Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề gì
Điều 4 chương I – Luật phổ cập Giáo dục Tiểu học quy định: “Giáo
dục tiểu học được thực hiện bằng Tiếng Việt”. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ
phổ thông sử dụng trong giao tiếp. Môn Tiếng Việt là môn học có vai trò quan
trọng đối với học sinh Tiểu học nói chung và học sinh dân tộc thiểu số nói
riêng. Chính vì vậy, mọi trẻ em bước vào bậc tiểu học cần phải có được một
vốn kiến thức cơ bản, cần thiết với những kĩ năng quan trọng như nghe – nói
– đọc – viết tiếng Việt để tham gia hiệu quả vào quá trình học tập và các
hoạt động ngoài giờ lên lớp. Việc nghe – nói – đọc – viết đúng tiếng Việt của
học sinh dân tộc thiểu số là vấn đề mỗi giáo viên cần phải quan tâm, điều đó
không chỉ khẳng định chất lượng dạy học của nhà trường, năng lực của giáo
viên mà còn khẳng định khả năng nhận thức của học sinh dân tộc thiểu số khi
học ngôn ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ.
Văn chương hướng con người tới chân, thiện, mỹ, giúp con người hoàn
thiện nhân cách để trở nên hữu ích cho xã hội. Nhiều nghiên cứu cũng cho
thấy, sự tác động của văn hóa đọc với sự hình thành cá tính và nhân cách
ở lứa tuổi thiếu nhi (từ 5 14 tuổi) đặc biệt là lứa tuổi học sinh tiểu học (7
11 tuổi) là rất mạnh mẽ. Do ở lứa tuổi đó, các em còn chưa tự định hướng
trong tiếp nhận thông tin nên việc sử dụng và biến sách báo tài liệu trở thành
công cụ và phương tiện để giáo dục là việc làm hữu ích và đem lại hiệu quả
to lớn. Chúng ta cần thúc đẩy nhu cầu và hứng thú đọc sách cho các em lứa
tuổi tiểu học là tạo ra môi trường đọc sách hiện đại, thân thiện, biến những
cuốn sách và thư viện trở thành thú vị, dần dần xây dựng xã hội đọc sách và
cao hơn là xã hội học tập.
Để đáp ứng nhu cầu đọc sách của học sinh, thư viện thân thiện đã ra
đời. Đây là một mô hình thư viện của nước ngoài được đưa vào các trường
học, được cụ thể hóa trong một tiết học “Tiết đọc thư viện”. Trong Tiết đọc
thư viện có các hoạt động đọc chính giúp phát triển thói quen đọc sách của
học sinh. Những hoạt động đọc không tập trung vào dạy kỹ năng đọc mà mục
đích chính của tiết đọc thư viện là hình thành và phát triển thói quen đọc sách
của học sinh. Tuy nhiên, khi các em đã có thói quen đọc sách thì kỹ năng đọc
sách sẽ phát triển và đồng thời sẽ phát triển về tư duy ngôn ngữ cũng như
học tập được nhiều điều bổ ích.
Trên địa bàn xã Ea Bông, dân tộc Ê – đê chiếm phần lớn dân số của xã.
Đặc biệt trường Tiểu học Ea Bông là trường đặc thù có học sinh dân tộc Ê –
đê chiếm 71% số học sinh toàn trường và đều là con em của hai buôn vùng
đặc biệt khó khăn: Buôn Knul và Buôn Riăng. Một số em nói, đọc chưa đúng
một số hoặc nhiều tiếng, từ ngữ tiếng Việt và đặc biệt là sai hoặc thiếu dấu
thanh. Kĩ năng giao tiếp, diễn đạt bằng tiếng Việt còn rất hạn chế, các em
1
giao tiếp với nhau chủ yếu bằng tiếng mẹ đẻ và chỉ dùng tiếng Việt trong các
tiết học hoặc khi giao tiếp với thầy cô giáo.
Do đó, việc dạy và học Tiếng Việt để đạt được kiến thức và kĩ năng là
một điều hết sức khó khăn cho trường cũng như các trường trong địa bàn. V ì
đây là ngôn ngữ thứ hai của các em, khả năng tiếp thu của các em chậm, mất
nhiều thời gian, ảnh hưởng đến thời lượng và các hoạt động trong một tiết
dạy. Vì vậy, cần có một bộ môn, một tiết học phù hợp để rèn luyện, hướng
dẫn sửa sai cho học sinh đọc, nói đúng tiếng Việt.
Xuất phát từ thực tế đang giảng dạy, tôi nghiên cứu: Học sinh dân tộc
thiểu số lớp 5C, trường Tiểu học Ea Bông còn yếu về kĩ năng nghe, nói, đọc,
viết tiếng Việt.
Phạm vi nghiên cứu: Thực nghiệm biện pháp, hình thức tổ chức tăng
cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số tại lớp 5C, trường Tiểu học
Ea Bông, xã Ea Bông, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk. Phương pháp rèn
luyện nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt cho học sinh trong Tiết đọc thư viện.
Thời gian nghiên cứu bắt đầu từ ngày Tiết đọc thư viện được đưa vào
chương trình giảng dạy 10/9/2018 đến nay.
Đây là tiết học mới nhưng Tiết đọc thư viện này giống như một buổi
vào thư viện đọc sách ở cấp học phổ thông trước đây; điểm khác biệt là học
sinh vào thư viện dưới sự hướng dẫn của giáo viên chủ nhiệm, được giáo
viên đưa vào kế hoạch dạy học, thiết kế với các tiến trình hoạt động phong
phú, đa dạng để thu hút học sinh. Trong Tiết đọc thư viện học sinh đều được
đọc và nói, đây là thời gian thích hợp để sửa lỗi đọc, nói, viết đúng tiếng Việt
cho học sinh. Bên cạnh việc rèn kĩ năng sử dụng tiếng Việt, Tiết đọc thư
viện còn rèn cho học sinh thói quen đọc sách, việc này sẽ mang lại những lợi
ích vô cùng to lớn vì sách chứa đựng rất nhiều kiến thức trong cuộc sống và
học tập, giúp chúng ta tư duy, nhận thức sâu sắc hơn, trưởng thành hơn và
tích lũy được vốn từ ngữ phong phú, hình thành văn hóa đọc.
Tôi thấy rằng việc giúp học sinh dân tộc thiểu số phát âm đúng, chuẩn
tiếng Việt là việc làm quan trọng, cần thiết, nó là nhân tố bổ trợ cho học sinh
học tốt môn Tiếng Việt nói riêng và nâng cao chất lượng giáo dục nói chung.
Xuất phát từ lí do nêu trên tôi đã lựa chọn đề tài: “Tăng cường Tiếng Việt
cho học sinh lớp 5 dân tộc thiểu số qua Tiết đọc thư viện”.
II. Mục tiêu của nghiên cứu
Qua tiết đọc thư viện, tạo môi trường giao tiếp tiếng Việt tích cực để
học sinh được sử dụng tiếng Việt và có điều kiện sửa sai, rèn luyện tiến tới
nói, đọc, viết đúng, chuẩn tiếng Việt. Nâng cao ý thức sử dụng tiếng Việt
ngoài thời gian trên lớp của các em. Qua mỗi câu chuyện, học sinh biết điều
chỉnh giọng phù hợp với ngữ cảnh, lời của người kể chuyện hay lời của nhân
2
vật. Học sinh thể hiện được hành vi văn minh trong giao tiếp như chú ý lắng
nghe người khác nói, biết giơ tay khi muốn nói và biết chờ đến lượt mình.
Ngoài ra còn hình thành thói quen và khơi dậy niềm đam mê đọc sách, tìm tòi
để trau dồi vốn tiếng Việt, rèn luyện kĩ năng đọc sách có hiệu quả, mỗi giờ
đến tiết đọc thư viện là một niềm vui, đúng như câu khẩu hiệu : “Mỗi ngày
đến trường là một niềm vui”.
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
1. Các định nghĩa, khái niệm
1.1. Tăng cường Tiếng Việt là gì?
Tăng cường Tiếng Việt là các biện pháp giúp học sinh học Tiếng Việt
có hiệu quả.
1.2. Khái niệm về Thư viện
Theo ý nghĩa truyền thống, thư viện là kho sưu tập sách, báo và tạp
chí.
Định nghĩa mới nhất của UNESCO: Thư viện không phụ thuộc vào
tên gọi, là bất kì bộ sưu tập có tổ chức của sách, báo, tài liệu các loại, ấn
phẩm định kì... Nhân viên thư viện có trách nhiệm tổ chức cho bạn đọc sử
dụng tài liệu để tra cứu thông tin, giáo dục và giải trí.
