Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
MỤC LỤC
Trang
PHẦN I – ĐẶT VẤN ĐỀ....................................................................................1
PHẦN II – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ...................................................................3
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ AN TOÀN GIAO THÔNG
1.1. An toàn giao thông..........................................................................................3
1.2. Tai nạn giao thông..........................................................................................3
1.3. Văn hóa giao thông.........................................................................................3
1.4. Một số điều luật an toàn giao thông đường bộ............................................4
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ AN TOÀN GIAO THÔNG....................................6
2.1.Thực trạng về ý thức người tham gia giao thông ........................................6
2.2.Thực trạng học sinh tham gia giao thông.......................................................7
2.3. Nguyên nhân học sinh vi phạm an toàn giao thông......................................10
3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO Ý THỨC THAM GIA GIAO THÔNG
CỦA HỌC SINH QUA MỘT SỐ BÀI HỌC VẬT LÝ LỚP 10.........................12
3.1. Những nguyên tắc cơ bản khi tham gia giao thông liên quan đến
kiến thức Vật lý ..................................................................................................12
3.2. Giải pháp nâng cao ý thức của học sinh khi tham gia giao thông
qua một số bài học Vật lý trong chương trình lớp 10.........................................13
3.3. Câu hỏi kiểm tra đánh giá kiến thức và các mức độ nhận thức của học sinh
khi học xong các nội dung nêu ra trong đề tài.....................................................13
4. 4. TIẾN HÀNH THỰC NGHIỆM ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
4.1. Mục đích và nhiệm vụ thực nghiệm............................................................34
4.2. Phương pháp thực nghiệm...........................................................................34
4.3. Tiến hành thực nghiệm.................................................................................34
4.4. Kết quả thực nghiệm....................................................................................35
4.5. Hiệu quả của sang kiến kinh nghiệm..........................................................37
PHẦN III – KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......................................................38
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài.
Tai nạn giao thông là vấn đề nhức nhối đang được xã hội quan tâm và trở
thành hiểm họa đối với bất kì ai khi tham gia giao thông. Trên thực tế tai nạn
giao thông đang diễn ra từng ngày, từng giờ và có thể cướp đi mạng sống của
con người bất kì lúc nào. Mỗi ngày trôi qua có hơn 30 người chết và bị thương
vì tai nạn giao thông. Đáng buồn hơn khi không ít những nạn nhân của tai nạn
giao thông là học sinh.
Làm thế nào để giảm thiểu tai nạn giao thông nói chung và nâng cao ý thức
tham giao giao thông của học sinh nói riêng là vấn đề đang được các cấp, các
ngành đặc biệt quan tâm. Trong đó, việc giáo dục nâng cao ý thức tham gia giao
thông của học sinh trung học phổ thông từ 15 đến 18 tuổi là nhiệm vụ quan
trọng của ngành giáo dục, của nhà trường và của các thầy cô giáo hằng ngày
giảng dạy các em... Học sinh THPT là những người chưa đến tuổi trưởng thành,
đây là lứa tuổi rất cần được gieo vào ý thức tham gia giao thông an toàn để khi
lớn lên, các em sẽ trở thành những người tham gia giao thông có văn hóa. Tuy
nhiên, những gì các em được học ở trường lại chỉ nặng về lý thuyết, chưa có
nhiều hoạt động thực hành cụ thể, chính vì vậy các em chưa có nhận thức sâu
sắc, cũng như ý thức bắt buộc mình phải tuân thủ luật lệ giao thông. Để các em
học sinh, và lớn hơn là thế hệ trẻ có được ý thức, văn hóa giao thông và tham
gia giao thông có trách nhiệm, chúng ta không thể chỉ xây dựng ý thức giao thông
cho các em nhờ vào những bài giảng lý thuyết. Việc giáo viên cần làm là tăng sự
hứng thú trong các giờ học về an toàn giao thông và lồng ghép các nội dung về
an toàn giao thông trong các tiết học, các bài học, môn học có liên quan trong
chương trình giáo dục THPT. Từ đó, kích thích học sinh có ý thức hơn trong
việc tiếp nhận kiến thức. Giáo viên cần được trang bị cả kiến thức chuyên môn
và kiến thức về an toàn giao thông khi giảng dạy cho học sinh. Một trong những
việc làm quan trọng của giáo viên khi giảng dạy là lồng ghép các nội dung bài
học vào tình huống thực tế liên quan đến an toàn giao thông và nâng cao ý thức
tham gia giao thông cho học sinh.
Với chương trình dạy học vật lý, giáo viên có rất nhiều cơ hội để thực hiện
điều đó. Vì vậy trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi nghiên cứu đề tài với nội
dung: “Nâng cao ý thức tham gia giao thông cho học sinh qua một số bài học
trong chương trình vật lý lớp 10”. Để xây dựng một xã hội có văn hóa giao
thông, chúng ta phải có những hành động thiết thực, phải đổi mới cách dạy vừa
thực tế, vừa có chiều sâu và gắn liền kiến thức bài học vào thực tiễn. Được
như vậy, chắc chắn nâng cao được ý thức tham gia giao thông của học sinh
nhằm hạn chế được các vụ tai nạn giao thông xảy ra đối với học sinh nói riêng
và đối với tất cả mọi người tham gia giao thông nói chung.
Trang 1
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
2. Mục đính nghiên cứu
Nghiên cứu và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao ý thức của học sinh khi
tham gia giao thông qua một số bài học vật lý trong chương trình lớp 10.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về an toàn giao thông. Thực trạng viêc
tham gia giao thông của học sinh hiện nay
Đề xuất giải pháp nâng cao ý thức tham gia giao thông của học sinh qua việc
dạy học một số bài vật lý trong chương trình lớp 10
Tiến hành thự nghiệm để đánh giá kết quả nghiên cứu và rút ra kết luận
4. Đối tượng nghiên cứu
Cơ sở lý luận về an toàn giao thông, một số điều luật về giao thông đường bộ
Hoạt động dạy và học của giáo viên ở trường THPT
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
Phương pháp thống kê toán học để đánh giá kết quả thực nghiệm
6. Giới hạn đề tài.
Do thời gian và năng lực còn hạn chế, tôi chỉ đề xuất nghiên cứu một số bài
trong chương trình vật lý lớp 10. Lồng ghép các nội dung giáo dục an toàn giao
thông cho họ sinh trong khi giảng dạy và liên hệ thực tế về những vụ tai nạn
giao thông xảy ra. Hơn nữa, đề tài chỉ nằm trong khuôn khổ một sang kiến kinh
nghiệm nên việc thực nghiệm sư phạm chưa được tiến hành rộng rãi để đánh
giá chính xác hơn kết quả nghiên cứu.
Trang 2
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
PHẦN II – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ AN TOÀN GIAO THÔNG
1.1. An toàn giao thông.
An toàn giao thông là tuân thủ theo các quy định của luật giao thông, là sự
bình an khi tham gia giao thông. An toàn giao thông đường bộ đề cập đến các
cách thức, biện pháp được để ngăn chặn người tham gia giao thông đường bộ bị
chết hoặc bị thương. Những người tham gia giao thông đường bộ bao gồm:
người đi bộ, người đi xe đạp, người lái các loại xe máy khác nhau, hành khách
trên các phương tiện công cộng.
1.2. Tai nạn giao thông.
Tai nạn giao thông là sự việc bất ngờ, xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của
con người, khi các đối tượng tham gia giao thông đang hoạt động trên đường
giao thông công cộng nhưng chủ quan vi phạm các quy tắc an toàn giao thông
hoặc gặp phải tình huống, sự cố không kịp phòng tránh đã gây ra thiệt hại nhất
định về người và tài sản cho xã hội.
1.3. Văn hóa giao thông.
Theo Uỷ ban an toàn giao thông quốc gia: “ Văn hoá giao thông được biểu
hiện bằng hành vi xử sự đúng pháp luật, theo các chuẩn mực của xã hội về lẽ
phải, cái đẹp, cái thiện của người tham gia giao thông. Xây dựng văn hoá giao
thông nhằm tạo nên thói quen cư xử có văn hoá, đúng pháp luật; coi việc tự giác
tuân thủ pháp luật về đảm bảo trật tự an toàn giao thông như một chuẩn mực
đạo đức truyền thống và là biểu hiện văn minh hiện đại của con người khi
tham gia giao thông”. Cũng theo Uỷ ban an toàn giao thông quốc gia, trong văn
hoá giao thông có ba tiêu chí: một là, về nhận thức và hành động, hiểu biết đầy
đủ và tự giác chấp hành đúng các quy định của pháp luật về đảm bảo trật tự an
toàn giao thông; hai là, có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng, tôn trọng,
nhường nhịn và giúp đỡ người khác; ba là, có thái độ ứng xử văn minh lịch sự
khi xảy ra va chạm giao thông và tinh thần thượng tôn pháp luật.
