Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm: Một vài biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 3 trong giờ Tập đọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.97 KB, 22 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI MỞ ĐẦU:

Giáo dục bậc tiểu học là một khoa học giáo dục khó nhất. Nó là nền  
móng đầu tiên để  giúp con người tồn tại và phát triển. Đặc biệt là môn 
Tiếng Việt có vị trí quan trọng trong tất cả các phân môn ở trường, nó hình 
thành khả năng giao tiếp, là cơ sở  để  phát triển tư  duy cho trẻ để  tiếp thu  
và học tốt các môn học khác.
Tiếng Việt ở tiểu học gồm nhiều phân môn: Tập đọc ­ Học thuộc lòng, 
Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập làm văn, Chính tả, Tập viết,… Mỗi phân  
môn đều có một chức năng. Tiếng Việt là môn học không thể  thiếu được 
đối với học sinh tiểu học, là môn công cụ, là chìa khóa, là phương tiện để 
học sinh tiếp nhận tri thức của loài người. Nó là môn học mang  tính chất  
tổng hợp vì ngoài nhiệm vụ  dạy học, môn Tiếng Việt còn có nhiệm vụ 
trau dồi kiến thức về  Tiếng Việt cho học sinh (về  phát âm, từ  ngữ, câu 
văn…) kiến thức bước đầu về  văn học, đời sống giáo dục tình cảm thẩm  
mỹ. Phân môn Tập đọc ở tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng đặt ra một  
nhiệm vụ quan trọng. Trong các giờ  tập đọc học thuộc lòng, học sinh biết  
đọc diễn cảm bài văn, bài thơ đã tạo cho các em hứng thú say mê và để lại 
một vốn văn học đáng kể cho các em. Mặt khác, nó còn có tác dụng mạnh 
mẽ  trong giáo dục mỹ  cảm, giúp các em hiểu được cái đúng, cái đẹp, cái 
tinh tế  của nghệ  thuật ngôn từ. Học đọc, các em đồng thời học cách nói,  
cách viết một cách chính xác, trong sáng, có nghệ  thuật, góp phần không 
nhỏ vào việc rèn luyện cách suy nghĩ, diễn đạt cho cả lớp người chủ tương 
lai của xã hội. Dạy tập đọc không những rèn kỹ năng đọc mà còn phát triển  
ở  các em vốn từ  ngữ  Tiếng Việt phong phú. Từ  đó các em học tất cả  các  
môn học khác bởi: Đọc đúng mới  viết đúng, mới  hiểu đúng và làm đúng…

1



Và phân môn Tập đọc không chỉ có nhiệm vụ trên mà còn kết hợp chặt 
chẽ với chương trình Tiếng Việt. Qua các bài văn chọn lọc, học sinh cảm  
thụ cái hay, cái đẹp, biết được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn 
gàng sinh động, học tập được cách viết các thể loại văn bản.
Ở bậc tiểu học nói chung, lớp 3 nói riêng, phân môn Tập đọc có hai yêu 
cầu chính đó là:
­ Rèn kỹ năng đọc.
­ Giúp học sinh cảm thụ tốt bài văn.
Học phân môn Tập đọc, việc đọc và cảm thụ  là hai khâu có quan hệ 
mật thiết với nhau, gắn bó hỗ trợ đắc lực cho nhau. Cảm thụ tốt giúp cho 
việc đọc hay được tốt. Ngược lại việc đọc hay giúp cho việc cảm thụ bài  
văn thêm sâu sắc.
Vậy để giúp học sinh đọc đúng, đọc hay, hiểu và cảm thụ được bài văn,  
bài thơ thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học theo  
định hướng mới đó là “Mọi học sinh đều phải tích cực tham gia vào hoạt  
động học tập”.
Trong quá trình dạy Tập đọc lớp 3, tôi thấy chất lượng đọc của học 
sinh còn yếu. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, xã hội ngày càng phát triển 
thì nhu cầu đòi hỏi tri thức con người ngày càng cao. Trong đó, ngôn ngữ 
nói và viết là rất cần thiết cho mỗi người. Mỗi thành công không phải tự 
nhiên có được, mà phải trải qua một quá trình rèn luyện kiên trì ngay từ 
đầu. Để góp phần nâng cao chất lượng đọc cho học sinh, tôi đi sâu nghiên 
cứu:
“Một vài biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 3 trong giờ Tập đọc”, 
hy vọng phần nào có thể đáp ứng được yêu cầu trên.
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC RÈN ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 3: 

1­ Thực trạng:

2



     Qua thực tế việc dạy tập đọc cho học sinh nói chung và học sinh khối 
lớp 3 nói riêng, trong những năm vừa qua, tôi nhận thấy khi đọc bài tập đọc  
các em còn có nhiều vướng mắc trong khâu đọc, chất lượng tương đối  
nhưng   chưa đồng đều. Nhìn chung các em đều ham học hỏi, có động cơ 
và ý thức học tốt nhưng mới dừng lại  ở  những học sinh khá giỏi, còn 
những học sinh trung bình và đặc biệt đối với học sinh yếu, các em chưa có 
ý thức luyện đọc, do vậy kỹ  năng đọc hay của học sinh còn yếu. Vấn đề 
dạy học phân môn Tập đọc hiện nay rất được chú trọng. Do đó, có nhiều  
chuyên đề, phương pháp đặt ra nhằm đưa chất lượng đọc của các em nâng 
lên. Song có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan đã làm ảnh hưởng nhiều 
đến việc dạy đọc như:
    + Về giáo viên:
    Giáo viên đã chú trọng phương pháp dạy học mới:  “Thầy thiết kế, trò thi  
công”, lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên cố gắng tìm tòi nghiên cứu để 
giảng dạy phân môn Tập đọc nhưng chất lượng chưa cao. Bởi vì giáo viên  
chỉ coi trọng một vấn đề  đọc to, rõ hoặc có hướng dẫn đọc hay nhưng chỉ 
lướt qua, ít sử  dụng đồ  dùng dạy học để  giới thiệu bài tạo hứng thú cho  
học sinh. Một số giáo viên còn lúng túng khi dạy tập đọc: Cần đọc bài Tập 
đọc này với giọng như  thế nào, làm thế  nào để  chữa lỗi phát âm cho học  
sinh, làm thế nào để các em đọc nhanh hơn, đọc hay hơn.
    + Về học sinh:
     Liên tục trong hai năm (năm học: 2009 ­ 2010 ; 2010 ­ 2011), tôi được 
phân công chủ nhiệm và trực tiếp giảng dạy lớp 3 ­ Trường tiểu học Hưng  
Lộc I. Qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu khảo sát chất lượng của phân 
môn Tập đọc lớp 3, bản thân tôi nhận thấy: Học sinh đã biết đọc thành  
tiếng bài văn, bài thơ, đã để  ý và đọc tương đối đúng các phụ  âm khó. 
Nhưng đọc hiểu nắm nội dung bài còn gặp nhiều khó khăn, do vậy nên khó 


