Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.42 KB, 24 trang )

Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

MỤC LỤC

Trang

I.1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………..

2

I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài……………………………………..

3

I.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………...

3

I.4. Phạm vi nghiên cứu………………………………………………..

3

I.5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………..

3

I. PHẦN MỞ ĐẦU

II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lý luận……………………………………………………...


3

II.2. Thực trạng………………………………………………………...

4

a. Thuận lợi, khó khăn…………………………………………………

4

b. Thành công, hạn chế………………………………………………...

5

c. Mặt mạnh, mặt yếu………………………………………………….

5

d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động………………………………

6

e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra……

7

II.3. Giải pháp, biện pháp……………………………………………...

8


a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp………………………………......

8

b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp……………..

8

c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp………………………...

19

d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp…………………………

19

e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu……..

19

II.4. Kết quả.…………………………………………………………...

20

III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
III.1. Kết luận……………………………………….………………….

21

III.2. Kiến nghị, đề xuất……………………………………….……….


22

Tài liệu tham khảo……………………………………….…………….

24

GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

1


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

I. PHẦN MỞ ĐẦU
I. 1. Lý do chọn đề tài
Tiểu học là cấp học đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành, phát triển toàn
diện nhân cách con người. Giáo dục cấp Tiểu học là một giai đoạn giáo dục khó
nhất, đặt nền móng cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục
quốc dân. Mục đích của giáo dục Tiểu học là giúp học sinh hình thành những cơ
sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở. Mục
tiêu chính của giáo dục Tiểu học là giúp tất cả học sinh biết đọc, biết viết. Tiếng
Việt là môn học có vai trò quan trọng đối với học sinh Tiểu học nói chung và
học sinh dân tộc thiểu số nói riêng. Môn Tiếng Việt nhằm trang bị cho học sinh
một công cụ để giao tiếp, phát triển tư duy, là cơ sở cho việc học tập các môn
học. Môn Tiếng Việt nhằm rèn luyện cho học sinh bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc,
viết và được dạy trong sáu phân môn khác nhau. Mỗi phân môn có một tầm
quan trọng khác nhau, nó không tách rời mà đan xen, hỗ trợ cho nhau. Đối với
phân môn Tập đọc ở lớp 3, nhiệm vụ trọng tâm là rèn kĩ năng đọc thành tiếng

cho học sinh. Đọc được coi là một trong những kĩ năng quan trọng hàng đầu của
cấp học.
Trên địa bàn xã Ea Bông dân tộc Ê-đê chiếm phần lớn dân số của xã. Đặc
biệt, trường Tiểu học Võ Thị Sáu là trường đặc thù có học sinh dân tộc Ê-đê
chiếm 97,7%. Hầu hết các em còn rất hạn chế về ngôn ngữ nói, viết bằng Tiếng
Việt. Các em nói chưa chuẩn, chưa đúng về một số hoặc nhiều tiếng, từ Tiếng
Việt. Kĩ năng giao tiếp, diễn đạt bằng ngôn ngữ Tiếng Việt còn rất yếu. Các em
chỉ giao tiếp với nhau bằng tiếng mẹ đẻ còn tiếng phổ thông các em chỉ sử dụng
trong các tiết học hoặc khi tiếp xúc với thầy, cô giáo. Các em học sinh ở khu vực
Buôn Sah, do bản tính rụt rè, ít nói chuyện, ít giao tiếp với người khác nên vốn
từ Tiếng Việt tiếp thu được rất hạn chế. Do vậy, việc học tập, tiếp thu và rèn cho
học sinh biết nghe, nói, đọc, viết là một vấn đề nan giải, nhất là đối với học sinh
dân tộc thiểu số. Do khả năng tiếp thu Tiếng Việt của các em còn ít nên việc dạy
cho các em đọc được rõ ràng, rành mạch, diễn cảm là một việc hết sức khó khăn
và mất nhiều thời gian. Từ năm học 2013 – 2014 đến năm học 2015 – 2016, tôi
được phân công dạy lớp 3 với tổng số học sinh dân tộc thiểu số chiếm 100%.
Khi mới nhận lớp, chất lượng đọc Tiếng Việt đạt tỉ lệ rất thấp, đa số các em đọc
chưa đúng tiếng từ, đọc sai dấu thanh, đọc sai vần, ngắt nghỉ câu chưa đúng,…
Theo bảng thống kê khảo sát chất lượng đầu năm học cho thấy tỉ lệ học sinh đọc
Tiếng Việt của lớp tôi chủ nhiệm như sau:
ĐẦU NĂM
HỌC

LỚP

TSHS

2013 – 2014
2014 – 2015
2015 – 2016


3A
3D
3D

29
17
18

Đọc đúng,
Đọc nhỏ,
lưu loát
nhát ngừng
SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ %
%
6
20,7 7
24,1
2
11,8 4
23,5
3
16,7 4
22,2

Đọc ngọng,
giật cục
SL Tỉ lệ
%
8

27,6
5
29,4
5
27,8

GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

Phát âm
sai
SL Tỉ lệ
%
8
27,6
6
35,3
6
33,3
2


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

Để góp phần nâng cao chất lượng đọc Tiếng Việt cho học sinh dân tộc
thiểu số lớp 3, trong quá trình giảng dạy và giáo dục học sinh với ý thức lương
tâm, trách nhiệm nghề nghiệp, bản thân tôi luôn suy nghĩ và trăn trở, không
ngừng tích lũy kinh nghiệm về rèn kĩ năng đọc để giúp các em dân tộc thiểu số
đọc đúng, rõ ràng, lưu loát, diễn cảm. Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số
biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3”. Với hi vọng
một số kinh nghiệm tôi vận dụng đã giúp cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 có

kĩ năng đọc sẽ là những kinh nghiệm hữu ích cho giáo viên Tiểu học, đặc biệt là
giáo viên dạy lớp 3 ở những vùng có học sinh là người dân tộc thiểu số.
I. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân
tộc thiểu số lớp 3, nhằm giúp học sinh đọc đúng, đọc trôi chảy, lưu loát, ngắt
nghỉ hơi đúng sau các dấu câu, không đọc quá to, quá nhỏ và giật cục trong khi
đọc, từ đó các em đọc được diễn cảm hơn các tác phẩm. Luyện cho học sinh bốn
kĩ năng sử dụng Tiếng Việt trong đó chú trọng đến kĩ năng nghe, nói, đọc.
Nhiệm vụ của đề tài là phân tích thực trạng học sinh đọc chưa đúng, đọc
nhỏ, đọc ngọng,… Vận dụng những cơ sở lí luận và thực tiễn có liên quan đến
rèn kĩ năng đọc Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số để đề xuất những biện
pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3.
I. 3. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp rèn đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 trường Tiểu học Võ
Thị Sáu.
I. 4. Phạm vi nghiên cứu
Học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 trong trường Tiểu học Võ Thị Sáu năm
học 2013 – 2014; 2014 – 2015 và học kì I của năm học 2015 – 2016.
I. 5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp quan sát.
Phương pháp thuyết trình, giảng giải.
Phương pháp luyện tập thực hành.
Phương pháp điều tra, thống kê.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp sử dụng trò chơi học tập.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
II. PHẦN NỘI DUNG
II. 1. Cơ sở lý luận
Ở Tiểu học môn Tiếng Việt là môn có vị trí hết sức quan trọng: Nhằm
giúp các em phát triển kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Từng bước giúp các em làm

chủ được công cụ ngôn ngữ để học tập trong nhà trường và giao tiếp một cách
GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

3


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

đúng đắn, mạch lạc tự nhiên, tự tin trong môi trường xã hội, thuộc phạm vi hoạt
động của lứa tuổi. Môn Tiếng Việt góp phần cùng với môn học khác rèn luyện
các thao tác tư duy cơ bản cho học sinh. Cung cấp những hiểu biết sơ giản về xã
hội, tự nhiên và con người Việt Nam hiện đại, có ý thức thấm nhuần truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, ưa chuộng lối sống lành mạnh, ham thích làm việc và
khả năng rèn luyện thích ứng với cuộc sống xã hội sau này.
Trường Tiểu học Võ Thị Sáu chiếm đa số là học sinh dân tộc thiểu số.
Những khó khăn trong cuộc sống, sinh hoạt, học tập của các em là: Thiếu điều
kiện học tập, quá trình học không liên tục, kiến thức nắm không vững chắc,
thiếu động cơ học tập. Biết đọc, biết viết là mục tiêu số một ở học sinh Tiểu học.
Vốn Tiếng Việt là rất cần thiết trước khi học chữ. Không biết hoặc biết ít Tiếng
Việt là trở ngại lớn nhất cho học sinh dân tộc thiểu số. Tập nói Tiếng Việt là
nhiệm vụ đầu tiên với các em. Học sinh dân tộc thiểu số cần có vốn Tiếng Việt
trước để học chữ. Bộ Giáo dục đã có nhiều văn bản chỉ đạo như công văn số
8114/ BGDDT-GDTH về việc nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh dân
tộc thiểu số ban hành ngày 15 tháng 9 năm 2009. Nghe – nói – đọc – viết là bốn
kĩ năng của Tiếng Việt, để đạt các yêu cầu so với chuẩn kiến thức – kĩ năng theo
quyết định số 16/2006/ QĐ-BGDĐT ban hành ngày 15 tháng 5 năm 2006. Dạy
học tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3. Bài tập bổ trợ
Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 1, 2, 3 tại Đăk Lăk của Sở Giáo dục
và Đào tạo Đăk Lăk nhằm bổ trợ cho học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết
Tiếng Việt để giúp các em học tốt môn Tiếng Việt và các môn học khác.