Theo báo Văn hoá: “Văn hoá giao thông là tự giác chấp hành trật tự an toàn
giao thông, ngăn chặn các hành vi gây nguy hiểm cho người tham gia giao thông,
tôn trọng, nhường nhịn người khác, tận tình giúp đỡ người tham gia giao thông
gặp hoạn nạn, giúp đỡ người tàn tật, trẻ em, người cao tuổi để hướng tới một
xã hội giao thông an toàn, thân thiện”.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu: Văn hoá giao thông là văn hoá của người
trực tiếp tham gia giao thông và văn hoá của các thành viên khác trong xã hội có
tác động, ảnh hưởng đến quá trình hình thành văn hoá giao thông như: Nhà làm
luật giao thông; cơ quan quy hoạch giao thông; cảnh sát giao thông; thanh tra
Trang 3
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
giao thông; ban quản lý các khu công nghiệp, khu đô thị, khu chế xuất; ban quản
lý các chợ, các công trình xây dựng; người phụ trách và nhân viên ở các trung
tâm đào tạo, sát hạch, cấp bằng lái xe, trung tâm đăng kiểm phương tiện...
Trong những yếu tố trên đây thì người trực tiếp tham gia giao thông đóng một
vai trò quan trọng tạo nên văn hoá giao thông. Văn hoá của người trực tiếp tham
gia giao thông được biểu hiện cụ thể như: phải hiểu biết đầy đủ và nghiêm
chỉnh chấp hành luật lệ giao thông; phải có tính cộng đồng khi tham gia giao
thông, khi lưu thông trên đường phải biết không chỉ vì lợi ích bản thân mình mà
còn phải đảm bảo an toàn cho những người khác, gặp trường hợp người bị nạn
cần giúp đỡ phải chia sẻ kịp thời; phải cư xử có văn hoá khi lưu thông trên
đường như tham gia giao thông từ tốn, bình tĩnh, ưu tiên cho người già, trẻ nhỏ,
biết xin lỗi, cảm ơn khi có va quệt... Văn hoá giao thông phải được nhìn nhận từ
hai phía, đó là người tham gia giao thông và các lực lượng chức năng quản lý
giao thông trong đó quan trọng nhất là người trực tiếp tham gia giao thông.
1.4. Một số điều luật ATGT đường bộ số 23/2008/QH12
Điều 9. Quy tắc chung
Nguời tham gia giao thông phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng
làn đường, phần đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo giao thông.
Điều 10. Hệ thống báo hiệu đường bộ
1. Hệ thống báo hiệu đường bộ gồm hiệu lệnh của nguời điều khiển giao
thông; tín hiệu đèn giao thông, biển báo hiệu, vạch kẻ đường, cọc tiêu hoặc
tường bảo vệ, rào chắn.
2. Tín hiệu đèn giao thông có ba màu, quy định nhu sau:
a. Tín hiệu xanh là được đi;
b. Tín hiệu đỏ là cấm đi;
c.Tín hiệu vàng là phải dừng lại truớc vạch dừng, trừ trường hợp đã đi
quá vạch dừng thì được đi tiếp; trong trường hợp tín hiệu vàng nhấp nháy
là được đi nhưng phải giảm tốc độ, chú ý quan sát, nhường đường cho
người đi bộ qua đường.
3. Biển báo hiệu đường bộ gồm 5 nhóm, quy định như sau:
a. Biển báo cấm để biểu thị các điều cấm;
b. Biển báo nguy hiểm để cảnh báo các tình huống nguy hiểm có thể xảy
ra;
c. Biển hiệu lệnh để báo các hiệu lệnh phải thi hành;
d. Biển chỉ dẫn để chỉ dẫn huớng đi hoặc các điều cần biết;
Trang 4
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
e. Biển phụ để thuyết minh bổ sung các loại biển báo cấm, biển báo nguy
hiểm, biển hiệu lệnh và biển chỉ dẫn.
4. Vạch kẻ đường là vạch chỉ sự phân chia làn đường, vị trí hoặc hướng đi, vị trí
dừng lại.
Điều 24. Nhường đường tại nơi đường giao nhau
Khi đến gần đường giao nhau, người điều khiển phương tiện phải cho xe giảm
tốc độ và nhường đường theo quy định sau đây:
1. Tại nơi đường giao nhau không có báo hiệu đi theo vòng xuyến, phải nhường
đường cho xe đi đến từ bên phải;
2. Tại nơi đường giao nhau có báo hiệu đi theo vòng xuyến, phải nhường đường
cho xe đi bên trái;
3. Tại nơi đường giao nhau giữa đường không ưu tiên và đường ưu tiên hoặc
giữa đường nhánh và đường chính thì xe đi từ đường không ưu tiên hoặc đường
nhánh phải nhường đường cho xe đi trên đương ưu tiên hoặc đường chính từ
bất kỳ hướng nào tới.
Điều 30. Người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy
1. Người điều khiển xe mô tô hai bánh, xe gắn máy chỉ được chở một nguời, trừ
những trường hợp sau thì được chở tối đa hai người:
a. Chở người bệnh đi cấp cứu;
b. Áp giải người có hành vi vi phạm pháp luật;
c. Trẻ em dưới 14 tuổi.
2. Người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe
gắn máy phải đội mũ bảo hiểm có cài quai đúng quy cách.
3. Nguời điều khiển xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy không
được thực hiện các hành vi sau đây:
a. Đi xe dàn hàng ngang;
b. Đi xe vào phần đường dành cho người đi bộ và phương tiện khác;
c. Sử dụng ô, điện thoại di động, thiết bị âm thanh, trừ thiết bị trợ thính;
d. Sử dụng xe để kéo, đẩy xe khác, vật khác, mang, vác và chở vật cồng
kềnh;
đ. Buông cả hai tay hoặc đi xe bằng một bánh đối với xe hai bánh, bằng hai
bánh đối với xe ba bánh;
e. Hành vi khác gây mất trật tự, an toàn giao thông.
Trang 5
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
4. Người ngồi trên xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy khi tham gia
giao thông không được thực hiện các hành vi sau đây:
a. Mang, vác vật cồng kềnh;
b. Sử dụng ô;
c. Bám, kéo hoặc đẩy các phương tiện khác;
d. Đứng trên yên, giá đèo hàng hoặc ngồi trên tay lái;
đ. Hành vi khác gây mất trật tự, an toàn giao thông.
Điều 31. Người điều khiển, nguời ngồi trên xe đạp, người điều khiển xe
thô sơ
1. Nguời điều khiển xe đạp chỉ được chở một nguời, trừ truờng hợp chở thêm
một trẻ em dưới 7 tuổi thì được chở tối đa hai người. Người điều khiển xe đạp
phải thực hiện quy định tại khoản 3 điều 30 của Luật này; người ngồi trên xe
đạp khi tham gia giao thông phải thực hiện quy định tại khoản 4 điều 30 của
Luật này.
2. Người điều khiển, nguời ngồi trên xe đạp máy phải đội mũ bảo hiểm có cài
quai đúng quy cách.
3. Nguời điều khiển xe thô sơ khác phải cho xe đi hàng một, nơi có phần đường
dành cho xe thô sơ thì phải đi đúng phần đường quy định; khi đi ban đêm phải có
báo hiệu ở phía truớc và phía sau xe. Nguời điều khiển xe súc vật kéo phải có
biện pháp bảo đảm vệ sinh trên đường.
4. Hàng hóa xếp trên xe thô sơ phải bảo đảm an toàn, không gây cản trở giao
thông và che khuất tầm nhìn của người điều khiển.
Điều 32. Người đi bộ
1. Người đi bộ phải đi trên hè phố, lề đường; trường hợp đường không có hè
phố, lề đường thì người đi bộ phải đi sát mép đường.
2. Người đi bộ chỉ được qua đường ở những nơi có đèn tín hiệu, có vạch kẻ
đường hoặc có cầu vượt, hầm dành cho nguời đi bộ và phải tuân thủ tín hiệu
chỉ dẫn.