1.3. Thư viện thân thiện là gì?
Thư viện thân thiện là nơi học sinh được khuyến khích và hỗ trợ cho
việc đọc một cách tích cực trong một môi trường thân thiện và an toàn.
1.4. Khái niệm Tiết đọc thư viện
Tiết đọc thư viện được đưa vào thời khóa biểu của trường, thời gian
dành cho một tiết đọc thư viện tương đương với thời gian dành cho một tiết
của các môn học khác.
Tiết đọc thư viện được giáo viên đã tham gia tập huấn thực hiện.
Tiết đọc thư viện nên tổ chức ở thư viện. Nếu trường có số lớp đông
và không thể tổ chức toàn bộ tiết đọc trong thư viện thì Tiết đọc thư viện có
thể diễn ra ở lớp học.
Trong tiết đọc thư viện có các hoạt động đọc chính giúp phát triển
thói quen đọc sách của học sinh. Những hoạt động đọc không tập trung vào
dạy kỹ năng đọc mà mục đích chính của tiết đọc thư viện là hình thành và
phát triển thói quen đọc sách.
2. Các quan điểm khoa học
Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng và cần thiết nhất
ở bậc tiểu học. Bên cạnh việc học toán để phát triển tư duy logic cho học
3
sinh, việc học Tiếng Việt sẽ giúp các học sinh hình thành và phát triển tư duy
ngôn ngữ. Thông qua môn Tiếng Việt, các em sẽ được học cách giao tiếp,
truyền đạt tư tưởng, cảm xúc của mình một cách chính xác và biểu cảm.
Tiếng Việt vừa là môn học cơ bản, vừa là môn học công cụ để học
sinh tiếp thu tri thức, kỹ năng của các bộ môn khác trong chương trình giáo
dục và hướng đến việc hình thành kỹ năng sống cần thiết cho học sinh.
Thư viện trường học là một bộ phận cơ sở trọng yếu, là trung tâm sinh
hoạt văn hóa, khoa học của nhà trường. Thư viện trường học góp phần nâng
cao chất lượng giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh, xây dựng thói
quen tự học cho học sinh. Mặt khác, thư viện trường học còn tạo cơ sở từng
bước thay đổi phương pháp dạy và học, xây dựng nếp sống văn hóa cho các
thành viên trong nhà trường.
Thư viện trường học giúp học sinh tự bổ sung kiến thức. Cũng chính ở
thư viện trường học, các em tự rèn luyện tính độc lập, tư duy và thói quen tự
học. Qua các tác phẩm mà các em đã đọc, sẽ hình thành cho các em tình cảm
đúng đắn, giúp các em hiểu thêm về con người, về đất nước và cuộc sống.
Theo Tạp chí Bộ Giáo dục và Đào tạo: Hiện nay tại các trường Tiểu
học ở Việt Nam tồn tại 2 kiểu thư viện: Thứ nhất, thư viện không được đầu
tư cả cơ sở vật chất và sách phục vụ học sinh. Mặc dù được gọi là thư viện,
nhưng thực sự là nhà kho của trường. Thứ hai, thư viện được đầu tư tốt về
cơ sở vật chất, nhưng vẫn thiếu sách phục vụ học sinh. Sách trong thư viện
này phần lớn là sách phục vụ giáo viên. Sách phục vụ học sinh được khóa
trong tủ và học sinh tìm sách qua danh mục sách. Điều này cản trở học sinh
tiếp cận với sách và lựa chọn cho mình quyển sách phù hợp. Ngoài ra, một
không gian thư viện phục vụ chung cả giáo viên và học sinh cũng khiến học
sinh không cảm thấy thoải mái khi đến thư viện.
Như vậy, có thể nói rằng mô hình thư viện hiện nay chưa đáp ứng
được yêu cầu đọc sách và xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh. Việc có
một mô hình thư viện thân thiện để khuyến khích học sinh đến thư viện đọc
sách, hình thành và phát triển kĩ năng đọc cho học sinh là rất cần thiết.
Thời gian qua, chương trình Thư viện thân thiện Trường Tiểu học do
Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với tổ chức Room to Read đã được triển
khai ở nhiều địa phương trong cả nước. Chương trình nhằm xây dựng thói
quen đọc sách cho học sinh tiểu học, hướng đến mục tiêu giúp các em trở
thành người đọc độc lập trong tương lai, là người có kỹ năng đọc và thói quen
đọc.
Mô hình thư viện thân thiện trường Tiểu học được các Sở Giáo dục và
Đào tạo đánh giá cao và chỉ đạo nhân rộng đến các trường ngoài chương trình.
Việc phát triển thói quen đọc sách cho học sinh tiểu học với mục đích giúp
4
học sinh trở thành người đọc độc lập sẽ góp phần thực hiện thành công việc
nâng cao năng lực ngôn ngữ, khả năng giao tiếp cho học sinh Tiểu học.
Vào tháng 6 năm 2018, Room to Read đã phối hợp cùng Bộ Giáo dục và
Đào tạo tổ chức hội thảo “Xây dựng văn hóa đọc và phát triển mô hình thư
viện thân thiện trường Tiểu học”. Đây được xem là bước quan trọng để cụ
thể hóa thực hiện Nghị quyết số 29NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp
hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục đào tạo và Quyết
định 329/QĐTTg ngày 15/03/2017 của Chính phủ về phát triển văn hóa đọc
đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, cũng như biên bản ghi nhớ thực
hiện Chương trình “Thư viện thân thiện trường Tiểu học” giai đoạn 2016 –
2020, ký giữa Bộ Giáo dục Đào tạo và tổ chức Room to Read.
Theo công văn 1108/SGDĐTGDTH, ngày 10 tháng 8 năm 2018 của Sở
Giáo dục và Đào tạo Đăk Lăk về việc triển khai Chương trình “Thư viện thân
thiện trường Tiểu học” năm học 2018 – 2019 và bắt đầu thực hiện từ ngày
10/9/2018. Tiết đọc thư viện được bố trí trong chương trình, kế hoạch dạy
học của nhà trường. Tiết đọc thư viện được đưa vào thời khóa biểu của mỗi
khối lớp, mỗi tuần có một tiết đọc thư viện.
Đến với Tiết đọc thư viện, các em sẽ có 2 tiết để làm quen với nội quy
thư viện, bảng mã màu, cách chọn sách, mượn trả và bảo quản sách. Các em
sẽ được hướng dẫn sử dụng quy tắc 5 ngón tay để chọn sách: Em tự chọn
một cuốn sách bất kỳ và đọc 5 câu liên tục. Nếu không mắc lỗi hoặc chỉ 1 lỗi
thì em nên chọn 1 cuốn sách ở mã màu cao hơn; nếu em mắc 2 4 lỗi trong 5
câu đó thì quyển sách em chọn đã phù hợp với trình độ đọc của mình; còn nếu
nhiều lỗi hơn, em cần chọn mã màu thấp hơn.
Các tiết tiếp theo, các em sẽ được tiếp cận với các kiểu hoạt động:
Đọc to nghe chung; Cùng đọc; Đọc cặp đôi; Đọc cá nhân. Tùy thuộc vào trình
độ đọc của từng khối lớp mà giáo viên lựa chọn tỷ lệ các kiểu hoạt động phù
hợp. Chẳng hạn, đối với khối lớp 1, 2 có thể lựa chọn các hoạt động học như
sau: Đọc to nghe chung 40% số tiết; cùng đọc 30% số tiết; đọc cặp đôi 20%
số tiết và đọc cá nhân 10% số tiết/năm học. Đối với khối 4, 5 thì lại có lựa
chọn khác: Đọc to nghe chung 10% số tiết; Cùng đọc 20% số tiết; Đọc cặp
đôi 30 % số tiết và đọc cá nhân chiếm 40% số tiết/năm học.
Trong mỗi tiết, ngoài hoạt động đọc, các em được tham gia các trò chơi
nhẹ nhàng; viết hoặc vẽ những gì mình thích trong câu chuyện; trao đổi cho
nhau nghe về suy nghĩ, cảm nhận của bản thân về nhân vật, về câu chuyện
đó. Giáo viên có thể trao đổi với các em bằng một số câu hỏi giản đơn có liên
quan đến nhân vật cũng như nội dung câu chuyện, nhằm hướng tới nhu cầu
đọc sách tích cực cho học sinh. Tất nhiên, không biến các câu hỏi thành khai
thác sâu nội dung câu chuyện.
