M ỤC LỤC
STT
Nội dung
Trang
Phần thứ nhất: Mở đầu
1
Đặt vấn đề
2
Mục tiêu
3
Phần thứ hai: Giải quyết vấn đề
2
Cơ sở lí luận
3
Thực trạng vấn đề
4
Các giải pháp để giải quyết vấn đề
6
Tính mới của giải pháp
10
Hiệu quả của sáng kiến
10
Phần thứ ba: Kết luận, kiến nghị
3
Kết luận
11
Kiến nghị
11
Tài liệu tham khảo
13
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1
Trong các môn học ở tiểu học, Tiếng Việt là môn học đóng một vai trò vô cùng
quan trọng với học sinh. Nó hình thành cho các em bốn kĩ năng cơ bản cần phải có là:
nghe – nói – đọc – viết. Trong đó kĩ năng đọc là một trong những hoạt động cần thiết,
không thể thiếu và xuyên suốt quá trình học tập đối với các em. Thông qua hoạt động
đọc, học sinh được mở rộng kiến thức và hiểu biết thêm nhiều điều về thiên nhiên,
đất nước, cuộc sống, con người, phong tục, tập quán của các dân tộc anh em trên đất
nước mình và trên thế giới. Đọc những bài văn hay hoặc những vần thơ bất hủ giúp
học sinh trau dồi ngôn từ thêm phong phú, óc quan sát thêm tinh tế, mở rộng tầm hiểu
biết về cuộc sống và con người xung quanh. Chính vì vậy việc đọc có ý nghĩa giáo
dục, giáo dưỡng và phát triển rất lớn. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối
với mỗi con người mà nhất là với học sinh lớp 1, lớp học đặt “nền móng” đầu tiên. Đó
là sự khai hóa, sự khởi đầu, giúp cho các em chiếm lĩnh công cụ mới để sử dụng trong
học tập và trong giao tiếp. Kĩ năng viết ở tiểu học được coi là phương tiện ưu thế
nhất trong hệ thống ngôn ngữ thì kĩ năng đọc là công cụ để khám phá, chiếm lĩnh tri
thức không thể thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở lớp 1. Khi biết đọc
các em có điều kiện và khả năng nghe giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa và các tài
liệu tham khảo, ... Nếu các em không đọc được các em sẽ không viết được, không
nắm bắt được nội dung các bài học, dẫn đến việc học tốt các môn học khác trong
chương trình tiểu học là điều không thể. Chính vì vậy việc rèn luyện kĩ năng đọc cho
học sinh lớp 1 là vô cùng quan trọng và cấp thiết.
Trong quá trình công tác và giảng dạy ở địa bàn có đến hơn 90% học sinh trong
lớp là học sinh dân tộc thiểu số, tôi nhận thấy, nhìn chung ở đây mặt bằng dân trí còn
thấp. Người dân nơi đây quanh năm ngày tháng chỉ chăm lo kiếm sống sao cho đủ cái
ăn, cái mặc, đời sống nhân dân còn gặp rất nhiều khó khăn. Các bậc phụ huynh hầu
như đều có tư tưởng xem nhẹ việc học tập của con em mình. Học cũng được, mà
không học cũng chả sao! Nên việc duy trì sĩ số và đi học chuyên cần của học sinh nơi
đây là một bài toán khó thử thách lòng kiên nhẫn và tình yêu nghề của giáo viên phụ
trách. Mặt khác đa số các em học sinh lớp 1 đến trường khi chưa giao tiếp thành thạo
bằng ngôn ngữ tiếng Việt, phát âm sai lỗi hay còn e dè, nhút nhát trong giao tiếp. Bên
cạnh đó vốn tiếng Việt và phạm vi giao tiếp của các em còn hạn hẹp. Trong giao tiếp,
các em chỉ sử dụng tiếng Việt khi nói chuyện với thầy cô ở trường. Còn với gia đình,
bạn bè xung quanh các em sử dụng tiếng “mẹ đẻ”. Nhiều em còn chưa thể giao tiếp
bằng tiếng Việt hoặc chỉ bặp bẹ được một vài câu. Bên cạnh đó, qua ba tháng nghỉ hè,
2
các em không có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với những kiến thức do thầy cô truyền đạt
bằng tiếng Việt giống như ở lớp mẫu giáo nên hầu hết các em đã quên hết các chữ cái
đã được học hoặc chỉ nhớ được một vài chữ. Chính vì vậy khi bước vào lớp 1 các em
gặp phải muôn vàn khó khăn.