3. Trường hợp không có đèn tín hiệu, không có vạch kẻ đường, cầu vuợt, hầm
dành cho người đi bộ thì người đi bộ phải quan sát các xe đang đi tới, chỉ qua
đường khi bảo đảm an toàn và chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn khi qua
đường.
4. Người đi bộ không được vuợt qua dải phân cách, không được bám vào
phương tiện giao thông đang chạy; khi mang vác vật cồng kềnh phải bảo đảm
Trang 6
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
an toàn và không gây trở ngại cho nguời và phương tiện tham gia giao thông
đường bộ.
5. Trẻ em duới 7 tuổi khi đi qua đường đô thị, đường thường xuyên có xe cơ
giới qua lại phải có nguời lớn dắt; mọi người có trách nhiệm giúp đỡ trẻ em
duới 7 tuổi khi đi qua đường.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ AN TOÀN GIAO THÔNG
2.1. Thực trạng về ý thức người tham giao giao thông
Việc tham gia giao thông của người Việt Nam có nhiều vấn đề cần suy
nghĩ. Bên cạnh những người tham gia giao thông có ý thức tốt, có văn hoá, thực
hiện nghiêm chỉnh luật giao thông là một bộ phận không nhỏ những người dân,
người tham gia giao thông có ý thức kém, thậm chí đáng báo động. Mặt khác, tai
nạn giao thông gây nên những tác động tâm lý cả trước mắt cũng như về lâu dài
đối với mọi người, nó để lại những di chứng về tâm lý hết sức nặng nề cho
người bị tai nạn và người thân của họ, gây nên hiện tượng bất an cho những
người xung quanh.
Theo dõi việc tham gia giao thông của người dân, nhất là ở những đô thị lớn
như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh...chúng ta rất dễ nhận ra những hành vi thiếu ý
thức, kém văn hoá khi tham gia giao thông như: không có giấy phép lái xe vẫn sử
dụng xe máy; không thắt dây an toàn khi đi xe ôtô; dừng xe, đỗ xe, quay đầu xe
không đúng quy định; đi xe buýt không nhường ghế cho người già, trẻ nhỏ, phụ
nữ có thai, người tàn tật; phóng nhanh; vượt ẩu; đi vào đường ngược chiều;
uống rượu, bia trước khi điều khiển phương tiện cơ giới; không có tín hiệu xin
đường khi chuyển làn chuyển hướng; không đi đúng phần đường của loại
phương tiện điều khiển; đi xe quá tốc độ cho phép; vượt đèn đỏ; lạng lách;
không đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ bảo hiểm mang tính chất đối phó; kẹp ba,
kẹp bốn trên xe máy; vừa điều khiển phương tiện giao thông vừa nghe điện
thoại, nghe nhạc; làm xiếc khi đi xe máy như đi xe máy một bánh; rú còi inh ỏi;
đua xe trái phép; vượt qua đường sắt khi tàu sắp tới, hành hung cảnh sát giao
thông khi bị dừng xe vì vi phạm luật giao thông...Chỉ một va chạm nhỏ trên
đường phố, thay vì xin lỗi, cảm ơn thì người ta quay ra cãi lộn, đánh đấm nhau
thậm chí rượt đuổi đâm chém, bắn nhau dẫn đến tử vong…
Ở Việt Nam hiện còn tồn tại rất nhiều hành vi gây cản trở giao thông như:
Mang vật liệu cồng kềnh quá giới hạn cho phép, gây cản trở tầm nhìn và tầm
hoạt động cho các phương tiện khác; đi bộ sai đường không đúng vạch quy
định; tụ tập đông người dưới lòng đường, trên vỉa hè, trước cổng trường học,
Trang 7
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
bệnh viện, nhà hát...Đặc biệt nguy hiểm là hành vi tự mở đường ngang dân sinh
qua đường sắt.
2.2. Thực trạng về ý thức học sinh khi tham gia giao thông
Giờ tan học, tại cổng trường, nhiều học sinh đi xe đạp điện không đội mũ
bảo hiểm; một số học sinh đi hàng 2, hàng 3, khiến nhiều người điều khiển xe
máy, ô tô phải giảm tốc độ, thậm chí dừng lại nhường đường. Tuy nhà trường
đã nghiêm cấm học sinh đi xe máy, nhưng một số em vẫn đi và gửi xe ở các bãi
xe tư nhân gần trường, số lượng xe máy gửi tương đối nhiều. Dù nhà trường đã
phối hợp với lực lượng xung kích của Đoàn giữ trật tự giao thông trước cổng
trường, vẫn có khá nhiều học sinh “tụm năm, tụm ba” trước cổng trường gây
ách tắc giao thông. Giờ tan học, hàng chục học sinh “đầu trần” đi xe máy điện,
xe đạp điện phóng từ khu vực cổng trường ra. Thậm chí có học sinh, đội mũ
bảo hiểm đi xe đạp điện từ trong sân trường ra khỏi cổng đã tháo ngay mũ ra
khỏi đầu. Sau đó, các học sinh này tụ tập rất đông tại cổng trường để “buôn
dưa lê” rất lâu mới về, gây cản trở giao thông tại khu vực này.
Việc cấm học sinh đi xe máy đã có trong nội quy của nhà trường, từ phụ
huynh đến học sinh đều biết nhưng để kiểm soát triệt để việc này rất khó. Học
sinh đi xe máy gửi ở các nhà dân và bãi gửi xe bên ngoài với nhiều lý do khác
nhau. Ban giám hiệu đã làm việc với chính quyền địa phương để nhắc nhở, vận
động các điểm giữ xe không giữ xe cho các em, nhưng chỉ được một thời gian
rồi đâu lại vào đó. Một số phụ huynh được nhà trường nhắc nhở việc cho con
em mình đi xe máy thì nêu lý do nhà xa, công việc bận rộn không đưa đón được
nên mới làm vậy…
Hình ảnh: Học sinh đi xe máy điện chở 3, sang đường vượt ẩu
Trang 8
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
Từ đầu năm học, Sở Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản chỉ đạo, hướng
dẫn các đơn vị, trường học trong toàn ngành giáo dục thực hiện tốt công tác
đảm bảo trật tự an toàn giao thông trong và ngoài trường học. Học sinh các
trường khi bước vào năm học mới đều phải ký cam kết chấp hành nghiêm túc
Luật Giao thông đường bộ. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng
với nhà trường, gia đình chưa chặt chẽ, nên việc quản lý học sinh tham gia giao
thông vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn. Trách nhiệm các trường chỉ là
tuyên truyền, giáo dục, nhắc nhở chứ không có quyền xử phạt. Chỉ những
trường hợp học sinh đi xe máy vào trường hay vi phạm Luật Giao thông đường
bộ, bị Cảnh sát giao thông gửi thông báo về trường thì lúc đó nhà trường mới có
thể đưa ra hình thức xử lý.
Đề cập tới ý thức tham gia giao thông của học sinh thì vấn đề giáo dục cần
được nhắc đến. Có quá nhiều áp lực không đáng có đang đè nặng tâm lí của học
sinh. Đó là thành tích, là điểm số; những điều đó khiến cho từ việc nhỏ nhất là
đọc thuộc nội quy nhà trường để thực hiện và điều chỉnh hành vi ứng xử của
học sinh cũng được thực hiện một cách hình thức. Chừng nào việc dạy để học
sinh nên người, giáo dục rèn luyện các kỹ năng cần thiết cho học sinh còn chưa
được chú trọng bằng việc dạy để học sinh thi đạt điểm cao, thi đỗ vào các
trường Đại học, Cao đẳng… thì việc tuyên truyền về an toàn giao thông ở nhà
trường chưa thể tác động gì nhiều tới hệ tư duy cũng như phẩm chất đạo đức
của học sinh "những chủ nhân tương lai của đất nước".
Ngoài mặt ý thức, học sinh còn thường xuyên có các hành vi vi phạm về an
toàn giao thông như: điều khiển xe phân khối lớn khi tham gia giao thông, không
đội mũ bảo hiểm, chở quá số người quy định, phóng nhanh, vượt ẩu, đi hàng
ngang...Chính vì vậy, số vụ tai nạn giao thông trong độ tuổi học sinh là con số
không hề nhỏ, khiến dư luận xã hội lo ngại.
