mới trong giao tiếp  
bằng tiếng nước ngoài.Theo khảo sát cho thấy  nếu chúng ta áp dụng phương 
pháp cũ để  giảng dạy từ  mới học sinh tiếp thu bài chậm khả  năng nhớ  từ  khó  
hơn và chóng quên.Học sinh học một cách thụ  động ép buộc không có hứng  
thú.Điều này dẫn tới chất lượng tiết học không đảm bảo.
*Đánh giá.
Ngay từ đầu, giáo viên cần xem xét các thủ thuật khác nhau cho từng bước  
xử lý từ vựng trong các ngữ cảnh mới : gợi mở, dạy từ, kiểm tra và củng cố  từ 
vựng.
­Có nên dạy tất cả những từ mới không ? Dạy bao nhiêu từ trong một tiết thì  
vừa.
­ Dùng sẵn mẫu câu đã học hoặc sắp học để giới thiệu từ mới.
­ Dùng tranh ảnh, dụng cụ trực quan để giới thiệu từ mới .
­ Đảm bảo cho học sinh nắm được cấu trúc , vận dụng từ vựng vào cấu trúc 
để hoàn thiện chức năng giao tiếp, thiết lập mối quan hệ giữa cấu trúc mới và 
vốn từ đã có.
­ Khắc sâu vốn từ  trong trí nhớ  của học sinh thông qua các mẫu câu và qua  
những bài tập thực hành.Qua việc nghiên cứu tình trạng dạy và học từ vựng tôi  
đưa ra một số giải pháp sau.
2.2.Các giải pháp.
a.Những vấn đề cần quan tâm trong quá trình dạy từ.
­Trước mỗi bài học giáo viên cần chuẩn bị tranh ảnh liên quan đến từng bài học 
lên tường hai bên phòng học để  học sinh dễ  nhìn và dễ  nhận biết chúng đang 

11/22/2019Confidential

Page 


8


học bài nào? Mục đích cũng làm tăng thêm sự  chú ý cũng như  không khí trong  
lớp học thỏa mái dễ chịu
­ Sắp xếp những học sinh nhút nhát ngồi phía bàn trên gần giáo viên để tiện lắng 
nghe và tạo cơ hội động viên khích lệ trẻ.
­ Giáo viên phải nghiên cứu bài giảng trước khi lên lớp,viết tóm tắt định hướng  
tiết dạy,nhằm tìm ra mối liên quan giữa bài trước với bài sau, phần nào nên dạy 
trước phần nào sẽ dạy sau trong tiết dạy để học sinh dễ hiểu bài.
­ Nếu dạy bằng máy giáo viên nên bấm máy chậm vừa đủ để hs nghe­ hiểu ­đọc  
chính xác theo máy. Giáo viên không cần đọc mẫu, học sinh chỉ  đọc khi máy đã 
đọc xong. Giáo viên luôn chú ý luyện cho học sinh cách phát âm,đọc đúng ngữ 
điệu theo máy và không được dạy mở  rộng.GV không nên dịch tiếng việt khi  
dạy từ.
­ Trong tiết dạy giáo viên phải bám sát khung phân phân bổ  chương trình.Thực 
hiện đúng giáo học pháp qui định trong tài liệu hướng dẫn.
 ­ Sử  dụng hiệu quả  kỹ  thuật giảng dạy và ghi điểm thi đua trong tiết học để 
học sinh luôn phải chú ý hoà vào không khí học tập của lớp.Thực hiện mỗi học  
sinh phải đọc cá nhân ít nhất 1 lần/ tiết và đọc nhiều lần theo nhóm trong một  
tiết dạy, giúp học sinh nhớ ngay bài trên lớp. Đối tượng học là HS tiểu học nên 
giáo viên cần phải dạy tỉ mỉ hơn.
­ Khi tổ chức chơi trò chơi trên lớp.GV phải chú ý hướng dẫn thật cụ thể và rõ  
ràng luật chơi cho học sinh hiểu.Khen thưởng động viên kịp thời và công bằng  
với mỗi học sinh.
b. Nhiệm vụ cụ thể của thày giáo trên lớp.
     Dựa vào các hoạt động cụ  thể  trên lớp và quan điểm mới về  vai trò người  
thầy giáo, có thể tóm tắt những nhiệm vụ cụ thể của thầy giáo trên lớp như sau:
­ Soạn thảo chuẩn bị các hoạt động dạy học.
­ Chuẩn bị về tâm lý và kiến thức cho học sinh vào bài mới .