II. 2. Thực trạng
a. Thuận lợi, khó khăn
* Thuận lợi:
- Nhà trường, tổ chuyên môn thường tổ chức chuyên đề, thao giảng, dự
giờ để giáo viên trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau nhằm tháo gỡ những vướng mắc
trong quá trình giảng dạy.
- Đội ngũ giáo viên có nhiều kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm
người giáo viên và sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn cũng như giúp
nhau tháo gỡ những khó khăn.
- Các em học sinh đa số rất ngoan, nghe lời cô giáo, thích khích lệ động
viên khen thưởng,…
- Được sự quan tâm về việc học tập của một số phụ huynh có ý thức trách
nhiệm cùng với giáo viên trong việc học tập của con em mình như: Chuẩn bị
đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập, thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt
cho con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà.
* Khó khăn:
- Trường thuộc địa bàn của xã có nhiều khó khăn, học sinh dân tộc thiểu
số của lớp tôi chiếm 100% trong đó hơn 50% học sinh đọc, viết rất yếu. Đa số

GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

4


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

các em tiếp thu kiến thức còn nhiều hạn chế; kĩ năng nghe, nói, đọc, viết rất
chậm.
- Cha mẹ các em phần lớn nằm trong diện lao động nghèo, hoàn cảnh khó
khăn và diện xóa đói giảm nghèo lại nhiều. Vì thế, cha mẹ chưa hoặc không

quan tâm, chăm lo đến việc học hành cho con em mình. Cá biệt còn có trường
hợp học sinh theo cha mẹ đi làm lò gạch, đi nhặt điều, đi mót cà phê,…. làm
gián đoạn việc học tập của các em gây ảnh hưởng đến độ liên tục của bài học
trong chương trình, các em không tiếp thu được bài, hổng kiến thức. Đã khiến
cho nhiều học sinh không tích cực trong các hoạt động học tập. Nhiều cha mẹ
học sinh không hoặc chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em
mình, chưa tạo điều kiện tốt để các em đến lớp cũng như nhắc nhở các em học
bài, đọc bài ở nhà.
- Học sinh dân tộc thiểu số khó nhớ, mau quên, nhiều em đọc, viết chưa
thành thạo, đọc sai tiếng từ và dấu thanh còn nhiều.
- Đồ dùng dạy học môn Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo viên mất nhiều thời
gian đầu tư vào đồ dùng dạy học tự làm.
- Do điều kiện kinh tế của gia đình các em còn gặp nhiều khó khăn, lớp tôi
chủ nhiệm có nhiều em thuộc diện hộ nghèo, ngoài giờ lên lớp các em còn phải
làm việc phụ giúp gia đình. Khả năng giao tiếp và sử dung Tiếng Việt của các
em còn nhiều hạn chế, kĩ năng giao tiếp chưa nhuần nhuyễn, một vài phụ huynh
nói tiếng phổ thông gặp nhiều khó khăn, thậm chí có phụ huynh không biết chữ,
… nên ảnh hưởng không nhỏ đến việc đọc, viết và học tập của các em.
b. Thành công, hạn chế
* Thành công: Sau khi thực hiện các biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học
sinh dân tộc thiểu số lớp 3 đã có dấu hiệu khả thi rõ rệt: Khả năng giao tiếp bằng
tiếng phổ thông của các em được tốt hơn, các em có kĩ năng nghe, nói, đọc, viết
đúng dấu thanh hơn. Các em phát huy được tính tích cực, có ý thức học tập tốt,
hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài.
* Hạn chế: Bên cạnh những thành công còn có những hạn chế nhất định:
Tình trạng một số học sinh dân tộc thiểu số tại chỗ lười học hay vắng học vẫn
còn phát âm chưa chuẩn Tiếng Việt đang diễn ra. Tiếp thu chậm, hổng hóc kiến
thức ở những ngày nghỉ học. Lớp học ở điểm phụ, thuộc vùng khó khăn, vẫn
còn nhiều cha mẹ học sinh không biết chữ nên không kèm cặp, dạy thêm ở nhà
cho các em.

c. Mặt mạnh, mặt yếu
* Mặt mạnh:
Ngay từ đầu năm học 2013 – 2014 đến nay, khi thực hiện những biện
pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 và nhận được sự hưởng
ứng của nhiều đồng chí giáo viên trong trường. Mỗi thầy, cô giáo đều thấy rõ
mình phải làm gì ngay từ đầu năm học, cùng học hỏi, trao đổi kinh nghiệm để
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

5


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

Đề tài đã giúp cho giáo viên phát hiện những thiếu sót trong quá trình
giảng dạy, kịp thời phát hiện những yếu kém trong học tập của các em giúp cho
học sinh có kĩ năng đọc đúng, đọc lưu loát, đọc to, rõ ràng, phát âm đúng chính
tả,… và học tốt môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác.
* Mặt yếu:
Một số học sinh chưa thực sự hiếu học, hay quên đồ dùng học tập, chưa
chuẩn bị bài đầy đủ trước khi đến lớp. Các em học sinh yếu vừa nhận biết mặt
chữ vừa đánh vần để đọc trơn. Một số học sinh chưa học theo kịp yêu cầu kiến
thức kĩ năng của môn học. Các em chưa hiểu hết được tầm quan trọng của việc
đọc hiểu, mà các em chỉ chú ý đến việc đọc cho xong bài, đọc to. Các em không
trả lời được câu hỏi trong nội dung bài hoặc trả lời còn lúng túng, không diễn
đạt được để người khác hiểu,…
Kĩ năng đọc của học sinh dân tộc thiểu số còn quá yếu. Do đó, giáo viên
khó khăn, vất vả và mất nhiều thời gian để nghiên cứu phương pháp dạy học
cũng như biện pháp rèn đọc cho học sinh.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động đến một số biện pháp rèn kĩ

năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3
Nguyên nhân của một số thực trạng kể trên là do những năm gần đây giáo
viên đã luôn ý thức quan tâm, chăm chút cho học sinh trong từng tiết học, với
mỗi bài học giáo viên đã nghiên cứu kĩ để lựa chọn và tổ chức hình thức rèn kĩ
năng đọc sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Đồng thời giáo viên luôn
luôn động viên khuyến khích, khêu gợi cho học sinh lòng ham mê học tập, có
thái độ tích cực, tự giác luyện đọc. Mạnh dạn phát biểu trước lớp, trước nhóm,
trước liên đội,… để từng bước trau dồi cho các em về kĩ năng đọc và kĩ năng
giao tiếp từ đó các em vui chơi, hòa đồng với các bạn của lớp, của trường.
Trong quá trình truyền thụ kiến thức cho học sinh, giáo viên đã phân hóa
được đối tượng học sinh. Tìm hiểu hoàn cảnh của từng học sinh để có biện pháp
hướng dẫn cho các em khả năng học tập tốt nhất. Đầu tư vào việc soạn giảng,
gây hứng thú học tập cho học sinh.
Việc tổ chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa cho học sinh: Tập tổ chức các
trò chơi, thi Giao lưu tiếng Việt, các hoạt động văn nghệ,… Tham gia các hoạt
động của Đội như Trò chơi dân gian, Thi đố vui để học,… nhằm phát triển khả
năng giao tiếp, khả năng biểu cảm, khả năng nói lưu loát cho học sinh ít được
chú trọng nên cũng ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng giáo dục của học sinh.
Nội dung môn Tiếng Việt nói chung và môn Tập đọc nói riêng rất phong
phú, kênh hình ở sách giáo khoa được trình bày đẹp, phù hợp tâm sinh lí lứa tuổi
các em. Học sinh lớp 3 đã được học về kĩ năng đọc, kĩ năng nói, kĩ năng kể
chuyện. Đây là điều kiện để giúp các em học sinh nói chung và nhất là các em
học sinh dân tộc thiểu số phát âm chuẩn Tiếng Việt.
Tuy nhiên một số học sinh chưa xác định động cơ học tập đúng đắn nên
chưa chăm học. Chưa thực sự nắm được phương pháp học tập.
GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