Trang 9
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
Hình ảnh: Học sinh đi xe máy phân khối lớn chở 3, không đội MBH tham gia giao
thông
Còn trước các cổng Trường Tiểu học và THCS, vào giờ tan học thường
xuyên diễn ra cảnh nhốn nháo, mất trật tự, ùn tắc giao thông. Một phần là do
phụ huynh đến đón con đứng chật cả cổng trường lẫn đường đi. Một phần khi
đến giờ tan học, các em học sinh thường xuyên tụ tập trước cổng trường mua
quà vặt, vui đùa, bất chấp cả dòng phương tiện đang ùn ứ, càng làm cho khung
cảnh cổng trường giờ tan học như ong vỡ tổ và ẩn chứa nhiều nguy cơ tai nạn
giao thông.
Hình ảnh: Phụ huynh đón con gây mất an toàn giao thông trước cổng trường
Trên đường, người đi đường dễ dàng bắt gặp các học sinh mặc đồng phục
sử dụng phương tiện xe đạp, xe đạp điện chở quá số người quy định, dàn hàng
ngang, đánh võng, lạng lách, học sinh cầm ô khi đi xe đạp điện, xe máy điện lao
vun vút.
Trang 10
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
Tình trạng vi phạm an toàn giao thông của học sinh diễn biến phức tạp
phần lớn là do phụ huynh chưa quan tâm nhắc nhỡ, công tác giáo dục của nhà
trường còn gặp phải một số khó khăn. Đồng thời, việc xử lý các hành vi vi
phạm an toàn giao thông của học sinh, chưa đủ sức răn đe. Vì vậy, vấn đề đặt
ra là làm thế nào để nâng cao hiệu quả sự phối hợp của gia đình, nhà trường để
giáo dục an toàn giao thông cho học sinh.
Hình ảnh: Học sinh dàn hàng ngang và cầm ô khi tham gia giao thông
2.3. Nguyên nhân học sinh vi phạm an toàn giao thông.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm an toàn giao thông phần lớn do
các em chưa nhận thức đầy đủ về Luật giao thông đường bộ. Không chấp hành
đúng luật đã quy định. Các bài học về an toàn giao thông ở trường chưa nhiều,
chưa có sự đồng bộ giữa các bộ môn. Các em chưa chú trọng đến việc tìm hiểu
và thực hiện nghiêm túc luật giao thông đường bộ. Nhiều môn học chưa lồng
ghép các nội dung giáo dục về an toàn toàn giao thông cho học sinh. Các nguyên
tắc cơ bản khi tham gia giao thông chưa được học sinh chú ý, học sinh chưa liên
hệ được kiến thức môn học với thực tế. Học sinh chưa ý thức được việc tham
gia giao thông an toàn là bảo vệ bản thân mình và bảo vệ cho người khác. Đa số
các em còn suy nghĩ chủ quan về những hành vi vi phạm an toàn giao thông của
bản thân mình. Những vụ tai nạn giao thông diễn ra hằng ngày không liên quan
đến mình. Một bộ phận không nhỏ học sinh thiếu ý thức, thiếu trách nhiệm khi
tham gia giao thông… Mặt khác, do hằng ngày các em thấy cha mẹ, anh chị,
những người xung quanh chưa thực sự làm gương cho con em trong việc chấp
hành luật an toàn giao thông. Chúng ta có thể liệt kê một số nguyên nhân học
sinh vi phạm an toàn giao thông như sau:
Trang 11
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
+ Thái độ, ý thức của học sinh khi tham gia giao thông chưa cao, chưa tự
giác chấp hành luật giao thông đường bộ. Chưa nhận thức được những hành vi
sai trái của mình, dẫn đến những hành vi khi tham gia giao thông chưa đảm bảo
an toàn.
+ Học sinh chưa được học tập đầy đủ về luật giao thông đường bộ ở
trường ở lớp, chưa nắm vững các quy định đảm bảo an toàn giao thông.
+ Học sinh còn xem thường các hành vi vi phạm về an toàn giao thông như:
đi xe lạng lách, đánh võng trên đường; đi xe máy khi chưa có bằng lái; vượt đèn
đỏ; đi sai phần đường; dừng đỗ không đúng quy định, khi rẽ ngang hoặc dừng
lại không quan sát cẩn thận và không có tín hiệu báo cho người sau biết; đeo tai
nghe nghe nhạc khi điều khiển xe; Đi hàng hai, hàng ba, chở quá số người quy
định, sử dụng điện thoại, cầm ô khi điều khiển xe; phóng nhanh, vượt ẩu…
+ Một số học sinh còn vui chơi dưới lòng đường nơi các phương tiện đang
tham gia giao thông; vui chơi gần đường sắt có tàu chạy qua.
+ Học sinh chưa nhận thức được trách nhiệm với bản thân và với cộng
đồng; chưa biết tôn trọng, nhường nhịn và giúp đỡ người khác khi tham gia giao
thông.
+ Các hoạt động xây dựng mô hình văn hoá giao thông như: “Đội thanh niên
tình nguyện”, “Đội thanh niên xung kích đảm bảo an toàn giao thông”, “Cổng
trường an toàn giao thông”, “Chương trình phát thanh học đường về an toàn giao
thông”...Các hoạt động khác như Hội diễn văn hoá văn nghệ; hội thi về an toàn
giao thông chưa được tổ chức nhiều ở các trường THPT.
+ Học sinh chưa mạnh dạn đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, với
những hành vi vi phạm trật tự an toàn giao thông diễn ra hằng ngày mà trong số
đó không ít người học sinh.
Nguyên nhân hàng đầu của các vụ tai nạn giao thông của học sinh phổ
thông được chỉ ra là do đi sai phần đường, vi phạm tốc độ và thiếu quan sát, dàn
hang ngang, chở quá số người quy định... Trong khi đó, việc xử lý học sinh vi
phạm quy định an toàn giao thông lại không đơn giản, hầu hết các trường hợp
sai phạm mới chỉ dừng lại ở việc nhắc nhở, hoặc nếu có thông báo từ công an
gửi về trường thì nặng nhất cũng chỉ bị hạ một bậc hạnh kiểm. Hơn nữa, học
sinh có hành vi sai phạm khi bị lực lượng chức năng phát hiện thường tìm cách
trốn tránh, dễ gây nguy hiểm cho những người cùng tham gia giao thông. Thậm
chí, khi bị bắt lỗi, chính các bậc phụ huynh lại gây khó dễ cho lực lượng chức
năng, khiến công tác xử lý học sinh vi phạm giao thông không đạt hiệu
quả. Trong tất cả các nguyên nhân trên thì ý thức khi tham gia giao thông của
học sinh là vấn đề đáng báo động
Trang 12
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
3. NÂNG CAO Ý THỨC THAM GIA GIAO THÔNG CHO HỌC SINH QUA
MỘT SỐ BÀI HỌC TRONG CHƯƠNG TRÌNH VẬT LÝ LỚP 10
3.1. Những nguyên tắc cơ bản khi tham gia giao thông liên quan đến Vật lý.
Khi tham gia giao thông trên đường, học sinh phải chú ý một số nguyên tắc cơ
bản có liên quan đến kiến thức vật lý như sau:
Khi đi xe đạp điện, xe máy điện và xe máy dưới 50 phân khối, tốc độ tương
đối lớn (khoảng 40km/h) nên khi tăng tốc độ hoặc giảm tốc độ đều có một gia
tốc nhất định cần có thời gian để tăng tốc hoặc giảm tốc độ. Quảng đường khi
tăng tốc và giảm tốc phụ thuộc vào khối lượng người ngồi trên xe, vận tốc ban
đầu, công suất của xe, lực cản ma sát của mặt đường…Khối lượng trên xe càng
lớn thì càng khó tăng tốc hoặc giảm tốc độ.
Khi hai xe chạy cùng chiều thì vận tốc của xe này đối với xe kia giảm đi so
với vận tốc của mỗi xe, còn khi hai xe chạy ngược chiều thì vận tốc này được
tăng lên, bằng tổng độ lớn vận tốc của mỗi xe.
Khi chạy xe tốc độ càng lớn thì tầm quan sát phía trước càng hạn chế và khả
năng xử lý tình huống càng khó khăn, dễ gây tai nạn.
Khi các phương tiện giao thông chuyển động trên đường luôn có xu hướng bảo
toàn vận tốc của nó. Đó là do quán tính, khối lượng lớn thì mức quán tính lớn.