­ Giới thiệu bài mới.
11/22/2019Confidential

Page 

9


­ Hỏi các câu hỏi phù hợp cho các mục đích dạy học khác nhau.
­ Điều khiển các bài tập luyện.
­ Kiểm tra mức độ nắm bắt, hiểu bài của học sinh.
­ Tạo cơ hội thực hành sử dụng ngữ liệu mới.
­ Điều hành các hoạt động học tập của học sinh.
­ Củng cố dạy lại bài khi cần thiết.
Hiểu biết thêm về  vai trò của người thày giáo giúp giáo viên có cơ  sở  để  xem  
xét, phối hợp với kinh nghiệm bản thân để chủ động xác định cho mình một vai 
trò phù hợp với từng giai đoạn học tập sao cho có thể phát huy được tối đa năng  
lực của học sinh và đem lại hiệu quả dạy và học cao nhất.  
c. Mục tiêu và đặc điểm cần đạt trong phần giới thiệu từ mới.
1. Lựa chọn từ để dạy:
Tiếng Anh là một môn học có tầm quan trọng, nó là công cụ để giao tiếp  
với các nước trên thế giới. Muốn giao tiếp tốt đòi hỏi chúng ta phải có một vốn 
từ phong phú.
Ở  môi trường phổ  thông hiện nay, khi nói đến ngữ  liệu mới là chủ  yếu 
nói đến ngữ  pháp và từ  vựng, từ  vựng và ngữ  pháp luôn có mối quan hệ  khắng 
khít với nhau, luôn được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên dạy 
và giới thiệu từ  vựng là vấn đề  cụ  thể. Thông thường trong một bài học luôn 
xuất hiện những từ mới, xong không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy. 
Để chọn từ cần dạy, giáo viên cần xem xét những vấn đề:
      ­ Từ chủ động   (active vocabulary)

      ­ Từ bị động      (passive vocabulary)
Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên 
quan đến bốn kỹ  năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại từ  này giáo viên 
cần đầu tư thời gian để giới thiệu và hướng dẫn học sinh luyện tập nhiều hơn.

11/22/2019Confidential

Page 

10


Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư 
thời gian vào các hoạt động  ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết 
định xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động.
      ­ Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là:
+  Form.
+  Meaning.
+  Use.
Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ 
điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên 
cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ  từ  riêng lẻ, mà còn biết phát âm 
đúng những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ.
      ­ Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ  thuộc vào nội dung bài và trình độ  của 
học sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực 
hiện các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6 từ.
      ­ Trong khi lựa chọn từ để dạy, bạn nên xem xét đến hai điều kiện sau: 
+ Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ?
+ Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ?
­ Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của học 

sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn phải dạy cho học sinh.
      ­ Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ  của 
học sinh, thì nó không thuộc nhóm từ  tích cực, do đó bạn nên giải thích rồi cho  
học sinh hiểu nghĩa từ đó ngay.
      ­ Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó lắm  
thì bạn nên yêu cầu học sinh đoán nghĩa của từ.
2 Các thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới:
 Giáo viên có thể  dùng một số  thủ  thuật gợi mở  giới thiệu từ mới, giúp  
các em học sinh tiếp thu từ một cách chủ động như:                               
* Visual (nhìn) :
11/22/2019Confidential

Page 

11


Cho học sinh nhìn tranh  ảnh hoặc vẽ phác hoạ cho các em nhìn, giúp giáo  
viên ngữ nghĩa hoá từ một cách nhanh chóng.
* Mine (điệu bộ): 
           Thể hiện qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ.
 Ex :
Unit 6: How ‘s the weather ?
­sunny, windy, rainy, snowy, hot, cold, hungy, thirsty
* Realia (vật thật)
              Dùng những dụng cụ trực quan mà thực tế có được.
        Ex: 
        
 Để  dạy các từ  về  rau, củ, quả  , bánh kem, thịt ,cá,…giáo viên nên sưu tầm  
vật thật học tranh ảnh để minh họa cho bài giảng của mình.                        