3


khăn trong việc nêu được ý chính của bài, chưa có kỹ năng đọc hay toàn bài 
văn. Khi đọc, gặp các dấu phẩy, dấu chấm còn ngừng nghỉ như nhau, chưa 
đọc đúng giọng câu hỏi, câu cảm. Chưa có thói quen chuẩn bị  bài  ở  nhà 
trước khi đến lớp. Về khả năng ngôn ngữ của học sinh còn yếu, tư duy của  
các em chưa cao. Các em phát âm theo phương ngữ, thường phát âm lẫn các  
phụ âm đầu, vần, thanh, cụ thể là: 
  + Các lỗi phụ âm đầu: ch /tr, l/n,…
Ví dụ: “ Trong trẻo” thì đọc là “ chong chẻo
“long lanh” thì đọc là “nong nanh”
  + Các lỗi về vần:
Ví dụ: “ cuốn sổ” thì đọc là: “cuống sổ” 
  + Các lỗi về thanh: các em còn đọc nhầm lẫn giữa thanh ngã và thanh hỏi.
Ví dụ: “ nghĩ ngợi” thì đọc là “ nghỉ ngợi”
2­ Kết quả thực trạng:
       Ngay từ  đầu năm học (năm học: 2010 – 2011), sau quá trình tìm hiểu  
thực tế  tôi tiến hành điều tra kết quả  học tập của học sinh lớp 3A do tôi 
chủ  nhiệm, tôi nhận thấy: Đa số  các em mới chỉ  dừng lại  ở  việc đọc to 
nhưng mức độ  đọc lưu loát còn một số  em vẫn chưa đạt yêu cầu, các em 
còn đọc lát gừng, đọc lặp từ, thêm từ, bớt từ… Mức độ đọc hay chỉ có rất  
ít em đạt được. Các em chưa thể hiện rõ giọng đọc  của từng thể loại như 
thơ, văn… Đặc biệt  vẫn còn một số  học sinh không biết thế  nào là đọc 
hay.
     Tôi đã thống kê chất lượng đọc của học sinh lớp 3A tôi chủ  nhiệm  
như sau:
Lớ

Sĩ số


Chất lượng, mức độ đọc

Số lượng

Tỷ lệ

­ Trôi chảy, rõ ràng, ngắt  

26/34

76,4%

p

4


3A

34

nghỉ đúng:
­ Đọc hiểu:
­ Đọc hay:

24/34
6/34

70,6%

17,6%

 
Như  vậy chất lượng đọc thực tế  cho thấy còn rất thấp. Đặc biệt là kỹ 
năng đọc hay. Để khắc phục tình trạng này, tôi đã tìm ra một số  giải pháp  
nhằm nâng cao kỹ  năng đọc đúng, đọc hay cho học sinh khối lớp 3 trong 
tiết Tập đọc.
Là giáo viên tiểu học được trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 3, tôi đã rút ra 
được một số  kinh nghiệm và mạnh dạn đưa ra một số  biện pháp rèn đọc 
cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 3.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:

Để tổ chức thực hiện  tốt việc đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3, tôi đã 
bám vào các giải pháp chủ yếu sau:
1. Giải pháp 1.
Nhận thức rõ nhiệm vụ phân môn Tập đọc. Nắm vững nhiệm vụ, vị trí, 
đặc điểm môn học. Như  chúng ta đã biết: “Quá trình dạy học là một quá  
trình hoạt động thống nhất giữa giáo viên và học sinh trong đó giáo viên  
giữ  vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn, tổ  chức và điều hành hoạt  
động của học sinh. Còn học sinh tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động của  
mình nhằm chiếm lĩnh kiến thức”.
Giáo viên cần nghiên cứu kĩ chương trình SGK và các tài liệu dạy học 
có liên quan để  từ  đó xác định được phương pháp, cách thức tổ  chức dạy  
học từng bài tập đọc cụ thể.
2. Giải pháp 2:
­ Giáo viên phải rèn luyện giọng đọc mẫu thật tốt.
5



­ Trong giờ Tập đọc, giáo viên phải tuân thủ  theo các bước có tính đặc 
trưng của phân môn Tập đọc. Phải kết hợp giữa hai hình thức: Đọc thành 
tiếng và đọc thầm. Hai hình thức này gắn bó chặt chẽ  với nhau, cộng tác  
cùng thực hiện để  đạt một mục đích cuối cùng của đọc là thông hiểu nội  
dung văn bản.
3. Giải pháp 3:
Giúp học sinh có ý thức rèn đọc. Việc rèn đọc cho học sinh không phải  
chỉ ngày một ngày hai là đạt kết quả. Vì vậy giáo viên phải kiên trì và tạo 
cho học sinh có ý thức rèn đọc để đạt 4 phẩm chất: đọc đúng; đọc lưu loát, 
rõ ràng; đọc có ý thức (thông hiểu nội dung văn bản) và đọc hay.
4.Giải pháp 4:
Tăng cường tổ  chức trò chơi học tập, phát huy khả  năng đọc hay, thay 
đổi 
các hình thức rèn đọc cho học sinh để  tạo cho các em niềm vui, niềm say 
mê 
học tập.
II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:

Từ  các giải pháp nêu trên, tôi đã tìm ra một số  biện pháp để  giúp giáo 
viên dạy lớp 3 rèn đọc cho học sinh, cụ thể như sau:
1. Biện pháp 1: Nhận thức rõ nhiệm vụ phân môn Tập đọc và việc dạy  
tập đọc cho học sinh.
Giáo viên là người tổ chức hướng dẫn cho học sinh chiếm lĩnh tri thức.  
Vì vậy nhiệm vụ dạy học  ở tất cả các môn học, đặc biệt là môn Tập đọc  
có vai trò vô cùng quan trọng, giáo viên cần phải hiểu rằng ngay tên gọi  
của phân môn là “Tập đọc” cũng nói rõ được mục đích dạy học của người  
giáo viên và nội dung học tập của học sinh trong giờ  học này. Học sinh  
phải được “tập” để  “đọc” sao cho đúng, cho hay, các em biết đọc đúng, 


6


đọc hay chính là cơ  sở  để  các em cảm thụ  nội dung bài đọc một cách dễ 
dàng. Từ đó học sinh sẽ không thấy nhàm chán khi học tập đọc.
Ngay  ở  cách đánh giá bài đọc của học sinh người giáo viên cũng phải  
tuân thủ  nghiêm ngặt theo yêu cầu tối thiểu của học sinh lớp 3 đối với kĩ 
năng đọc để đánh giá sát thực, tránh quan niệm “ào ào” hoặc lấy điểm đọc  
để “vớt” điểm viết trong  môn Tiếng Việt cho học sinh.
Ở các buổi sinh hoạt chuyên môn, giáo viên cần thẳng thắn trao đổi với 
nhau về  quan điểm cũng như  cách dạy Tập đọc trên cơ  sở  cùng nhau học  
hỏi. Tăng cường thao giảng dự  giờ phân môn Tập đọc. Từ  đó góp ý, thảo 
luận xây dựng một phương pháp dạy phù hợp và hiệu quả nhất đối với đối 
tượng học sinh của mình. Hạn chế  tối đa sự  nể  nang trong đánh giá lẫn  
nhau mà cần chỉ rõ cho nhau thấy cái tốt và cái chưa tốt của đồng nghiệp. 
Tuyệt đối không nên “ào ào” trong đánh giá cả  giáo viên và học sinh. Đối 
với mỗi bản thân giáo viên mặc dù không ai thích nghe nhiều về  hạn chế 
hay tồn tại của mình nhưng cần quan niệm rằng đó chính là cách tốt nhất 
để mình có thể vượt qua chính mình.
2. Biện pháp 2: Rèn luyện giọng đọc mẫu của giáo viên.
Trong giờ Tập đọc giáo viên đọc mẫu tốt cũng góp phần đáng kể  trong 
việc rèn đọc cho học sinh rất nhiều. Bởi vì, các em luôn luôn lấy giọng đọc 
của thầy cô giáo làm mẫu. Bởi vậy, trước giờ  Tập đọc, giáo viên phải  
nghiên cứu nội dung, cách đọc và tập đọc nhiều lần.
Có thể đọc mẫu trong các trường hợp:
­ Đọc mẫu toàn bài để gây hứng thú cho học sinh.
­ Đọc mẫu âm, vần, tiếng khó.
­ Đọc câu, đoạn giúp học sinh nhận xét, giải thích tìm ra cách đọc.
Tùy theo từng bài mà giáo viên đọc mẫu cả  bài hoặc một đoạn, nhưng 
trước hết người giáo viên phải đọc đúng, ngoài ra còn phải đọc diễn cảm 


7


tốt bài văn, bài thơ. Muốn vậy giáo viên phải rèn luyện kỹ  năng đọc cho  
mình một cách nghiêm túc. Luyện đọc diễn cảm sao cho mỗi bài đọc của 
giáo viên xứng đáng là bài đọc mẫu cho học sinh.
Ví dụ:    Đọc bài “Ai có lỗi” ( TV3 ­ T1)
Biết phân biệt giọng người kể chuyện với giọng các nhân vật (nhân vật 
“tôi”­ En­ri­cô, Cô­rét­ti, bố của En­ri­cô).
­ Giọng nhân vật “tôi”­ En­ri­cô  ở  đoạn 1 ­ đọc chậm rãi, nhấn giọng 
các từ: nắn nót, nguệch ra, nổi giận, kiêu căng.
­ Đọc nhanh, căng thẳng hơn (ở đoạn 2 ­ hai bạn cãi nhau), nhấn giọng  
các từ: trả thù, đẩy, hỏng hết, giận đỏ mặt. Lời Cô­rét­ti bực tức.
­ Trở  lại chậm rãi, nhẹ  nhàng (ở  đoạn 3) khi En­ri­cô hối hận, thương 
bạn, muốn xin lỗi bạn, nhấn mạnh các từ: lắng xuống, hối hận,...
­  Ở  đoạn 4 và 5, nhấn giọng các từ: ngạc nhiên, ngây ra, ôm chầm,… 
Lời Cô­rét­ti dịu dàng. Lời bố En­ri­cô nghiêm khắc.
Hoặc bài “Cuộc họp của chữ viết” (TV3 ­ T1), đọc thể hiện đúng các 
kiểu câu (câu kể, câu hỏi, câu cảm). Phân biệt được lời dẫn chuyện và lời  
các nhân vật (bác Chữ A, đám đông, Dấu Chấm).
­ Giọng người dẫn chuyện: hóm hỉnh.
­ Giọng bác Chữ A: to, dõng dạc.
­ Giọng Dấu Chấm: rõ ràng, rành mạch.
­ Giọng đám đông: khi ngạc nhiên (Thế  nghĩa là gì nhỉ  ?), khi phàn nàn 
(ẩu thế nhỉ !).
Hay là bài: Báo cáo kết quả  tháng thi đua “Noi gương chú bộ  đội” 
(TV3 ­ T2).
Đây là nội dung báo cáo hoạt động của tổ lớp. Giáo viên đọc mẫu giọng 
rõ ràng, rành mạch, dứt khoát.