Xe nào có khối lượng càng lớn thì bảo toàn vận tốc càng lâu, nghĩa là muốn
giảm vận tốc để dừng lại thì thời gian dài hơn, quảng đường đi được xa hơn.
Khi đứng gần đường sắt mà có tàu chạy qua thì chúng ta bị hút về phía đường
sắt, có thể bị tai nạn, do áp suất phía ngoài lớn hơn áp suất phía đường ray có
tàu chạy qua (Định luật Becnuly). Điều này cũng xảy ra khi chúng ta đứng gần
đường giao thông mà có xe ô tô lớn chạy qua.
Khi đi xe dưới trời mưa thì các hạt mưa luôn rơi xiên từ phía trước vào mặt
chúng ta theo công thức cộng vận tốc, nhưng tuyệt đối không được cầm ô, dù
hướng về phía trước để tránh mưa vì một phần làm khuất tầm nhìn, một phần
làm cản trở khả năng điều khiển xe, dễ gây tai nạn cho bản thân và cho người
khác.
Khi trời mưa, đường trơn, ma sát giữa bánh xe và mặt đường giảm xuống,
đồng thời hạn chế tầm nhìn, nếu đi tốc độ cao rất dễ gây tai nạn. Khả năng
phanh để xe dừng lại cũng hạn chế hơn, quảng đường xe đi được đến khi dừng
lại xa hơn.
Khi chuyển động đến đường cua, đường vòng xe rất dễ bị ngã hoặc bi văng ra
khỏi đường. Tốc độ xe càng lớn, bán kính khúc cua càng nhỏ thì xe càng dễ bị
ngã văng ra khỏi đường gây tai nạn. Khi xe đi qua cầu vượt vồng lên, áp lực của
Trang 13
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
xe lên mặt đường giảm, xe không bám chắc vào mặt đường như bình thường
nên khó điều khiển xe hơn.
Khi tham gia giao thông, xe nào có trọng tâm càng cao, chiều rộng xe càng nhỏ
càng dễ bị lật (cân bằng của vật có mặt chân đế và mức vững vàng của cân
bằng). Các xe Container thường có khối lượng lớn chở hàng hóa nặng nên trọng
tâm càng cao, khi tránh chướng ngại vật lái xe đánh tay lái đột ngột nên xe rất
dễ bị lật. Vì vậy khi tham gia giao thông không nên đi gần các xe Container.
Với các phương tiện giao thông, khi chuyển động với vận tốc v nào đó thì luôn
có năng lượng là động năng. Động năng phụ thuộc vào khối lượng và bình
phương vận tốc. Khối lượng càng lớn thì động năng càng lớn, vận tốc tăng lên
gấp đôi thì động năng tăng lên bốn lần. Xe có năng lượng lớn khi gây tai nạn
càng nghiệm trọng. Vì vậy xe nào có khối lượng lớn, chạy với tốc độ nhanh thì
khi tai nạn xảy ra càng nghiêm trọng, gây thiệt hại càng lớn.
Khi va chạm giữa hai xe xảy ra, lực tương tác giữa hai xe bằng nhau. Nhưng
xe nào có khối lượng lớn thì thu được gia tốc nhỏ, xe nào khối lượng nhỏ thì thu
gia tốc lớn. Vì vậy, phần lớn các xe khối lượng nhỏ thường bị thiệt hại nặng
nề hơn so với xe khối lượng lớn (Ví dụ: Ô tô va chạm xe máy; Xe con va chạm
xe tải…)
3.2. Giải pháp nâng cao ý thức tham gia giao thông của học sinh qua một
số bài học vật lý trong chương trình lớp 10.
Trong quá trình dạy học, một trong những biện pháp đổi mới nội dung,
phương pháp dạy học là lồng ghép các nội dung giáo dục, nâng cao ý thức tham
gia giao thông cho học sinh thông qua các môn học, qua các bài học cụ thể. Liên
hệ kiến thức đã học với thực tiễn cuộc sống. Từ những bài học trên lớp, các em
liên hệ với thực tế, với những vụ tai nạn giao thông, biết được nguyên nhân, dự
đoán được hậu quả xảy ra để có biện pháp phòng ngừa. Trong đó, bộ môn Vật
lý lớp 10 có rất nhiều nội dung về chuyển động, về va chạm, về năng lượng…
liên quan đến an toàn giao thông. Đồng thời từ những bài học đó, xây dựng các
bài tập Vật lý về an toàn giao thông, khi giải các em sẽ hiểu được nguyên nhân
của việc tham gia giao thông mất an toàn, nguyên nhân các vụ tai nạn xảy ra...
Từ đó, các em sẽ thay đổi nhận thức và nâng cao hiểu biết về việc tham gia giao
thông an toàn, giảm thiểu các tai nạn xảy ra đối với bản thân và những người
xung quanh.
Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu một số bài học vật lý lớp 10 liên quan đến nội
dung giáo dục, nâng cao ý thứ tham gia giao thông cho học sinh.
Bài 3: Chuyển động thẳng biến đổi đều.
1. Mục tiêu
Trang 14
Sỏngkinkinhnghimnmhc2018ư2019Giỏoviờn:BựiVnC
ư Nêu đợc đặc điểm của vectơ gia tốc trong chuyển động thẳng nhanh
dần đều, trong chuyển động thẳng chậm dần đều.
ưBitcỏchlpcụngthcvtớnhccỏcilngtrongcụngthcca
chuynngbiniu.
ưVndngccỏccụngthcgiatc,vntc,qungng,cụngthcliờn
hgiibitoỏnchuynngcacỏcphngtingiaothụng.
v=v0+at;s = v0t +
1 2
at
2
; v2v02=2as
ưLiờnhcvithctvchuynngchmdnucacỏcphngtin
giaothụng.Tớnhcvntc,qungngcaxetlỳchómphanhnkhi
dngli.
2.Liờnhthctvgiaothụng.
Davotớnhchtcachuynngchmdnu,qungngvti
c,kthpvicỏcyutkhỏcviukincaxe,tớnhchtmtng
ngitacúthxỏcnhcvntccaụtụtithiimphanhlbaonhiờu.
T úcúth khngnhụtụcúvtquỏgiihnchophộp v tc hay
khụng.Cụngvicnythnggpkhixlýcỏcvtainngiaothụngngb.
Mcdự,khiphanhb phnphanhhómócúhiulcnhngdoquỏntớnh
lmchophngtinvnby,trttrờnngtonờnnhngvttrt,vt
phanh.Vttrt,vtphanhdihayngn,ph thucvo:tc;trnglng
caxe;phnx vk thutcangiiukhinxe;chtlngphanh;tớnh
cht mt ng ( dc, nghiờng mt ng, ng nha, ng ỏ,
ngkhụhayt).
Vớd1: Mtxedulch40ch ngi,chyvitc 60km/hkhiphỏthin
chngngivtpphanhnkhidnghndinranhsau:
Giaionnhnthccatix(0,2giõy):3,33m.
Giaionphnxcatix(0,6giõy):9,99m.
Sauthigianphanhlmvic(0,2giõy):3,33m.
Vtphanhtheocụngthc:30,87m.
Tngcngtlỳcnhnthcphanhnkhixedngl:47,52m.
Nhvynungiiukhinphngtinphỏthinchngngivt
clyxahn49,52m(quóngngphanh47,52m+khongcỏchanton2m)
tainnskhụngxyra.Nhngtrnghpchngngivtcphỏthin
trongkhongcỏchdi47,52mthỡtainncúthxyra.
Vớd2:XeContainercnquóngngbaonhiờuphanhdngli?
Thụngthng,nhngchicxeukộocúkhilngrtln(k c khi
chykhụngti)nờnkhi tc caochỳngthngmtmtquóngngkhỏ
Trang 15
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
lớn để có thể dừng lại hoàn toàn, do quán tính lớn. Theo tính toán dựa trên các
số liệu của xe Container, trên mặt đường khô ráo, nếu xe chạy ở tốc độ 60 km/h
thì cần 81 m để phanh dừng, trong khi xe con chỉ mất 32 m. Còn ở tốc độ 100
km/h, quãng đường với xe Container phanh dừng tăng lên là 185 m, của xe con
khi đó là 76 m.