* Situation / Explanation: 
          Dùng tình huống và giải thích để học sinh nắm bắt từ mới một cách hiệu 
quả.
 Giáo viên có thể đưa ra một vài tình huống để học sinh tự đoán nghĩa.
* Example : 
         Đưa ra các ví dụ cụ thể có liên quan đến từ sắp học tạo sự tò mò và hấp  
dẫn học sinh.
* Synonym \ antonym:( từ đồng nghĩa \ trái nghĩa):
         Giáo viên dùng những từ đã học rồi có nghĩa tương đương để  giúp  
học sinh nhận biết nghĩa cuả từ sắp được học.
     “giáo viên có thể yêu cầu học sinh tự đoán nghĩa thông qua từ đã học trước 
đó.
         Ex: tall / short, thin / fat, young/ old, pretty/ urly….
            T. asks  “What’s another word for nice?”
11/22/2019Confidential

Page 

12


             Ss answer  “ pretty”
* Translation (dịch):
     ­ Giáo viên dùng những từ tương đương trong tiếng Việt để  cung cấp 
nghĩa từ trong tiếng Anh.
     ­ Giáo viên chỉ sử dụng thủ thuật này khi không còn cách nào khác, thủ 
thuật này thường được dùng để  dạy từ  trừu tượng, hoặc để  giải quyết một số 
lượng từ nhiều nhưng thời gian không cho phép, giáo viên gợi ý học sinh tự dịch 
từ đó.
 * True or False statements:

      Giáo viên cung cấp một số câu và yêu cầu học sinh chọn lựa câu trả 
lời đúng nhất có liên quan đến từ sắp được học.
3. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố từ mới:
Sau khi từ  vựng đã được dạygiáo viên cần tổ  chức cho học sinh thực hành, ôn 
luyện thường xuyên các từ  đã được học, đồng thời luôn có những hình thức 
kiểm tra xem học sinh đã hiểu đúng chưa đểkịp thời só những bài dạy bổ sung.
Quá trình này là quá trình thường xuyên và lâu dài, không nhất thiết phải xảy ra 
trong một tiết dạy. Tuy nhiên cũng có những bài tập quá trú trọng riêng cho phần 
học từ. có thể hình dung quá trình quá trình dạy và học từ qua 4 giai đoạn sau:
­Giới thiệu từ
­Thực hành
­Kiểm tra
­Ôn luyện củng cố.
Chúng ta biết rằng chỉ  giới thiệu từ  mới thôi chưa đủ, mà chúng ta còn 
phải thực hiện các bước kiểm tra và củng cố từ mới ngay tại lớp. Các thủ thuật  
kiểm tra và củng cố sẽ khuyến khích học sinh học tập tích cực và hiệu quả hơn.

11/22/2019Confidential

Page 

13


* Có rất nhiều thủ thuật để kiểm tra từ
     * CHECKING TECHNIQUES FOR VOCABULARY
  

Rub out and 
Remember


Jumbled words

Ordering

7 TECHNIQUES

Bingo

  What and where

 

Slap the board 

Matching

4. Bài tập luyện nhớ từ.
­ Bên cạnh đó để  giúp học sinh nhớ  được từ  lâu, giáo viên có thể  dùng các bài  
tập luyện nhớ từ như sau:
1. Observe and remember.

11/22/2019Confidential

Page 

14


    Giáo viên chuẩn bị một số vật khác nhau để  trên một cái khay hoặc một bức 

tranh gồm nhiều chi tiết khác nhau cho học sinh quan sát từ 1 đến 2 phút .Sau đó 
không cho học sinh nhìn nữa và phải viết lại những gì đã quan sát được.
Cùng với hiện vật này giáo viên, giáo viên cá thể  đổi vật, vị  trí hoặc màu sắc. 
Sau đó học sinh phải nói lại, phát hiện xem có những thay đổi gì.
2. Kim’s game
    Giáo viên đọc to hoăc viết lên bảng 10 từ thuộc các loại từ khác nhau, sau đó  
xoá bảng , yêu cầu học sinh đếm từ25 xuống 1, sau đó viết lại 10 từ  đã nghe  
hoặc nhìn.
3.Finding the right word.
4. Brainstorming.
5.Find things which / Find people who….
6. Gap­ filling.
7. Matching.
8. Multiple choice.
9. Collocation grid.
5. Các trò chơi về từ vựng.
   Để học từ, ngoài những bài tập luyện còn có những trò chơi để luyện từ vựng. 
Sau đây là một số trò chơi phổ biến có thể dùng trong lớp học.
      1.An ice breaker.
   ­Chia lớp thành hai nhóm nhỏ .
   ­ Chọn một nhóm từ nào đó
    Eg: hungry, thirsty,hot, cold, cool…
­Yêu cầu học sinh tự giới thiệu tên mình và dùng một từ trong số đó để đặt câu.
2. Life key words.
­ Hỏi học sinh ngày của hôm nay.
Eg: What date is it today?
­Sau đó hỏi tiếp tục ngày của 7 năm trước.
11/22/2019Confidential

