PHÒNG GD & ĐT KRÔNG ANA
TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH
TRONG GIỜ DẠY TIẾNG ANH KHỐI 6,7,8
Ở TRƯỜNGTHCS LÊ QUÝ ĐÔN
Họ và tên: ĐỖ THỊ DỊU
Đơn vị công tác: TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN
Trình độ: ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TIẾNG ANH
Krông Ana, tháng 03 năm 2019
MỤC LỤC
Trang
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiếng Anh ngày càng trở nên phổ biến, nó được xem là cầu nối con
người từ những nước khác nhau trên thế giới xích lại gần nhau hơn. Hơn thế
nữa nhờ có Tiếng Anh mà con người đã có được những bước tiến đáng kể
trong nhiều lĩnh vực. Việc học Tiếng Anh là quan trọng và cần thiết hơn bao
giờ hết.
Tuy nhiên, Tiếng Anh là một môn học khá khó đối với học sinh, đặc
biệt là học sinh ở vùng khó khăn. Vì vậy, chúng tôi luôn trăn trở với câu hỏi
làm thế nào để có được một giờ dạy hiệu quả và sinh động, gây được hứng
thú với học sinh, khiến các em phát huy được vai trò chủ động sáng tạo trong
việc lĩnh hội kiến thức cùng một lượng từ vựng khô khan.
Thực tế cho thấy ở một số tiết học, nếu người thầy áp dụng phương
pháp dạy học truyền thống thì chỉ có ít học sinh suy nghĩ và làm việc tích cực,
số học sinh còn lại cũng chỉ ghi bài và lắng nghe một cách thụ động, máy móc
mà không hiểu được nội dung bài học, dẫn đến hiệu quả học tập thấp. Hơn
nữa, lớp học rất ồn vì học sinh không chú ý vào bài học. Để khắc phục tình
trạng trên, mỗi giáo viên phải tự chọn ra cho mình phương pháp dạy phù hợp
thông qua một quá trình tìm tòi, thử nghiệm và rút kinh nghiệm giảng dạy
thực tế của bản thân trên cơ sở hiểu biết về lý luận dạy học. Chính vì vậy,
trong khi giảng dạy Tiếng anh tại trường THCS Lê Quý Đôn, tôi đã chú ý
nghiên cứu, vận dụng phương pháp mới để tạo sự hứng thú học tập, phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh trong các giờ dạy của mình. Đó cũng là lí
do tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm tạo hứng thú trong giờ học Tiếng
Anh khối 6,7,8 ở trường THCS Lê Quý Đôn”.
Những kinh nghiệm của tôi có thể vận dụng với hầu hết các tiết học,
các kiểu bài, trong chương trình Tiếng anh THCS khối 6,7,8. Như vậy, việc
lựa chọn đề tài này có ý nghĩa rất cụ thể và thiết thực đối với giáo viên dạy
bộ môn Tiếng Anh nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Anh
trong trường THCS Lê Quý Đôn
Tạo hứng thú trong dạy học Tiếng Anh là một trong những giải pháp
quan trọng để đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Anh ở trường THCS
hiện nay. Nó thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà lý luận dạy học cũng
như các giáo viên dạy học trực tiếp ở các trường phổ thông. Vấn đề này cũng
đã được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu của các nhà giáo dục,
của một số thầy cô giáo. Các công trình nói trên đã tạo cơ sở, nền móng cả
về mặt lý luận và thực tiễn để tôi hoàn thành đề tài này.
Tuy nhiên, các tác giả mới đề cập một cách khái quát, mang tính chất
định hướng, giới thiệu chủ yếu mà chưa đề cập đến việc áp dụng cụ thể vào
1
bài học như thế nào để tạo hứng thú học tập cho học sinh. Vì thế, tôi đã
mạnh dạn tiếp tục đi sâu tìm tòi nghiên cứu đề tài này theo hướng vận dụng
lý luận vào thực tế giảng dạy, với mong muốn đóng góp những kinh nghiệm
của mình vào việc tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em yêu thích,
say mê môn học để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng
Anh.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Việc tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học Tiếng Anh mà tôi đưa ra
trước hết nhằm khơi được hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh THCS,
giảm được sự ức chế tối đa trong một giờ học, phát huy tính tích cực, chủ
động sáng tạo của học sinh, giúp cho học có điều kiện sử dụng Tiếng Anh
một cách tự nhiên, hình thành và rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực hiện quá trình giao tiếp thực tế và cũng là để củng cố, ôn tập lại những
kiến thức, khắc sâu lại những kiến thức đã học một cách thường xuyên, có
hiệu quả. Sau nữa là để nâng cao nghiệp vụ công tác của bản thân, và để trao
đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp của mình.
2
Phần thứ 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
Trong đề án 1400 về "Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục
quốc dân giai đoạn 2008 –2020 với nội dung mục tiêu là đổi mới toàn diện
việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, triển khai
chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ đào tạo,
nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình độ năng lực sử
dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên;
đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và
đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học
tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa; biến ngoại
ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước”.
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QĐ BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào
tạo cũng đã nêu: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của
học sinh, phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều
kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng
hợp tác rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn
diện GDĐT nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng
kiến thức, kỹ năng của người học...”.
Như vậy, để phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh,
nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Tiếng Anh, thì phải làm cho học sinh
yêu thích môn học đó. Muốn học sinh yêu thích môn học đó thì giáo viên phải
tạo được hứng thú học tập cho học sinh. Có nhiều phương pháp để phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, tạo hứng thú học tập cho học sinh đã được
nhiều giáo viên áp dụng. Làm cho học sinh cảm thấy bài học ở đây nhẹ
nhàng“như một trò chơi, mọi người tham dự vô tư, thoải mái” với không khí
“hòa nhã, vui vẻ..”. Nếu Tiếng Anh trở nên sống động hơn, hấp dẫn hơn,
thực tế hơn, vậy thì không còn lý do gì mà học sinh lại không cảm thấy hứng
thú để học tập, không tích cực, chủ động tham gia vào bài học. Mà có hứng
thú học tập ắt sẽ có kết quả học tập tốt. Đây là nền tảng cho việc áp dụng
phương pháp mới vào dạy học góp phần nâng cao chất lượng dạy và học
môn Tiếng Anh.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
Tiếng Anh đã trở thành một môn học trọng tâm như các môn văn hóa
khác nhưng vẫn là môn học khó, không phải bất cứ học sinh nào cũng có năng
3
khiếu để tiếp thu nó một cách dễ dàng, đặc biệt là những học sinh ở vùng
nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa như trường THCS Lê Quý Đôn.