5
Như vậy, trong Tiết đọc thư viện nếu kết hợp được Tăng cường tiếng
Việt vào thì sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho học sinh.
II. Thực trạng vấn đề
1. Đặc điểm tình hình
Tổng số học sinh toàn trường là 282 em. Trong đó học sinh dân tộc Ê
– đê là 204 em, nữ dân tộc là 108 em. Số dân tộc thiểu số chiếm 71% số học
sinh toàn trường.
Khối lớp 5 có 3 lớp với tổng số học sinh 48 em, dân tộc Ê – đê là 39
em, nữ dân tộc là 26 em.
Lớp 5C tổng số học sinh là 17 em, dân tộc Ê – đê là 17 em, nữ dân tộc
là 11 em.
Ở giai đoạn này, hoạt động chủ đạo là hoạt động học tập, hầu hết các
em đã biết đọc, biết viết. Về tâm sinh lí, các em đang bước vào giai đoạn đầu
của tuổi dậy thì, các em đã biết ngại ngùng, rụt rè, xấu hổ, chưa mạnh dạn
trong giao tiếp.
Về phía gia đình, trình độ dân trí còn thấp, cuộc sống của người dân
còn gặp nhiều khó khăn. Bố mẹ không có nghề nghiệp ổn định, mải lo việc
mưu sinh, một số cha mẹ phải đi làm xa, các em phải ở với ông bà, các em
thiếu thốn tình cảm, sự quan tâm chăm sóc nhất là việc giáo dục kĩ năng sống
cho các em. Một số bố mẹ không biết tiếng Việt, họ ngại sử dụng Tiếng
Việt vì vốn kiến thức về Tiếng Việt ở họ quá ít ỏi, cũng có lẽ vì bản năng
ngôn ngữ mẹ đẻ luôn tồn tại trong tâm thức họ. Các em lại sống trong môi
trường thuần tiếng dân tộc, môi trường giao tiếp bằng Tiếng Việt hạn hẹp,
nên vốn Tiếng Việt các em nhìn chung là hạn chế, không đồng đều, chưa đủ
tự tin khi giao tiếp.
Năng lực, trình độ đội ngũ giáo viên trong trường chưa đồng đều, số
giáo viên người dân tộc thiểu số chiếm 27%, kinh nghiệm giảng dạy, tăng
cường Tiếng Việt còn hạn chế, chưa phát huy hết kĩ năng Sư phạm, chưa
biết tổ chức hướng dẫn các hoạt động học tập có hiệu quả để phát huy tính
tích cực của học sinh. Tỉ lệ học sinh nói thông viết thạo tiếng Việt thấp nên
việc tiếp thu kiến thức các môn học còn chậm dẫn đến chất lượng giáo dục
hàng năm chưa cao.
Đa số học sinh có kết quả học tập chưa cao là học sinh đi học chưa
chuyên cần, cần có động cơ học tập và rèn luyện đúng đắn. Các em thiếu
điều kiện học tập như: dụng cụ học tập, không có góc học tập ở nhà. Các em
chưa có phương pháp tự học và chưa biết dành thời gian cho việc học ở nhà.
Các em vẫn còn ham chơi, thích đi theo bố mẹ ra rẫy đi làm, đi bốc gạch, chơi
game, xem những thứ vô bổ trên điện thoại,… đã trực tiếp tác động làm ảnh
hưởng không ít đến việc học tập của các em.
6
Bởi vậy đối với học sinh dân tộc thiểu số tập trung Tăng cường tiếng
Việt là cần thiết và hợp lí, đóng vai trò trọng tâm, then chốt cho chất lượng
giáo dục vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.
2. Thực trạng tăng cường Tiếng Việt tại trường Tiểu học Ea Bông
2.1. Các giải pháp đã tiến hành để tăng cường Tiếng Việt cho học
sinh tại trường Tiểu học Ea Bông ở những năm trước
Trường Tiểu học Ea Bông đã tổ chức dạy học Tăng cường Tiếng Việt
cho học sinh bằng các bài tập bổ trợ Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số
lớp 1, 2, 3 và Tăng cường Tiếng Việt lồng ghép, tích hợp ở lớp 4, 5. Thực
hiện theo Quyết định 920/QĐUBND của Ủy ban Nhân dân tỉnh Đăk Lăk,
ngày 14/4/2017 về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án “Tăng cường
Tiếng Việt cho trẻ Mầm non, học sinh Tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai
đoạn 2016 2020, định hướng 2025” trên địa bàn Đăk Lăk, nhà trường đã tổ
chức các buổi chuyên đề Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu
số. Giáo viên đã vận dụng soạn – giảng Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh
bằng nhiều phương pháp, cách thức tổ chức linh hoạt, khéo léo, phù hợp để
lồng ghép, tích hợp ở tất cả bài học của các môn học, tăng cường mọi lúc,
mọi nơi để nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và bồi dưỡng kiến thức
tiếng Việt, hình thành thói quen sử dụng tiếng Việt của học sinh dân tộc
thiểu số nói riêng.
Để tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số, hầu hết các
giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn đã áp dụng một số biện pháp sau:
Chú trọng sửa lỗi phát âm sai về tiếng, từ, câu, dấu thanh.
Tăng cường cho các em luyện đọc trên lớp.
Nhắc nhở các em về nhà thường xuyên đọc lại bài.
Tổ chức hoạt động nhóm để các em tham gia, trao đổi.
Áp dụng Thông tư 22/2016 khuyến khích học sinh nhận xét bạn, để
học sinh có cơ hội được nói nhiều hơn.
Tại lớp học tôi đang trực tiếp giảng dạy, phần tăng cường Tiếng Việt
được lồng ghép vào tất cả các môn học ở các nội dung phù hợp với các mức
độ khác nhau. Đặc biệt từ khi Tiết đọc thư viện được đưa vào thực hiện
trong trường tăng cường tiếng Việt được tôi thực hiện thường xuyên ở tiết
học này.
2.2. Những tồn tại – hạn chế trong việc sử dụng tiếng Vi ệt c ủa
học sinh dân tộc thiểu số tại trường và tại lớp 5C
Vẫn còn một số học sinh đọc, nói chưa đúng tiếng Việt. Phần lớn do
các em chưa chú tâm rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt của mình. Các em
7
chưa hiểu vai trò và tầm quan trọng của tiếng Việt trong học tập, giao tiếp
hiện tại và tương lai sau này.
Ví dụ: Y Tô Ni (sinh năm 2007), đọc sai nhiều về tiếng từ và cả dấu
thanh. Em ngại khi đọc bài, còn đọc rất nhỏ, em hay xấu hổ không dám đọc
trước lớp vì bị các bạn chế diễu, cười cợt với kiểu đọc sai đó. Vì đọc yếu
các em không hiểu được yêu cầu và nội dung bài, không thể tham gia thảo
luận xây dựng bài cùng các bạn được. Tất cả điều đó làm các em chán nản
khi đến lớp, dần dần không thích đến lớp. Nghỉ học nhiều, các em sẽ không
có cơ hội, thời gian để giáo viên rèn luyện, sửa lỗi. Các em tự đánh mất đi
quyền lợi của mình.
Sự khác biệt về ngôn ngữ, phong tục tập quán: phần lớn các em chỉ
chơi với bạn bè cùng là dân tộc mình, địa bàn các em sinh sống không có
người Kinh, chỉ có vài người đi buôn bán dạo hằng ngày; Tại phân hiệu 1
(Buôn Knul) của trường Tiểu học Ea Bông từ lớp 1 đến lớp 5 đều là học sinh
dân tộc Ê – đê; nên giờ ra chơi cũng như lúc ở nhà các em vẫn sử dụng tiếng
mẹ đẻ để giao tiếp với nhau nên ảnh hưởng rất nhiều đến việc tiếp thu kiến
thức bằng tiếng Việt.
Việc phát âm sai còn phụ thuộc rất nhiều vào tâm lí của học sinh. Các
em ngại tham gia các hoạt động tập thể do trường, lớp tổ chức. Một số em
luôn mặc cảm, tự ti, ngại giao tiếp bằng tiếng Vi ệt, lo s ợ b ị th ầy cô giáo gọi
phát biểu, sợ câu trả lời của mình bị sai,…
Ở lớp 5C, đa số các em đều học đúng độ tuổi (2008), còn 3 học sinh có
độ tuổi lớn hơn, do các em tiếp thu bài chậm nên bị lưu ban. Em H Dưng
Hđơk (sinh năm 2006), trao đổi với giáo viên chủ nhiệm lớp trước, em là học
sinh được quan tâm đặc biệt, vì ở lớp dưới em đã thường xuyên nghỉ học, hay
mặc cảm, tự ti khi phải học chung với học sinh lớp dưới. Cơ th ể các em phát
triển trội hẳn so với học sinh khác trong lớp nên tâm sinh lí cũng khác hơn, em
đã biết ngại, xấu hổ, có những suy nghĩ phức tạp hơn và không hòa đồng với
học sinh khác.