Page 


15


Eg: What date was it 7 years ago?
­Ghi lên bảng câu trả lời.
­Bước tiếp theo, yêu cầu học sinh viết 10 từ tiêu biểu diễn tả cuộc sống 7 năm 
trước đây.
­Sau đó học sinh làm việc theo cặp, nhóm, giải thích cho bạn rõ ý nghĩa của 10  
từ đó.
Eg: now                                         then
3.Whose handbag / pocket is it ?
  Giáo viên yêu cầu học sinh tưởng tượng ra một nhân vật và ghi ra phiếu những  
vật , những người đó thường mang theo người khoảng 5 đến 10 từ. Sau đó xáo  
trộn phiếu của học sinh , cho các em bốc thăm và đoán xem nhân vật đó là ai.
   Trò chơi này có thể hướng vào một số các nhân vật có nghề nghiệp đặc trưng 
khác nhau, các nhân vật nổi tiếng với một số thói quen phổ  biến, hay chính các  
bạn trong lớp học mà mọi người cùng biết.
4.Words my neighbour  knows.
Giáo viên đề nghị học sinh viết ra 10 từ cho 3 loại sau:
­ Từ mình cho rằng bạn ngồi cạnh phải biết.
­ Từ mình cho rằng bạn phải biết nhưng bạn lại không biết
­ Từ chắc chắn bạn không biết.
Sau đó làm việc theo cặp với bạn, kiểm tra xem mình có làm đúng không.
5.One initial letter only.
6.Twenty questions.
­ Trò chơi này rất phổ biến, không chỉ  có tác dụng học từ mà còn giúp học sinh  
ôn luyên cách đặt câu hỏi và phản ứng nhanh .
­ Một học sinh A sẽ nghĩ về một vật thuộc một trong 3 nhóm qui định :
Animals: người, động vật.

Minerals: vật dụng, nguyên liệu .
Vegetables: thực vật, rau quả.
11/22/2019Confidential

Page 

16


­ Cả lớp sẽ đoán vật đó bằng cách chỉ được hỏi bạn A các câu hỏi đúng sai ( yes  
– no questions ). Tối đa là 20 câu hỏi để tìm câu trả lời.
6. Biện pháp tổ chức thực hiện:
 * Các bước tiến hành giới thiệu từ mới:
Để giới thiệu từ mới, giáo viên dạy cho học sinh theo bốn kỹ năng :
            + Nghe: Giáo viên đọc mẫu, học sinh lắng nghe.
            + Nói: Giáo viên đọc từ, học sinh đọc lại.
            + Đọc: Giáo viên viết từ lên bảng, học sinh đọc từ bằng mắt, bằng miệng
            + Viết: Học sinh viết từ vào tập.
             ­ Bước giới thiệu bài, giới thiệu chủ  đề: đây là bước khá quan trọng 
trong việc dạy            từ vựng. Bước này sẽ  quyết định sự  thành công của tiết 
học, nó sẽ gợi mở cho học sinh liên tưởng đến những từ sắp học qua chủ điểm  
vừa mới được giới thiệu. Điều quan trọng nhất trong giới thiệu từ  mới là phải  
thực hiện theo trình tự: nghe, nói, đọc, viết. Đừng bao giờ bắt đầu từ hoạt động 
nào khác “nghe”. Hãy nhớ  lại quá trình học tiếng mẹ  đẻ  của chúng ta, bao giờ 
cũng bắt đầu bằng nghe, bắt chước phát âm rồi mới tới những hoạt động khác. 
Hãy giúp cho học sinh của bạn có một thói quen học từ mới một cách tốt nhất:
          ­ Bước 1: “nghe”, bạn cho học sinh nghe từ mới bằng cách đọc mẫu.
           ­ Bước 2: “nói”, sau khi học sinh đã nghe được ba lần bạn mới yêu cầu học sinh 
nhắc lại. Khi cho học sinh nhắc lại , bạn cần chú ý cho cả  lớp nhắc lại trước,  
sau đó mới gọi cá nhân