Với mong muốn giúp học sinh lớp 1 khắc phục những ảnh hưởng của tiếng mẹ
đẻ khi học Tiếng Việt. Rèn cho học sinh kĩ năng đọc trôi chảy để lĩnh hội kiến thức từ
sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo. Vơi y nghia đo, tôi chon và vi
́ ́
̃ ́
̣
ết sáng kiến
“Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 1” . Đề tài
được nghiên cứu ở học sinh lớp 1, phân hiệu buôn Cuê từ năm học 2016 – 2017 cho đến
nay.
2. Mục tiêu
Mục tiêu của đề tài là đưa ra những giải pháp giúp giáo viên thực hiện có hiệu
quả việc rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc đúng các âm, tiếng, từ, câu sao cho đúng
tốc độ và trôi chảy toàn bài. Qua đó nhằm rèn luyện cho học sinh kỹ năng giao tiếp
mạnh dạn, tự tin, lòng hứng thú, say mê đọc sách.
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận
Đọc là một quá trình "nhận thức" phức tạp của việc giải mã các biểu tượng để
tạo ra ý nghĩa. Đọc sách là cách tiếp thu ngôn ngữ, giao tiếp và chia sẻ thông tin và ý
tưởng. Giống như ngôn ngữ, nó là một sự tương tác phức tạp giữa các văn bản và
người đọc được định hình bởi kiến thức của người đọc, kinh nghiệm, thái độ, và cộng
đồng ngôn ngữ, vốn phụ thuộc vào văn hóa và xã hội cụ thể. Quá trình đọc đòi hỏi
phải liên tục thực hành, phát triển và tinh chỉnh. Ngoài ra, đọc đòi hỏi sự sáng tạo và
phân tích bình luận. Người đọc văn chương thường chìm vào nội dung tác phẩm, nói
cách khác là chuyển đổi ngôn ngữ thành các hình ảnh mô phỏng các địa điểm mà văn
chương đã mô tả.
Tiếng Việt là tài sản chung của dân tộc Việt Nam và là ngôn ngữ chính âm của
quốc gia. Việc sử dụng đọc viết tiếng Việt làm tiếng nói chung của toàn dân tộc ta,
khẳng định vị trí và có chỗ đứng rõ nét nhất là từ năm 1945 đến nay. Từ ngành học
Mầm non đến bậc học cao nhất kỹ năng đọc luôn gắn liền với con người Việt Nam.
3
Nó góp phần to lớn vào việc phát triển Văn hoá – Khoa học – Kinh tế cho cả khối
cộng đồng to lớn trong việc xây dựng đất nước Việt Nam.
Quyết định số 16/2006/QĐBGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về Hướng dẫn
thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng các môn học ở tiểu học đã yêu cầu sau khi học
xong môn Tiếng Việt lớp 1 học sinh phải đọc được các bài ứng dụng, tốc độ cần đạt
30 tiếng/phút; trả lời được một đến hai câu hỏi về nội dung bài học.
Mặt khác lớp Một là lớp học nền móng của tiểu học, đóng vai trò quan trọng, vì
thế việc rèn cho các em đọc đúng là yêu cầu không thể bỏ qua. Bên cạnh đó kĩ năng
đọc tốt góp phần nâng cao chất lượng học tập các lớp tiếp theo.
II. Thực trạng vấn đề
Trường Tiểu học Tây Phong được thành lập năm 1998, tách ra từ trường PTCS
Hoàng Văn Thụ. Trường có ba phân hiệu cách nhau khá xa (khoảng 4km), tỷ lệ học
sinh dân tộc thiểu số khoảng 35% toàn trường, riêng ở phân hiệu B.Cuê tỷ lệ học sinh
dân tộc thiểu số chiếm gần 100%. Năm học 20172018, khối 1 có 74 học sinh, trong đó
có 32 học sinh dân tộc thiểu số chủ yếu tập trung ở phân hiệu buôn Cuê. Ban giám
hiệu nhà trường rất quan tâm đến chất lượng dạy học, đặc biệt chú trọng đến rèn đọc
thông thạo và tăng cường tiếng Việt cho học học sinh dân tộc thiểu số; triển khai kịp
thời các văn bản chỉ đạo của ngành; tổ chức cuộc thi kể chuyện về Bác Hồ, “ Giao lưu
tiếng Việt của chúng em” cho học sinh; tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các cuộc
thi của giáo viên do Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo tổ chức để nâng cao trình độ
chuyên môn.