Những lỗi cơ bản mà học sinh của lớp tôi thường mắc phải khi đọc:
+ Phát âm sai hoặc thiếu dấu thanh:
Ví dụ: Chậm chạp Châm cháp
Vạn vật Van vất
Thích nghi Thích nghì
+ Ngắt nghỉ bất kì lúc nào giữa câu hoặc không ngắt nghỉ sau mỗi dấu
câu: do các em hụt hơi hoặc từ tiếp theo là từ khó đọc các em phải dừng lại
để đánh vần nhẫm trong đầu rồi mới phát âm ra thành tiếng.
8
Ví dụ: Thỏ nghĩ bụng chắc còn lâu Rùa mới lết tới nơi nên nằm phịch
xuống vệ đường, đánh một giấc ngon lành.
Thỏ nghĩ bụng chắc còn lâu Rùa mới lết tới nơi nên nằm (,) phịch
xuống vệ đường đánh (,) một giấc (,) ngon lành.
+ Viết là hoạt động khó khăn nhất đối với học sinh dân tộc, các em thiếu
vốn từ tiếng Việt, không biết dùng từ chính xác với ngữ cảnh, khó khăn khi
diễn đạt suy nghĩ của mình ra thành lời, không biết sắp xếp từ ngữ cho phù
hợp. Vì đọc, nói sai dấu thanh nên khi nghe – viết các em cũng viết sai hoặc
thiếu dấu thanh nhiều.
Như vậy, để sửa lỗi và rèn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh dân
tộc thiểu số ngoài việc nắm được các lỗi các em thường mắc phải dẫn đến
việc nói, đọc, viết chưa đúng cho nên cần phải nắm được bản chất, nguyên
nhân mắc lỗi phát âm và nắm được đặc điểm tâm sinh lí của học sinh để đưa
ra các giải pháp khắc phục.
2.3. Những khó khăn khi thực hiện Tiết đọc thư viện tại trường
Tiểu học Ea Bông.
Vì đây là năm đầu tiên đưa vào giảng dạy nên việc thực hiện Tiết đọc
thư viện còn gặp nhiều khó khăn:
Về phía nhà trường: Nhà trường chưa có đủ cơ sở vật chất trang thiết
bị, đầu sách phục vụ cho việc dạy và học Tiết đọc thư viện tại thư viện.
Về giáo viên: Còn bỡ gỡ khi thực hiện Tiết đọc thư viện, chưa am
hiểu nhiều về công tác thư viện, chưa qua đào tạo công tác thư viện.
Về học sinh: Vốn từ ngữ, vốn kiến thức về tiếng Việt của các em
còn hạn chế, chưa cảm thụ hết được giá trị kiến thức các em đã đọc.
Về phụ huynh: Vốn tiếng Việt còn hạn chế, không có điều kiện để
đọc cùng con, chưa mạnh dạn cùng con trao đổi về nội dung sách.
Để đạt được mục tiêu của Tiết đọc thư viện, khắc phục các khó khăn
trên tôi đưa ra một số giải pháp như: Vận động, tuyên truyền phụ huynh học
sinh, nhà trường tạo môi trường giao tiếp thuận lợi. Tạo điều kiện để các em
được hoạt động nhiều hơn. Lập kế hoạch dạy học cho từng tiết học thư
viện.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Từ thực trạng và những vấn đề nêu trên, cùng với thực tiễn giảng dạy,
bản thân xin trình bày một số giải pháp để thực hiện nhiệm vụ của đề tài.
Việc sử dụng song song nhiều biện pháp tăng cường Tiếng Việt. Đặc
biệt khi tiết đọc thư viện được đưa vào giảng dạy việc vận dụng những ưu
điểm của phương pháp, hình thức dạy học đã sử dụng để hỗ trợ các biện
pháp mới, sẽ mang lại hiệu quả tích cực trong việc rèn cho học sinh dân tộc
thiểu số nghe, nói, đọc, viết tốt tiếng Việt.
9
1. Vận động, tuyên truyền phụ huynh học sinh, nhà trường tạo
môi trường giao tiếp thuận lợi
Phối hợp với gia đình, nhắc nhở cha mẹ các em, quan tâm, đôn đốc
việc học tập của con em mình khi ở nhà. Khuyến khích các em đọc truyện
cho cả nhà nghe với những quyển truyện mà các em đã mượn từ thư viện và
cha mẹ có thể mua tặng các cháu để động viên khích lệ, hình thành thói quen
đọc sách mỗi ngày. Cha mẹ thường xuyên dùng tiếng Việt để trò chuyện, trao
đổi, để các em có thể sử dụng tiếng Việt mọi nơi, mọi lúc.
Ví dụ: vào đầu năm học, trong cuộc họp Cha mẹ học sinh, giáo viên
trao đổi chân tình những khó khăn của lớp. Nêu ra các biện pháp rèn luyện cho
học sinh ở lớp cũng như ở nhà. Vận động cha mẹ học sinh phối kết hợp với
giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, kiểm tra việc rèn luyện ở nhà của các em,
khuyến khích cha mẹ học – đọc cùng con. Với thời buổi thông tin liên lạc
phát triển, giáo viên dễ dàng trao đổi với cha mẹ qua điện thoại, vừa có thể
tiết kiệm được thời gian của cha mẹ và của giáo viên đồng thời cha mẹ cũng
nắm được tình hình học tập của con thường xuyên hơn mà giáo viên cũng
biết được tình hình học tập của học sinh ở nhà.
Để nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng môn Tiếng
Việt nói riêng yếu tố đầu tiên đó là chất lượng của đội ngũ giáo viên có phẩm
chất, năng lực có uy tín và tín nhiệm cao, có nhiều kinh nghiệm, nhiệt tình,
gần gũi, thân thiện với học sinh . Mỗi giáo viên phải là người tuyên truyền
viên tích cực, là nhân tố đi đầu trong phong trào vận động phụ huynh học sinh
tham gia vào việc đọc, việc học của các em nhất là việc đọc ở nhà, thường
xuyên nhắc nhở khích lệ, tạo điều kiện để các em được đọc, được khám thế
giới qua các quyển sách. Hướng dẫn các em biết cách đọc, biết tìm hiểu qua
sách. Các em biết thêm các kĩ năng khác nhau qua các quyển sách khác nhau:
Như sách dạy nấu ăn, sách thiếu nhi khám phá sự đa dạng của thiên nhiên,
Em tìm hiểu khoa học ….
Nhà trường có đầy đủ cơ sở vật chất, tạo môi trường thân thiện, để
các em hứng thú, hăng say đến trường. Xã hội hoá giáo dục là yếu tố vô cùng
quan trọng, vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt vừa mang tính chiến lược lâu dài
trong sự phát triển giáo dục bền vững. Điều 12 Luật Giáo dục năm 2005 đã
qui định rõ về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục: “Mọi tổ chức, gia đình và công
dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực
hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn”.
Nhà trường huy động phụ huynh chung tay xây dựng thư viện thân thiện, tổ
chức cho các cha mẹ học sinh có tâm huyết tham gia trang trí, sắp xếp thư
viện hợp lí, thân thiện cho học sinh dễ đọc; mua thêm sách, đồ dùng, … để
các em thích đến thư viện, yêu thư viện, cùng nhau chăm sóc, xây dựng thư
viện của mình. Tổ chức hoạt động ngoại khóa, các hội thi để tất cả học sinh
đều có điều kiện tham gia, học sinh thể hiện năng khiếu của mình nhất là
10
năng khiếu nói và viết như qua hội thi: “Giao lưu Tiếng Việt của chúng em”.
Trong năm học 2018 – 2019, lớp 5C có em H Bic Hđơk đã đạt giải Ba cấp
huyện trong hội thi: “Giao lưu Tiếng Việt của chúng em”.
2. Tạo điều kiện để các em được hoạt động nhiều hơn
Tiết đọc thư viện là một bộ môn đáp ứng được nhu cầu đó của học
sinh, với nhiều hình thức đọc khác nhau: Cùng đọc, Đọc cá nhân, Đọc nhóm
đôi…. Giáo viên có thể sửa lỗi trực tiếp cho từng học sinh, đặc biệt quan tâm
đến học sinh khó khăn về đọc.