­ Bước 3: “đọc”, bạn viết từ  đó lên bảng và cho học sinh nhìn vào đó để  đọc. 
Cho học sinh đọc cả lớp, rồi đọc cá nhân và sửa lỗi cho học sinh tới một chừng  
mực mà bạn cho là đạt yêu cầu.
­ Bước 4: “viết”, sau khi học sinh đã đọc từ đó một cách chính xác rồi bạn mới  
yêu cầu học sinh viết từ đó vào vở.
­ Bước 5: bạn hỏi xem có học sinh nào biết nghĩa của từ  đó không và yêu cầu  
một học sinh lên bảng viết nghĩa của từ đó bằng tiếng Việt.
11/22/2019Confidential

Page 

17


­ Bước 6: đánh trọng âm từ: phát âm lại từ  và yêu cầu học sinh nhận diện âm 
tiết có trọng âm và đánh dấu.
­ Bước 7: cho câu mẫu và yêu cầu học sinh xác định từ loại của từ mới học.
*   Trong khi dạy từ mới phải ghi nhớ các điểm sau: 
Nên giới thiệu từ trong từng mẫu câu cụ thể. Ở những tình huống giao tiếp khác  
nhau, giáo viên có thể kết hợp việc làm đó bằng cách thiết lập được sự quan hệ 
giữa từ cũ và từ mới, từ vựng phải được củng cố liên tục.
Giáo viên thường xuyên kiểm tra từ vựng vào đầu giờ  bằng cách cho các  
em viết từ vào bảng con và giơ lên, với cách này giáo viên có thể quan sát được 
toàn bộ  học sinh  ở  lớp, bắt buộc các em phải học bài và nên nhớ  cho học sinh  
vận dụng từ vào trong mẫu câu, với những tình huống thực tế  giúp các em nhớ 
từ lâu hơn, giao tiếp tốt và mang lại hiệu quả cao.
Để học sinh tiếp thu bài tốt đòi hỏi khi dạy từ mới, giáo viên cần phải lựa  
chọn các phương pháp cho phù hợp, chúng ta cần chọn cách nào ngắn nhất,  
nhanh nhất, mang lại hiệu quả cao nhất, là sau khi học xong từ vựng thì các em  
đọc được, viết được và biết cách đưa vào các tình huống thực tế.

 *  H
  ướng dẫn học sinh học từ vựng ở nhà: 
Thời gian học ở trường rất ít, cho nên đa phần thời gian còn lại ở gia đình 
các em phải tự tổ chức hoạt động học tập của mình. Vì thế, ngay từ đầu từ năm  
học, giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách học từ mới. học từ mới có rất nhiều  
cách.
Ex:  Hôm nay gv hướng dần học sinh  học 10 từ về nhà ngày đầu tiên hs  
học 5 từ ngày thứ  2 học 5 từ cũ và 5 từ  tiếp theo (ôn lại từ  cũ ) và cứ  như  vậy  
ngày nào học sinh cũng ôn tập thì sẽ  thuộc từ  rất nhanh do vậy viêc học tập  ở 
nhà thật quan trọng. 
7. Sườn giáo án minh họa :
­Trước khi soạn giáo án giáo viên cần nắm vững vấn đề liên quan đến một  
giờ học.
11/22/2019Confidential

Page 

18


­ Đối tượng học sinh : lứa tưổi, trình độ chung , vốn kiến thức và kĩ năng đã có,  
điểm mạnh điểm yếu, sở thích, tâm lý…
­Nội dung yêu cầu bài học: Trọng tâm ngôn ngữ (cấu trúc, từ vựng), các kĩ năng 
sẽ học. Đảm bảo nắm chắc kiến thức sẽ dạy và sử  dụng được thành thạo vốn  
kiến thức đó.
­ Môi trường, điều kiện dạy học: trường lớp, cách bố  trí bàn ghế, các phương  
tiện có trong phòng họ.
­ Các thủ thuật dạy học và bản chất của các hoạt động trên lớp.
­Sử dụng thành thạo các phương tiện trực quan và các phương tiện dạy học sẽ 
dùng vào bài.