Trường nằm trên địa bàn khó khăn, đa số gia đình các em học sinh đều
làm nông, ngoài giờ học các em phải giúp đỡ bố mẹ làm thêm công việc như
nhặt điều, nhặt cà phê, tưới nước, làm cỏ, có em đến mùa thu hoạch phải
nghỉ học ở nhà giúp đỡ gia đình. Do đó đa số các em không nhận được cơ hội
học tập tốt ở nhà, không có điều kiện làm bài tập và ôn bài ở nhà. Hơn nữa, tỉ
lệ học sinh dân tộc thiểu số trong trường chiếm tới một nửa số học sinh nên
một số em còn hạn chế về cách tiếp thu bài học, chất lượng học sinh học tập
môn Tiếng Anh hàng năm chưa cao, tỉ lệ học sinh khá giỏi thấp, tỉ lệ học sinh
yếu kém còn cao.
Để nâng cao chất lượng bộ môn Tiếng Anh trong nhà trường, một vài
năm gần đây giáo viên đã và đang áp dụng những phương pháp dạy học tích
cực trong giảng dạy. Tuy nhiên giáo viên còn đang lúng túng trong cách thức
thực hiện, chưa đa dạng hóa các hình thức. Qua thực tế cho thấy, nhiều năm
học trước bộ môn Tiếng Anh ở trong trường THCS Lê Quý Đôn chưa thu hút
được học sinh yêu thích môn học. Đa số các em chưa nắm chắc kiến thức,
chưa có phương pháp học tập phù hợp, học tập một cách thụ động, chủ yếu
các em chỉ ghi chép bài, nhiều em rất ngại thực hành nói trên lớp, sợ nói ra sẽ
bị sai, sợ các bạn chê cười, nhiều em chưa biết vận dụng vào tình huống thực
tế, thậm chí có em còn không ghi chép bài ở trên lớp, nhiều em cảm thấy chán
nản, mệt mỏi, và còn ngủ trong giờ học , đây là một thực trạng phổ biến ở
trong tiết dạy Tiếng Anh.
Năm học 2016 – 2017 qua thực tế điều tra bằng phiếu khảo sát (trước
khi áp dụng các giải pháp vào giảng dạy), tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 1A: Khảo sát mức độ yêu thích môn Tiếng anh
Số học
Em có thích học môn Tiếng Anh không?
sinh
Khối
Thích
được
điều
Không thích
SL
%
SL
%
tra
6
62
22
35.5
40
64.5
7
59
19
32.2
40
67.8
8
31
9
29.03
22
70.97
Bảng 1B: Khảo sát kết quả học tập môn Tiếng Anh
Khối
Số
Học lực môn Tiếng Anh
4
HS
Giỏi
Khá
TB
Yếu / kém
được
điều SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
tra
6
62
02
3.2 05
8.1
17
27.4
38
61.3
7
59
01
1.7
04
6.8
17
28.8
37
62.7
8
31
0
0
2
6.5
9
29
20
64.5
Qua bảng khảo sát học sinh môn Tiếng Anh các khối 6,7,8 tôi thấy tỉ lệ
học sinh yêu thích môn học không nhiều, tỉ lệ học sinh khá, giỏi là rất ít, tỉ lệ
học sinh yếu, kém là rất cao, đặc biệt là khối 8. Vậy tại sao các em không yêu
thích môn học Tiếng Anh? Nguyên nhân từ đâu dẫn đến kết quả học tập của
học sinh thấp như thế? Giáo viên đã áp dụng tốt các phương pháp dạy học
tích cực chưa? Đây là câu hỏi mà tôi luôn trăn trở. Do đó, đòi hỏi mỗi giáo
viên trong tổ bộ môn của trường phải có trách nhiệm tìm tòi, nghiên cứu, thử
nghiệm để tìm ra các giải pháp giúp kích thích niềm say mê, ham học hỏi của
các em để môn Tiếng Anh trong nhà trường, trong toàn ngành được nâng cao
chất lượng.
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Để nâng cao chất lượng dạy và học và và quan trọng hơn thu hút được
sự tập trung chú ý của học sinh, tạo cho các em một tâm lý thoải mái, không
áp lực khi học bộ môn để các em say mê, yêu thích môn học hơn nữa, tôi đã
áp dụng một số giải pháp sau:
1. Thúc đẩy động cơ học tập của học sinh
1.1 Động viên học sinh bằng những lời khen
Chúng ta có thể thấy một lời khen bao giờ cũng tốt hơn một lời chê
bai. Vì thế để giúp các em mạnh dạn hăng hái phát biểu tôi luôn không bao
giờ tiếc những lời khen ngợi động viên các em. Thực tế cho thấy, có những
học sinh biết nhưng không dám nói vì sợ bị mắc lỗi. Một số em khác không
dám giơ tay phát biểu vì sợ nói sai bị các bạn cười, cô giáo chê. Theo tôi, đây
chính là yếu tố tâm lí mà giáo viên dạy Tiếng Anh cần phải xem xét để giúp
các em có được hứng thú học tập hay ít ra là tích cực hơn trong các giờ học.
Trong quá trình dạy, giáo viên không nên quá khắt khe với những lỗi mà học
sinh mắc phải (Ví dụ: lỗi phát âm, lỗi chính tả, thậm chí là lỗi ngữ pháp) để
tránh cho các em tâm lí sợ mắc lỗi khi thực hành.Vì vậy bất cứ một câu trả
lời tốt nào đều được khen đôi khi chỉ là một cái gật đầu, một nụ cười…Thậm
chí nếu học sinh làm chưa đúng chúng ta cũng có thể khen.
5
Ví dụ 1: Khi dạy Unit 9 tiếng Anh 7 phần củng cố thì quá khứ đơn tôi
yêu cầu học sinh làm câu chia động từ trong ngoặc.
My mother (buy) ________ me a school bag last week.
week.