6



Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

Là trường đặc thù chiếm đa số học sinh người dân tộc thiểu số nên tiếng
mẹ đẻ để lộ khuyết điểm về cách phát âm, học Tiếng Việt của các em học sinh
trong trường. Trình độ dân trí thấp, đời sống nhiều gia đình còn nghèo đói. Đa
số các em sống trong gia đình có nhiều thế hệ, giao tiếp hàng ngày bằng tiếng
mẹ đẻ, cha mẹ bận rộn với công việc làm ăn hoặc không biết chữ nên rất khó
khăn trong việc rèn đọc cho các em ở nhà, ít quan tâm đến việc học của con
mình.
Bên cạnh đó một số em bị chi phối bởi công việc gia đình nên thường hay
nghỉ học, thời gian tự học ở nhà cũng như ở trường ít không đảm bảo việc hoàn
thành các bài tập, bài đọc và luyện đọc. Một số em khi được gọi đọc bài còn mắc
nhiều lỗi phát âm, đọc và trả lời các câu hỏi còn nhỏ, trả lời không đủ câu, đọc
sai hoặc thiếu dấu thanh, không nắm được cách đọc các âm ghép (Ví dụ: th, ch,
nh, ng, ngh, gh, tr, kh, uyu, uych, uyên,…). Đại bộ phận học sinh có khi hiểu
nhưng lại diễn đạt sai dẫn đến hiểu sai nghĩa. (Ví dụ: “Noi gương chú bộ đội” thì
học sinh lại nói: “Nói gương chú bô đôi” hoặc đọc từ “Cái cầu” thì các em đọc
là “Cái câu”. Có thể nói, đó là nguyên nhân khách quan tác động “vô thức” đến
nhiều học sinh dân tộc thiểu số.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Xuất phát từ quan điểm là rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số
lớp 3. Môn Tập đọc là một phân môn mang tính tổng hợp, bởi bên cạnh việc dạy
học chúng ta còn trau dồi kiến thức về tiếng Việt, kiến thức về văn học, về đời
sống, giáo dục tình cảm, thẩm mĩ cho học sinh. Phân môn Tập đọc góp phần
hình thành và phát triển kĩ năng đọc cho học sinh bằng một trong bốn yêu cầu cơ
bản mà học sinh Tiểu học cần phải nắm vững.
Việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh đạt kết quả chưa cao. Tình trạng này do
nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân lớn nhất là cách thức về phương pháp rèn
đọc chưa được coi trọng. Trên thực tế, nếu không có kĩ năng đọc thì học sinh
không có điều kiện học các môn học khác, không thể tiếp thu tri thức của nhân

loại.
Thông qua dạy đọc, tôi đã giúp các em đọc đúng, đọc hay và dạy cho các
em cái hay, cái đẹp trong cuộc sống. Dạy đọc “ngôn ngữ” với dạy đọc “văn
học”. Đó chính là cơ sở dạy học cho học sinh trưởng thành và phát triển cả về trí
tuệ và tâm hồn, nhân cách và tri thức.
Từ đó tôi thấy rõ, xác định được việc rèn đọc cho học sinh Tiểu học nói
chung và học sinh dân tộc thiểu số nói riêng là một việc làm hết sức cần thiết.
Chúng ta phải làm thế nào để thông qua môn Tập đọc giúp học sinh không
những đạt được năng lực đọc mà phải hiểu nội dung của bài. Hay nói một cách
khác, tôi tìm phương pháp tiếp cận làm cho học sinh có cảm tình với bài học đó,
thúc đẩy học sinh biểu lộ tình cảm, thái độ tự nhiên thông qua giọng đọc.
Trong thực tế hiện nay, để thực hiện được vấn đề này, tôi đã thay đổi cách
truyền thụ giúp các em có thể nắm bắt được tri thức, thực hiện việc dạy theo
hướng đổi mới. Mặt khác, việc dạy đọc cho học sinh đã có từ lâu và cũng có
GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

7


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

nhiều tài liệu đề cập đến. Tất cả đều khẳng định vai trò của việc dạy đọc, đọc
hiểu, đọc diễn cảm cho học sinh.
Trong quá trình rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số tôi luôn
luôn đổi mới phương pháp dạy học, dạy lồng ghép các hoạt động, các trò chơi
bổ ích để gây hứng thú cho các em không chán nản trong học tập, tạo cho các
em cảm giác “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. Từ đó các em sẽ gây hứng
thú trong học tập và thích đến trường, đến lớp để học tập.
Trong quá trình giảng dạy hoặc tiếp xúc nói chuyện với học sinh, với
đồng nghiệp, với tất cả mọi người cũng phải nói chuẩn tiếng Việt không được

nói tiếng địa phương để các em bắt chước và học theo.
Trong giờ dạy tôi quan tâm chú ý nhiều hơn đến học sinh đọc, viết sai
chính tả (dấu thanh, các phụ âm đầu, các vần khó) để uốn nắn các em đọc, viết
cho chính xác.
Tôi đã theo học lớp dạy tiếng Ê-đê để hiểu biết vốn ngôn ngữ, phong tục
tập quán của người dân tộc địa phương nơi đang công tác, để phát huy hết khả
năng của mình trong công tác giảng dạy. Phối hợp với lãnh đạo, đoàn thể, hội
cha mẹ học sinh trong nhà trường để cùng nhau nắm bắt tình hình, nguyên nhân
những em học sinh có nguy cơ bỏ học hoặc những em đã bỏ học để động viên
các em đi học đầy đủ và vận động các em vào lớp tiếp tục học tập. Đặc biệt cần
quan tâm nhiều hơn đến đối tượng học sinh khó khăn nhằm cảm hoá các em để
các em coi thầy, cô giáo là chỗ dựa tinh thần và tạo được mối quan hệ tình cảm
thầy-trò, làm cho các em thích đến trường hơn ở nhà thì các em sẽ đi học chuyên
cần và tích cực học tập do đó giảm thiểu được tối đa các em học yếu môn Tiếng
Việt.
II. 3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Mục đích nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt nói chung
và rèn kĩ năng đọc cho học sinh tộc dộc thiểu số lớp 3 nói riêng nhằm giúp các
em sử dụng tiếng phổ thông vào trong cuộc sống hằng ngày, giàu vốn Tiếng
Việt để các em hòa nhập với cộng đồng.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Dựa trên tình hình thực tế của nhà trường, dựa vào chất lượng của năm
học trước, là một giáo viên được phân công giảng dạy lớp 3 tôi nhận thấy ở đầu
năm học nhiều em đọc ngập ngừng, các em đọc quá to hoặc quá nhỏ, chỗ ngắt
ngứ và nhất là các em đọc phát âm sai (đọc thêm dấu hoặc thiếu dấu thanh).
Như vậy đối với đặc điểm và khả năng đọc của các em như trên tôi luôn
luôn đặt ra những yêu cầu mình cần làm gì? Học sinh chuẩn bị những gì? Để đạt
được kết quả cao trong giờ Tập đọc và cuối cùng là sự kết hợp giữa giáo viên và
học sinh trong giờ học sao cho hài hòa, gần gũi và đạt hiệu quả.

Từ việc nghiên cứu cơ sở lí luận về dạy học và cơ sở thực tiễn. Tôi nhận
thấy: Thực tế dạy học chưa đáp ứng được yêu cầu cần dạy Tập đọc ở Tiểu học.
GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

8


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

Vì thế, để khắc phục những hạn chế phát huy ưu điểm thường có ở địa phương
tôi đã đưa ra một số biện pháp để rèn đọc cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số
như sau:
Biện pháp 1: Chuẩn bị giờ dạy của giáo viên
Để có một giờ Tập đọc đạt hiệu quả cao điều không thể thiếu được đó là
khâu chuẩn bị bài, chuẩn bị đồ dùng dạy học, tôi soạn kĩ bài ở nhà chọn cách
đọc, giọng đọc hay nhất để phù hợp với nội dung bài đọc.
Tham khảo tài liệu sách giáo viên Tiếng Việt 3, phương pháp dạy học
Tiếng Việt,... để có phương pháp dạy phù hợp nhất với từng đối tượng học sinh
của lớp tôi.
Tùy từng bài Tập đọc khác nhau mà tôi chọn ra những tiếng, từ có vần
khó,... và chọn ra những câu văn luyện đọc cho phù hợp.
Ví dụ: Để dạy bài “Hai Bà Trưng” tôi đã chuẩn bị: Giáo án cho bài dạy,
giọng đọc cho câu chuyện, tranh minh họa bài tập đọc và kể chuyện trong Tiếng
Việt 3, tập 2. Bảng phụ viết sẵn câu, đoạn văn cần hướng dẫn luyện đọc ngắt
nghỉ. Bản đồ hành chính Việt Nam (hoặc vùng Bắc Bộ).
Biện pháp 2: Chuẩn bị đồ dùng trực quan
Tranh, ảnh, vật thật không chỉ đóng vai trò trong quá trình hình thành kiến
thức mới mà nó còn có vai trò rất lớn trong phần luyện nói ở các tiết Tập đọc.
Như chúng ta biết ở lứa tuổi học sinh Tiểu học nói chung, học sinh dân
tộc thiểu số lớp 3 nói riêng khả năng tư duy trừu tượng kém. Đa số các em tiếp