3. Bài tập vận dụng về giao thông.
Ví dụ 1: Một người đi xe máy đang chạy với tốc độ 54 km/h thì thấy một
chướng ngại vật trước mặt cách 20m không thể tránh. Người ấy phanh gấp với
lực cản tối đa để bánh xe trượt trên mặt đường và xe dừng lại khi vừa chạm
vào chướng ngại vật.
a. Tính gia tốc của xe và thời gian từ lúc phanh đến khi dừng lại
b. Nếu người ấy chạy với tốc độ 72 km/h và cũng phanh như lúc đầu liệu
có an toàn không? Vì sao?
Hướng dẫn: v0 = 54km/h = 15m/s
a. Khi hãm phanh để xe dừng lại khi vừa chạm vào chướng ngại vật:
2
2
2
v = 0 khi s = 20m. Gia tốc của xe là: a = v − v0 = 0 − 15 = −5,6 (m/s2)
2s
2.20
b. Với gia tốc a = 5,6(m/s2) và v0 = 72 km/h = 20 (m/s)
2
2
2
thì quảng đường xe đi được đến khi dừng lại là: s = v − v0 = 0 − 20 = 35,7
2a
2.( −5,6)
(m)
Khi đó quảng xe máy đi lớn hơn khoảng cách đến chướng ngài vật nên xe máy
sẽ húc vào chướng ngại vật có thể gây tai nạn.
Ví dụ 2: Một bạn học sinh đi xe máy điện với vận tốc 36 km/h sau xe tải 10m
(cùng làn đường). Vì có chướng ngại vật phía trước, xe tải đột ngột phanh dừng
lại, khi đó bạn học sinh bị bất ngờ đã giảm ga và phanh tối đa để chuyển động
chậm dần đều nhưng vẫn đâm vào xe tải với vận tốc 18 km/h và bị tai nạn.
a. Tính gia tốc của xe máy điện khi phanh tối đa.
b. Với vận tốc như trên thì khoảng cách an toàn khi đi sau xe tải là bao nhiêu?
Hướng dẫn: v0 = 36km/h = 10m/s
a. Khi hãm phanh để xe máy điện va chạm với xe tải cách s = 10m.
Vận tốc khi va chạm là: v = 18km/h =5m/s
2
2
2
2
Gia tốc của xe máy điện là: a = v − v0 = 5 − 10 = −3,75 (m/s2)
2s
2.10
b. Với gia tốc a = 3,75(m/s ) và v0= 10 (m/s)
2
Trang 16
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
2
2
2
thì quảng đường xe đi được đến khi dừng lại là: s = v − v0 = 0 − 10 = 13,3
2a
2.( −3,75)
(m)
Để không xảy ra tai nạn thì khi xe máy điện dừng cũng phải cách ít nhất 3m đối
với xe tải và từ lúc phát hiện xe tải dừng đột ngột đến khi hãm phanh cũng mất
khoảng 5m. Do đó khoảng cách an toàn khi đi sau xe tải là 20m (đối với xe đi sau
có vận tốc 10m/s)
Trong thực tế, người ta đưa ra nguyên tắc để đảm bảo an toàn khi đi sau
xe khác là nguyên tắc “2 giây”. Nghĩa là, nếu chạy với vận tốc 10m/s thì khoảng
cách an toàn là 20m, nếu vận tốc là 15m/s thì khoảng cách an toàn là 30m, nếu
đi với vận tốc 20m/s thì khoảng cách an toàn là 40m…
Ví dụ 3: Một xe Container khối lượng 30 tấn đang chuyển động với vận tốc 72
km/h thì hãm phanh chuyển động chậm dần đều bằng lực hãm tối đa Fh = 6.104
N.
a. Tính vận tốc từ lúc hãm phanh đến khi xe đi được 50m.
b. Nếu gặp đèn đỏ, muốn xe dừng lại đúng quy định thì phải hãm phanh
cách vị trí dừng bao xa
c. Tại sao khi tham gia giao thông, chúng ta cần phải đi cách xa các xe
Container.
Hướng dẫn: v0 = 72km/h = 20m/s; m = 30 tấn = 3.104(kg)
a. Khi hãm phanhbằng lực Fh = 6.104N.
Gia tốc của xe container là : a =
−Fh −6.104
=
= −2 (m/s2)
4
m
3.10
b. Với gia tốc a = 2(m/s2) và v0= 20 (m/s)
2
2
2
thì quảng đường xe đi được đến khi dừng lại là: s = v − v0 = 0 − 20 = 100 (m)
2a
2.(−2)
Vậy muốn xe dừng lại đúng quy định phải hãm phanh từ lúc cách vị trí dừng
100m.
c. Khi tham gia giao thông chúng ta phải đi cách xa các xe Container vì khi gặp
sự cố xe rất khó dừng lại nên dễ gây tai nạn. Mặt khác xe Container chở hàng
nặng, trọng tâm của xe nâng lên cao nên rất dễ mất cân bằng. Nếu tài xé đánh
lái đột ngột thùng Container dễ bị lật xuống đường do không được cài chắc
chắc vào xe, thậm chí khi cài chắc chắc rồi có thể lật cả xe, gây rat a nạn rất
nghiêm trọng.
Ví dụ 4: Một ô tô chạy trên đường thẳng với vận tốc không đổi là 30 m/s vượt
quá tốc độ cho phép và bị cảnh sát giao thông phát hiện. Chỉ sau 1s khi ô tô đi
Trang 17
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
ngang qua 1 cảnh sát phóng xe chuyên dụng đuổi theo với gia tốc không đổi 3
m/s2
a. Sau bao lâu cảnh sát đuổi kịp ô tô.
b. Quãng đường anh đi được là bao nhiêu?
Hướng dẫn: Chọn hệ quy chiếu gắn với quảng đường, gốc tọa độ tại vi trí
Cảnh sát giao thông đứng, gốc thời gian lúc xe ô tô chạy qua, chiều dương cùng
chiều chuyển động.
a. Phương trình chuyển động của ô tô là: x1 = 30t
Phương trình chuyển động của xe cảnh sát là:
1
1
x2 = a(t − 1)2 = .3(t − 1)2 = 1,5t 2 − 3t + 1,5
2
2
Khi cảnh sát đuổi kịp ô tô: x1 = x2 => 30t = 1,5t2 3t + 1,5 => t = 21,9(s)
Vậy chỉ sau 21,9 giây thì xe cảnh sát đã đuổi kịp ô tô.
b. Quảng đường mà 2 xe đã đi được là: s1 = s2 = 30.21,9 = 657,6 (m)
Bài 6: Tính tương đối của chuyển động. Công thức cộng vận tốc
1. Mục tiêu
r
r
r
Viết được công thức cộng vận tốc: v1,3 = v1,2 + v2,3 .
Biết cách áp dụng được công thức cộng vận tốc trong các trường hợp:
+ Vận tốc tương đối cùng phương, cùng chiều với vận tốc kéo theo.
+ Vận tốc tương đối cùng phương, ngược chiều với vận tốc kéo theo.
Giải được bài tập về công thức cộng vận tốc liên quan trong thự tế.
Giải thích được các hiện tượng thực tế liên quan đến công thức cộng vận tốc.
2. Liên hệ thực tế về giao thông
Khi học về tính tương đối của chuyển động, chúng ta hiểu đúng quy luật
chuyển động của các phương tiện giao thông. Ví dụ như khi đang đi cùng chiều
với các phương tiện khác, chúng ta hình như thấy mình đi chậm lại muốn tăng
tốc thêm để vượt qua. Nếu điều kiện không an toàn, hoặc xe cùng chiều phía
trước đột ngột dừng lại thì tai nạn có thể xảy ra.
3. Bài tập vận dụng về giao thông
Ví dụ 1: Ô tô A đang chuyển động với vận tốc 60 km/h. Ô tô B đang chuyển
động với vận tốc 50 km/h.
a. Tính vận tốc của ô tô A so với ô tô B trong 2 trường hợp:
Hai xe chuyển động cùng chiều
Trang 18
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
Hai xe chuyển động ngược chiều
b. Nếu xảy ra va chạm giữa hai xe thì trường hợp nào tai nạn nghiêm trọng
hơn (cùng chiều hay ngược chiều). Tại sao?
r
r
r
Hướng dẫn: a. Áp dụng công thức cộng vận tốc: v1,3 = v1,2 + v2,3
+Khi hai xe chạy cùng chiều: Độ lớn: v1,3 = v1,2 − v2,3 = 60 – 50 = 10(km/h)
+Khi hai xe chạy ngược chiều: Độ lớn: v1,3 = v1,2 + v2,3 = 60 + 50 = 110(km/h)
b. Nếu xảy ra va chạm giữa hai xe thì khi chạy ngược chiều tai nạn sẽ nghiêm
trọng hơn, vì vận tốc tương đối lớn hơn nên động năng lớn hơn nhiều lần,
Năng lượng càng lớn thì hậu quả tai nạn càng nặng nề.