Bài làm của học sinh như sau: My mother buyed me a school bag last
Rõ ràng bài làm của học sinh chưa đúng, nhưng em đã nhận biết được
câu này dùng thì quá khứ đơn nhưng em không nhớ động từ này thuộc động từ
bất quy tắc. Vậy trong tình huống này cần hết sức tránh thái độ chê bai, bực
bội “câu dễ như này mà em cũng làm sai”, hay chữa lỗi ngay. Ngược lại, giáo
viên cần tỏ thái độ khích lệ, khen em đã nhận biết được thì quá khứ đơn và
giúp em nhận ra còn nhầm lẫn ở chỗ nào để em tự sửa. Như vậy sẽ khích lệ
được học sinh mạnh dạn và cố gắng hơn ở các tiết học sau.
Ví dụ 2: Trong Tiếng Anh 6 khi dạy Unit 4. Big or small trang 46 sau
phần B1, khi thực hành 2 học sinh hỏi đáp như sau:
Student 1: How many floors does our school have?
Student 2: Our school have 2 floors.
Trong câu này rõ ràng học sinh đã sai về mặt ngữ pháp. Tuy nhiên, trong
giao tiếp, tôi không quá chú trọng vào ngữ pháp. Thay vì ngắt lời khi các em
đang nói để sửa lỗi, tôi để cho học sinh trả lời xong. Mặc dù câu trả lời chưa
đúng nhưng tôi vẫn khích lệ hay khen em bằng câu như: “Not bad”. Sau đó tôi
hỏi em học sinh đó chúng ta dùng: “Our school have 2 floors or our school has
2 floors” bằng cách này học sinh có thể tự sửa được câu đúng cho mình và
chắc chắn em sẽ khắc sâu bài học hơn.
1.2 Đơn giản hóa các bài học
Khi giảng dạy tôi luôn phải chú ý đến tính vừa sức trong dạy học d o
đối tượng học sinh trong trường tôi một nửa là người dân tộc thiểu số, nhận
thức còn nhiều hạn chế nên tôi đã mạnh dạn thay đổi một số bài tập trong
chương trình sách giáo khoa cho đơn giản và phù hợp với đối tượng học sinh
hơn.
+Ví dụ 1: Trong chương trình Tiếng Anh 8 Unit 9: At home and away
Lesson A2 phần Production “Now tell the story of Liz’strip to Tri Nguyen
Aquarium” phần này dùng bức tranh để kể lại câu chuyện đã học. Tuy nhiên
để giúp học sinh trường tôi kể được tôi thiết kế thêm phần gợi ý từ, nhằm
giúp học sinh kể được câu chuyện một cách dễ dàng hơn vì đã có một số từ
gợi ý như sau:
6
a.The Robinson family/ go /
aquarium .
b.They / see /sharks/
dolphins, turtles / many
colorful fish ..
d. Mr. Robinson / buy/ Liz /
cap / a picture of a dolphin /
it . Mrs. Robinson /buy/
poster .
c. There /be/
souvenir shop / the
exit of the
aquarium
After / visit / aquarium, the Robinson
/go/ food stall. Mr. and Mrs. Robinson
/eat/ fish crab /Liz /eat/ noodles.
Hình 1: Hình ảnh trong Unit 9(B2) sách Tiếng Anh 7
+Ví dụ 2: Khi dạy unit 8Lesson: Read trang 75 phần “Complete the
summary. Use the information from the passage” trong chương trình Tiếng Anh
lớp 8, đối với những lớp có học lực yếu kém cao, tôi đưa ra yêu cầu đơn giản
hơn. Các em đọc lại đoạn văn và dùng từ cho sẵn đó để nối, thay vì yêu cầu
học sinh tự tìm các từ trong đoạn văn để điền. Như vậy sẽ giúp các em học
yếu một chút có cơ sở thêm để hoàn thành bài tập. Nếu các em hoàn thành
được bài tập các em sẽ có động lực tham gia học tập tốt hơn.
1 . Co m p le te t h e s u m m a ry . Us e in fo rm a tio n f ro m p a s s a g e .
city(2)
hospitals
rural
world
leaving
schools
problem
home
problems
People from the countryside are (1) ________ their (2) _______ to go and
live in the (3)________. Farming can sometimesbe a difficult life and
these people from (4) __________ areas feel
the (5) ________ offers
more opportunities. H owever, many people coming to the city create
(6)_________ . There may not be enough (7) ________ or (8) __________,
while water and electricity supplies may
not be adequate. This is
a (9)__________ facing governmentsaround the (10) ______ .
Để phù hợp với đối tượng học sinh của mình, tôi đưa ra những yêu
cầu khá đơn giản, rõ ràng. Ví dụ ngoài việc sử dụng các kỹ năng cụ thể trong
từng tiết dạy, tôi luôn căn cứ vào khả năng ghi nhớ và thể hiện của từng học
sinh để yêu cầu thực hành và giao bài tập về nhà tránh áp lực và quá tải với
khả năng của học sinh yếu kém, tránh nhàm chán vì quá dễ đối với học sinh
khá, giỏi.
1.3 Hãy tạo cho những học sinh yếu hơn có cơ hội để được “tỏa
sáng”
Giáo viên không nên chỉ mời những học sinh có kiến thức tốt phát biểu
trong giờ mà cần khuyến khích mọi thành viên khác phát biểu xây dựng bài,
mặc dù các ý kiến phát biểu có thể không thật chính xác vì chính điều này
kích thích các em cần cố gắng hơn để học.
7
Ví dụ: Trong bài unit 4 trong sách tiếng Anh 6 phần B1, khi hỏi câu:
Where’s your classroom? Tôi gọi 1 hoặc 2 em học sinh trong lớp học tốt trả
lời mẫu, sau đó gọi tiếp 1 hoặc 2 em học yếu trả lời. Như thế t ất c ả các em
sẽ tích cực hơn vì được tham gia vào quá trình học tập.
2. Áp dụng những tình huống, hành động thực tế vào bài giảng
Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy rằng nếu mình có thể áp dụng
những ví dụ, tình huống hành động cụ thể, thực tế vào bài giảng sẽ khiến cho
bài học trở nên sinh động, hấp dẫn và khiến các em nhớ từ, cấu trúc, mẩu hội
thoại lâu hơn và có thể sử dụng chúng trong thực tiễn hàng ngày.