thu kiến thức phải dựa trên những mô hình vật thật, tranh ảnh, do vậy việc chuẩn
bị, sử dụng đồ dùng dạy học rất quan trọng trong các giờ học. Nhờ có đồ dùng
dạy học mà tôi đã chuyển tải thông tin, truyền thụ kiến thức giáo dục tư cách,
rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh một cách khoa học. Nó có tác dụng
điều khiển hoạt động của học sinh từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng,
kích thích hứng thú cho học sinh học tập. Nếu một tiết học giáo viên không sử
dụng đồ dùng dạy học thì tiết học đó diễn ra rất đơn điệu, các em không hứng
thú, không tập trung, tiếp thu bài thụ động, kết quả học tập không cao. Vì thế đồ
dùng dạy học đóng vai trò rất lớn quyết định hiệu quả trong mỗi giờ học, môn
học nhất là đối với các em học sinh học chậm.
Ví dụ: Dạy bài “Tiếng đàn” (Tiếng Việt 3, tập 2) tôi sử dụng tranh phóng
to, đủ màu sắc tạo nên tình huống sư phạm để lôi cuốn các em vào học tập, giao
nhiệm vụ nhóm, tổ rõ ràng mang tính vừa sức, công bằng giúp các em khai thác
tranh liên quan đến bài học. Hay như khi dạy bài “Chiếc áo len” (Tiếng Việt 3,
tập 1) ngoài việc chuẩn bị tranh để giới thiệu bài thì tôi còn sử dụng thêm vật
thật là chiếc áo len để khai thác nội dung bài học nhằm giúp các em có hình ảnh
thực tế tạo điều kiện phát triển tư duy, nhận thức về mọi thứ xung quanh.
Biện pháp 3: Chuẩn bị của học sinh
Để giúp các em nắm được kĩ năng đọc đúng, lưu loát,… tôi hướng dẫn
học sinh cách chuẩn bị bài ở nhà, cụ thể:
GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

9


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

- Đọc trước bài ở nhà nhiều lần.
- Tự tìm những câu văn dài, tự ngắt nghỉ hơi ở câu văn đó.
- Tìm và tự giải nghĩa từ theo mục chú giải cuối bài.

- Đọc bài thơ, bài văn cho cha mẹ nghe và nhờ cha mẹ nhận xét để lên lớp
đọc bài tốt hơn.
Khi ở trên lớp học sinh cần:
- Chú ý lắng nghe cô giáo hướng dẫn đọc phát âm tiếng dễ lẫn, tiếng có
vần khó, cách đọc câu văn dài, đọc theo vai, đọc diễn cảm.
- Học hỏi một số bạn có giọng đọc lưu loát, diễn cảm.
- Tham gia tất cả các trò chơi, cuộc thi đọc được tổ chức trong giờ tập đọc
một cách tích cực.
Nếu các em có ý thức đọc bài nghiêm túc, tích cực học hỏi và tìm tòi thì
bản thân các em sẽ có kĩ năng đọc tốt môn Tiếng Việt. Kĩ năng đọc của các em
ngày càng tiến bộ không những đọc đúng, đọc lưu loát, đọc hay mà còn đọc
được diễn cảm bài văn, bài thơ.
Biện pháp 4: Đọc mẫu của giáo viên
Đây là một hình thức trực quan sinh động có hiệu quả, có tác dụng làm
mẫu cho học sinh luyện đọc. Đã là công tác làm mẫu thì phải đủ điều kiện chuẩn
xác, kĩ năng cao hơn đặc biệt là học sinh lớp 1, 2, 3 thường hay bắt chước và
làm theo thầy, cô giáo. Do vậy, thầy cô có phong cách như thế nào thì học sinh
mang ảnh hưởng như thế đó. Chính vì vậy, tôi luôn nhắc nhở mình phải là tấm
gương sáng cho học sinh noi theo. Trong giờ Tập đọc, tôi luôn đảm bảo việc đọc
mẫu của mình thật chu đáo, thật diễn cảm, nét mặt, nụ cười, điệu bộ,... Nếu đọc
mẫu đảm bảo được 80% của bài đọc đó là sự thành công của giờ dạy. Nó tạo
được không khí sôi động, gây hứng thú cho học sinh. Nó lôi cuốn học sinh vào
áng thơ giúp các em hiểu được cái hay, cái đẹp của bài văn, bài thơ tùy theo
từng bài giáo viên đọc mẫu.
Ví dụ: Bài “Cuộc chạy đua trong rừng” (Tuần 28 – Sách giáo khoa Tiếng
Việt lớp 3, tập 2). Đọc toàn bài chú ý giọng đọc của mỗi đoạn, cụ thể:
- Đoạn 1: Giọng đọc hào hứng, nhấn giọng ở những chi tiết miêu tả hình
ảnh vui thích của ngựa con khi soi bóng mình dưới nước: “sửa soạn”, “mải mê”,
“chải chuốt”,…
- Đoạn 2: Giọng đọc âu yếm, ân cần đối với ngựa cha, ngựa con tự tin,

ngúng ngẩy: “cha yên tâm”, “chắc chắn”, “sẽ thắng”.
- Đoạn 3: Giọng đọc chậm, nhấn giọng ở các từ ngữ tả muông thú chuẩn
bị cuộc đua: “sốt ruột”, “ngắm nghía”, “giữ trật tự”, “ung dung”.
- Đoạn 4: Giọng đọc nhanh, hồi hộp, đoạn cuối đọc chậm thể hiện sự nuối
tiếc vì chủ quan của ngựa con.

GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

10


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

Bên cạnh đó, tôi chuẩn bị đồ dùng, tranh ảnh, vật thật cho giờ học, bảng
phụ ghi câu văn, đoạn văn khó cần luyện cho học sinh.
Hoặc khi dạy bài: “Chú ở bên Bác Hồ” (Tiếng Việt 3, tập 2) cần đọc với
giọng trầm lắng pha chút trang nghiêm. Kết hợp với cách ngắt nhịp, nhấn giọng
kéo dài ở một số từ và cao giọng ở cuối câu hỏi. Để tạo nên âm hưởng biểu lộ sự
xúc động niềm thương nhớ của Nga và bố mẹ trước sự hi sinh của người chú.
Chú ở đâu, / ở đâu ? //
Trường Sơn dài dằng dặc ? //
Trường Sa đảo nổi, / chìm ? //
Hay Kon Tum, / Đắk Lắk ? //
Mẹ đỏ hoe đôi mắt /
Ba ngước lên bàn thờ : //
- Đất nước không còn giặc /
Chú ở bên Bác Hồ.//
(Dương Huy)
Biện pháp 5: Hướng dẫn học sinh rèn kĩ năng đọc
Để thực hiện được tốt 4 kĩ năng đọc đúng, đọc nhanh, đọc thầm – đọc hiểu

và đọc diễn cảm, cần phải có những biện pháp thực hiện đạt hiệu quả cao nhất.
Mọi sự thành công trong tiết học phụ thuộc rất nhiều vào việc thiết kế một bài
dạy tùy từng nội dung của từng bài, từng tiết học. Do đó, cần thiết kế giáo án
cho phù hợp thì tiết học mới đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy tôi đã vận dụng các
biện pháp sau xen lẫn vào các tiết dạy.
* Luyện đọc đúng
- Khi học sinh luyện đọc nối tiếp câu chọn ra những tiếng từ khó mà học
sinh hay phát âm sai cho học sinh luyện đọc. Việc làm này là hết sức cần thiết,
vì có đọc được đúng mới tiến tới đọc được hay song đòi hỏi phải hướng dẫn tỉ
mỉ, cụ thể rõ ràng, có thể sử dụng trực quan để học sinh thấy được hệ thống môi,
răng, lưỡi, bộ máy phát âm khi phát âm nó như thế nào.
Ví dụ: Dạy bài “Hội Vật” các em học sinh dân tộc thiểu số thường đọc sai
các tiếng, từ như là: “Hội vật” thì lại đọc là “hội vất”, “chống đỡ” lại đọc “chông
đơ”, “mất đà” đọc “mật đa”, “Cản Ngũ” lại đọc “Cản Ngu”, “Quắm Đen” đọc
“Quoắn Đen”, “loay hoay” lại đọc “loáy hoáy”,… Để hướng dẫn các em đọc
đúng các tiếng, từ đó tôi gọi học sinh đọc đúng đọc mẫu tiếng, từ khó cho những
học sinh đọc chưa đúng nghe, quan sát và luyện phát âm lại. Tôi gọi những học
sinh đọc còn sai phát âm lại nhiều lần. Như vậy mỗi một từ khó học sinh trực
tiếp nhìn bằng mắt (nhìn lỗi mình đọc sai), được tập phát âm bằng miệng, được
nghe bằng tai. Từ đó các em nhớ lâu và đọc đúng.

GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

11


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

- Khi luyện đọc từ tôi đưa ra các từ khó mà các em hay phát âm sai. Tôi
ghi lên bảng bằng phấn trắng, dùng phấn màu gạch chân dưới phụ âm đầu hoặc

vần mà học sinh dễ lẫn để các em chú ý hơn. Tôi phân tích cho học sinh hiểu
được sự khác biệt giữa cách phát âm đúng và cách phát âm sai mà các em
thường mắc. Ngoài việc luyện đọc trong giờ Tập đọc, tôi hướng dẫn học sinh
đọc yếu hay sai luyện đọc ở các tiết ôn luyện bằng cách: Liệt kê những cặp từ dễ
lẫn cho học sinh phân biệt và luyện đọc. Ngoài ra tôi yêu cầu mỗi em có một
quyển vở ô luyện đọc. Sau mỗi bài tập đọc tìm từ và ghi lại tất cả các tiếng và từ
mà mình hay đọc sai vào vở luyện đọc và tự đọc dưới sự kiểm tra của giáo viên
và phụ huynh.
- Đọc đúng là sự tái hiện không đọc thừa, không xót từng âm, vần, tiếng,
đọc đúng phương pháp, thể hiện đúng hệ thống ngôn ngữ chuẩn, tức là đọc đúng
chính âm. Nói cách khác là không đọc theo cách phát âm địa phương lệch
chuẩn. Đọc đúng bao gồm đọc đúng dấu thanh, vần, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ (đọc
đúng ngữ điệu). Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các
âm vị tiếng Việt. Học sinh lớp tôi thường hay đọc sai dấu thanh, thiếu dấu thanh
là do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ. Như vậy, cần luyện cho học sinh cách đọc như
sau:
+ Luyện đọc đúng các tiếng, từ có dấu thanh, có ý thức phân biệt sai nghĩa
của từ. Khi học sinh đọc sai, tôi hướng dẫn các em tự phát hiện ra lỗi sai của
mình và yêu cầu các em đọc phát âm lại nhiều lần hoặc tôi gọi học sinh đọc
chuẩn đọc lại tiếng từ đó để bạn đọc sai phát hiện ra lỗi của mình và đọc lại.
+ Luyện đọc đúng các tiếng, từ có vần ay/ai, an/at, oa/ao, uyu/uy, ot/on,
anh/ang,… khi học sinh phát âm sai, tôi phát âm mẫu cho học sinh đọc theo, nếu
học sinh nào yếu thì tôi đánh vần những vần đọc sai đó.
+ Luyện đọc đúng tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi đúng ngữ điệu của câu cần
phải dựa vào nghĩa, quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt nghỉ hơi cho
đúng, khi đọc không được tách một từ ra làm hai. (Ví dụ: Trời thu bận xanh;
không ngắt hơi: Trời / thu bận xanh).
+ Không tách với danh từ đi sau. (Ví dụ: Không đọc “Trăm cô / gái tựa /
tiên sa” mà phải đọc “Trăm cô gái / tựa tiên sa”).
Ví dụ: Khi dạy bài Tập đọc “Mồ Côi xử kiện” (Tiếng Việt lớp 3, tập 1),

tôi gọi một em đọc tốt đọc mẫu để cả lớp cùng được nghe sau đó yêu cầu các em
phát hiện những tiếng, từ mà các em hay đọc và nói sai sau đó hướng dẫn phát
âm đúng các từ đó. Ví dụ như từ: ngày xưa, công đường, bồi thường,… bằng
cách cho các em phân tích lại cấu tạo các tiếng, từ rồi gọi nhiều em đọc, em nào
đọc chưa chuẩn tôi cho các em đọc lại từ đó nhiều lần, rồi tôi cùng sửa cho các
em. Đối với em yếu, tôi hướng dẫn các em đánh vần sau đó đọc trơn lại và nhiều
em được luyện đọc từ khó. Khi đọc đoạn, tôi lắng nghe phát hiện và sửa sai
ngay những tiếng, từ các em còn đọc sai nhất là cách ngắt nghỉ. Bên cạnh đó, tôi
còn giúp các hiểu nghĩa của các từ ngữ trong phần chú giải và cung cấp thêm từ
mới sau đó giải nghĩa để học sinh hiểu được nghĩa của từ “đa tình” và cho các
em nhắc lại nghĩa của từ đó.
GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

12


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

Thường xuyên tích hợp việc cung cấp, giảng từ, xác định từ loại, nhận xét
cấu trúc ngữ pháp của câu khi dạy các phân môn khác của Tiếng Việt cũng như
các môn học khác. Từ đó khắc phục được một phần hạn chế của học sinh là khó
nhớ nhưng dễ quên.
Với cách dạy như trên số học sinh đọc sai giảm xuống rõ rệt và tôi đã thu
được kết quả nhất định khi hướng dẫn đọc đúng tiếng, từ cho học sinh dân tộc
thiểu số.
* Luyện đọc nhanh
Đọc nhanh còn gọi là đọc lưu loát, đọc trôi chảy, biện pháp đọc nhanh tôi
hướng dẫn cho học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị đọc nhanh là cụm, từ,
câu, đoạn bài. Tôi điều chỉnh tốc độ đọc, đo tốc độ đọc bằng cách soạn sẵn bài
có số tiếng cho trước và dự tính trong bao nhiêu phút, định tốc độ như thế nào

còn phụ thuộc vào độ khó của bài đọc. Trong quá trình rèn đọc, tôi thường tổ
chức học sinh thành các nhóm như sau:
Nhóm 1: Học sinh khó khăn (Những học sinh tiếp thu chậm, rụt rè, nhút
nhát) tôi tìm hiểu nguyên nhân vì sao các em học chưa tốt, thường xuyên khuyến
khích, động viên, không gắt gỏng để các em khỏi luống cuống. Giúp các em tự
giác, tích cực, tự tin và chủ động hơn trong học tập.
Nhóm 2: Đối với học sinh nghịch ngợm phân tán tư tưởng, không chú ý
đến tiết học, tôi thường để ý thỉnh thoảng chỉ định các em đọc tiếp. Tôi thường
xuyên quan sát, nhắc nhở, giao nhiệm vụ luyện đọc cụ thể để mỗi tiết học các
em được học tập không cảm thấy nhàm chán.
Nhóm 3: Học sinh đạt chuẩn (Gồm những học sinh đọc lưu loát, diễn
cảm). Đối với những học sinh đọc tốt tôi động viên, khuyến khích các em phát
huy hơn nữa thành tích học tập của mình. Đồng thời cho các em hỗ trợ thêm các
bạn học khó khăn. Sắp xếp chỗ ngồi sao cho các em có thể giúp đỡ lẫn nhau
cùng tiến bộ.
Đối với học sinh khó khăn, đọc còn chậm tôi chỉ yêu cầu các em đọc tiếng
từ khó, đọc câu ngắn và đọc được một đoạn của bài đọc. Tôi hướng dẫn các em
đánh vần sau đó đọc trơn lại và nhiều em được luyện đọc từ khó. Khi đọc đoạn,
tôi lắng nghe phát hiện và sửa sai ngay những tiếng, từ các em còn đọc sai nhất
là cách ngắt nghỉ. Bên cạnh đó, tôi còn giúp các em hiểu nghĩa của từ ngữ trong
phần chú giải, cung cấp thêm từ mới sau đó giải nghĩa để học sinh hiểu được
nghĩa của từ, ra nhiệm vụ rèn đọc thêm ở nhà. Tôi kiểm tra lại những yêu cầu đã
đề ra đối với học sinh khó khăn, việc làm này tôi tiến hành thường xuyên không
ngắt quãng.
Căn cứ vào các nhóm đối tượng học sinh, tôi thiết kế bài dạy đảm bảo dạy
cho tất cả các đối tượng học sinh trong lớp. Trong các giờ học, tôi luôn luôn gần
gũi, thân thiện, quan tâm tất cả học sinh nắm bắt đặc điểm tâm sinh lí từng em.
Kiểm tra sĩ số hàng ngày và giành thời gian giúp đỡ học sinh đọc chậm, yếu.
Các tiết ôn luyện tôi yêu cầu các em thực hiện nhiệm vụ với 4 mức khác nhau
trong cùng một giờ học. Trong lúc các nhóm thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu

GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

13


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

thì tôi theo dõi quan sát, nhắc nhở, giúp đỡ khi các em gặp khó khăn mà đặc biệt
là các em đọc yếu.
* Luyện đọc thầm – đọc hiểu
Đây là kĩ năng đọc chuyển từ ngoài vào trong, từ đọc to đến đọc nhỏ, đọc
mấp máy môi đến đọc bằng mắt. Tôi kiểm soát quá trình đọc thầm của học sinh
bằng cách xác định đọc thầm cho học sinh từng đoạn, khi các em đọc thầm tôi
cũng phải đọc thầm theo để phát hiện những học sinh không đọc thầm mà đã giơ
tay (nếu thấy học sinh đọc quá nhanh, nhanh hơn cả cô), tôi đưa ra câu hỏi từ
đoạn đó. Nếu thấy học sinh lúng túng thì có nghĩa là em đó không đọc bài.
Ví dụ: Bài “Đôi bạn”, tôi đọc thầm một đoạn, thấy học sinh đọc quá
nhanh thì tôi đưa ra câu hỏi ở đoạn đó (Thành và Mến kết bạn vào dịp nào?).
Với những biện pháp như trên, bắt buộc học sinh phải đọc thầm để tìm
hiểu nội dung bài. Từ đó giúp các em tích cực tự giác học tập. Đối với học sinh
tiếp thu chậm, tôi luôn động viên, khuyến khích các em đó gây được phong trào
đọc thầm cho học sinh.
Kết hợp chặt chẽ giữa việc tìm hiểu bài với việc luyện đọc. Tôi hướng dẫn
học sinh tìm hiểu bài đến đâu rèn đọc ngay đến đó. Không tách rời hai khâu tìm
hiểu bài và rèn đọc. Một giờ Tập đọc tôi cho học sinh đọc thầm nhiều lần. Đồng
thời giao nhiệm vụ cho các em trong khi đọc thầm để kiểm tra kĩ năng đọc hiểu.
Ví dụ: Dạy bài “Giọng quê hương” (Tiếng Việt 3, tập 1).
- Đọc thầm lần 1: Cả lớp đọc thầm đoạn 1. Tôi giao nhiệm vụ: Tìm hiểu
xem Thuyên và Đồng cùng ăn trong quán với những ai?
- Đọc thầm lần 2: Cả lớp đọc thầm đoạn 2 để trả lời câu hỏi: Chuyện gì

xảy ra làm Thuyên và Đồng ngạc nhiên?
- Đọc thầm lần 3: Trước khi tìm hiểu nội dung đoạn 3, gọi 1 học sinh đọc
đoạn 3. Đồng thời cả lớp đọc thầm. Tôi giao nhiệm vụ: Vì sao anh thanh niên
cảm ơn Thuyên và Đồng? Những chi tiết nào nói lên tình cảm tha thiết của các
nhân vật đối với quê hương? Qua câu chuyện, em nghĩ gì về giọng quê hương?
Như vậy là tôi đã cho học sinh đọc thầm trước khi phân tích nội dung bài, đồng
thời cá nhân đọc thành tiếng để cả lớp nắm được nội dung văn bản và từ đó có
cách đọc đúng. Qua đó tôi đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa đọc thành tiếng và đọc
thầm, từ đó giúp học sinh tìm hiểu nghĩa của từ, đặt câu để làm rõ nghĩa từ, tìm
các từ gần nghĩa, cùng nghĩa, trái nghĩa, thấy được vẻ đẹp của ngôn từ, vẻ đẹp
của cách nói văn chương, hướng dẫn các em phát hiện những tín hiệu nghệ thuật
và đánh giá được giá trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung.
Ngoài hệ thống câu hỏi tôi khuyến khích, rèn cho các em kĩ năng tự đặt
câu hỏi, tạo các tình huống có vấn đề một cách nhẹ nhàng, thoải mái, giúp học
sinh phát triển vốn ngôn ngữ, tư duy của mình thông qua giờ Tập đọc. Trong
những bài Tập đọc cũng như một số phân môn khác, học sinh lớp tôi đều được
rèn kĩ năng này. Chính vì được đặt câu hỏi, được nghe và nhận xét bạn trả lời,
được đưa ra đáp án cho câu trả lời của bạn, tạo cho giờ học một không khí thoải
GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

14


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

mái, nhẹ nhàng, tự nhiên, sinh động, kích thích tính độc lập, tích cực của các
em. Chính điều này đã góp phần củng cố cho học sinh đức tính tự tin, giúp các
em tự đánh giá được năng lực của chính mình.
Vậy là khi được tham gia vị trí người hỏi, lắng nghe bạn trả lời, đưa ra đáp
án đúng – sai, tôi nhận thấy giờ học sinh động, học sinh hứng thú học bài, học

sinh tích cực chủ động để chiếm lĩnh tri thức mới.
Bên cạnh đó trong khi rèn kĩ năng đọc cũng nên chú trọng quan điểm
“tích hợp”, rèn đọc cho các em không chỉ giờ Tập đọc mà tất cả các môn khác.
Tập cho học sinh lướt qua văn bản để phân loại được thể loại văn bản, từ đó có
phong cách, giọng đọc phù hợp với nội dung.
* Luyện đọc diễn cảm
- Đọc diễn cảm tức là biết làm chủ ngữ điệu để bộc lộ cảm xúc của bài
đọc, đọc diễn cảm không những đạt được yêu cầu đọc đúng mà còn kèm theo cử
chỉ, lời nói để góp phần diễn tả nội dung bài.
- Qua thực tế giảng dạy trên lớp, tôi thấy để đọc được diễn cảm cần chuẩn
bị các bước sau:
+ Soạn bài chu đáo, nắm được nội dung bài, đọc kĩ bài để thể hiện được
ngữ điệu đọc, cường độ đọc bài đó ra sao, đọc cao giọng, nhấn giọng ở những từ
nào, nét mặt vui, buồn thể hiện ở những từ ngữ nào trong bài.
+ Yêu cầu học sinh đọc bài nhiều lần ở nhà, tập đọc theo ngữ điệu sao cho
phù hợp với nội dung bài đọc đó. Khi đến lớp tôi hướng dẫn học sinh có thể tiếp
thu nhanh cách đọc đúng và đọc diễn cảm.
Ví dụ: Vui tươi, hồn nhiên như khi dạy đọc bài “Cùng vui chơi”.
Ngày đẹp lắm / bạn ơi /

Quả cầu giấy / xanh xanh /

Nắng vàng trải khắp nơi /

Qua chân tôi, / chân anh /

Chim ca trong bóng lá /

Bay lên / rồi lộn xuống /


Ra sân / ta cùng chơi. //

Đi từng vòng quanh quanh. //

Đối với các bài thơ, tuỳ theo từng thể loại thơ mà tôi hướng dẫn học sinh
cách đọc sao cho đúng nhịp câu thơ.
Đồng Đăng / có phố Kì Lừa, / (2/4)
Có nàng Tô Thị, / có chùa Tam Thanh. // (4/4)
Đường vô xứ Nghệ / quanh quanh, / (4/2)
Non xanh nước biếc / như tranh hoạ đồ. // (4/4)
Đồng Tháp Mười / cò bay thẳng cánh / (3/4)
Nước Tháp Mười / lóng lánh cá tôm. // (3/4)
(Cảnh đẹp non sông - Tiếng Việt 3, tập 1)
GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

15


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

Thường thì các bài thơ được sáng tác theo thể thơ lục bát mang một âm
điệu mượt mà, tình cảm của thể thơ truyền thống dân tộc. Tuy vậy cũng phải
dựa vào các dòng cụ thể để ngắt nhịp cho đúng. Khi ngắt nhịp đúng câu thơ thì ý
nghĩa đoạn thơ mới được bộc lộ để người nghe thấy được vẻ đẹp của đất nước
Việt Nam.
Đối với bài tập có lời đối thoại, tôi xây dựng màn kịch ngắn với nội dung
của bài, học sinh sắm các vai nhân vật đó để đọc bài.
Ví dụ: Bài “Cuốn sổ tay”, các nhân vật trong chuyện rất phù hợp với lứa
tuổi của các em, sôi nổi, hào hứng, hồn nhiên, các em sắm vai: (Thanh, Tuấn,
Lân, Tùng). Lời nói của người dẫn chuyện giọng điệu hồn nhiên, giọng của Lân