  Dưới đây là sườn một giáo án tiếng Anh 5.

Week 15: Period 59

Unit 10: How I  learn English
Lesson 1(part1, 2)
I.Overview
  1. Objectives: 
By the end of the lesson SS will be able to ask and answer questions  
about one’s favourite school subject.
  2. Language focus:
       ­ Vocabulary: translator,difficult, best
      ­ Sentence patterns: What subject do you like best? Science( I like science 
best)
 3 . Resources: student books, puppets/ flashcards / pictures, CD, 
II. Procedure 
Content
Interaction
I. Warm up: ­ slap the board( subjects)
­ T­ WC
11/22/2019Confidential

Page 

19


II. New lesson
1. Look, listen and repeat.
­ Who are they? where are they from? 

­ What are they talking  about ? 

2. Point, ask and answer
Eg: Picture a.
What subject is it? / Do you like it?
 How often do you have it?
+ Vocabulary
Translator, difficult,best
+ Checking vocab: R& R
+ Sentence patterns
      What subject do you like best? 
        Science( I like science best)
III. Reinforcement
­ Repeat vocabulary and subjects.
IV. Homelink
­ Learn by heart the words, sentence 
patterns you have learnt in this lesson.

­ Team work.
­ Explain the title of this unit.
­ T explains the requirement of 
the task.
­ Run through all the pictures 
( Characters/ places/ 
objects/activities)
­ Model: T­ Ps, P­ P
­ Play the recording all the way 
through( once)
­ Listen and repeat.
­ Ps practice in pairs/groups

­ T explains the requirement of 
the task.
­ Run through  all the subjects.
­ Teach vocabulary
­ Model: T­ Ps, P­ P 
­ Ps practice in pairs
­ Call on some pairs to perform 
in front of the class.
 ­ Gives comment.
­   T­ WC

2.3. Kết quả nghiên cứu
* Tiêu chí đánh giá.

11/22/2019Confidential

Page 

20


 Qua quá trình áp dụng đề tài vào thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh ngày 
càng có nhiều tiến bộ về học tập:
     ­ Học sinh có hứng thú và tích cực hơn trong mọi hoạt động.
­ Các tiết học trở nên sôi nổi và sinh động hơn.
­ Học sinh hầu như đã thuộc gần hết các từ mới ngay tại lớp học.
­ Vốn từ vựng của các em tăng lên rõ rệt.
­ Các em học sinh yếu kém có thể sử dụng được từ vựng vào những câu đơn 
giản. Những học sinh khá có thể  sử  dụng từ  vựng trong những câu phức tạp  
hơn.

* Kết  quả sau khi đánh giá.
­ Các tiết học trở nên sôi nổi và sinh động hơn.
­ Học sinh đã thuộc các từ mới ngay tại lớp học.
­ Vốn từ vựng của các em tăng lên rõ rệt.
­ Các em học sinh yếu kém có thể  sử  dụng được từ  vựng vào những câu 
đơn giản. Những học sinh khá có thể sử dụng từ vựng trong những câu phức tạp 
hơn.
Kết hợp dự  giờ, thực nghiệm, kiểm tra đối chiếu các   kết quả  học tập  
của học sinh, hầu rút ra được phương pháp dạy tốt nhất cho các em .  

* So sánh với cùng kỳ năm trước.  
  Sau đây là bảng thống kê chất lượng học tập từ đầu năm học cho tới hết  
tháng 3.2014 năm hoc 2013 ­2014 cuả học sinh ở lớp 5A và 5B.
11/22/2019Confidential