Ví dụ 1: Khi dạy quá khứ tiếp diễn ở chương trình lớp 8 trong unit 12
phần language focus trang 119, tôi chụp 1 tấm hình con trai đang ngủ vào lúc 9
giờ tối hôm qua và đưa ra ví dụ: “At 8 pm last night, my son was doing his
homework” để giới thiệu cấu trúc và cách sử dụng.
Ví dụ 2: Khi dạy về cấu trúc thì hiện tại tiếp diễn ở lớp 6, giáo viên
có thể dùng hành động thực tế của mình để đưa ra cấu trúc câu. Ví dụ giáo
viên cầm quyển sách lên đọc và hỏi học sinh: Look at me! What am I doing?
Hoặc chỉ vào 1 học sinh đang chạy ở ngoài sân và nói: He is running
Ví dụ 3: Khi học về các tính từ chỉ trạng thái như: hungry, thirsty, hot,
cold, tired, full và các cấu trúc liên quan ở Unit 10, phần A1,2 trong chương
trình Tiếng Anh 6. Nếu giáo viên sử dụng hành động của mình và hướng dẫn
học sinh diễn tả những tính từ trên trong phần thực hành thì giờ học thêm sinh
động và học sinh sẽ rất hứng thú, đồng thời sẽ nắm vững từ mới và cách
dùng chúng hiệu quả trong những tình huống thực tế.
+ Khi dạy từ “thirsty”, giáo viên nói: I’m thirsty và uống 1 cốc nước.
Trong tình huống này học sinh sẽ hiểu tình huống và đoán được nghĩa của từ
+ Sau khi dạy hết từ mới giáo viên cho học sinh chơi trò chơi theo nhóm
thể hiện bằng hành động. Nhóm 1 học sinh lần lượt lên thể hiện hành động
nhóm 2 nhìn, đoán và hỏi bằng những câu hỏi Yes/No Ví dụ: Are you
cold/hot/tired?
3. Lồng ghép âm nhạc trong dạy học Tiếng Anh
Như chúng ta đều biết, nếu được học tập trong một môi trường vui vẻ
và sáng tạo, học sinh sẽ rất hào hứng mỗi khi tới lớp. Việc sử dụng âm nhạc
trong lớp học là một cách để chúng ta có thể tạo được bầu không khí học tập
tuyệt vời, mang niềm vui và sự say mê học tập đến cho học sinh.
Bài hát có thể được được sử dụng cho nhiều mục đích và có rất nhiều
lý do tại sao bài hát có thể được coi là một công cụ sư phạm có giá trị. Bài hát
có thể giúp học sinh cải thiện kỹ năng nghe và phát âm, vì thế cũng giúp nâng
cao cả kỹ năng nói. Bài hát cũng có thể là công cụ hữu ích trong việc học từ
vựng, cấu trúc câu, và mẫu câu. Và có lẽ lợi ích lớn nhất của việc sử dụng
8
các bài hát để dạy học là đem lại niềm vui cho học sinh. Niềm vui thích là
một phần quan trọng của việc học một ngôn ngữ mới, các bài hát có thể giúp
việc học trở nên thú vị hơn và có khả năng nâng cao động lực cho học sinh
giúp học sinh tiếp thu bài học tốt hơn.
Một số cách lồng ghép âm nhạc trong giờ học Tiếng Anh như sau:
3.1 Lồng ghép âm nhạc để giới thiệu chủ đề của bài học.
Phần giới thiệu chủ đề của bài mục đích để giúp các em định hình
mình sắp học cái gì vì thế tôi cho học sinh nghe một vài câu trong bài hát liên
quan đến chủ đề của bài nhằm mục đích khêu gợi trí tò mò của học sinh về
chủ đề bài học như: “Color, Feeling, Chrismas,...”
Ví dụ 1: Khi dạy bài Unit 13: Festival – Lesson: Read sách tiếng Anh 8.
Tiết này học về “Chrismas”. Để giới thiệu cho học sinh về chủ đề này chúng
ta có thể cho HS nghe bài hát: Jingle Bells và hỏi học sinh: “When do people
usually sing this song?”
Lời bài hát:
Dashing thro' the snow, in a onehorse open sleigh.
O'er the fields we go, laughing all the way.
Bells on bobtails ring, making spirits bright,
What fun it is to ride and sing a sleighing song tonight.
Jingle bells, Jingle bells, Jingle all the way.
Oh what fun it is to ride in a onehorse open sleigh.
Jingle bells, Jingle bells, Jingle all the way.
Oh what fun it is to ride in a onehorse open sleigh.
3.2 Lồng ghép âm nhạc trong tiết ngữ pháp
Một tiết học ngữ pháp vốn rất khô khan vì thế tôi đưa âm nhạc vào tiết
học này nhằm tạo bầu không khí vui vẻ thoải mái trong tiết học, giúp các em
củng cố cấu trúc ngữ pháp và khắc sâu bài học hơn.
Ví dụ sau khi học câu điều kiện loại 1 ở chương trình Tiếng Anh 6 thí
điểm chúng ta có thể cho học sinh nghe bài hát “ If you’re happy” trong phần
postteaching để thay đổi không khí nhàm chán của tiết học ngữ pháp. Các em
vừa hát vừa làm động tác tạo ra những âm thanh rất vui nhộn.
Lời bài hát: “If you’re happy”
If you’re happy and you know it, clap your hands
If you’re happy and you know it, clap your hands
If you’re happy and you know it, and you really want to show it
If you’re happy and you know it, clap your hands
9
3.3 Lồng ghép âm nhạc để củng cố từ mới hay bảng động từ bất
quy tắc
Đây là một trong những phần mà học sinh sợ học nhất vì rất khó để
nhớ ,vì thế tôi đưa các bài hát vào phần này giúp học sinh hứng thú hơn và mau
thuộc
Ví dụ 1: Khi dạy phần động từ bất quy tắc trong chương trình Tiếng
Anh 7, chúng ta có thể dùng bài “rap về động từ bất quy tắc” cho HS hát
theo, mục đích thay đổi bầu không khí và mau nhớ cách phát âm.
Ví dụ 2: Trong sách tiếng Anh 7 hay khi dạy Unit 2: Personal
information B3 học sinh được học về các tháng trong năm, phần này để
luyện tập chúng ta có thể cho học sinh nghe và hát theo bài hát “Months of a
year”. Học sinh sẽ nhớ dễ hơn khi thuộc giai điệu bài hát này.