8


Qua việc đọc mẫu tốt của giáo viên sẽ  giúp học sinh hứng thú học tập  
và  tự tin hơn khi đọc.
3. Biện pháp 3: Rèn cho học sinh đọc đúng.
Đọc đúng là sự  tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác, 
không có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không sót từng âm, vần và tiếng. 
Đọc đúng bao gồm: Phát âm, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ.
*Cách thực hiện: Tôi đã hướng dẫn học sinh cách thực hiện như sau:
Trước khi lên lớp, giáo viên dự  kiến các lỗi của học sinh trong lớp dễ 
mắc, những từ, những câu khó trong bài để luyện đọc.
­ Luyện đọc đúng các tiếng có âm đầu dễ lẫn là l/n, tr/ch: long lanh, lênh 
láng, lúc lâu, nở  hoa, nóng nảy, trong trẻo, triều đình, buổi trưa, chiêng 
trống,…
­ Đọc đúng các tiếng có chứa vần khó đọc: cuộn tròn, khuôn cửa sổ, tựu 
trường, nảy lộc,…
­ Đọc đúng các tiếng có thanh ngã và thanh hỏi: quyến rũ, nghĩ ngợi,  
nghỉ ngơi,…
Phần luyện đọc này phải kết hợp luôn trong phần đọc cá nhân.
Ví dụ : Khi dạy bài: “Chiếc áo len” ­ (TV3­T1).
Học sinh A đọc đoạn 3, học sinh B nhận xét: Phát hiện bạn đọc sai 
“núc nâu, nạnh nắm”. Giáo viên cho học sinh A đọc lại cho đúng: “lúc lâu, 
lạnh lắm”. Sau đó gọi 2 đến 3 em hay mắc lỗi phát âm sai phụ âm đầu l/n  
như trên đọc lại.
­ Tương tự  đối với đoạn 4 giáo viên cho học sinh luyện đọc đúng các 
tiếng có vần, thanh dễ lẫn như: cuộn tròn, xin lỗi.
Ngoài việc luyện cho học sinh biết cách phát âm đúng, giáo viên còn 
phải chú trọng cách nghỉ hơi  ở dấu chấm, ngắt hơi  ở chấm phẩy, dấu hai  


9


chấm. Đặc biệt giáo viên phải hướng dẫn học sinh ngắt hơi  ở các cụm từ 
ngữ để tách ý.
Ví dụ1:   Khi đọc đoạn 4 bài: “Chiếc áo len”, giáo viên gọi học sinh 
đọc, học sinh ngắt hơi như sau:
“Nằm cuộn tròn trong chiếc chăn bông / ấm áp, / Lan ân hận quá. // Em  
muốn ngồi dậy xin lỗi mẹ / và anh, / nhưng lại xấu hổ vì mình / đã vờ ngủ.
Áp mặt xuống gối, / em mong trời mau sáng để  nói với mẹ: // “con  
không thích chiếc áo ấy nữa. / Mẹ hãy để  tiền mua áo ấm/ cho cả hai anh  
em”. //
­ Lúc này giúp học sinh sửa lại bằng cách: Treo bảng phụ chép sẵn đoạn 
văn đã ngắt sẵn như sau: 
“Nằm cuộn tròn / trong chiếc chăn bông ấm áp, / Lan ân hận quá. // Em  
muốn ngồi dậy /  xin lỗi  mẹ  và anh, / nhưng lại   xấu hổ  / vì mình đã vờ  
ngủ. // 
Áp mặt xuống gối, / em mong trời mau sáng / để  nói với mẹ: // “Con  
không thích chiếc áo ấy nữa. // Mẹ hãy để tiền / mua áo ấm cho cả hai anh  
em. //”
­ Sau đó yêu cầu học sinh đọc lại để so sánh hai cách đọc, cách nào đúng 
rồi yêu cầu học sinh đọc với giọng nhẹ nhàng, ngắt đúng, nhấn giọng ở từ 
gạch dưới. Đặc biệt câu nói của Lan khi đọc học sinh thể hiện sự ân hận, 
có như vậy mới biểu đạt được trạng thái cảm xúc của tác giả.
Ví dụ 2:   Trong bài “Cửa Tùng”, ( TV 3 – T1)
Học sinh đọc như sau: “Đôi bờ thôn xóm / mướt màu xanh lũy tre làng /  
và những rặng phi lao rì rào / gió thổi. //”
­ Giáo viên đọc lại câu  văn và yêu cầu học sinh lắng nghe, phát hiện 
chỗ cô giáo ngắt giọng: “Đôi bờ thôn xóm mướt màu xanh lũy tre làng / và 

những rặng phi lao rì rào gió thổi. //”