Page 

21


Lớ
p

TS 
học  Giỏi
sinh

Tỷ lệ

Khá


Tỷ Lệ TB

Tỷ Lệ Yếu

Tỷ lệ

5A

35

18

51.4%

13

37.1%

2

2.7%

0

0

5B

35


2

2.7%

4

5.7%

21

60%

8

22.8%

       Với kết quả cụ thể trên chúng ta đều thấy rằng chất lượng học tập của học  
sinh  ở lớp 5A ­ lớp có áp dụng đề  tài cao hơn hẳn so với các lớp còn lại. Điều 
đó cho thấy đề tài mà tôi đang nghiên cứu phần nào đã mang lại hiệu quả trong 
quá trình giảng dạy thực tế .
2.4 Rút ra bài học kinh nghiệm.
Theo phân phối chương trình hiện nay, môn tiếng Anh 4mỗi tuần 02 tiết,  
mà hầu như  tiết nào cũng có từ  mới trong bài học và kể  cả  trong bài tập. Nếu  
muốn dạy tốt từ  vựng để  tiết học sinh động hơn, giáo viên cần phải tìm tranh 
ảnh, đồ  dùng để  minh hoạ, tạo điều kiện cho các em nhớ  từ  dễ dàng và hướng 
sự chú ý của các em vào chủ đề hay trọng tâm bài học.
Trong một tiết chương trình giáo viên cần lựa chọn 4­ 5 từ để dạy. Các từ 
này phải thuộc loại hoạt động (active vocabulary) – nghĩa là các từ này học sinh 
sẽ sử dụng thường xuyên ở trên lớp nhằm rèn luyện các kỹ năng cơ bản. Các từ 

này học ở bài trước và sẽ được ôn lại ở bài sau.
Ngoài ra, cách học từ vựng của học sinh cũng là điều đáng được quan tâm, 
học sinh thường học từ  vựng một cách máy móc bằng cách đọc từ  bằng tiếng 
Anh và cố nhớ nghĩa bằng tiếng Việt, có viết trong tập viết cũng là để  đối phó  
với giáo viên, chứ  chưa có ý thức tự  kiểm tra lại mình, để  khắc sâu từ  mới và  
vốn từ sẵn có. Vì thế, các em rất mau quên và dễ  dàng lẫn lộn giữa từ  này với  
từ khác. Do vậy, nhiều học sinh đâm ra chán học và bỏ quên, giáo viên cần chú ý 
đến tâm lý này của học sinh.

11/22/2019Confidential

Page 

22


Tôi thực hiện đề tài này chỉ là một phần trong tiết học, tuy nhiên nó đóng  
vai trò rất quan trọng cho việc thực hành mẫu câu, việc đối thoại có trôi chảy, 
lưu loát hay không đều phải phụ thuộc vào việc học thuộc lòng từ vựng và phát 
âm có chuẩn hay không.Giáo viên nên sử  dụng băng VCD hay cassettes để  dạy 
cách từ cho học sinh.Cho học sinh nghe băng để học là rất hiệu quả nâng cao kĩ  
năng nghe của học sinh rất nhiều.
Nhưng để  thực hiện giảng dạy tốt từ  vựng, không chỉ  cần có sự  đầu tư 
vào bài giảng, vào các bước lên lớp của giáo viên, mà còn phụ  thuộc rất nhiều  
vào hoạt động của học sinh bởi dạy học phải luôn lấy học sinh làm trung tâm thì 
bài giảng mới thành công. 

11/22/2019Confidential

Page 


23


III.KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1.Kết Luận
           Trên đây là phương pháp dạy học cùng với thực tế giảng dạy của bản 
thân tôi. Tôi nhận thấy rằng trong quá trình dạy học, giáo viên cần cố  gắng áp  
dụng các phương pháp một cách linh hoạt sao cho phù hợp với nội dung bài và 
phù hợp với đối tượng học sinh. Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần khéo léo sử 
dụng các thủ thuật sư  phạm nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh và  
giúp cho các em học tập có kết quả.
   Để  phát huy tốt tính tích cực chủ  động sáng tạo của học sinh trong học  
tập, thì chúng ta cần tổ  chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt  
động của người học, trong quá trình dạy và học, giáo viên chỉ là người truyền tải 
kiến thức đến học sinh, học sinh muốn lĩnh hội tốt những kiến thức đó, thì các  
em phải tự học bằng chính các hoạt động của mình.
Để  đáp  ứng tốt yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục  ở  cấp Tiểu  học, 
ngoài những yếu tố  ngoại cảnh như  chương trình, thời gian, trình độ  của học 
sinh, khả năng chuyên môn của giáo viên. Điều quan trọng nhất là phương thức  
tổ chức của giáo viên trong một tiết dạy như thế nào để học sinh có hứng thú.
Giáo viên hạn chế  giao bài tập về  nhà cho học sinh.động viên học sinh 
hoàn thành bài tập tại lớp và đem về khoe với bố mẹ .Yêu cầu giáo viên sau khi 
hoàn thành tiết dạy, học sinh phải hiểu và nhớ được 80% bài giảng. 
Để  hưởng  ứng phong trào đổi mới phương pháp dạy học  ở  trường Tiểu  
học với tư cách là một giáo viên dạy bộ môn ngoại ngữ tôi rất mong muốn đóng  
góp một phần nhỏ  bé của mình cùng với các thầy cô giáo và các bạn đồng  
nghiệp xây dựng phương pháp dạy học mới ngày càng chuẩn mực, có hiệu quả 
hơn giúp cho các em học sinh ngày càng thích học ngoại ngữ, có thể học tập chủ 
động, giao tiếp tự tin bằng chính khả năng của mình.