Ví dụ 2: Khi đi xe trong trời mưa ta thường có cảm giác giọt mưa rơi nghiêng
(hắt vào mặt ta) ngay cả khi trời lặng gió.
a. Hãy giải thích vì sao như vậy.
b. Để tránh bị mưa tạt vào người, các bạn học sinh thường cầm ô che mưa
khi đi xe và hướng ô về phía trước, điều đó có an toàn không? Vì sao?
r
v3,2
Hướng dẫn:
r
r
r
a. Theo công thức cộng vận tốc: v1,3 = v1,2 + v2,3
r
Trong đó: v1,3 : là vận tốc của mưa đối với người đi xe
r
r
v
v1,3r
r
v1,2 : là vận tốc của mưa đối với mặt đất (Hình vẽ)
v2,3 1,2
r
v2,3 : là vận tốc của mặt đất so với người đi xe (ngược lại với vận tốc của
xe)
r
Dễ dàng nhận thấy vận tốc v1,3 xiên góc α so với phương thẳng đứng. Vì vậy ta
thấy giọt mưa luôn rơi xiên góc hắt vào mặt người đi xe.
b. Để tránh mưa tạt vào người, chúng ta cầm ô che mưa hướng về phía trước
xiên góc α như trên là đúng. Tuy nhiên, khi đi xe làm như thế rất nguy hiểm, vừa
che khuất tầm nhìn, vừa gây cản trở trong quá trình điều khiển xe. Nếu gặp gió
lớn có thể làm chúng ta bị ngã gây tai nạn. Vì vậy tuyệt đối không được sử dụng
ô khi đi xe đạp, xe máy điện để đảm bảo an toàn cho bản thân và cho những
người khác khi tham gia giao thông.
Ví dụ 3: : Khi ôtô đang chuyển động với vận tốc 10m/s thì người ngồi trong xe
thấy các giọt nước rơi xuống tạo thành những vạch làm với phương thẳng đứng
một góc α = 300. Tính vận tốc rơi xuống của các giọt mưa. Giả thiết rằng khi
r
tới gần mặt đất, giọt nước mưa chuyển động thẳng đứng và đều đối với đv
ấ3
t.,2
Hướng dẫn:
r
r
r
Theo công thức cộng vận tốc: v1,3 = v1,2 + v2,3
α
r
v1,3r r
v2,3v
Trang
1,2 19
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
r
Trong đó: v1,3 : là vận tốc của mưa đối với người đi xe
r
v1,2 : là vận tốc của mưa đối với mặt đất ((Hình vẽ)
r
v2,3 : là vận tốc của mặt đất so với người đi xe (ngược lại với vận tốc của
xe)
Theo bài ra có: Độ lớn: v2,3 = 10 m/s, góc nghiêng α = 300.
v2,3
tan α = v
1,2
=> v1,2 =
v2,3
10
=
= 10 3 (m/s)
tan α tan300
Bài 10: Ba định luật Niu Tơn
1. Mục tiêu
Phát biểu được các định luật Niutơn.
Nêu được quán tính của vật là gì và kể được một số ví dụ về quán tính. Nêu
được khối lượng là số đo mức quán tính.
Nêu được mối quan hệ giữa lực, khối lượng và gia tốc được thể hiện trong
định luật II Niutơn.
Vận dụng được các định luật I, II, III Niutơn để giải được các bài toán đối
với một vật hoặc hệ hai vật chuyển động.
Biết cách tính gia tốc và các đại lượng trong công thức của các định luật Niu
tơn để viết phương trình chuyển động cho vật hoặc hệ vật.
Vận dụng được mối quan hệ giữa khối lượng và mức quán tính của vật để
giải thích một số hiện tượng thường gặp trong đời sống liên quan đến giao
thông.
2. Liên hệ thực tế về giao thông.
Ba định luật Niu tơn là các định luật cơ bản chi phối chuyển động của các
vật. Mọi tính toàn về chuyển động trong khi tham gia giao thông đều sử dụng
các định luật Niu Tơn. Đặc điểm chuyển động của các xe khi tham gia giao
thông phụ thuộc vào khối lượng, vận tốc, lực kéo động cơ, lực ma sát với mặt
đường…Lực có ảnh hưởng đến tính chất của chuyển động, là nguyên nhân làm
biến đổi chuyển động của các xe.
Xu hướng giữ nguyên trạng thái chuyển động của vật được phát biểu lần
đầu bởi Galileo và được Newton tổng kết lại trong định luật I Newton (còn
được gọi là định luật quán tính). Mọi vật đều có xu hướng bảo toàn vận tốc cả
hướng và độ lớn.
+ Nếu vật đang đứng yên thì có xu hướng giữ nguyên trạng thái đứng yên
Trang 20
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
+ Nếu vật đang chuyển động thì có xu hướng giữ nguyên trạng thái chuyển
động thẳng đều.
+ Khi không có ngoại lực dụng vào vật hoặc các ngoại lực có hợp lực bằng
0 thì vật giữ nguyên trạng thái chuyển động. Đây chính là chuyển động theo
quán tính.
Quán tính là một xu hướng của một vật thể giữ nguyên chuyển động của nó
khi có bất cứ vật gì chống lại chuyển động này. Hay nói cách khác, quán tính là
sự chống lại của vật thể đối với sự thay đổi tốc độ và hướng chuyển động.
Mọi vật đều muốn giữ chuyển động của chúng một cách tự nhiên.
Nếu một chiếc ô tô có tốc độ 50 km/giờ, quán tính sẽ luôn muốn giữ chúng
chuyển động ở 50 km/giờ ở hướng đó. Bất cứ vật gì ở trên chiếc xe, bao gồm
cả người lái và hành khách đều có quán tính riêng, theo quán tính của chiếc xe.
Chiếc xe làm tăng vận tốc của người lái theo tốc độ của nó. Hãy tưởng tượng
rằng chúng ta đang lao đi với vận tốc đều đều 50 km/h. Tốc độ của chúng ta và
tốc độ chiếc xe gần như bằng nhau, vì vậy ta cảm thấy mình và chiếc xe đang
di chuyển như một khối duy nhất.
3. Câu hỏi và bài tập định tính về an toàn giao thông
1. Tại sao khi hành khách ngồi trên ô tô đang chuyển động, nếu ô tô chuyển
động sang trái thì người trong xe sẽ nghiêng sang bên phải và ngược lại?
Vì khi xe đang chạy thẳng cả người và xe có vận tốc hướng thẳng, khi xe
chuyển động sang trái, người vẫn còn bảo toàn vận tốc thẳng sẽ tiếp tục
chuyển động trong khi xe đã rẽ sang trái nên người ngã vào bên phải của xe.
Tương tự như vậy cho trường hợp xe rã sang bên phải.
2. Trong tai nạn giao thông, một ô tô tải đâm vào một ô tô con đang chạy
ngược chiều. Ô tô nào chịu lực lớn hơn? Ô tô nào nhận được gia tốc lớn hơn?
Hãy giải thích?
Ô tô tải khối lượng m1 va chạm với ô tô con khối lượng m2
Hai ô tô chịu lực F như nhau theo định luật 3 N ewton. Nhưng mỗi xe lại thu
được gia tốc khác nhau: F = m 1.a1 = m2.a2 vì m1 > m2 => a2 > a1 hay ô tô con
nhận được gia tốc lớn hơn (dễ bi hư hỏng nhiều hơn, tai nạn cũng nguy hiểm
hơn)
4. Tại sao khi đi xe máy điện, xe máy nếu dùng phanh trước đột ngột thì có
thể bị ngã xe, gây tai nạn?