10


Sau đó yêu cầu 3 ­ 4 em đọc lại câu văn trên. Từ đó giúp học sinh phát 
hiện và ngắt nghỉ đúng.
Ví dụ  3:  Đối với câu: “Tôi quên thế  nào được những cảm giác trong  
sáng  ấy nảy nở  trong lòng tôi như  mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu  
trời quang đãng.”
                                                           (Nhớ lại buổi đầu đi học – TV3­T1)
Giáo viên treo bảng phụ viết sẵn câu văn yêu cầu một học sinh giỏi lên 
bảng đánh dấu chỗ ngắt nghỉ và đọc để các bạn trong lớp nhận xét, thống 
nhất cách đọc đúng như sau: “Tôi quên thế nào được những cảm giác trong  
sáng  ấy nảy nở  trong lòng tôi / như  mấy cánh hoa tươi / mỉm cười giữa  
bầu trời quang đãng. //”
* Đối với những bài đọc là thơ  giáo viên cần hướng dẫn học sinh  
ngắt nghỉ cần đúng với nhịp thơ.
Trong chương trình Tiếng Việt 3 phần lớn các bài thơ thường được viết 
theo thể  thơ  4 chữ  mang một âm điệu vui tươi, nhẹ  nhàng, tình cảm giúp 
cho học sinh dễ  thuộc, dễ  nhớ. Tuy vậy, khi đọc thể  thơ  này nhiều học  
sinh chưa biết ngắt nghỉ  đúng với nhịp thơ. Bởi vậy cần hướng dẫn học 
sinh phải dựa vào các dòng cụ thể để ngắt nhịp cho đúng. Chỉ có ngắt nhịp 
đúng câu thơ  thì ý nghĩa đoạn thơ  mới được bộc lộ  cho người nghe thấy  
được cái hay, cái đẹp của bài thơ. 
Ví dụ:     Dạy bài  “Quạt cho bà ngủ”  (TV3 ­ Tập 1), cần hướng dẫn 
học sinh đọc với giọng dịu dàng, tình cảm. Cần ngắt nhịp đúng trong các 
khổ thơ:
  Ơi / chích choè ơi! 


 Hoa, / cam hoa khế /

  Chim đừng hót nữa, / 

 Chín lặng trong vườn, /

  Bà em ốm rồi, /  

 Bà mơ tay cháu /

  Lặng / cho bà ngủ. // 

 Quạt / đầy hương thơm. //

11


      Như vậy, từ cách thực hiện trên tôi đã giúp cho học sinh dần dần có ý  
thức tìm hiểu giọng đọc, cách đọc đúng và tự tin hơn khi đọc.
4. Biện pháp 4: Hướng dẫn tốc độ đọc cho học sinh.
Như chúng ta đã biết, đối với học sinh Tiểu học đọc lưu loát là nói đến  
phẩm chất đọc về mặt tốc độ, đọc không ê a, ngắc ngứ. Tốc độ đọc nhanh  
chỉ  thực hiện khi đã đọc đúng, khi đọc phải chú ý xác định tốc độ  để  cho 
người nghe hiểu kịp được.
Nhưng   đọc nhanh  ở  đây không phải là đọc liến thoắng. Tốc độ  đọc 
thành tiếng của lớp 3 yêu cầu tối thiểu là 70 tiếng / phút.
* Cách thực hiện: Tôi đã hướng dẫn học sinh thực hiện như sau:
­ Hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ bằng cách giáo viên đọc mẫu  
hoặc chọn học sinh đã đọc tốc độ  chuẩn đọc mẫu để  tất cả  học sinh đọc 
thầm theo. Ngoài ra, dùng biện pháp đọc tiếp nối trên lớp, đọc nhẩm có sự 

kiểm tra của giáo viên, của bạn để điều chỉnh tốc độ.
Ví dụ:  Khi học sinh đọc cá nhân toàn bài hoặc một khổ thơ, một đoạn 
văn giáo viên đều nhắc cả  lớp đọc thầm theo. Giáo viên còn gây hứng thú 
cho học sinh bằng những trò chơi như: Thi đọc tiếp sức, đọc thơ  truyền 
điện, thả thơ,… Kết thúc chơi bao giờ giáo viên cũng cho học sinh chọn và 
tuyên dương nhóm đọc đúng nhất, nhanh nhất, giỏi nhất và gợi ý rút kinh  
nghiệm về cách đọc.
Mặt khác muốn học sinh đọc lưu loát, đúng tốc độ  cần có sự  chuẩn bị 
bài  ở  nhà tốt, học sinh phải được đọc trước nhiều lần. Em nào đọc còn  
chậm giáo viên giúp học sinh luyện thêm sau giờ  học và luyện đọc ở  buổi  
2.
5. Biện pháp 5: Rèn cho học sinh đọc có ý thức (đọc hiểu).
Để giúp học sinh đọc cảm nhận văn bản, hiểu văn bản thì trong giờ tập  
đọc phải chú ý rèn luyện khả  năng đọc hiểu cho học sinh. Đó là vấn đề 

12


cần thiết, quan trọng đối với học sinh lớp 3. Có hiểu nội dung bài văn, bài  
thơ  thì mới có cách đọc đúng, đọc hay được. Việc luyện đọc hiểu thường  
được thực hiện trong bước đọc thầm.
Sự thực đọc thầm có ưu thế hơn hẳn đọc thành tiếng ở  chỗ nhanh hơn 
đọc thành tiếng từ  1,5 đến 2 lần. Nó có  ưu thế  hơn hẳn để  tiếp nhận,  
thông hiểu nội dung văn bản vì người ta không phải chú ý đến việc phát 
âm, chỉ tập trung để hiểu nội dung điều mình đọc. Hiệu quả của đọc thầm  
được đo bằng khả năng thông hiểu nội dung văn bản đọc. Do đó, dạy đọc 
thầm chính là dạy đọc có ý thức, đọc hiểu. Kết quả  đọc thầm phải giúp 
học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài tức là toàn bộ  những gì  
mà các em đọc được.
* Cách thực hiện: Tôi đã hướng dẫn học sinh cách thực hiện như sau:

­ Kết hợp chặt chẽ việc tìm hiểu bài với việc luyện đọc. Giáo viên cho  
học sinh đọc đến đâu tìm hiểu bài đến đó. Không tách rời hai khâu tìm hiểu 
bài và rèn đọc.
Ví dụ:   Khi dạy bài:  “Giọng quê hương”­  tác giả  Thanh Tịnh (TV3 – 
T1).
Sau khi cho học sinh đọc thầm đoạn 1, đoạn 2, đoạn 3 của bài để trả lời 
cho câu hỏi 1, 2, 3, 4 trong phần tìm hiểu nội dung bài. Tiếp đó giáo viên 
yêu cầu 3 học sinh đọc nối tiếp 3 đoạn của bài, sau đó cả  lớp trao đổi 
nhóm,   phát   biểu   ý   kiến:  Qua   câu   chuyện,   em   nghĩ   gì   về   giọng   quê  
hương? ( HS có thể giải thích khác nhau. GV giúp các em hiểu ý khái quát. 
VD: Giọng quê hương gợi nhớ những kỉ niệm sâu sắc với quê hương, với  
người thân…
+ Rõ ràng, từ  việc đọc đúng, đọc hay các em mới hiểu được nội dung 
của văn bản và ngược lại có hiểu được nội dung của văn bản thì các em 
mới đọc đúng, đọc hay được.