­ Nghiên cứu tài liệu, dự giờ đồng nghiệp, kiểm tra, đối chiếu, so sánh kết quả 
của học sinh.
          Giáo viên đọc thêm sách báo nghiên cứu kĩ các vấn đề mình sắp thực hiện.

11/22/2019Confidential

Page 

24


           Giáo vên tham khảo thêm những cách tổ  chức hát những bài hát có tính 
chất trò chơi hay là từ  người có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động toàn thể.  
(Riêng tôi, bản thân từng là cán bộ  phụ  trách rất hiệu quả  công tác Đội ­ Đoàn  
thanh niên trong suốt 8 năm khi còn là giáo viên trường Tiểu học Vĩnh Khê và 
công tác Công Đoàn trong ba năm . Nhờ đó tôi có cơ hội tích lũy được khá nhiều 
kinh nghiệm.) Muốn học sinh nói được, hát được thì học sinh phải thuộc từ  và 
thuộc nội dung bài hát.
Đồ dùng dạy học mà giáo viên phải chuẩn bị sẵn sàng và kĩ lưỡng là  nội dung  
các bài hát tự soạn, thế cho nên giáo viên cần tóm tắt từ vựng và một số cấu trúc  
cơ  bản trong bài học theo từng chủ  điểm để  lồng vào các bài hát đó, cùng với 
nghiên cứu lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp. Do vậy mà tôi nghĩ vấn đề dạy 
từ  vựng là vấn đề  quan trọng không thể thiếu trong quá trình dạy tiếng anh nói  
chung.
2. Kiến nghị
  * Từ nhiều năm nay do đặc thù của bộ môn nên môn Tiếng Anh chỉ được coi là 
môn tư chọn ở bậc tiểu do vậy học sinh rất coi thường bộ môn này.Các em học  
chỉ để chống đối chứ chưa có ý thức học tập nên kết quả học tập chưa cao. 
 Cá nhân tôi cũng như giáo viên trong tổ rất mong được sự quan tâm hơn nữa của 
nhà trường, các bậc phu huynh, và của các cấp lãnh đạo.

­ Đề nghị các cấp lãnh đạo tổ chức nhiều buổi chuyên đề cấp cụm để  toàn thể 
giáo viên trong huyện được học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
* Hướng nghiên cứu tiếp của đề tài :
   Tôi sẽ  tiếp tục nghiên cứu và bổ  sung cho những  thiếu sót, hoàn thiện  
hơn những ưu điểm mà đề tài đã đạt được trong thời gian qua và có hướng phổ 
biến sáng kiến kinh nghiệm này không chỉ   ở  các khối lớp 5 của trường mà có  
thể áp dụng cho các khối khác nhằm nâng cao chất lượng bộ môn.
   Tôi xin trân thành cảm  ơn Ban giám hiệu nhà trường cùng các đồng chí  
giáo viên và các em học sinh khối 5 trường Tiểu học Quyết Thắng đã giúp tôi 
trong quá trình nghiên cứu hoàn thành đề tài này. 
                                                   Đông Triều, Ngày 24 tháng 3  năm 2014
                                                                            Người thực hiện
11/22/2019Confidential

Page 

25


×