Lời bài hát: “Months of a year”
January and February sha la la la la. March and April and May. July and
August, September and October, November and December. (Sha la la la la la la
la). These are twelve months of a calendar year, sha la la that makes a year.
Ví dụ 3: Khi dạy bài unit 9: The BodyB2 (Sách tiếng anh 6). Học sinh
được học về “color” sau khi dạy từ và luyên tập tôi cho HS nghe và hát thuộc
bài hát “What color is it?”
Ví dụ 4: Khi dạy Unit1: Greetings tiếng Anh 6, sau khi dạy phần
B1,B2 tôi cho HS nghe bài hát “Good morning to you” và các em có thể thay
“Good morning” bằng “Good afternoon/evening” để hát. Như thế các em sẽ có
cơ hội luyện tập, vận dụng và phát âm các cách chào hỏi.
Lời bài hát "GOOD MORNING TO YOU":
Good Morning To You
Good Morning To You
Good Morning dear father
Good Morning To You
Good Morning To You
Good Morning To You
Good Morning dear mother
Good Morning To You
Good Morning To You
Good Morning To You
Good Morning dear father
Good Morning To You
Good Morning To You
Good Morning To You
10
Good Morning dear mother
Good Morning To You
Ví dụ 5: Khi dạy về thời tiết Unit 13 phần A: The weather and seasons
(A1, A2) Tiếng Anh 6, sau khi giới thiệu từ về chủ đề màu sắc cho các em
luyện tập, tôi lấy bài hát “How’s the weather?” bỏ đi một số tính từ và yêu
cầu HS nghe và điền tính từ chỉ về thời tiết, sau đó luyện hát thuộc bài hát đó
Khi học về các bộ phận trên cơ thể người Unit 9: The body tiếng Anh
6, ở phần “Play with words”, bài hát này đã giúp học sinh nhớ về một số bộ
phận trên cơ thể một cách sinh động dễ dàng khi vừa hát vừa biểu diễn theo
lời và giai điệu bài hát “Head and shoulders”
Lời bài hát: “Head and shoulders”
Head and shoulders
Knees and toes
Knees and toes
Head and shoulders
Knees and toes
Knees and toes
Ears and eyes
And mouth and nose
Head and shoulders
Knees and toes
Knees and toes
Như vậy chỉ sau tiết học các em đã có thể hát và nhớ được gần hết các
từ các em đã học, tôi nghĩ đây là một cách học vô cùng hiệu quả.
4. Sân khấu hóa trong dạy học Tiếng Anh
Với hoạt động diễn kịch bằng Tiếng Anh, nhiều học sinh nhận xét, đây
là một hình thức học Tiếng Anh sinh động, thú vị giúp các em phát triển kỹ
năng nghe, nói vì mỗi em sẽ phải tập trung về phát âm, ngữ điệu diễn tả cảm
xúc, tâm trạng theo đúng nhân vật mà mình đảm nhiệm. Ngoài ra các em còn
có thể phát huy sự tự tin, khả năng sáng tạo hay rèn luyện kỹ năng làm việc
theo cặp, nhóm. Các em được hóa thân vào các vai trong những câu chuyện,
những đoạn hội thoại đã giúp các tiết học trở nên thú vị, hấp dẫn, bớt nhàm
chán đơn điệu.
4.1 Một số bước thực hiện:
4.1.1 Tạo tình huống kịch
Đầu tiên tôi cần chọn tình huống cho một đoạn kịch liên quan đến bài
học. Điều quan trọng là phải dựa trên nhu cầu và sở thích của học sinh và
đem lại cho học sinh cơ hội luyện tập những gì được học trên lớp. Bên cạnh
đó, vở kịch đó cũng cần hấp dẫn để thu hút các em.
11
4.1.2 Phát triển nội dung
Trên bối cảnh của vở kịch, tôi thường phải đưa ra những ý tưởng để
phát triển tình huống của câu chuyện. Tuy nhiên lời thoại như thế nào còn tùy
vào khả năng nói Tiếng anh của học sinh. Tôi có thể đơn giản hóa cho phù
hợp với trình độ học sinh.
Ví dụ : Trong Unit 7 Phần B1 sau khi học xong bài học tôi cho học sinh
đóng vai hóa thân vào vai Hoa và Tim hỏi đáp về gia đình Tim. Tuy nhiên để
học sinh dễ dàng nhập vai trong tình huống này tôi đưa ra một đoạn hội thoại
còn thiếu để học sinh dựa vào đó diễn tập tốt hơn.
Period: 43 Unit 7: THE WORLD OF WORK B. The worker – B1
V. Role play
Hoa
Tim
Hoa: Tell me about your family, Tim. How many people are there in your family?
Tim: ______________: My father , my mother, my sister, Shannon and me.
Hoa: Where does your mother work?
Tim: _________________________ .
Hoa: What does your father do?
Tim: __________________________ .
Hoa: Where does he work?
Tim: __________________________ .
Hoa: How many hours a week does he work?
Tim: __________________________ .
Hoa: What does he often do in his free time?
Tim: ______________________
Hoa: That sounds interesting.
Tim: That’s right. I love my family so much.
Hình 2: Mẫu hội thoại dùng để đóng vai Hoa và Tim hỏi đáp về gia đình
Tim
4.1.3 Chuẩn bị lời thoại
Giới thiệu một số cấu trúc và từ vựng cho học sinh trước khi đóng vai
để học sinh định hình nói cái gì.
Ví dụ 1: Tình huống của vở kịch là mua hàng và bán hàng trong khi
dạy phần A2 unit 11: What do you eat? Tiếng Anh lớp 6, trang 116 Tôi sẽ hỏi
học sinh những câu như “Trong tình huống này em sẽ nói gì với người bán
hàng?”, “Người bán hàng sẽ nói gì?” và viết ra những gì học sinh nói lên
bảng, Cách giới thiệu từ mới và cấu trúc này sẽ làm cho học sinh tự tin hơn
trong khi đóng kịch.