Đội ngũ giáo viên đa số trẻ, năng động, nhiệt tình, được đào tạo bài bản nên
nắm bắt nhanh các văn bản chỉ đạo của ngành, vận dụng phương pháp và hình thức tổ
chức tương đối linh hoạt. Nhiều giáo viên có chuyên môn vững vàng, luôn chú trọng
đến kĩ năng đọc, tăng cường tiếng Việt cho học sinh, sửa chữa cho học sinh kĩ năng
phát âm hay kĩ năng giao tiếp bằng tiếng Việt trong cuộc sống hàng ngày cũng như
trong từng tiết học. Một số gia đình học sinh có sự quan tâm đến việc học của con cái,
đặc biệt chú ý đến cách đọc và phát âm tiếng Việt của con nên thường xuyên phối hợp
chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm. Chính vì vậy trong những năm qua nhiều học sinh
của trường tham gia thi “Giao lưu tiếng Việt của chúng em”, “kể chuyện Bác Hồ” các
cấp đạt kết quả cao.
4
* Về phía giáo viên
Bản thân đã được tập huấn chuyên sâu chương trình Tiếng Việt 1 CGD theo
kế hoạch của Phòng Giáo dục, của nhà trường nên đã tổ chức dạy đúng phương pháp,
tuân thủ việc dạy học theo sách thiết kế Tiếng Việt 1 – CGD thầy thiết kế, trò thi
công.
Nắm chắc tiến trình từng mẫu bài, dạng bài, dạy đúng mục tiêu của từng bài
học, có ý thức tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và luôn
trăn trở về việc tìm biện pháp dạy học Tiếng Việt 1 CGD để đạt hiệu quả cao nhất.
Là giáo viên trẻ, bản thân luôn năng nổ, nhiệt tình trong công tác giảng dạy; tích cực
tham gia các phong trào do trường tổ chức; thường xuyên dự giờ thăm lớp, trao đổi
chuyên môn với đồng nghiệp, tìm hiểu các phương pháp rèn đọc và tăng cường tiếng
Việt cho học sinh qua mạng internet và các phương tiện thông tin khác. Tuy nhiên kinh
nghiệm trong công tác chủ nhiệm và giảng dạy chưa nhiều nên đôi lúc còn lúng túng
trong việc rèn đọc cho học sinh; chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học; có khi
còn ngại sử dụng đồ dùng dạy học vì nhà ở xa trường; công tác phối hợp với cha mẹ
học sinh chưa được chặt chẽ.
Năm thứ tư thực hiện dạy chương trình Tiếng Việt 1 CGD nhưng bản thân tôi
đôi lúc vẫn còn lúng túng trong việc xác định phương pháp giảng dạy, kĩ thuật hướng
dẫn học sinh đọc những vần, từ khó... sao cho hiệu quả nhất. Ba quyển sách thiết kế
Tiếng Việt CGD là ba quy trình khác nhau nên giáo viên mất khá nhiều thời gian trong
việc nghiên cứu, đọc tài liệu cũng như tiếp cận phương pháp dạy học.
* Về phía học sinh
Biên chế lớp học đông (28 em), với hơn 90% là học sinh dân tộc thiểu số nên
giáo viên thực sự vất vả trong việc quán xuyến, hướng dẫn cho học sinh trong một tiết
học để đạt kết quả tốt nhất.
Học sinh dân tộc thiểu số lớp Một là lớp học đầu cấp việc làm quen với chữ cái
và phát âm chuẩn theo tiếng phổ thông là vô cùng khó khăn bởi sau ba tháng nghỉ hè các
em hầu như đã quên hết chữ cái hoặc chỉ còn nhớ được một số chữ. Từ trước đến nay
tiếng “mẹ đẻ” là ngôn ngữ giao tiếp chính trong cuộc sống hằng ngày của các em, khi
giao tiếp bằng tiếng Việt nhiều em chưa nói được. Ngồi học các em không tập trung
hay uể oải vì phải học nhiều hơn chơi không giống như học mẫu giáo. Đa số các em
5
có tâm lý không bền vững nhanh chán, ít tập trung chú ý, hay quên đồ dùng học tập;
ngồi đọc, cầm sách chưa đúng tư thế. Khả năng tiếp thu của học sinh không đồng
đều, có em chưa biết đọc, đọc chưa đúng dấu thanh, hoặc tự thêm dấu vào tiếng.