13


­ Trong mỗi giờ tập đọc giáo viên cho học sinh đọc thành tiếng kết hợp  
với đọc thầm nhiều lần. Đồng thời giao nhiệm vụ  cho học sinh trong khi 
đọc thầm để kiểm tra kỹ năng đọc hiểu.
+ Đọc thầm lần 1: Kết hợp khi đọc nối tiếp từng đoạn.
+ Đọc thầm lần 2: Kết hợp khi 1 bạn đọc cả bài.
+ Đọc thầm lần 3: Khi giáo viên đọc diễn cảm.
+ Lần 4 đọc thầm kết hợp với thành tiếng khi tìm hiểu bài.
+ Lần 5 đọc thầm kết hợp với khi đọc hay.
Như vậy, việc đọc thầm kết hợp với việc đọc cá nhân thành tiếng được 
luyện nhiều lần, kết hợp nhuần nhuyễn trong một tiết học Tập  đọc đã 
giúp học sinh nắm được nội dung văn bản và từ đó có cách đọc đúng.

Ngoài ra để giúp học sinh đọc hiểu tốt, giáo viên còn phải chuẩn bị  hệ 
thống câu hỏi bổ  sung thêm nội dung câu hỏi  ở  trong sách giáo khoa phù 
hợp với từng bài học để học sinh nêu được nội dung, nghệ thuật, cách đọc,  
giọng đọc từng bài.
Ví dụ:   Khi tìm hiểu bài “Cửa Tùng” (TV3­T1).
Giáo viên có thể đặt các câu hỏi sau:
­ Em hãy đọc trước toàn bài, tìm những câu văn thể  hiện tình cảm của 
tác giả đối với Cửa Tùng? (Đôi bờ thôn xóm mướt màu xanh luỹ tre làng và 
những rặng phi lao rì rào gió thổi… Diệu kỳ  thay, trong một ngày, Cửa  
Tùng có ba sắc màu nước biển.)
­ Em hiểu nghĩa của từ “mướt màu xanh” như thế nào ? (màu xanh mướt 
đều, trải dài).
+ Giáo viên cho học sinh quan sát trên máy chiếu để học sinh thấy được  
hình  ảnh đẹp:  “Đôi bờ  thôn xóm  mướt màu xanh lũy tre làng và những  
rặng phi lao rì rào gió thổi.”
­ Đặt câu với từ “mướt màu xanh”?

14


Từ đó giúp học sinh thấy vẻ đẹp của ngôn từ, vẻ đẹp của cách nói văn  
chương, hướng dẫn các em phát hiện những tín hiệu nghệ  thuật và đánh 
giá được giá trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung.
­ Hoặc khi học bài: “ Bài hát trồng cây” ( TV3 – T2):
Ai trồng cây
Người đó có tiếng hát
Trên vòm cây
Chim hót lời mê say.
Ai trồng cây
Người đó có ngọn gió

Rung cành cây
Hoa lá đùa lay lay.
…………….
Ai trồng cây…
Em trồng cây…
Em trồng cây…
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm và phát hiện ra các từ  ngữ  được lặp 
đi lặp lại trong bài thơ (Ai trồng cây / Người đó có… và Em trồng cây / Em  
trồng cây). Việc lặp lại các từ  ngữ  đó như  một điệp khúc trong bài nhấn 
mạnh ý mọi người hãy hăng hái trồng cây. Đó là giá trị của biện pháp nghệ 
thuật.
Như vậy, tất cả những cách thực hiện trên nhằm giúp học sinh hiểu nội 
dung, nghệ thuật của văn bản để có cách đọc đúng và vươn tới mức độ cao  
hơn đó là đọc hay.
6. Biện pháp 6: Rèn cho học sinh có ý thức đọc hay.

15


(Mặc dù đối với học sinh học lớp 3, yêu cầu đặt ra chưa cao, nhưng  
giáo viên vẫn phải quan tâm đúng mực).
Đọc hay là một yêu cầu đặt ra khi đọc những câu văn hoặc các yếu tố 
của ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là việc đọc thể hiện ở kỹ năng làm chủ ngữ 
điệu, chỗ ngừng, nghỉ, cường độ,… để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm 
mà tác giả  đã gửi gắm trong bài đọc. Đồng thời thể  hiện được sự  thông 
hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm. Đọc hay thể hiện năng lực  
đọc  ở  trình độ  cao và chỉ  thực hiện được trên cơ  sở  đọc đúng và đọc lưu  
loát.
* Cách thực hiện: Tôi đã hướng dẫn học sinh cách thực hiện như sau:
Bước 1: Nội dung của bài đọc đã quy định ngữ  điệu của nó nên giáo  

viên không bao giờ áp đặt sẵn giọng đọc của mỗi bài mà nên khuyến khích 
học sinh tự tìm hiểu và nêu cách đọc và đọc trên cơ sở hiểu từ, hiểu nghĩa.  
Giáo viên chỉ  là người lắng nghe, sửa cách đọc cho từng học sinh, luôn 
khuyến khích, động viên học sinh cố  gắng đọc hay dưới nhiều hình thức 
khác nhau  để tạo sự hứng thú cho các em.
+ Ví dụ:   Dạy bài “Chú ở bên Bác Hồ” ( TV3 ­ Tập 2).
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc nối tiếp và tự  phát hiện ra giọng đọc  
phù 
hợp với mỗi đoạn. Cần đọc với giọng trầm lắng pha chút trang nghiêm.  
Kết hợp với cách ngắt nhịp, nhấn giọng kéo dài ở một số từ và cao giọng ở 
cuối câu hỏi. Để tạo nên âm hưởng biểu lộ sự xúc động, niềm thương nhớ 
của Nga và bố mẹ trước sự hy sinh của người chú:
…Chú ở đâu, / ở đâu? //
Trường Sơn dài dằng dặc? //
Trường Sa đảo nổi, / chìm? //
Hay Kon Tum, / Đắc Lắc? //