12
Ví dụ 2: Tình huống của vở kịch là đóng vai 1 người là khách du lịch
nước ngoài đến Đak Lak, 1 người đóng vai người chỉ đường để hỏi đáp trong
Unit 8: Places phần B2 Tiếng anh 7 trang 80. Trong khi giới thiệu cho học sinh
thông qua bài hội thoại mẫu và hỏi khi hỏi đường ta dùng cấu trúc nào? Chỉ
đường ta dùng cấu trúc nào?
4.1.4 Chuẩn bị thông tin
Học sinh cần được cung cấp đầy đủ thông tin về vở kịch đặc biệt là
những đoạn mô tả vai để các em có thể yên tâm đảm nhận vai của mình. Ví
dụ tình huống ở bưu điện thì giá cả của những vật dụng như tem, phong bì
giấy viết thư, tạp chí, báo, card điện thoại…là bao nhiêu.
4.1.5 Phân vai
Phân vai từ trước cho mỗi học sinh. Giáo viên có thể đóng một trong
các vai để làm mẫu. Đôi khi giáo viên cũng có thể giao việc đóng vai như một
bài tập về nhà. Học sinh sẽ tìm hiểu trước các từ và cụm từ có nghĩa, chuẩn
bị lời thoại và sau đó cùng nhau diễn kịch trong giờ học tiếp theo.
Một lớp có thể được phân ra thành các nhóm diễn kịch. Khi quyết
định phân vai tôi phải cân nhắc đến khả năng và tính cách của từng học sinh.
Ví dụ một nhóm mà toàn học sinh nhút nhát thì hẳn sẽ không thể thành công.
Tóm lại, sự tương tác đạt hiệu quả tối ưu khi giáo viên để cho học sinh làm
việc trong cùng nhóm với bạn của mình.
4.1.6 Tập kịch
Với những tình huống đơn giản tôi cho các em diễn tập tại lớp, còn
nếu những vở kịch hoặc tình huống khó các em về nhà luyện tập
4.1.7 Diễn kịch
Trong khi học sinh th ể hi ện, tôi phải là ngườ i lắng nghe và lưu ý
những lỗi mà học sinh mắc phải có thể là về từ vựng hoặc ngữ pháp. Đây
sẽ là tư liệu để tôi tham khảo và chuẩn bị những bài luyện tập lần sau và
đặc biệt là tôi không cắt ngang câu chuyện bằng việc sửa lỗi để tránh tình
trạng làm học sinh mất hứng thú.
4.1.8 Kết thúc
Khi phần đóng kịch đã hoàn thành, một chút thời gian để thâu tóm lại
nội dung câu chuyện cũng vô cùng bổ ích. Điều này không có nghĩa là chỉ ra
lỗi sai và sửa. Sau vở kịch, học sinh rất hài lòng với chính bản thân, các em
cảm thấy rằng vốn khả năng ngoại ngữ của mình đã được sử dụng vào một
công việc khá phức tạp và bổ ích. Cảm giác hài lòng này sẽ biến mất nếu bị
giáo viên sửa lại từng lỗi một. Học sinh dễ bị kém tự tin hơn và không hào
hứng đóng các vở kịch khác nữa. Ngoài ra tôi cũng có thể hỏi ý kiến của các
học sinh về vở kịch và khuyến khích những ý kiến đóng góp. Mục đích ở đây
13
là để thảo luận những diễn biến của vở kịch và ôn lại những vấn đề các em
đã từng học. Cùng với việc thảo luận nhóm, tôi cũng có thể phát phiếu câu
hỏi để đánh giá hiệu quả.
Tóm lại, đóng kịch là một phương pháp khá hay trong việc dạy học
Tiếng Anh. Vở kịch càng thú vị càng lôi kéo được nhiều học sinh tham gia.
Điều đó cũng đồng nghĩa với việc giáo viên có thể xây dựng trong các em
niềm yêu thích học tập và từ đó đạt được kết quả cao hơn.
4.2 Áp dụng sân khấu hóa trong phần củng cố bài học
Sau khi học xong nội dung bài học, tôi cho học sinh vận dụng những từ
vựng, mẫu câu, cấu trúc đã học để tạo thành những đoạn kịch ngắn, những
hội thoại ngắn về các tình huống thực tế hàng ngày mục đích để các em có
môi trường tiếng để luyện tập kĩ năng nói, các em hóa thân vào các nhân vật
trong các câu chuyện hoặc trong các tình huống thực tế. Qua đó giúp các em
có thêm hứng thú vào học tập và mạnh dạn tự tin hơn khi tham gia giao tiếp
Ví dụ 1: Trong Tiếng Anh 7 khi dạy unit 8: Places phần B3 trang 84,
phần thực hành tôi chia lớp thành 2 nhóm để thực hiện đóng vai trong tình
huống ở trong bưu điện nhằm mục đích củng cố bài, vận dụng những từ
vựng về chủ đề về bưu điện và cấu trúc mua bán, hỏi giá cả vào các tình
huống thực tế
+ Nhóm 1 đóng vai người đi mua hàng chuẩn bị tiền bằng giấy trắng
ghi số tiền: 1.000 đ, 2000 đ, 3000 đ, 4000 d, 5000 đ, 10.000 đ, 50.000 đ,
100.000đ
+ Nhóm 2 chuẩn bị đồ bán tại bưu điện: tem, phong bì, card điện thoại,
tạp chí, báo, tập giấy viết thư
+ Nhóm bày bán hàng lên 2 dãy bàn học giữa lớp. Học sinh đóng vai
người bán hàng đứng sau quầy hàng của mình
+ Nhóm mua hàng cầm tiền đi chọn mua hàng mình cần
+ Gv đi quanh lớp chọn các lỗi tiêu biểu của học sinh
+ Kết thức, giáo viên đưa ra nhận xét, góp ý cho học sinh rút kinh
nghiệm
Model dialogues
Clerk: Hello. Can I help you?
Tuan: I'd like a writing pad. The good one.
Clerk: Here you are. Is that all?
Tuan: Ah, I also need some envelopes. How much is that altogether?
14
Clerk: Well, the writing pad is ten thousand dong. Five envelopes are one
thousand. That's eleven thousand dong altogether.
Tuan: Here is fifteen thousand dong.
Clerk: Thanks. Here is your change.
+ Model dialogues
Linh: Hello, I would like some postcards of Ho Chi Minh City. Do you
have them?
Clerk: Yes, of course. Here you are. They're very beautiful. You can
choose the ones you like.