có vẻ ngại ngần, giọng của Thanh quả quyết, dứt khoát, hào hứng; giọng của
Tùng vẻ thách thức, dí dỏm và rất tự tin…
Sau đó tôi gọi từng nhóm học sinh lần lượt lên bảng nhập vai đọc bài, như
vậy tất cả học sinh đều làm việc, được luyện nói và thể hiện nét mặt thông qua
các nhân vật mà mình nhập vai. Qua các giờ học như vậy, học sinh sẽ tiến bộ
dần, các em sẽ tự tin hơn ở bản thân mình, tạo ra tiết học đạt kết quả cao.
* Luyện đọc thuộc lòng
Ở những bài dạy có yêu cầu luyện đọc thuộc lòng, tôi chú ý kết hợp luyện
đọc thành tiếng bằng cách tổ chức đọc cá nhân riêng lẻ hoặc nối tiếp đọc đồng
thanh theo nhóm, tổ, cả lớp, đọc theo vai phối hợp nhiều học sinh.
Ở những bài dạy có yêu cầu học thuộc lòng, tôi cho học sinh luyện đọc kĩ
hơn. Có thể ghi bảng một số từ làm “điểm tựa” cho học sinh dễ nhớ và đọc
thuộc, sau đó xóa dần hết từ làm “điểm tựa” để học sinh tự nhớ và đọc thuộc
toàn bài. Tổ chức thi luyện học thuộc lòng một cách nhẹ nhàng gây hứng thú
cho học sinh. Khi học sinh đọc, tôi thường chú ý theo dõi để có cách rèn luyện
thích hợp với từng em, gợi ý, khuyến khích trong lớp, trao đổi, nhận xét về chỗ
được, chỗ chưa được của bạn giúp học sinh biết rút kinh nghiệm để tự tin và đọc
tốt hơn.
Ví dụ: Học thuộc lòng bài “Về quê ngoại” tôi hướng dẫn học sinh thực
hiện theo các bước sau: Tôi đọc diễn cảm 1 lần. Gọi 1 học sinh đọc lại. Tổ chức
cho lớp đọc đồng thanh, luyện đọc xóa dần bảng, xóa từng cụm từ đến khi chỉ
còn những từ đầu câu làm điểm tựa. Luyện đọc theo bàn, tổ, dãy bàn. Học sinh
thi đọc thuộc lòng khổ thơ, cả bài thơ. Nhận xét, tuyên dương.
Phần ghi bảng: Nội dung ghi bảng nói chung cần ngắn gọn, xúc tích đảm
bảo tính khoa học và tính sư phạm, hình thức trình bày mang tính thẩm mỹ có
tác dụng giáo dục học sinh, Việc ghi bảng cần kết hợp nhịp nhàng với tiến trình
của tiết dạy nhằm đem lại hiệu quả trực quan cao nhất.
Biện pháp 6: Tổ chức giờ học thân thiện - học sinh tích cực
Theo tôi, đây là một biện pháp rất có ý nghĩa trong các giờ học đối với
học sinh dân tộc thiểu số. Ở đây học sinh thường đi học theo cảm tính, thích đi

thì đi, không thích thì nghỉ, học sinh chưa thấy được mục đích, nhiệm vụ phải đi
GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

16


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

học đều, đầy đủ, hơn nữa ở lứa tuổi này học sinh thường hiếu động, nếu giờ học
chỉ đọc và trả lời không thôi thì học sinh không hứng thú học tập, không khích
lệ được học sinh khó khăn vươn lên, không tạo được môi trường thân thiện để
các em thích đến lớp học. Chính vì vậy, trong giờ Tập đọc tôi kết hợp cho học
sinh tham gia các trò chơi học tập mang tính chất hòa đồng thân thiện giữa thầy
và trò, giữa trò với trò. Nếu là bài học có hội thoại thì tôi cùng sắm vai với học
sinh đọc theo nhân vật và đọc ngắn gọn. Còn đối với các thể loại khác, tôi tổ
chức trò chơi đọc truyền điệu. Tôi đọc câu 1, gọi một em khác đọc tiếp, sau đó
em đó lại chỉ bạn bên cạnh và đọc tiếp, cứ như vậy lần lượt đọc hết bài. Với
phương pháp này học sinh tham gia đọc được nhiều, các em lại chú ý vào bài
đọc một cách vui vẻ, nếu không chú ý không đọc được. Khi đọc truyền điệu các
em rất chăm chú và trật tự, nên giờ học đạt kết quả cao, các em thoải mái học
bài, mà không gây áp lực, nên tạo được môi trường thân thiện, học sinh tích cực.
Phương pháp đọc trên có thể chia thành 2 tổ, các tổ thi nhau đọc đúng,
đọc lưu loát, diễn cảm. Từ hình thức đọc trên tôi thấy các em trước đây đọc chưa
đúng, giờ đã đọc tốt hơn rất nhiều và có ý thức vươn lên trong các môn học
khác. Ngoài ra tôi còn tổ chức cho các em học nhóm ở gia đình, giao nhiệm vụ
cho các em đọc tốt kèm cặp bạn đọc yếu ở nhà vào ngày nghỉ, giúp các em được
giao lưu học hỏi nhiều hơn.
Biện pháp 7: Tăng cường Tiếng Việt và bài tập bổ trợ cho học sinh
dân tộc thiểu số lớp 3
Dạy tăng cường Tiếng Việt nhằm mục đích cung cấp thêm vốn từ Tiếng

Việt làm giàu vốn từ cho học sinh dân tộc thiểu số, tăng cường thực hành giao
tiếp bằng Tiếng Việt cho các em. Tích hợp dạy tăng cường Tiếng Việt trong các
môn học, các hoạt động giáo dục cũng như dạy tăng cường vào các tiết Tập đọc.
Vận dụng các phương pháp dạy tăng cường Tiếng Việt với tư cách dạy học ngôn
ngữ thứ hai, tăng thời gian rèn luyện kĩ năng nghe, nói cho học sinh giúp các em
có nhiều cơ hội, thời gian giao tiếp bằng tiếng phổ thông với cô giáo và bạn bè.
Ví dụ: Khi dạy các bài Tập đọc tôi tăng cường Tiếng Việt cho học sinh
bằng cách đọc lại các từ khó các em còn phát âm sai luyện đọc nhiều lần hoặc
tăng cường Tiếng Việt trong phần luyện đọc, tăng cường luyện đọc đúng dấu
thanh cho học sinh dân tộc thiểu số. Hoặc như môn Tập Viết thì tôi cho học sinh
tăng cường luyện đọc từ và câu ứng dụng. Hay như môn Toán thì tôi tăng cường
Tiếng Việt bằng cách cho học sinh nhắc lại nhiều lần lời giải của bài toán;...
Xây dựng hệ thống bài tập bổ trợ môn Tiếng Việt cho học sinh dân tộc
thiểu số nhằm bổ trợ cho học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt để
giúp các em học tốt môn Tiếng Việt và các môn học khác. Cung cấp những kiến
thức bổ trợ về ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ pháp Tiếng Việt, phục vụ yêu cầu
rèn luyện kĩ năng và thực hành giao tiếp bằng Tiếng Việt. Mở rộng hiểu biết về
con người, cuộc sống, văn hóa, văn học của đất nước Việt Nam. Trong quá trình
giảng dạy thì bài tập bổ trợ môn Tiếng Việt được tôi thực hiện dạy lồng ghép
vào tiết ôn luyện Tiếng Việt, tôi chọn trong bài bổ trợ những bài tập nhỏ phù
hợp với những khó khăn của học sinh trong lớp để dạy. Học sinh sử dụng sách
GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

17


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

bài tập bổ trợ môn Tiếng Việt theo hướng dẫn và tự học. Bên cạnh đó, tôi linh
động vận dụng nhiều phương pháp giảng dạy hiệu quả và phù hợp với điều kiện

và đặc điểm học sinh.
Biện pháp 8 Chơi trò chơi luyện đọc
Trong giờ Tập đọc, phần sử dụng trò chơi luyện đọc cũng hết sức quan
trọng. Nó làm thay đổi trạng thái học của học sinh, tạo cho giờ học có không khí
sôi động, góp phần rèn kĩ năng đọc cho các em học sinh ở nhiều góc độ khác
nhau. Do đó, tôi nghiên cứu từng bài để chọn trò chơi phù hợp và có hiệu quả.
Ví dụ: Bài “Chú ở bên Bác Hồ”, tôi phát 3 phiếu mỗi phiếu ghi dòng thơ
đầu của mỗi khổ thơ. Bốn em mỗi em bốc một phiếu, tôi hô "bắt đầu" thì các em
đọc lần lượt từ số 1 đọc các dòng thơ ở khổ 1. Tiếp đến là phiếu số 2 và cuối
cùng là phiếu số 3. Cứ như thế trò chơi kết thúc các em đã đọc thuộc bài mà
không nhìn sách. Trò chơi tác dụng rèn trí nhớ và cách đọc trôi chảy lưu loát cho
học sinh.
Chuẩn bị các tấm bìa bằng giấy phục vụ trò chơi học tập. Dạy các bài có
nội dung học thuộc lòng, khi học sinh đã thuộc bài, tôi ghi các tiếng đầu của
từng khổ thơ hoặc số thứ tự vào các phiếu (bông hoa giấy) tổ chức cho học sinh
lên hái hoa đọc theo yêu cầu.
Hoặc khi dạy bài: Báo cáo kết quả tháng thi đua “Noi gương chú bộ đội”
(Tiếng Việt 3, tập 2), tôi chuẩn bị băng giấy, tổ chức cho học sinh thi gắn và đọc
nhanh bằng hình thức trò chơi “Gắn đúng vào nội dung báo cáo”.
Với sự chuẩn bị chu đáo của cô và trò cho mỗi bài Tập đọc, các biện pháp
rèn đọc kết hợp với trò chơi học tập tôi đã thu được kết quả nhất định. Đó là kĩ
năng đọc của các em ngày càng tiến bộ hơn, học sinh sôi nổi, hào hứng hơn
trong các tiết Tập đọc. Nâng cao chất lượng học môn Tiếng Việt.
Biện pháp 9: Kết hợp giữa gia đình và nhà trường
Thời gian các em học tập ở trường tuy nhiều nhưng số tiết cho phân môn
Tập đọc chỉ được 4 tiết trong đó có 1 tiết ôn luyện, ngoài ra còn học các môn
học khác. Vì vậy, về nhà các em phải có thời gian học tập. Đối với học sinh khó
khăn cha mẹ chưa quan tâm nhiều đến các em. Chính vì vậy, tôi đã sử dụng biện
pháp là: đến thăm gia đình học sinh, tìm hiểu hoàn cảnh, đời sống sinh hoạt
cũng như văn hóa trong gia đình, kiểm tra góc học tập của các em, tiếp xúc với

gia đình và tâm sự với phụ huynh học sinh về sự cần thiết của việc học tập và
nhất là môn Tập đọc. Tôi đã đề nghị gia đình tạo điều kiện, kèm cặp thêm những
lúc các em học ở nhà. Tổ chức các cuộc họp phụ huynh giữa nhà trường và gia
đình để thông báo và đề ra những biện pháp học tập cụ thể cho từng em, từng
đối tượng học sinh.
Các giờ học trên lớp, tôi thường xuyên gọi các em đọc còn chậm, nhút
nhát để đọc bài rồi uốn nắn, sửa chữa những câu, từ do học sinh đọc sai, sửa
ngay tại lớp. Mặt khác tôi giao bài tập về nhà, đến lớp phải thường xuyên kiểm
tra, nhận xét, đánh giá. Ngoài ra tôi còn kết hơp một số biện pháp khác như: liên
GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