Ví dụ: Để sửa lỗi cho học sinh , giáo viên sử dụng quy tắc 5 ngón tay
để theo dõi học sinh đọc và có biện pháp giúp đỡ:
+ Trong tiết đọc “Đọc cá nhân” học sinh tự tìm một quyển sách và chọn
cho mình chỗ ngồi phù hợp để đọc. Giáo viên quan sát theo dõi học sinh, khi
học sinh đọc sai ở đâu, giáo viên sửa ngay ở đó, bằng cách gợi ý cho học sinh
đọc ngay tiếng, từ, câu vừa đọc sai và yêu cầu học sinh phải đọc lại cho đúng
hoặc nhắc lại theo giáo viên, để cho học sinh khác cũng ghi nhớ cách đọc
đúng. Tuyên dương khi học sinh đọc xong sách của mình mặc dù đọc chưa
đúng hết nhưng vẫn kèm theo lời động viên cố gắng đọc đúng, đọc hay hơn
lần sau.
+ Ở hoạt động “Trong khi đọc” trong tiết Cùng đọc và Đọc nhóm đôi:
Học sinh làm việc theo cặp. Giáo viên khuyến khích các em khá giỏi ngồi gần
các bạn chưa có kĩ năng đọc tốt, những em còn đọc chưa chuẩn, phát âm sai,
… để nghe và sửa lỗi, kèm cặp, hỗ trợ nhau cùng đọc.
Ví dụ: Em H Bic Hđơk (chức vụ trong lớp là lớp phó học tập), rất nhiệt
tình trong mọi công việc được giao; chọn bạn H Koer (sinh năm 2007) làm
bạn cùng nhóm để giúp đỡ bạn, H Koer đọc yếu, đọc nhỏ, tính nhút nhát.
Ngay từ những buổi đầu, bạn lớp phó đã phát huy hết khả năng của mình,
gương mẫu để các nhóm làm theo. Sau một thời gian, H Koer đọc to, lưu loát
các bài đọc hơn. Tự tin đọc một mình trước lớp, mặc dù vẫn còn đọc sai ít
dấu thanh nhưng mỗi lần nhắc em cũng đã tự biết sửa lỗi. Ngoài ra, còn các
nhóm bạn cũng có nhiều tiến bộ như: H Ri Na và H Dưng, H Yun và H Noel.
+ Khi học sinh đọc “Đoạn trong câu chuyện làm em thích nhất? Vì
sao?” giáo viên có thể hướng dẫn học sinh ngắt nghỉ đúng và đọc diễn cảm
đoạn học sinh thích và chọn đọc lại. Em H’ Noel trước khi có Tiết đọc thư
viện, em đọc thiếu dấu thanh nhiều và chưa biết ngắt nghỉ đúng dấu câu. Sau
vài Tiết đọc thu viện, được cô và bạn cùng đọc giúp sửa lỗi, em đã đọc đúng
dấu thanh và còn thể hiện được giọng đọc diễn cảm, phù hợp với từng câu
chuyện. Em hứng thú tìm đọc những câu chuyện mới và thích chia sẻ lại câu
chuyện mình đã đọc cho các bạn cùng nghe.
11
+ Ở hoạt động “Sau khi đọc”: Rèn kĩ năng nói cho học sinh bằng cách
trả lời câu hỏi của giáo viên có liên quan đến câu chuyện. Ví dụ: Các em có
thích câu chuyện vừa đọc không? Tại sao? Các em thích nhân vật nào trong
câu chuyện vừa đọc? Tại sao? Đoạn nào trong câu chuyện làm em thích nhất?
Tại sao? Giáo viên có thể uốn nắn cho học sinh nói câu đủ thành phần chủ
ngữ, vị ngữ. Rèn kĩ năng biết lắng nghe, tập trung chú ý khi bạn nói.
Ví dụ: Khi học sinh nói chưa tròn câu, giáo viên gợi ý lại các thành
phần trong câu (Ai? / Làm gì? Như thế nào? Hoặc Cái gì?/ Như thế nào?...)
+ Ở “Hoạt động mở rộng”: Rèn kĩ năng viết cho học sinh, khuyến
khích học sinh tự viết một đoạn văn nói lên cảm nhận của mình về câu
chuyện đã đọc. Giáo viên gợi ý và sửa lỗi cho học sinh về dấu thanh, dấu câu
và cách dùng từ, đặt câu,… trực tiếp trong quá trình học sinh viết, để học sinh
hoàn thiện tốt nhất sản phẩm của mình.
Tổ chức cho các em thi kể chuyện, đọc diễn cảm, diễn kịch,… khích
lệ tinh thần kịp thời để các em hứng thú và ý thức tự rèn luyện cao hơn khi ở
lớp cũng như ở nhà. Các hoạt động này còn rèn luyện cho các em tính mạnh
dạn nói trước đám đông. Ví dụ: trong quá trình đọc, các em tìm được câu
chuyện hay, ý nghĩa giáo dục đạo đức bao quát, thể hiện được nhiều kĩ năng
sống,… Giáo viên cùng học sinh chọn để thi kể chuyện, đọc diễn cảm, diễn
kịch,… Vừa củng cố được phần tăng cường Tiếng Việt vừa khắc sâu được
nội dung, ý nghĩa bài học qua các câu chuyện đó.
12
Thành lập nhóm “Đôi bạn cùng tiến” để các em quan tâm và giúp đỡ
nhau cùng rèn luyện. Hoạt động này phù hợp cho các tiết học: Cùng đọc, Đọc
nhóm đôi. Khuyến khích các em khá giỏi hỗ trợ các bạn đọc chưa tốt, nghe và
sửa lỗi giúp bạn. Giao cho các em đã có kĩ năng đọc kèm cặp các em chưa có
kĩ năng đọc tốt, những em còn đọc chưa chuẩn, phát âm sai….Phân theo nhóm
các lỗi sai để kèm, hỗ trợ nhau và tăng thời lượng các em được trò chuyện với
nhau bằng tiếng Việt. Ví dụ Em Y Tô Ni là học sinh đọc yếu nhất lớp, sau
một thời gian cùng bạn lớp trưởng Y Khoan đọc những câu chuyện trong tiết
đọc thư viện, em đã đọc trôi chảy và lưu loát hơn. Trong các môn học khác
em đã mạnh dạn, tự tin xung phong đọc bài trước lớp.
Tạo điều kiện cho các em có chỗ ngồi thoáng mát, sạch sẽ, đủ ánh
sáng để các em đọc thoái mái nhất. Môi trường thân thiện kết hợp cây xanh
trong phòng thư viện tạo nên không khí trong lành, cảm giác được thư giãn và
gần gũi với thiên nhiên hơn. Có thể đặt những chậu hoa nhỏ bên cạnh kệ
sách, một cây xanh trên bàn đọc và ở góc trưng bày sản phẩm, những cây hoa
dây leo ở các khung cửa sổ và một số loại cây khác có thể đặt ở các vị trí phù
hợp trong thư viện. Môi trường đọc sách rất quan trọng, nó chi phối rất nhiều
đến hứng thú, tác động đến sự cảm nhận, cảm thụ tác phẩm của người đọc
và có thể lĩnh hội được nhiều nhất nội dung kiến thức mình đang đọc.
Hỗ trợ tranh ảnh cho các câu chuyện, để giải nghĩa từ mới, từ trừu
tượng. Vì đối tượng học sinh dân tộc thiểu số có vốn từ tiếng Viết hạn chế,
đôi khi không diễn đạt được bằng các từ ngữ cụ thể, hình ảnh là cách gợi ý
trực quan và thực tế nhất để học sinh hiểu được từ ngữ bằng tiếng Việt,
cung cấp thêm vốn từ tiếng Việt cho các em.
3. Lập kế hoạch dạy học cho từng Tiết đọc thư viện
Giáo viên xác định được mục tiêu cần đạt được ở từng Tiết đọc thư
viện: Kiến thức kĩ năng cơ bản cần hình thành, rèn luyện cho học sinh; Tăng
cường Tiếng Việt: đọc đúng dấu thanh, tiếng, từ, câu, đoạn văn; trả lời câu
hỏi đủ ý, tròn câu. Sử dụng hợp lí các hình thức tổ chức học tập, thay đổi linh
hoạt giữa tiết đọc thư viện trước và sau tránh lặp lại, gây sự nhàm chán cho
học sinh, những vấn đề cần hỗ trợ học sinh…
Ví dụ:
Tiết 1 – 2: Làm quen với nội quy thư viện, bảng mã màu, cách chọn
sách, mượn trả và bảo quản sách.