Linh: I'll get three postcards with different sights.
Clerk: OK. Is that all?
Linh: Oh, I also need a phone card. I'd like a onehundredthousand card.
So, how much is that altogether?
Clerk: Well, three postcards are fifteen thousand dong. The phone card is
one hundred thousand dong. That's one hundred and fifteen thousand
dong.
Linh: Here is one hundred and twenty thousand dong.
Clerk: Thank you. Here is your change.
15
Hình 2: Hình ảnh hoạt động nhóm diễn tập tình huống mua bán ở bưu điện
Ví dụ 2: Khi dạy bài Unit 4: OUR PASTLesson: Write trang 43 sách
Tiếng anh 8 phần “Postwriting” tôi cho học sinh làm việc theo nhóm diễn vở
kịch này: học sinh 1 đóng vai người kể chuyện, học sinh 2 đóng vai người
nông dân, học sinh 3 đóng vai con hổ mục đích để các em củng cố lại nội
dung đã viết về câu chuyện và luyện tập nói bằng 1 cách thú vị trải nghiệm
vào vai các nhận vật trong câu chuyện này. Khi học sinh diễn tập tại lớp, tôi
đi vòng quanh giúp đỡ các em, rồi mời 1 hoặc 2 nhóm diễn trước lớp. Tôi
quan sát học sinh đã thực hiện được gì và những gì chưa thực hiện được để
rút kinh nghiệm cho các tiết sau.
16
Đoạn kịch như sau:
Teller: One day as a farmer was in the field and his buffalo was grazing
nearby, a tiger appeared and asked the farmer:
Tiger: Why is the strong buffalo your servant and why are you its master?
Farmer: As I have something called wisdom
Tiger: Where is your wisdom?”
Farmer: I leave it at home today. Do you want to see it?
Tiger: Yes, I do
Farmer: Now I go home to get my wisdom, but I have to tie you to a tree
because I don’t want you to eat my buffalo. Do you agree?
Tiger: Ok.
Teller: The farmer tied the tiger to a tree with a rope. When he came
back, he brought some straw with him and burned the tiger. He said:
Farmer: Here is my wisdom. This is my wisdom.
Tiger: Ouch, Ouch. Let me go! Please let me go!
Teller: When the fire bunred through the rope, the tiger escaped but it
has black stripes from the burns today.
Ví dụ 3: Trong Unit 8: Places phần B2 Tiếng Anh 7 trang 80 sau khi
học sinh học xong đoạn hội thoại, tôi cho học sinh làm việc theo cặp đóng
vai 1 người là khách du lịch nước ngoài đến Đak Lak, 1 người đóng vai người
chỉ đường để hỏi đáp. Qua bài học này các em được trải nghiệm tình huống
thực tế hỏi đường và chỉ đường để vận dụng cho cuộc sống sau này
Tourist: Excuse me. Could you show me the way to Buon Don tourist
center, please?
Student: Buon Don tourist center? Ok. Go straight to the crossroads then
turn left. Go straight about 40 kilometers. It’s on your left.
Tourist: Thanks a lot.
Student: You’re welcome
Ví dụ 4: Trong bài Unit 4 tiếng anh 7 khi dạy unit B3 trang 48 sách
tiếng anh 7 phần “Postlistening”, tôi cho sắp xếp bàn ghế và để 1 số loại
sách, báo và tạp chí như trong bài học sinh vừa nghe vừa nghe, cho học sinh
làm việc cặp, học sinh 1 đến mượn sách báo, tạp chí, học sinh 2 đóng vai cô
thủ thư chỉ cách bày trí các loại sách báo, tạp chí
17
Hình 3: Picture B3 (PAGE47)
Model dialogue
Student: Good morning
Librarian: Good morning. Can I help you?
Student: Yes. Where can I find the English books, please?
Librarian: They’re on the racks behind the librarian’s desk.
Student: Where are the science and math books?
Librarian: They are on the shelf next to the study area
Student: Thank you very much
Librarian: You’re welcome
Như vậy chỉ sau tiết học học sinh đã được trải nghiệm giống như mình
đang ở trong thư viện, các em chỉ nghĩ mình đang diễn kịch thôi, không còn
nghĩ mình phải đang luyện tập nói, điều này thực sự giúp các em rất hứng thú
Ví dụ 5: Trong chương trình Tiếng Anh lớp 6, Unit 11: What do you
eat? Khi dạy phần A2 trang 116, để các em được trải nghiệm khi ở trong các
cửa hàng, tôi dặn học sinh mang theo một số vật thật lên như cam, chuối, táo,
dầu ăn, sôcôla, kem đánh răng, gạo…phần “Postteaching” tôi cho học sinh
đóng vai một người bán hàng một người mua hàng. Qua đây các em được
luyện tập tình huống mua bán hàng và cấu trúc hỏi số lượng
Model dialogue
18
Salegirl: Can I help you?
Shopper: Yes, I’d like some oranges, please.
Salegirl: How many do you want?
Shopper: A dozen, please
Salegirl: A dozen of oranges. Is there anything else?
Shopper: Yes, I need some rice.
Salegirl: How much do you want?
Shopper: A kilo, please.
Salegirl: Here you are.
Shopper: Thank you
4. Lồng ghép Video Clip tạo hứng thú trong tiết dạy Tiếng anh
4.1 Lồng ghép Video clip trong dạy phần “Warm up”:
Phần này tôi đưa một số video liên quan đến chủ đề bài học để cho các
em xem và đưa ra một số câu hỏi liên quan đến việc giới thiệu chủ đề bài
giúp các em hứng thú tìm hiểu bài, xem mình sắp học về cái gì.
Ví dụ 1: Trong unit 12 Tiếng Anh 6 trên trang 124, khi giới thiệu chủ
đề bài này tôi làm như sau:
+ Tạo ra 1 video clip bao gồm các hoạt động thể thao giải trí. Mục đích
là để tạo sự tập trung vào chủ đề “Sports and pastime” và tạo hứng thú
cho học sinh
+ Cho học sinh xem video và hỏi học sinh: What can you see in the video
clip?