Mặt khác, học sinh dân tộc thiểu số thường có thói quen thích là nghỉ học để
theo cha mẹ đi làm ở xa hay ở nhà trông em, đi nhặt cà phê, điều, .... cho cha mẹ nên
việc tiếp thu kiến thức gặp rất nhiều khó khăn.
* Về phía cha mẹ học sinh
Trường đóng trên địa bàn xã có điều kiện kinh tế khó khăn, người dân chủ yếu
làm nghề nông, mặt bằng dân trí thấp, gia đình mải làm ăn kinh tế nên ít quan tâm hoặc
thờ ơ với việc học tập của con cái. Đa số phụ huynh học sinh chưa nắm được cách
đọc sao cho đúng hoặc không biết chữ, nên việc rèn luyện thêm ở nhà cho con còn
nhiều hạn chế. Một số em có người thân hướng dẫn đọc trước theo chương trình hiện
hành nên giáo viên gặp khó khăn trong việc sửa lại lỗi phát âm sai. Khi học sinh ở nhà
đa số phụ huynh thường giao tiếp bằng tiếng “mẹ đẻ” mà không sử dụng tiếng Việt
nên phần nào cũng tạo thói quen không tốt cho học sinh khi đọc sách và giao tiếp ở
trường. Đặc biệt người dân tộc thiểu số chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập
của con em mình nên học sinh đến lớp có khi không có sách vở, đồ dùng học tập cứ
phó mặc cho giáo viên phụ trách.
* Khảo sát kết quả đọc của học sinh đầu năm
Năm
Năm học 2017 2018
học
2016
2017
Nhận biết Nhận biết
TSHS được tất được một
cả chữ cái số chữ cái
Không
nhận biết TSH
được chữ S
Nhận biết
được tất
cả chữ cái
cái nào
Nhận
Không
biết
nhận
được
biết
một số được
chữ cái
chữ cái
nào
28
6
9
12
7
22
7
8
7
III. Các giải pháp để giải quyết vấn đề
1. Tìm hiểu đặc điểm học sinh, nguyên nhân học sinh đọc yếu
Mỗi lứa tuổi, mỗi học sinh có đặc điểm tâm lí và khả năng học tập khác nhau.
Muốn rèn cho học sinh kĩ năng đọc tốt giáo viên cần tìm hiểu đặc điểm tâm lí, khả
năng học tập của học sinh để có biện pháp giáo giục phù hợp với đối tượng và lứa
tuổi. Đây là công việc phải được thực hiện ngay từ đầu năm học. Giáo viên tìm hiểu
thông qua giáo viên Mầm non trong buổi nghiệm thu chất lượng trẻ 5 tuổi chuẩn bị
vào lớp 1 vào cuối năm học, trao đổi trực tiếp với cha mẹ học sinh, đến nhà học sinh
nắm hoàn cảnh, quan sát học sinh trong quá trình học trên lớp để nắm bắt tính cách và
khả năng học tập của từng em. Mặt khác giáo viên có thể tìm hiểu qua giảng dạy
“Trước khi vào lớp 1” hay khi dạy “tuần 0”, từ đó tìm ra phương các pháp giáo dục
phù hợp. Bằng cách này, giáo viên có thể phân loại đối tượng học sinh và nắm được
học sinh đọc sai do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
+ Ý thức chưa tốt, đi học chưa chuyên cần
+ Chưa mạnh dạn tự tin trong quá trình học và giao tiếp
+ Khả năng tiếp thu còn hạn chế
Ví dụ:
Năm học 2016 – 2017 tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 1C. Khi được bàn
giao và nhận lớp, tôi đã tiếp xúc với từng em học sinh, nắm bắt hoàn cảnh của các em.