Vì sử dụng phanh trước đột ngột và bóp quá mạnh khiến bánh trước hoàn toàn
bị bó cứng, đầu xe trượt trên đường và mất hoàn toàn khả năng điều khiển xe,
làm cho xe bị ngã, gây tai nạn
Trang 21
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
5. Tại sao tàu hỏa không thể dừng lại ngay khi gặp chướng ngại vật?
Tàu hỏa không giống phương tiện giao thông đường bộ muốn dừng là dừng
được ngay, mà cần có thời gian nhất định. Với tàu khách chạy 80km/h muốn
dừng hẳn, khi hãm phanh gấp trên đoạn đường dài 400m mới dừng hẳn; tàu chở
hàng nặng cũng phải 500 – 600m. Vơi nh
́ ưng tr
̃
ương h
̀ ợp phat hiên vât can qua
́ ̣
̣
̉
́
gân, lai tau cung se không phanh khân câp đ
̀ ́ ̀ ̃
̃
̉
́ ược bởi co thê lam lât
́ ̉ ̀ ̣ tàu hoăc trât
̣
̣
bánh các toa tàu khỏi đường ray anh h
̉
ưởng tơi hang trăm hanh khach trên tau.
́ ̀
̀
́
̀
6. Tại sao khi đi ô tô phải thắt dây an toàn?
Dây an toàn giữ chặt chúng ta không bị bay về trước và đập vào kính chắn gió
hoặc va đập vào bảng đồng hồ khi chiếc xe đột ngột dừng lại do tai nạn.
Theo tính toán, nếu người ngồi trên xe không thắt dây an toàn thì việc va
đập vào kính chắn gió, vô lăng, ghế phía trước... với vận tốc và lực rất mạnh.
Đây là lý do nhiều người bay về phía trước khi xe gặp tai nạn. Với những va
chạm này, nguy cơ bị chấn thương nghiêm trọng hoặc tử vong là rất lớn. Nếu
thắt dây đai an toàn đúng quy cách, các dây đai sẽ truyền phần lớn lực dừng
thông qua các phần trên cơ thể, như: khung xương chậu, xương sườn, vai. Lực
này tác động vào nhiều điểm trên cơ thể nên không gây nhiều tổn thương và sẽ
giảm được phần lớn tác hại.
7. Tại sao khi xe bị tai nạn, người ngồi trong xe sẽ lao v ề phía trước. Tốc
độ càng cao, trọng lượng càng lớn thì lực va càng mạnh?
Dựa trên định luật Newton và định luật bảo toàn năng lượng, khi xảy ra va
chạm, theo quán tính xe dừng lại thì người ngồi trên xe vẫn lao về phía trước.
Với công thức F = ma, trong đó a là gia tốc, m là khối lượng người, nếu người
có khối lượng m = 50 kg thì khi hai xe chạy ngược chiều với vận tốc tương
đương là v= 50 km/h, thời gian va chạm là 0,1 giây thì lực va đập khoảng 15000
N (tương đương 1,5 tấn). Còn va chạm xảy ra trong 1/100 giây thì lực tác động
tương đương 15 tấn đè lên người, bằng rơi từ tòa nhà cao 45m xuống đất.
Tương tự tốc độ càng cao, số người trên xe càng nhiều thì động năng càng
lớn và lực va chạm càng mạnh. Khi ôtô di chuyển ở tốc độ 50 km/h và phanh
gấp thì lực quán tính sẽ đẩy người ngồi trên xe về phía trước với tốc độ tương
tự. Khi đó đầu sẽ lao về trước tốc độ mạnh nhất (khoảng 40 km/h).
Bài 13: Lực ma sát
1. Mục tiêu
Viết được công thức xác định lực ma sát trượt: Fmst = µt N
Vận dụng được công thức tính lực ma sát trượt để giải được các bài tập.
Trang 22
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
Biết tính lực ma sát trượt và các đại lượng trong công thức tính lực ma sát.
Nêu được đặc điểm của các loại lực ma sát: ảnh hưởng của ma sát đến
chuyển động của cá vật.
1. Lực ma sát nghỉ có một giá trị cực đại của nó và tỷ lệ với phản lực vuông góc
N
(Fmsn) max = µng.N trong đó μng là hệ số ma sát nghỉ.
2. Lực ma sát trượt có đặc điểm sau:
+ Xuất hiện tại bề mặt tiếp xúc khi hai vật trượt tương đối với nhau.
+ Có phương song song với bề mặt tiếp xúc và hướng cản trở chuyển động.
+ Có độ lớn tỷ lệ với phản lực vuông góc
Fmst = µ.N với μ là hệ số ma sát trượt.
3. Lực ma sát trượt, lực ma sát lăn cũng tỷ lệ với phản lực vuông góc
Fmsl = µl.N
Tuy nhiên, hệ số ma sát lăn nhỏ hơn nhiều so với hệ so ma sát trượt.
4. Lực cản môi trường là một dạng của lực ma sát.
Lực cản môi trường xuất hiện khi một vật chuyển động trong một môi
trường nhớt (lỏng hoặc khí). Tuy nhiên, khác với lực ma sát, lực cản môi trường
phụ thuộc mạnh vào vận tốc. Với vận tốc nhỏ, lực cản môi trường tỷ lệ với
vận tốc, khi vận tốc lớn, lực cản môi trường tỷ lệ với bình phương vận tốc.
2. Liên hệ thực tế với giao thông
Lực ma sát luôn xuất hiện trong sự chuyển động tương đối của các vật với
nhau. Có nhiều trường hợp ma sát là có hại nhưng cũng không ít trường hợp ma
sát là có lợi. Chẳng hạn ma sát làm mòn lốp xe, ma sát làm mòn các trục máy, ổ
bi khi chuyển động…Nhưng nếu không có ma sát nghỉ chúng ta lại không cầm
nắm được các vật, các chi tiết máy sẽ không được lắp ghép, liên kết với nhau
và đặc biệt ma sát nghỉ còn đóng vai trò là lực phát động làm cho các phương
tiện giao thông chuyển động được trên mặt đường. Ví dụ khi ô tô chuyển động
lăn bánh trên mặt đường có ma sát nghỉ tác dụng lực vào bánh xe làm bánh xe
tiến về phía trước, nhưng ma sát lăn làm cản trở chuyển động và làm mòn lớp
xe và ổ trục. Khi xe phanh, bánh xe không lăn mà chỉ trượt trên mặt đường thì
ma sát trượt giúp xe dừng lại…
3. Câu hỏi thực tế và bài tập liên quan đến giao thông.
Câu hỏi: Các lốp xe ảnh hưởng đến sự an toàn giao thông đến mức nào khi
chúng ta lái xe trên xa lộ? Yếu tố nào ngăn cho xe khỏi bị trượt và cho phép
Trang 23
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 20182019 Giáo viên: Bùi Văn Cơ
chúng ta kiểm soát được xe khi cua xe hay dừng lại? Ma sát làm được gì ở
đây?
Bề mặt lốp xe đóng vai trò chủ yếu trong việc tạo ma sát hay chống trượt.
Trong điều kiện khô ráo, một lốp xe nhẵn sẽ tạo lực đẩy lớn hơn bởi vì diện
tích tiếp xúc lớn hơn sẽ làm tăng lực ma sát. Vì vậy, lốp xe dùng cho xe đua
trên các đường đua có bề mặt nhẵn không có khía.
Bài tập: Một xe ôtô đang chạy trên đường lát bêtông với vận tốc v0 = 100 km/h
thì hãm phanh để dừng lại. Cho g = 10 m/s2. Hãy tính quãng đường ngắn nhất
mà ôtô có thể đi cho tới lúc dừng lại trong hai trường hợp :
a. Đường khô, hệ số ma sát trượt giữa lốp xe với mặt đường là µ = 0,7.
b. Trời mưa, đường trơn, hệ số ma sát giảm còn lại là µ =0,4.
Hướng dẫn: Biểu diễn và phân tích các lực:
hoặc
Chọn gốc toạ độ tại vị trí xe có v0 = 100 km/h 27,8 m/s.
Mốc thời gian tại lúc bắt đầu hãm xe.
Theo định luật II Niutơn và công thức tính Fms ta có: a =
− Fms −µmg
=
= −µg
m
m
a. Khi đường khô µ = 0,7 => a = 0,7.10 = 7(m/s2)
2
2
2
Quãng đường xe đi được là: v2 – v02 = 2as = > s = v − v0 = 0 − 27,8 =55,2 (m)
2a
2(−7)
b. Khi đường ướt µ = 0,4 => a = 0,4.10 = 4(m/s2).
2
2
2
Quãng đường xe đi được là: s = v − v0 = 0 − 27,8 = 96,6(m).
2a
2(−4)
Trang 24