Tiết 3: Cùng đọc
Tiết 4: Đọc cá nhân
Tiết 5: Đọc nhóm đôi
Tiết 6, 7,… đảo lại các tiết tránh 2 tiết liền kề giống nhau.
13
Linh hoạt điều chỉnh thời lượng tiết học và hỗ trợ cho từng hoạt động
của từng đối tượng học sinh, ưu tiên hỗ trợ học sinh khó khăn về học, để
không kéo dài tiết học và giúp học sinh học tập theo khả năng của bản thân.
Việc học tiết đọc thư viện cho học sinh dân tộc thiểu số vừa phải thực
hiện mục tiêu của môn học vừa hỗ trợ về tiếng Việt để học sinh hiểu đúng
nội dung câu chuyện. Việc hỗ trợ tiếng Việt để học sinh dân tộc thiểu số
trong tiết đọc thư viện không phải là dạy thêm kiến thức tiếng Việt ở ngoài
mà chính là nội dung bài học trong Tiết đọc thư viên: Tăng cường việc đọc
đúng dấu thanh, ngắt nghỉ đúng dấu câu, nói, trả lời câu đủ ý,…
Cụ thể:
a) Khi lập kế hoạch dạy học giáo viên cần phải:
Xác định mục tiêu tăng cường Tiếng Việt thật rõ ràng, ngắn gọn rồi
viết thành một bộ phận trong mục tiêu bài học.
Dự kiến chọn hình thức, phương pháp dạy học.
Chuẩn bị đồ dùng dạy học phù hợp với hình thức, phương pháp dạy
học đã chọn (Nếu cần)
Dự kiến thời lượng và thời điểm dạy học tăng cường Tiếng Việt.
b) Khi tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập
theo kế hoạch bài học, giáo viên nên:
Dạy tăng cường Tiếng Việt đúng chỗ, đúng lúc, đúng mức, phù hợp với
thời lượng dự kiến, không biến tiết đọc thư viện thành tiết luyện đọc của
phân môn Tập đọc.
Tăng cường cho học sinh thực hành đọc, nói, viết để củng cố nội dung
tăng cường Tiếng Việt.
Thiết lập mối quan hệ giữa phân môn Kể chuyện, Tập đọc và phần
tăng cường Tiếng Việt để tạo ra sự phối hợp và bổ trợ lẫn nhau.
c) Sau mỗi câu chuyện, giáo viên cần:
Rút ra các từ mới, từ khó hiểu, từ trừu tượng,… cho học sinh giải
thích nghĩa của từ (nếu học sinh không giải thích được giáo viên phải hỗ trợ
gợi ý và giải thích cho học sinh). Cho học sinh nhắc lại các từ mới, từ khó
hiểu,… để cung cấp vốn từ cho học sinh.
Tổ chức viết hoặc nói về cảm nhận của mình về câu chuyện đã đọc.
Để tạo môi trường sử dụng tiếng Việt trong học sinh dân tộc thiểu số đồng
thời ôn luyện nội dung tăng cường Tiếng Việt trong Tiết đọc thư viện.
Qua mỗi hoạt động trong Tiết đọc thư viện, đều có thể rèn cho các em
một số kĩ năng:
14
+ Rèn luyện cho các em ý thức và thói quen làm việc đúng quy tắc, đúng
quy định: Việc các em thuộc và thực hiện đúng nội quy trong thư viện sẽ hình
thành cho các em ý thức và thói quen làm việc đúng quy tắc, đúng quy định.
Ví dụ Nội quy thư viện: Bạn đọc cần thực hiện đúng các quy định sau:
1. Vào thư viện phải giữ gìn trật tự và giữ vệ sinh chung.
2. Phải có thẻ thư viện mới được mượn sách, mỗi lần mượn không quá
2 bản. Thời hạn 3 ngày, nếu đọc chưa xong bạn đọc phải đến thư viện xin
gia hạn, chưa trả sách không được mượn tiếp.
3. Báo chí, từ điển, sách quý hiếm chỉ được sử dụng tại chỗ.
4. Bạn đọc cần giữ gìn sách báo cản thận, không được làm rách, làm
bẩn, không vẽ, viết vào sách báo, cần tham gia bao bọc và tu sửa thường
xuyên sách.
5. Bạn đọc làm mất sách phải đền sách mới hoặc đền tiền tương
đương với giá trị thực tế. Nếu làm hư hỏng, tùy mức độ phải bồi thường
thỏa đáng.
6. Mỗi học kì nhà trường xét khen thưởng các bạn đọc sử dụng thường
xuyên và có nhiều đóng góp cho thư viện.
+ Rèn luyện thói quen đọc sách hằng ngày: Sau mỗi tiết đọc trên thư
viện, khuyến khích học sinh mượn sách về cùng đọc với anh chị em, ông bà,
bố mẹ nghe theo đúng quy định là mỗi học sinh không được mượn không quá
3 quyển và giữ tối đa 3 ngày sẽ hình thành thói quen đọc sách hàng ngày, có ý
thức tự giác tìm và đọc sách.
Ví dụ: Học sinh mượn sách đưa về nhà, giáo viên có thể phát kèm theo
phiếu để cho phụ huynh đánh giá mức độ đọc thường xuyên và ghi ý kiến
riêng.
Mẫu phiếu gợi ý:
Tên học sinh:……………………………………
Tên sách em mượn:
…………………………………………………………….
………………………………………………………………………………
…
PHIẾU ĐÁNH GIÁ
(Mức độ đọc thường xuyên của học sinh lúc ở nhà. Phụ huynh đánh dấu
“X” vào ô tương ứng với mức độ từng hoạt động học sinh đã thực hiện)
Hoạt động
Thường xuyên
Ít khi
Không bao giờ
Đọc cá nhân
Đọc cùng cha mẹ
Trao đổi nội dung
Ý Kiến riêng:……………………………………………………………..
………………………………………………………………………………
15
……………………………………………………………………………….
Phụ huynh
(Ký tên)
+ Biết bảo quản và giữ gìn tài sản chung: Nhắc nhở học sinh phải giữ
sách cẩn thận, việc làm hằng ngày đó của học sinh sẽ rèn cho học sinh có ý
thức trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn tài sản chung.
Ví dụ: Trước tiết học, các em sắp xếp bàn cho phù hợp với tiết học.
Lấy sách cẩn thận không làm đỗ giá sách, không được tự ý di chuyển các vận
dụng khác trong thư viện khi không được phép. Sau tiết học, các em trả sách
đúng vị trí đã lấy, sếp lại bàn gọn gàng và dọn vệ sinh thư viện sạch sẽ. Lúc
các em mượn sách về, giáo viên luôn nhắc nhở học sinh phải giữ sách cẩn
thận, không làm hư hỏng và mất sách.
+ Rèn kĩ năng sống cho các em: Qua mỗi câu chuyện của em đã được
đọc, các em rút ra được bài học cho bản thân, cung cấp thêm cho các em
những kĩ năng sống, những hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo
đức xã hội và quyền trẻ em trong các tình huống đơn giản cụ thể của cuộc
sống hằng ngày.
Ví dụ: Qua câu chuyện Ngụ ngôn “Thỏ và Rùa” của tác giả Laphong
ten, em H Ri Na đã mạnh dạn rút ra bài học cho bản thân: phải chăm chỉ như
nhân vật Rùa, biết vượt qua mọi khó khăn và sự hạn chế của bản thân để
chiến thắng. Không được chủ quan, xem thường người khác như nhân vật
Thỏ.
Qua một số giải pháp tôi đã vận dụng Tăng cường Tiếng Việt qua Tiết
đọc thư viện vào trong đề tài nghiên cứu, tôi đã thấy được một số điểm mới,
có hiệu quả.
IV. Tính mới của giải pháp
Tăng cường Tiếng Việt thông qua Tiết đọc thư viện, học sinh có một
không gian học tập thoải mái và không bị áp lực khi đọc. Vì vậy, việc sửa lỗi
sẽ nhẹ nhàng hơn cho học sinh và cho cả giáo viên. Cách thức đưa phần Tăng
cường Tiếng Việt vào Tiết đọc thư viện gần như hòa lẫn vào nhau, phải cho
học sinh cảm nhận là mình đang đọc nên giáo viên phải thật khéo léo chỉnh
sửa cho học sinh để không làm mất hứng thú và sự tập trung đọc của học sinh
cũng như đi đúng với mục tiêu của Tiết đọc thư viện.