Trong đó có em H Kali Knul, nhà rất nghèo, bố mẹ đi làm thuê, nhà ở dột nát, tính em
nhút nhát, gia đình mải làm ăn nên ít quan tâm đến việc học của em. Bản thân đã kêu
gọi sự hỗ trợ từ phía Ban giám hiệu, Đoàn Thanh niên, Tổng phụ trách Đội nên đã giúp
đỡ em về quần áo, sách vở để em yên tâm đến trường. Bản thân luôn gần gũi, thường
xuyên gọi HS đọc hay phát biểu trước lớp để em được mạnh dạn, tự tin.
2. Đa dạng các hình thức rèn đọc
a) Rèn trong giờ học Tiếng Việt
Đối với học sinh dân tộc thiểu số lớp 1, kĩ năng đọc đúng là quan trọng nhất.
Đây là biện pháp quan trọng hàng đầu, đòi hỏi người giáo viên phải có những hiểu
biết, kinh nghiệm kĩ năng hướng dẫn tốt. Với môn Tiếng Việt CGD, mỗi một bài học
được chia ra làm 4 việc. Trong đó việc thứ 3 yêu cầu đọc. Ở đây muốn học sinh đọc
7
tốt thì trước tiên giáo viên phải đọc và phát âm đúng và chuẩn để học sinh nghe đọc và
phát âm lại. Khi hướng dẫn học sinh phát âm, cần dùng lời nói mạch lạc, đơn giản để
học sinh dễ hiểu và học sinh có thể tự mình phát âm đúng. Giáo viên tổ chức cho học
sinh đọc bài dưới nhiều hình thức như: cá nhân, nối tiếp, nhóm, đồng thanh để bao
quát và nắm được khả năng đọc của cả lớp; tổ chức cho học sinh thi đọc với nhau
hoặc tổ chức các trò chơi học tập để tạo niềm vui và phấn khởi, giúp các em hứng thú
tham gia vào tiết học. Đặc biệt khi dạy kĩ năng đọc chúng ta phải phân hóa đối tượng
học sinh, chú ý quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh trong lớp, dạy theo nhóm
trình độ của học sinh. Hướng dẫn cho các em đọc đúng, phát âm chuẩn. Nếu học sinh
đọc đúng, đọc tốt thì giáo viên dành cho luyện đọc nâng cao. Đối với học sinh có khả
năng tiếp thu hạn chế phải quan tâm động viên các em kịp thời, cẩn thận, tỉ mỉ, khi đã
thấy sự tiến bộ mặc dù là chi tiết nhỏ cũng nên động viên và khuyến khích để học sinh
có tinh thần phấn khởi học tập. Động viên và giao nhiệm vụ cho các bạn có năng
khiếu hỗ trợ và chỉ dạy thêm cho các em. Nhắc nhở học sinh không trêu ghẹo, không
đùa nghịch mà tạo cơ hội cho bạn sửa chữa. Còn với các em học sinh đi học chưa
chuyên cần giáo viên cần tạo các sân chơi học tập, mạnh dạn đổi mới các phương
pháp dạy học tập để thu hút các em tham gia vào tiết học, hăng hái đến trường.
Giáo viên phải kiên trì liên tục và có hệ thống. Thông thường các em đọc sai rất
ngại đọc vì sợ các bạn chê cười, chế nhạo,... Giáo viên phải giải toả tâm lí cho học
sinh bằng những lời khen, lời động viên dù nhỏ. Đồng thời phải giải thích cho các em
cùng hiểu, để cùng thông cảm, chia sẻ, giúp đỡ bạn đọc tốt hơn.
Ví dụ: Bài: Vần có âm chính và âm cuối. Vần /an/ (Tiếng Việt CGD tập 2 trang
19). Ở hoạt động tìm tiếng có vần/an/. Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi
“Bắn tên” như sau: Lớp trưởng điều khiển trò chơi bằng cách hô to (bắn tên, bắn
tên.....), các thành viên còn lại tìm các tiếng chứa vần /an/ bằng cách đáp lại (tên gì, tên
gì?) Lớp trưởng chọn bất cứ một thành viên trong lớp chẳng hạn như (tên Mai, tên
Mai) và bạn học sinh đó đứng dậy tìm tiếng chứa vần /an/ như: lan, cạn, nhãn,... Cứ
lần lượt như thế sau khi đã tìm đủ các số tiếng yêu cầu thì trò chơi kết thúc. Với hoạt
động này các em vừa được học, vừa được chơi. Tạo không khí thoải mái cho các em
hăng hái tham gia vào tiết học.
b)Rèn đọc trong các giờ học khác
8
Ngoài giờ học tiếng Việt, việc rèn đọc cho học sinh trong các môn học khác cũng
đóng vai trò vô cùng quan trọng. Bởi nếu không đọc được kiến thức trong sách giáo
khoa học sinh không thể chiếm lĩnh, tiếp thu hết các kiến thức mà thầy cô cần truyền
tải dẫn đến chất lượng học tập các môn học khác đạt kết quả không như mong muốn.