+ Dẫn vào bài
Ví dụ 2: Trong unit 11 tiếng anh 7 trên trang 112, khi giới thiệu chủ
đề bài này tôi làm như sau:
+ Tạo ra 1 video clip về 1 người bị bệnh đang ho, hắt xì hơi. Mục đích
là tạo cho học sinh sự tò mò, hứng thú về chủ đề của bài học “The
common cold”
+ Cho học sinh xem video và hỏi học sinh: What illness does he catch?
Why do you know?
+ Dẫn vào bài
Ví dụ 3: Trong sách tiếng anh 8 Unit 14: Wonders of the world, để giới
thiệu chủ đề bài này tôi làm như sau:
19
+ Tạo ra 1 video clip về các kì quan thế giới. Mục đích là làm cho học
sinh tập trung chú ý vào chủ đề của bài học
+ Đưa ra 1 câu hỏi trước cho học sinh: What can you see in the video
clip?
+ Cho học sinh xem video clip về những kì quan nổi tiếng trên thế giới
+ Yêu cầu học sinh trả lời
+ Gv dẫn nhập vào bài
Ví dụ 4. Trong unit 13Lesson: Speak chương trình tiếng anh 8, để
vào bài phần Speak tôi làm như sau:
+ Tạo ra 1 video clip bao gồm các hoạt động mà mọi người thường
chuẩn bị cho Tết. Mục đích là làm cho học sinh chú ý vào chủ đề của
bài học
+ Đưa ra 1 câu hỏi trước cho học sinh: What are people doing in the
video clip?
+ Yêu cầu HS trả lời
+ Gv dẫn nhập vào bài
4.2 Vận dụng video clip dạy phần “Postteaching”.
Phần này tôi đưa các video clip mục đích để mở rộng, liên hệ thực tế,
giáo dục học sinh, củng cố bài học và khắc sâu bài học hơn
Ví dụ 1: Trong chương trình Tiếng Anh 6 khi dạy unit 16. Phần
B1 tôi lồng ghép video clip để dạy như sau:
+ Tạo ra một video clip về những hoạt động mà mọi người đang phá
hại môi trường như: Chặt phá rừng, vứt rác xuống sông, hồ, biển, các khí thải
từ nhà máy,… mục đích tôi dùng để tạo sự thu hút của các em trong phần nói
tự do, củng cố kiến thức bài học, khắc sâu bài học và liên hệ đến thực tế nơi
các em sinh sống
+ Cho học sinh xem video clip
+ Cho Hs làm việc theo nhóm nói lại những việc làm đó.
+ Giáo viên đi quanh lớp để giúp đỡ nếu học sinh nào gặp khó khăn khi
nói
+ Mời đại diện các nhóm lên trình bày.
Ví dụ 2: Trong sách Tiếng Anh 7 khi dạy Unit 15 phần A2 trên trang
148, tôi vận dụng video clip như sau:
+ Tạo ra một video clip về tác hại của “Games online”, mục đích tạo
hứng thú cho các em, giúp các em liên hệ thực tế và để giáo dục học sinh về
tác hại nghiêm trọng của “Game online”
20
+ Cho học sinh xem video clip
+ Cho học sinh làm việc theo nhóm nói về tác hại đó.
+ Giáo viên đi quanh lớp để giúp đỡ nếu học sinh nào gặp khó khăn khi
nói
+ Mời đại diện các nhóm lên trình bày.
Ví dụ 3: Trong sách Tiếng Anh 8 khi dạy Unit 6 phần write trên trang
59, tôi vận dụng video clip như sau:
+ Tạo ra một video clip về những hoạt động mà Đoàn thanh niên, Đội
thiếu niên thường làm để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, mục đích tạo củng
cố bài học, giúp liên hệ đến việc các em phải làm gì để bảo vệ môi trường
xung quanh các em và tạo cho các em thu hút hơn tới bài học
+ Cho học sinh xem video clip
+ Cho Hs làm việc theo nhóm nói lại những việc làm đó, liên hệ với
đoàn đội trong nhà trường có thường xuyên tổ chức các hoạt động bảo vệ
môi trường không.
+ Giáo viên đi quanh lớp để giúp đỡ nếu học sinh nào gặp khó khăn khi
nói
+ Mời đại diện các nhóm lên trình bày.
21
Hình 4: Một số hình ảnh lấy ra từ video clip
4.3 Vận dụng video trong các tiết dạy ngữ âm
Ngữ âm được coi là một trong những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ trên
thế giới. Nếu phát âm chính xác thì mọi kĩ năng như nghe, nói, đọc sẽ trở nên
dễ dàng hơn rất nhiều. Ngược lại, nếu phát âm sai hoặc không rõ ràng sẽ làm
cho người nghe hiểu nhầm hoặc thậm chí không hiểu ý của người nói. Tuy
nhiên đa số các tiết dạy ngữ âm học sinh không thích vì quá buồn tẻ, học sinh
gặp nhiều khó khăn khi phát âm và ghi nhớ các âm đã học vì thế tôi đã cố
gắng tìm tòi những video clip được phát âm bởi những người bản xứ trên
youtube hoặc một số đĩa chứa các âm mà mình cần dạy trong tiết học để giúp
các em tập trung hơn, hứng thú hơn vào bài học và học được cách phát âm
một cách chuẩn như có thể.
Video clip tôi thường dùng trong dạy ngữ âm trong các tiết “A closer
look 1” các lớp tiếng anh đề án 6,7,8
Ví dụ: Khi dạy Unit 4 trong sách tiếng anh 6 thí điểm, phần
“Pronunciation: /i:/ & /i/ trong tiết “A closer look 1”. Để giới thiệu 2 âm này,
tôi dùng video clip dạy các bước như sau:
+ Mở video làm mẫu 2 âm trên và yêu cầu học sinh chú ý vào hình
miệng, xác định âm nào dài hơn âm nào ngắn hơn, và nói cách đặt môi lưỡi
như thế nào
+ Giới thiệu cách phát âm 2 âm này
+ Mở video và cho học sinh nghe và lặp lại
+ Mở lại và yêu cầu học sinh đặt các âm vào đúng cột
+ Mở video đọc các từ và câu chứa các âm đó cho HS nghe và nhìn theo
khẩu hình miệng để phát âm theo cho chuẩn
+ Mở video clip đọc các câu chứa từ có âm đó cho HS chọn một trong 2
âm.
IV. TÍNH MỚI CỦA GIẢI PHÁP
22