16


Vì vậy khi học sinh luyện đọc giáo viên phải tạo được trong lớp một 
không khí thoải mái để  học sinh dễ  trực cảm với bài văn, bài thơ. Có tâm  
trạng chờ đợi và chú ý nghe giáo viên đọc và cũng từ đó các em có thể học  
tập và bắt trước thầy.
Cứ  cuối mỗi giờ tập đọc, giáo viên yêu cầu học sinh đọc lại đoạn văn  
(hoặc khổ thơ) mà em thích và nói lên lí do vì sao mình lại thích đoạn văn, 
khổ thơ đó. Hoặc tổ chức thi đọc hay, đọc phân vai, đóng kịch (Đối với các  
tác phẩm có nhiều lời hội thoại như bài “Người mẹ” (TV3 – T1),…
Bước 2:  Đọc hay chỉ  có được trên cơ  sở  hiểu thấu đáo bài đọc. Đọc 
hay, yêu cầu đọc đúng giọng vui, buồn, giận dữ, trang nghiêm,… phù hợp  

với từng ý cơ bản của bài đọc, phù hợp với kiểu câu, thể loại, đọc có cảm 
xúc cao, biết nhấn giọng ở từ ngữ biểu cảm, gợi tả, phân biệt lời nhân vật,  
lời tác giả.
Để  đọc hay, người đọc phải làm chủ  được chỗ  ngắt giọng, làm chủ 
được tốc độ đọc, làm chủ được cường độ và ngữ điệu.
Vì vậy, ở mỗi bài tập đọc giáo viên quan tâm hướng dẫn học sinh phát  
hiện những chỗ  ngắt giọng, nhấn giọng có ý đồ  nghệ  thuật bằng cách tự 
các em tìm tòi, khám phá và tranh luận.
Ví dụ:   Dạy bài “Anh Đom Đóm” ( TV3 – Tập 1)
Mặt trời gác núi /
Bóng tối / lan dần, /
Anh Đóm chuyên cần /
Lê đèn/ đi gác. //
Theo làn gió mát /
Đóm / đi rất êm, /
Đi suốt một đêm /
Lo cho người ngủ… //

17


Từng bước, / từng bước /
Vung ngọn đèn lồng /
Anh Đóm / quay vòng /
Như sao bừng nở… //
Bài thơ “Anh Đom Đóm” thuộc thể thơ 4 chữ mang âm hưởng của một 
bài đồng dao vui nhộn, tươi mát hồn nhiên, khi đọc, học sinh cần thể hiện 
âm điệu của một bài ca tuổi thơ nhí nhảnh, tình cảm đối với cuộc sống của 
loài vật ở làng quê vào ban đêm rất đẹp và sinh động.
Việc đọc hay thường gắn liền với ngữ điệu nên thường dùng cử chỉ, nét 

mặt, để làm tăng thêm tính gợi cảm của câu văn thân mật, vui vẻ, ngạc 
nhiên, căm giận…
Nếu đoạn thơ có nhiều ý hóm hỉnh, vui vẻ cần đọc nhấn giọng một số 
từ ngữ kèm theo cử chỉ, nét mặt để thể hiện sắc thái đó. Thể tự do, học 
sinh phát hiện ra nhịp đọc là rất khó. Bởi vậy giáo viên cần hướng dẫn cụ 
thể cho học sinh.
Ví dụ:    Bài “Cùng vui chơi” (TV3 ­ T2). Giáo viên hướng dẫn các em  
ngắt nhịp và nhấn giọng như sau:
                   “Ngày đẹp lắm / bạn ơi! /
Nắng vàng trải khắp nơi /
Chim ca trong bóng lá /
Ra sân / ta cùng chơi. //
Quả cầu xanh xanh /
Qua chân tôi, chân anh //
Bay lên rồi lộn xuống
Đi từng vòng quanh quanh. //
Qua cách đọc ngắt nhịp và nhấn giọng như thế giúp các em cảm nhận 
được thể thơ 5 chữ, với nhịp thơ khẩn trương, nhanh nhanh mô tả được 

18


hoạt động vui chơi. Bài thơ dễ đọc, dễ nhớ, dễ thuộc, gây cho người đọc 
sự sảng khoái, hào hứng. Đây là bài thơ nói về chơi và học, học và chơi. 
Cổ vũ cho các em nhỏ chơi thật vui, thật hết mình để rồi học càng vui, 
cảng khỏe, càng tốt.
­ Ở những kiểu câu chia theo mục đích nói, giáo viên luôn luôn nhắc nhở 
học sinh. Mỗi kiểu câu chia theo mục đích nói đều có ngữ điệu riêng, hạ 
giọng cuối câu kể, lên giọng ở câu hỏi, nhấn giọng ở những từ chỉ cảm 
xúc trong câu cảm.

Ví dụ:  Chiếc thuyền xinh quá !
 