Bản thân tôi thường xuyên rèn đọc cho HS thông qua các môn học khác như môn Toán,
Đạo đức.
Đối với môn Toán giáo viên tăng cường cho HS đọc yêu cầu của bài tập, gọi HS
giải thích cách tính của mình để rèn kỹ năng nói hoặc tổ chức trò chơi học tập vừa
củng cố Toán học, vừa rèn kỹ năng đọc.
Ví dụ: Dạy bài số 5, giáo viên tổ chức trò chơi củng cố: Đếm và đọc tên các chữ
cái có trong bảng sau:
b, d, e, h, v
c) Rèn đọc thông qua ngoài giờ lên lớp
Không chỉ rèn đọc trong giờ học chính khóa, giáo viên còn giúp đỡ HS đọc ngoài
giờ học như: tranh thủ giờ ra chơi, cuối buổi học,…. Tuy nhiên giáo viên cần để học
sinh được thư giãn trong giờ giảo lao. Chính vì vậy giờ ra chơi, giáo viên kèm thêm cho
những HS đọc còn chậm khoảng 10 phút, cho các em ra chơi 10 phút . Khi rèn vào cuối
buổi học giáo viên phải liên hệ với cha mẹ học sinh để họ khỏi lo lắng khi con về
muộn hơn các bạn.
Ví dụ: Trong năm học 2017 – 2018, tôi được giao nhiệm vụ phụ trách lớp 1C.
Trong lớp có em Y Kôl Knul có khả năng tiếp thu còn hạn chế. Bản thân đã gặp gỡ
trao đổi với gia đình, đề nghị cùng phối hợp với giáo viên chủ nhiệm. Phụ huynh sẽ
đón con trễ hơn 10 phút so với ngày thường vào cuối mỗi buổi chiều thứ 3, 5. Thời
gian 10 phút vào đó tôi giành để hướng dẫn lại kĩ năng đánh vần, đọc trơn cho em. Sau
hai tháng kiên trì em đã có thể tự đọc trơn bài đọc.
Mặt khác, trong quá trình dạy với những HS hạn chế về trí nhớ, chưa thuộc bảng
chữ cái, giáo viên đánh những chữ học sinh hay quên dán lên tường của lớp, hướng dẫn
những học sinh đọc tốt thỉnh thoảng chỉ cho các bạn đọc chưa tốt đọc trong giờ ra chơi
hay trước khi vào lớp. Với cách này giống như vừa học, vừa chơi, “mưa dầm thấm
lâu” dần dần các em cũng thuộc được chữ cái và biết đọc nhưng tốc độ đọc còn chậm.
9
Ngoài ra, mỗi tuần 1 lần giáo viên tổ chức các trò chơi học tập để rèn kỹ năng đọc
cho HS. Chẳng hạn như tổ chức thi đọc hoặc nhìn tranh đoán chữ, bốc thăm được chữ
nào đọc chữ đó, thi đọc chữ có chứa âm/vần đã học trong câu, ….
Ví dụ: Đọc tiếng chứa vần ân trong câu sau: Vân và Lan chơi với nhau rất thân.
Bằng cách này học sinh rất thích thú, đã rèn được kỹ năng đọc cho HS.
3. Làm tốt công tác phối kết hợp
a) Phối hợp chặt chẽ với các giáo viên bộ môn
Trong lớp, không chỉ có giáo viên chủ nhiệm giảng dạy mà còn giáo viên dạy
các môn chuyên biệt như Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục. Để giúp học sinh đọc tốt giáo
viên cần phối hợp với những giáo viên này.