Học sinh được lựa chọn sách và đọc theo ý thích của mình, trả lời câu
hỏi theo suy nghĩ, cảm nhận, không có một đáp án chung nào cho từng câu hỏi
như các môn học khác nên học sinh thoải mái, nói tự nhiên theo cảm nhận
riêng. Các em sẽ có phương pháp tự học tích cực, ý thức tự giác trong học tập
16
cao hơn và biết chọn lọc hình thức giải trí mang lại nhiều lợi ích nhất cho
bản thân.
Giáo viên chủ nhiệm làm tốt hơn công tác chủ nhiệm của mình thông
qua Tiết đọc thư viện: Giáo dục được đạo đức, kĩ năng sống cho học sinh;
Rèn học sinh tính kỉ luật, làm việc khoa học; Củng cố mối quan hệ đoàn kết
tốt đẹp, biết giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong lớp. Giáo viên và học
sinh gần gũi, thân thiện với nhau hơn, học sinh có thể mạnh dạn chia sẻ, trao
đổi cùng giáo viên về vấn đề học tập cũng như kĩ năng các em cần có trong
cuộc sống. Giáo viên chủ nhiệm sẵn sàng là nhà tư vấn về tâm sinh lí cho các
em có được những suy nghĩ và hành động đúng đắn nhất ở lứa tuổi này.
Nhà trường huy động phụ huynh đóng góp xây dưng thư viên thân thiện,
tổ chức cho phụ huynh có tâm huyết tham gia trang trí, sắp xếp thư viên hợp
lí, thân thiện để phục vụ các em đọc. Mua thêm nhiều sách để làm phong phú,
đa dạng nội dung các loại sách, đồ dùng thư viện,… để các em thích đến thư
viên, yêu thư viện của mình hơn.
Giáo viên phải là một tấm gương đọc sách, những người truyền cảm
hứng đọc cho các em học sinh . Vận động cha mẹ học sinh tham gia đọc cùng
con khi ở nhà. Thường xuyên nhắc nhở khích lệ, tạo điều kiện để các em
được đọc, được khám thế giới qua các quyển sách.
V. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
Trong quá trình thực hiện đề tài: “Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh
lớp 5 dân tộc thiểu số qua Tiết đọc thư viện”, tôi đã bắt đầu thấy được sự
thay đổi ở các học sinh của mình:
Các em rất hứng thú mỗi khi đến Tiết đọc thư viện. Ngoài tiết học
tập chính, đến giờ ra chơi, các em mạnh dạn xin phép nhân viên thư viện để
được vào thư viện tìm đọc sách. Như vậy, thói quen đọc sách đang dần hình
thành trong các em.
Có những câu chuyện hay, hấp dẫn đến nổi các em muốn sở hữu ngay
quyển sách đó mà các em không ngần ngại hỏi cô giáo, hỏi nhân viên thư viện
“Cô ơi! Cô có bán quyển truyện này không ạ? Em thích nó lắm!”. Qua hành
động đó, tôi thấy được niềm đam mê đọc sách đang khơi dạy trong mỗi học
sinh của mình.
Các em thích nói và muốn nói nhiều hơn về câu chuyện của mình đã
được đọc. Các em còn tiếp tục chia sẽ câu chuyện với nhau trong cả giờ ra
chơi. Vậy là các em đã mạnh dạn hơn khi sử dụng tiếng Việt trao đổi, trò
chuyện, chia sẻ với nhau.
Kĩ năng đọc, nói của các em tiến bộ nhiều hơn. Các em đã tập trung
chú ý hơn vào việc đọc đúng dấu thanh, ngắt nghỉ sau dấu câu. Biết điều
17
chỉnh giọng đọc phù hợp trong mỗi tình huống câu chuyện cũng như trong
giao tiếp, đã biết trả lời và nói đủ thành phần câu, đủ ý.
Các em tập trung hơn khi viết cảm nhận của mình về câu chuyện,
những dòng chữ nắn nót, cẩn thận hơn vì các em chỉ phải viết một đoạn
ngắn để trưng bày. Bên cạnh viết, các em còn rất hào hứng vẽ về câu chuyện
mình vừa đọc. Các em có nhiều sáng tạo độc đáo trong khi vẽ. Hoạt động này
có thể phát huy được năng khiếu mĩ thuật ở một số học sinh.
Điều kiện để tiếp tục thực hiện đề tài nghiên cứu này
Giáo viên chủ nhiệm cần có hiểu biết sâu rộng để trở thành người
hướng dẫn cho học sinh. Nên bản thân tôi cũng phải đọc thật nhiều sách,
nghiên cứu nhiều tài liệu có liên quan để nâng cao trình độ chuyên môn. Cần
có những buổi chuyên đề, tập huấn về quản lí thư viện cho giáo viên.
Cán bộ thư viện chuyên trách có trình độ chuyên môn nghiệp vụ là
người có tâm huyết với nghề, sáng tạo trong hình thức phục vụ bạn đọc.
Tuyên truyền giới thiệu sách bằng nhiều hình thức nhằm quảng bá và thu hút
học sinh đến với thư viện như trưng bày, giới thiệu trước những buổi chào
cờ, vào các ngày chủ điểm lớn: về Ngày Nhà giáo Việt Nam, về Bác Hồ kính
yêu, về mẹ, về phụ nữ, về Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, về
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, …
Trường cần có đủ cơ sở vật chất, trang thiếu bị phục vụ cho việc hoàn
thiện thư viện thân thiện. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, huy động
mọi nguồn lực của các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể, doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân, các nhà hảo tâm,… để hằng năm có thể bổ sung thêm số lượng
và làm phong phú nội dung các đầu sách trong thư viện, đáp ứng được nhu
cầu đọc ngày càng tăng của học sinh trong thời gian tới.
Sự tham gia của gia đình và cộng đồng giúp học sinh đạt kết quả tốt
hơn. Khi cha mẹ khuyến khích con đọc sách thì các em sẽ thấy thích đọc sách
hơn. Gia đình và cộng đồng tham gia nhiều vào hoạt động trường học, tỉ lệ
học sinh đến trường cao hơn và có kết quả học tập tốt hơn.
Phần thứ ba: Kết luận, kiến nghị
I. Kết luận
Việc cung cấp, tăng cường vốn Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu
số là một việc làm cần thiết và quan trọng. Đòi hỏi cần có sự chỉ đạo sáng
suốt của người quản lí trường học cùng với các biện pháp, giải pháp được
giáo viên đưa ra với các hình thức tổ chức dạy học phù hợp, linh hoạt và đòi
hỏi người giáo viên phải thật sự yêu thương gần gũi với học sinh. Luôn tạo
tình cảm tốt đẹp cho học sinh giao lưu trò chuyện, nghe hiểu lời cô nói. Cuốn
18
hút được các em tham gia vào các hoạt động trau dồi vốn tiếng Việt thật sự
hứng thú.
Tiết đọc thư viện là một tiết học mới, thu hút được học sinh tham gia
tích cực vào các hoạt động trong thư viện. Nên đây có thể là tiết học phù hợp
cho cả học sinh và giáo viên để tăng cường Tiếng Việt. Các hoạt động chính
của tăng cường Tiếng Việt là: nghe, nói, đọc, viết. Khi những kĩ năng này đã
thuần thục thì các em sẽ có hứng thú học tập hơn và sẽ hình thành ý thức tự
giác học tập. Khi học sinh đã có ý thức tự giác học tập thì việc tiếp thu kiến
thức sẽ nhanh và dễ dàng hơn cho tất cả các môn học cũng như các hoạt
động ngoại khóa.
Đề tài nghiên cứu này sẽ mang lại ý nghĩa quan trọng đối với học sinh,
công tác chủ nhiệm cũng như nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường:
Học sinh sẽ đọc, nói đúng, chuẩn tiếng Việt. Khi học sinh đọc đúng
dấu thanh, ngắt nghỉ đúng dấu câu,… giúp các em hiểu đúng nội dung câu
chuyện. Từ nội dung câu chuyện học sinh sẽ rút ra ý nghĩa, bài học cho bản
thân để học sinh có thể vận dụng trong học tập cũng như trong cuộc sống
của các em.