(Bàn tay cô giáo ­ TV3, T2)
Khi đọc gặp câu cảm, các em đọc  giọng bất ngờ, nhấn giọng ở từ 

“xinh quá !” thể hiện sự thán phục.
­ Mặt khác, thể hiện giọng đọc phù hợp với nhân vật cũng là bước 
thành công lớn trong quá trình đọc hay. Các loại hình văn bản trong các bài 
tập đọc lớp 3 là: Thơ, văn xã hội khoa học, văn bản khoa học tự nhiên, 
truyện kể, kịch. Trong đó, truyện kể và kịch thường xuất hiện nhiều nhân 
vật. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 3, điều 
không thể xem nhẹ là luyện đọc cho học sinh có giọng đọc phù hợp với 
nhân vật.
Sau khi hướng dẫn học sinh luyện đọc và tìm hiểu bài khi mà các em đã 
nắm được nội dung bài, hiểu tính cách từng nhân vật, giáo viên cho học 
sinh phát hiện cách đọc, thể hiện giọng đọc của từng nhân vật.
Ví dụ:   Khi đọc bài: “Người lính dũng cảm” (TV 3 – T 1)
+ Giọng viên tướng: Mạnh, gọn, rõ:
­ Vượt rào, / bắt sống lấy nó! (to, mạnh kéo dài ở từ nó)
­ Chỉ những thằng hèn mới chui. // ( giọng bực tức)

19


+Gingchỳlớnhnh:rtrố,biriphnutruyn,gingqu
quytcuitruyn:


ưChuivo?//(ngpngng,rtrố)

ưNhng/nhvylhốn.//(gingququyt)

+Gingthygiỏonghiờmkhc,lỳcdudng,lỳcbunbó,bctc.
ưHụmqua/emnophỏhngro,/lmgiphoatrongvn
trng?//(gingnghiờmkhc)
ưThymongemnophmli/ssalihngrovlunghoa.//
(gingbunbó)
Nhvyhngdnhcsinhluyncỳnggingnhõnvt,giỏo
viờnphigiỳpcỏcemtỡmhiubittnmccim,tớnhcỏch
nhõnvt.Túluynchocỏcemcúgingccth,phựhpvitng
nhõnvt,thayivanxencỏchctokhụngkhớsinhngho
hngchogihc.
Qua một thời gian ngắn, tôi nhận thấy những biện pháp mà tôi đa
ra đã thu đợc kết quả thật khả quan.

C.KTLUN
1.Ktquthchin:
Trongmtkhongthigiankhụngdi,vicỏchdytheocỏcbin
phỏpnờutrờn,tụithyhiuqugidycnõnglờnrừrt.Hcsinh
hngthỳhctptớchcchn,cỏcemmnhdnttinhnkhicbi.S
emcchatyờucukhụngcũnna.Semcỳng,chayc
nõnglờnrừrtsoviunm.Quavicỏnhgiỏtnhngtittpc
trờnlpktqutpccalp3Adotụigingdyótcnhsau:
Lp
3A

Ss
34

Chtlng,mcc

ưTrụichy,rừrng,ngtngh
ỳng:
ưchiu:

Slng
34/34

Tl
100%

33/34

97%
20


­ Đọc hay:

26/34

76,5%

 
Kết quả trên cho thấy, những biện pháp mà tôi đã áp dụng trong quá 
trình rèn đọc cho học sinh trong giờ Tập đọc phần nào cũng có thể ứng 
dụng trong thực tế. Để việc rèn đọc cho học sinh đạt kết quả cao,  giáo 
viên phải biết kết hợp các biện pháp và sử dụng có hiệu quả, có hệ thống 
kế hoạch đã vạch ra.
2.Bài học kinh nghiệm:
Qua nghiên cứu lý luận và thực tế rèn đọc cho học sinh lớp 3 trong giờ 

Tập đọc, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm sau:
­ Người giáo viên phải có trình độ chuyên môn vững vàng, vốn ngôn 
ngữ văn học phong phú, vốn sống thực tế và đặc biệt là phải luyện cho 
mình có giọng đọc hay, truyền cảm.
­ Trong giờ Tập đọc không biến giờ Tập đọc thành tiết giảng văn mà 
chú ý rèn đọc cho học sinh, tạo cho học sinh tính tự tin và ý thức rèn đọc.
­ Coi trọng khâu đọc hiểu và đọc hay
­ Không cảm thụ hộ học sinh, không áp đặt cách đọc, giọng đọc mà các
em tự tìm ra cái hay, cái đẹp trong từng văn bản. Tự các em tìm ra cách đọc 
hay nhất phù hợp với nội dung từng bài.
­ Không tỏ thái độ nôn nóng, cáu gắt mà luôn tạo ra không khí vui tươi 
thoải mái trong tiết học để các em thấy rằng đó là một “sân chơi” bổ ích 
và lý thú chứ không phải là giờ học căng thẳng.
­ Giáo viên phải triệt để sử dụng đồ dùng trực quan hỗ trợ cho việc tìm 
hiểu bài, tổ chức các hình thức học tập linh hoạt, sáng tạo.
­ Việc rèn học sinh có thói quen học ở nhà là một việc làm cần thiết, bởi 
vì ở lớp thời gian học tập rất ít. Các em chuẩn bị bài ở nhà tốt thì đến lớp 
tiếp thu bài nhanh hơn, đọc tốt hơn.
3.Kiến nghị:
21


Trên thực tế dạy học, tôi có một số kiến nghị, đề xuất sau:
­ Các tài liệu về  phương pháp dạy Tiếng Việt cần thống nhất cao về 
quan điểm.
­ Đối với giáo viên và cán bộ quản lý trường học khi dự giờ đánh giá 
giờ dạy của giáo viên phải linh hoạt, căn cứ vào hiệu quả tiết dạy làm tiêu 
chí đánh giá hàng đầu. Nên khuyến khích những giáo viên biết tổ chức lớp 
học linh hoạt, sáng tạo trong giờ học phù hợp với trình độ, năng lực của 
học sinh lớp mình.

­ Các cấp quản lý giáo dục cần thường xuyên tổ chức các chuyên đề bồi 
dưỡng cho giáo viên.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi về: “Rèn đọc cho 
học sinh Lớp 3 trong giờ Tập đọc”. Tôi mong rằng các bạn đồng nghiệp 
sẽ góp ý để các biện pháp trên khả thi hơn.
                                                               Hưng lộc, ngày 8 tháng 3 năm 2011
 

  NGƯỜI THỰC HIỆN

                                                                                Nguyễn Thị Thu Hằng      
                                                                                        

22



×