Bản thân tôi ngay từ đầu năm học đã lập danh sách những học sinh đọc tốt và
những học sinh còn hạn chế về kĩ năng đọc gửi về cho các giáo viên bộ môn trong lớp;
trao đổi với giáo viên bộ môn về khả năng tiếp thu của từng học sinh, những em có kĩ
năng đọc yếu và những học sinh cần lưu ý đặc biệt để giáo viên bộ môn quan tâm hỗ
trợ kịp thời. Giáo viên chủ nhiệm trao đổi với giáo viên bộ môn cách rèn đọc, tăng
cường tiếng Việt cho các em bằng cách tổ chức các trò chơi liên quan đến nội dung rèn
đọc.
Ví dụ: Trong giờ Thể dục, kết hợp với giáo viên phụ trách hướng dẫn cho các
em chơi trò chơi vận động nhảy vào ô chứa chữ cái và vần sao cho đúng. Hướng dẫn
học sinh nhảy một chân vào các ô chứa các âm k, q, ngh, ch. Nhảy hai chân vào các ô
chứa vần ăn, ân, am, ăng. Như vậy trong một tiết học thể dục, giáo viên vừa có thể
đảm bảo được nội dung yêu cầu của bài, vừa có thể giúp học sinh dân tộc thiểu số rèn
kĩ năng đọc mọi lúc mọi nơi.
b) Phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh
Cha mẹ học sinh là những người có ảnh hưởng lớn đến khả năng học tập của
trẻ ở nhà. Việc phối hợp chặt chẽ với cha mẹ các em là điều kiện không thể thiếu để
trẻ phát huy được khả năng học tập và sự uốn nắn kịp thời.
Ngay trong cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm, giáo viên thực hiện tốt công tác
tuyên truyền về tầm quan trọng của việc học tập để cha mẹ học sinh hiểu. Việc làm
này không phải dễ dàng nhưng chúng ta cần kiên trì. Mặt khác giáo viên trao đổi về
10
cách hướng dẫn con học tập ở nhà, nhắc nhở luyện đọc thêm vào mỗi tối nếu như
việc rèn đọc ở lớp chưa đạt yêu cầu, dán bảng chữ cái ở nhà và nhắc nhở con em mình
đọc thường xuyên. Ngoài ra nhắc nhở con luyện đọc thêm ở nhà vào thứ bảy, chủ
nhật. Trên lớp nếu học sinh không hợp tác hay chưa tập trung, giáo viên nhắc nhở và
phối hợp với phụ huynh để uốn nắn kịp thời, giúp các em khắc phục khuyết điểm, đọc
tốt hơn.
Giáo viên khuyến khích, động viên cha mẹ học sinh giao tiếp với con bằng tiếng
Việt tại gia đình; thường xuyên tạo môi trường học tập vui thú cho con em mình bằng
các cách làm khác nhau như: đố vui lúc ăn cơm hay lúc con vui chơi; thường xuyên đọc
sách, báo hay kể những câu chuyện lí thú cho con em mình nghe để tạo thói quen và
niềm yêu thích đọc sách.
Giáo viên nhắc nhở gia đình cho con đi học chuyên cần, chỉ nghỉ học khi bị ốm
đau nặng. Nếu HS nghỉ học thì các em sẽ không theo kịp các bạn.
IV. Điểm mới của sáng kiến
Trước đây bản thân chỉ biết rèn đọc cho HS thông qua tiết học tiếng Việt, đôi
lúc có suy nghĩ gia đình học sinh chưa quan tâm đến con em nên việc phối hợp với gia
đình không cần thiết. Với kinh nghiệm này bản thân đã mạnh dạn đổi mới: đa dạng
các hình thức luyện đọc, làm tốt công tác phối kết hợp. Qua đó nâng cao chất lượng
dạy học môn Tiếng Việt.
V. Hiệu quả của sáng kiến
Các giải pháp đưa ra đã có kết quả khả quan. Học sinh lớp 1 đã có kĩ năng đọc
tương đối tốt hơn, khắc phục tình trạng nhiều em chưa biết đọc hoặc sai lỗi dấu
thanh. Đa số học sinh đọc đúng các bài học. Một số em yêu thích đọc sách, tích cực
tham gia vào các cuộc thi do nhà trường tổ chức như: “Giao lưu tiếng Việt của chúng
em”, “Kể chuyện theo sách”, “Kể chuyện Bác Hồ” và đạt nhiều giải cao; nâng cao
chất lượng, hiệu quả môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác trong nhà trường.