Học sinh được tiếp xúc với các câu văn mẫu, cách diễn đạt câu, cách
dùng từ đúng, hay … sẽ góp phần trau dồi vốn tiếng Việt thiếu hụt và có thể
giúp các em học tốt phân môn Luyện từ và câu, môn Tập làm văn cũng như
các môn học khác. Nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt của học sinh, học
sinh sẽ học tốt môn Tiếng Việt và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Vì sách là kho tàng kiến thức của nhân loại nên đây là con đường ngắn
nhất để học sinh tiếp cận với nguồn kiến thức phong phú, đa dạng đó. Ngoài
ra, việc đọc sách còn khơi gợi được niềm đam mê đọc sách. Nhờ vậy, học
sinh chủ động trong việc tìm, đọc sách, phát triển vốn từ, ngôn ngữ, được
giáo dục đạo đức, kỹ năng sống…
Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa học sinh với học sinh, học sinh
với giáo viên, học sinh với nhân viên thư viện, giữa giáo viên với nhân viên
thư viện,…
Vì đây là đề tài đang trong quá trình nghiên cứu, nên tôi mạnh dạn đề
xuất một số biện pháp, giải pháp để Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh.
Trong quá trình thực hiện và tiếp tục nghiên cứu đề tài, tôi sẽ tiếp tục tìm ra
các giải pháp phù hợp và hiệu quả hơn để nâng cao kĩ năng nghe – nói – đọc –
viết, sử dụng tiếng Việt thành thạo của học sinh dân tộc thiểu số nói riêng và
nâng cao chất lượng giáo dục của toàn trường nói chung.
Tôi mong rằng sau khi làm xong đề tài này, có thế áp dụng cho tất cả
các khối lớp có học sinh dân tộc thiểu số trong trường, để giúp học sinh sử
dụng tiếng Việt có hiệu quả hơn trong học tập cũng như trong giao tiếp. Vì
đây là môn học mà các em thấy thoải mái nhất, không áp lực tính toán hay
19
phải tìm câu trả lời đúng nhất. Các em được trau dồi vốn từ vựng Tiếng Việt
nhiều hơn trong Tiết đọc thư viện, giúp các em mở rộng kiến thức về nhiều
lĩnh vực khác nhau, các em tiếp cận được với các tác phẩm văn học trong và
ngoài nước, sự tiến bộ của khoa học công nghệ, sự phát triển của xã hội
trong nước cũng như quốc tế.
Trong quá trình nghiên cứu và áp dụng sáng kiến Tăng cường Tiếng
Việt cho học sinh dân tộc thiểu số, bản thân rút ra một số điều cần ghi nhớ.
Khi rèn kĩ năng nghe, đọc, nói, viết cho học sinh dân tộc giáo viên phải luôn
sáng tạo, linh hoạt sử dụng phương pháp dạy học cũng như lựa chọn hình
thức dạy học phù hợp với trình độ và năng lực của học sinh. Phải thật sự nhẹ
nhàng, tế nhị, linh hoạt thì mới phát huy tính tích cực của học sinh vì các em
hay mặc cảm, tự ti, nhút nhát. Khi nói nếu các em lúng túng thì giáo viên gợi ý
một cách khéo léo để học sinh không mất bình tĩnh. Có như vậy mới phát huy
được khả năng nói của các em một cách tối đa. Ngoài ra, còn rèn kĩ năng nghe
khi bạn nói, học sinh chú ý đến lời nhận xét của bạn cũng là một cách để
nâng cao kĩ năng nói của mình. Điều cần chú ý là học sinh thích khen mà
không muốn bị chê. Vì vậy trong từng tiết học giáo viên cần động viên kịp
thời, đúng lúc để khích lệ tinh thần của các em, giúp các em tự tin, mạnh dạn
hơn trong học tập và giao tiếp.
II. Kiến nghị
a) Đối với nhà trường.
Trường Tiểu học Ea Bông là trường đặc biệt khó khăn, thiếu cơ sở
vật chất như: Quỹ đất ít, sân chơi bãi tập chật hẹp, thiếu phòng học, phòng
làm việc, phòng chức năng, phòng họp Hội đồng, nhất là vật tư, thiết bị, sách
truyện để phục vụ cho việc hoàn thiện Thư viện thân thiện. Đề nghị lãnh
đạo nhà trường tham mưu với các ngành, các cấp đầu tư xây dựng cở sở vật
chất, trang thiết bị dạy học đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập của học
sinh trong thời kì đổi mới này.
Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, huy động sự đóng góp của các
doanh nghiệp, các tổ chức, các nhà hảo tâm, cá nhân, giáo viên, phụ huynh,
học sinh,… quyên góp sách báo cũ có giá trị với khẩu hiệu: “Góp một cuốn
sách nhỏ, đọc nghìn cuốn sách hay”.
Nhà trường kết hợp với Đội thường xuyên tổ chức các hội thi, trò
chơi, các buổi sinh hoạt ngoại khóa,… để giúp học sinh “chơi mà học, học
mà chơi”. Từ đó học sinh lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kĩ năng đọc, nói, kĩ
năng phát âm đúng tiếng Việt một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, thoải mái nhất.
b) Đối với nhân viên thư viện
20
Cộng tác với giáo viên chủ nhiệm hướng dẫn học sinh sử dụng và tra
tìm tài liệu trong thư viện. Thực hiện tốt công tác trưng bày và giới thiệu sách
để thu hút học sinh đến với thư viện.
Nhân viên thư viện phải hòa nhã, gần gũi, thân thiện, chịu khó, hết
lòng vì công việc, biết tham mưu với lãnh đạo về công tác thư viện và nhu
cầu tài liệu của bạn đọc vào danh mục sách bổ sung mỗi năm học.
Làm đúng vai trò, trách nhiệm của một nhân viên thư viện: “Nhân viên
thư viện là một chuyên gia lưu trữ và tra cứu; là những người hiểu biết; là
những người chuyên gia hướng dẫn cho người đọc” (Trích dẫn lời của Phó
thủ tướng Vũ Đức Đàm tại Hội thảo Phát triển và đổi mới hoạt động thư
viện trong thời kì đổi mới, diễn ra tại Thư viện Quốc gia sáng ngày
05/12/2018)
c) Đối với giáo viên
Giáo viên luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình và sáng tạo
trong công tác giảng dạy, luôn gần gũi, phát huy tính tích cực chủ động sáng
tạo của học sinh.
Trong quá trình Tăng cường tiếng Việt qua Tiết đọc thư viện cũng
như trong các môn học khác cho học sinh, giáo viên phải kiên trì, nhẫn nại,
sửa lỗi, hướng dẫn nhẹ nhàng, động viên khen ngợi và đưa ra các biện pháp
hỗ trợ cho học sinh kịp thời. Luôn đối xử công bằng, tôn trọng và lắng nghe ý
kiến của học sinh.
Không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân, tích
cực dự giờ thăm lớp, chuyên đề học hỏi kinh nghiệm về Tăng cường tiếng
Việt cho học sinh dân tộc thiểu số, tự nghiên cứu tài liệu tìm tòi kiến thức để
tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.
Tìm ra nhiều biện pháp để khuyến khích các em tích cực, có ý thức tự
học, tự tìm đọc những cuốn sách có ích làm giàu vốn từ tiếng Việt của các
em, để các em tự tin sử dụng tiếng Việt trong học tập và giao tiếp hằng ngày.
Trên đây là một vài biện pháp của bản thân góp phần Tăng cường
Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số qua Tiết đọc thư viện nhằm bổ trợ
cho môn Tiếng Việt và các môn học khác cũng như nâng cao chất lượng giáo
dục của nhà trường. Rất mong nhận được sự đóng góp, chia sẻ của các đồng
nghiệp để thời gian tiếp có thể hoàn thành đề tài nghiên cứu và áp dụng
giảng dạy cho học sinh có hiệu quả hơn.
Ea Bông, ngày 30 tháng 3 năm 2019
Người viết
21
H La Chi Êñuôl
NHẬN XÉT CỦA HĐKH TRƯỜNG TIỂU HỌC EA BÔNG
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
...............................................................................................................................
22
NHẬN XÉT CỦA HĐKH HUYỆN KRÔNG ANA
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Phổ cập Giáo dục Tiểu học ngày 12 tháng 8 năm 1991.
2. Quyết định 920/QĐUBND của Ủy ban Nhân dân tỉnh Đăk Lăk, ngày
14/4/2017 về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án “Tăng cường Tiếng
Việt cho trẻ Mầm non, học sinh Tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn
20162020, định hướng 2025” trên địa bàn Đăk Lăk.
23
3. Công văn 1108/SGDĐTGDTH, ngày 10 tháng 8 năm 2018 về việc
triển khai Chương trình “Thư viện thân thiện trường Tiểu học” năm học 2018
– 2019.
4. Tài liệu Tập huấn nâng cao năng lực quản lí thư viện trường Tiểu học
của Sở Giáo dục và Đạo tạo Đăk Lăk tháng 12 năm 2017.
5. Cổng thông tin điện tử Sở Giáo dục và Đào tạo Đăk Lăk.
24