Sau hai năm áp dụng đề tài, kĩ năng đọc của học sinh dân tộc thiểu số lớp 1 đã
có nhiều biến chuyển tốt. Kết quả thống kê cụ thể như sau:
Năm
học
11
Năm học 2017 2018
2016
2017
TS
HS
Nhận
Nhận
biết
biết
được
được
tất cả một số
Không
Nhận
nhận
biết
TS
được
HS
chữ cái
biết
được tất
cả chữ
Nhận
Không
biết
nhận
được
biết
một số được
chữ cái
chữ
chữ cái
chữ cái
28
9
12
7
22
7
8
7
28
20
6
2
22
16
4
2
cái
nào
cái nào
Trước khi
thực hiện đề
tài
Sau khi thực
hiện đề tài
Phần thứ 3: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Rèn kĩ năng đọc có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết trong dạy học môn Tiếng
Việt lớp 1. Đối với học sinh dân tộc thiểu số việc rèn đọc lại càng cấp thiết hơn. Đọc
giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để sử dụng trong giao tiếp và học tập. Đọc là
một công cụ, là chìa khóa mở ra kiến thức các môn học. Đọc tạo ra hứng thú và động
cơ học tập. tạo điều kiện để học sinh phát huy khả năng tự học và tinh thần học tập
suốt đời không ngừng nghỉ. Chính vì vậy, để rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 dân tộc
thiểu số đạt hiệu quả thì người giáo viên cần đưa ra những biện pháp nhằm hình thành
và phát triển một cách có hệ thống về năng lực đọc cho từng học sinh. Trước tiên là kĩ
năng đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài và sau đó là nâng cao dần kĩ năng đọc
hay, đọc diễn cảm. Qua đó nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt. Kĩ năng đọc
của học sinh không phải tự nhiên mà chuẩn được, cũng không phải trong một thời gian
ngắn có thể khắc phục và hoàn thiện. Đó là cả một quá trình rèn luyện và phối hợp
giữa người dạy và người học.
Để đảm bảo mục tiêu bài học trong quá trình dạy mỗi giáo viên phải hết sức
nhiệt tình, tâm huyết với nghề, hiểu được tâm lí, khả năng học tập của từng em học
12
sinh; luôn tìm tòi, sáng tạo trong việc tổ chức rèn đọc cho học sinh. Thường xuyên tự
học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn,
nghiên cứu sâu sách thiết kế, linh hoạt, sáng tạo trong dạy học. Thông qua việc rèn kĩ
năng đọc giúp các em có khả năng giao tiếp linh hoạt, nhạy bén phù hợp.
II. Kiến nghị
a) Đối với nhà trường
Cần duy trì tổ chức các phong trào, sân chơi bổ ích cho học sinh dân tộc thiểu số
có cơ hội tham gia như: Thi kể chuyện Bác Hồ, kể chuyện theo sách, Giao lưu Tiếng
Việt cho học sinh dân tộc thiểu số. Kịp thời khen thưởng và động viên giáo viên và học
sinh có thành tích tốt trong các cuộc thi trên cũng như các học sinh có thành tích tốt
trong học tập.
b) Đối với giáo viên
Tăng cường công tác tự học, tự rèn để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, trau dồi,
rèn luyện kiến thức. Tích cực tham gia vào các phong trào do trường, ngành tổ chức.
c) Đối với cha mẹ học sinh
Quan tâm, phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong việc rèn kỹ năng đọc cho học
sinh. Khuyến khích, động viên con em mình giao tiếp bằng tiếng Việt ở nhà, tạo thói
quen giao tiếp bằng tiếng Việt, niềm yêu thích đọc sách cũng như tính hòa đồng, thân
thiện trong giao tiếp của học sinh.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ bản thân có được trong quá trình giảng dạy.
Rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô đồng nghiệp để bản thân có thêm kinh
nghiệm nhằm thực hiện tốt hơn trong công tác dạy và học.
Trân trọng cảm ơn!
Băng Adrênh, ngày 22 tháng 4 năm 2018
Người viết
Lê Thị Bảo Yến
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
13
.....................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
......................................................................................................................................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT
Tên tài liệu
1
Tác giả
Quyết định số 16/2006/QĐBGD&ĐT về Bộ trưởng BGD&ĐT
Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ
năng các môn học ở tiểu học.
2
Sách thiết kế Tiếng Việt lớp 1 – CGD Giáo sư Hồ Ngọc Đại
Tập 1, 2, 3
15