18


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

lạc đều đặn, kịp thời đến gia đình các em theo quy định hoặc đột xuất những
hôm các em đọc yếu, nghỉ học không lí do hoặc học giảm xút đi.
c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
Để thực hiện các giải pháp, biện pháp trên đòi hỏi giáo viên phải chủ
động, sáng tạo, lập kế hoạch dạy học phù hợp cho các tiết học, đặc biệt là đối
tượng học sinh trong lớp. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học phải đầy đủ.
Giáo viên phải chuẩn bị bài và sử dụng đồ dùng dạy học hiệu quả. Bên cạnh đó,
giáo viên phải thật sự kiên trì, chịu khó, tôn trọng học sinh, động viên, tuyên
dương kịp thời những tiến bộ của các em, từ đó các em sẽ không mặc cảm, tự ti
và cố gắng hơn trong học tập.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các giải pháp, biện pháp tôi đã thực hiện trong đề tài có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, chúng là cầu nối tạo nên thành công trong giảng dạy Tiếng Việt
cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3. Mỗi giải pháp, biện pháp trong đề tài tác

động qua lại và hỗ trợ với nhau nhằm nâng cao chất lượng cho học sinh dân tộc
thiểu số tại lớp tôi.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
- Kết quả khảo nghiệm: Nắm được vai trò quan trọng của môn Tiếng Việt
với học sinh Tiểu học và phối hợp khéo léo các biện pháp trên vào quá trình rèn
kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số, kết quả cụ thể như sau:
NĂM HỌC

LỚP

TSHS

2013 – 2014
2014 – 2015

3A
3D
3D

29
17
18

HỌC KÌ I

2015 – 2016

Đọc đúng,
Đọc nhỏ,
lưu loát

nhát ngừng
SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ %
%
20 69,0 9
31,0

12
8

70,6
44,4

5
5

29,4
27,8

Đọc ngọng,
giật cục
SL Tỉ lệ
%
0
0
0
0

5

27,8


Phát âm
sai
SL Tỉ lệ
%
0
0
0
0
0
0

Các em sinh sống và học tập tại điểm trường nằm ở Buôn Sah nên việc
học tập gặp rất nhiều khó khăn cũng như chất lượng môn Tiếng Việt đầu năm
học rất yếu. Cụ thể đầu năm khảo sát chất lượng học sinh đọc đúng – lưu loát cả
3 lớp đạt tỉ lệ rất thấp (lớp 3A chỉ đạt 20,7%; lớp 3D đạt 11,8% và lớp 3D năm
học 2015 – 2016 đạt 16,7%), đọc nhỏ – nhát ngừng đạt (24,1%; 23,5% và
22,2%); đọc ngọng – giật cục chiếm tỉ lệ (lớp 3A chỉ đạt 27,6%; lớp 3D đạt
29,4% và lớp 3D đạt 27,8%), đọc phát âm sai đạt tỉ lệ cao nhất là 27,6%; 35,3%
và 33,3%. Nhưng đến cuối học kì I tôi thấy kĩ năng đọc của các em ngày một
tiến bộ lên, giảm số lượng học sinh đọc phát âm sai dấu thanh, tiếng từ, hình
thành được kĩ năng đọc đúng vần và dấu thanh hơn. Các em có ý thức đọc đúng,
đọc lưu loát, rõ ràng, đọc ngắt nghỉ hơn trong mỗi bài tập đọc.
Đó là nhờ sự kiên trì rèn luyện của cả cô và trò, áp dụng các biện pháp rèn
kĩ năng đọc cho học sinh nên hàng tháng kĩ năng đọc bài của các em có sự tiến
bộ và thu được thành công rõ rệt. Nhìn vào bảng kết quả rèn kĩ năng đọc cho
GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

19



Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

học sinh dân tộc thiểu số lớp 3A trong năm học 2013 – 2014, theo kết quả thống
kê so với đầu năm học chất lượng đọc đúng – lưu loát đã tăng lên 13 em đạt
69,0% số lượng học sinh đọc nhỏ – đọc nhát ngừng giảm còn 31,0% và không
còn học sinh đọc ngọng – đọc yếu, phát âm sai. Tất cả các em đều tiến bộ, đọc
bài với lòng say mê, nhiều em đọc bài diễn cảm. Kết quả việc rèn đọc của phân
môn Tập đọc có ảnh hưởng tích cực đến kết quả chung của môn Tiếng Việt lớp
3. Thể hiện rõ qua bảng thống kê số liệu so sánh chất lượng đầu năm học. Trước
sự tiến bộ về kĩ năng đọc của các em học sinh lớp 3A (2013 – 2014) tôi rất vui
mừng và tiếp tục áp dụng các biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 3D
năm học 2014 – 2015 và ở học kì I trong năm học 2015 – 2016, tôi cũng thu
được kết quả khả quan. Chính kết quả đó đã động viên, kích lệ cả cô và trò tiếp
tục rèn luyện kĩ năng đọc trong học kì II này để kết quả môn Tiếng Việt của các
em cao hơn nữa.
- Giá trị khoa học: Với mục tiêu phát hiện những yếu kém trong việc học
Tiếng Việt nói chung và rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 nói
riêng, khắc phục những khó khăn trong giảng dạy, từng bước nâng cao chất
lượng dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số. Sau khi nghiên cứu và
thực hiện các giải pháp trên cho thấy chất lượng dạy Tiếng Việt cho học sinh
dân tộc thiểu số lớp 3 đã được nâng cao dần.
II. 4. Kết quả
- Kết quả thu được sau khi khảo nghiệm:
Sau một thời gian kiên trì tìm ra những giải pháp trong quá trình rèn kĩ
năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số đã nâng cao chất lượng Tiếng Việt cho
từng đối tượng học sinh lớp tôi giảng dạy. Kết quả của việc rèn đọc tốt không
chỉ góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt, nó còn tác động đến các môn
học khác. Ảnh hưởng tích cực cho các phân môn Tiếng Việt như học Chính tả,
trên cơ sở có đọc đúng mới viết đúng các phụ âm, dấu thanh viết bài đúng. Hay

khi học Kể chuyện, học sinh có đọc được bài mới nắm được nội dung cốt truyện.
Từ đó mới kể được nội dung câu chuyện,... Ngoài ra nó còn tác động tốt để học
các môn học khác như: Toán, Đạo đức, Tự nhiên và Xã hội,... Chẳng hạn khi
học Toán muốn làm bài trước hết phải đọc được yêu cầu của bài, đọc bài đúng
và lưu loát sẽ giúp các em nắm được yêu cầu của bài nhanh và chính xác, làm
bài sẽ tốt hơn. Hay đối với bài toán có lời văn, học sinh phải đọc bài được nhiều
lần mới giúp học sinh phân tích bài toán nhanh hơn từ đó tìm lời giải dễ dàng
hơn,... Ngược lại thông qua các môn học khác cũng tạo điều kiện cho các em rèn
kĩ năng đọc.
Kết quả khảo nghiệm đã cho thấy hiệu quả của đề tài trong việc rèn kĩ
năng đọc cho học sinh không phải ngày một, ngày hai mà có được. Mà đó là kết
quả của một quá trình dày công khổ luyện của cả cô và trò. Qua quá trình vận
dụng các biện pháp nêu trên một cách linh hoạt sáng tạo cùng với sự kiên trì,
chịu khó trong việc dạy Tiếng Việt cho học sinh. Trong nhiều năm qua, lớp tôi
chủ nhiệm đã đạt được những thành tích đáng kể. Đầu năm học, đa số các em
chưa biết đọc, chưa biết viết, tỉ lệ học sinh Hoàn thành xuất sắc còn hạn chế.
GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

20


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

Nhưng đến nay, các em đã có ý thức tự giác thích học môn Tiếng Việt. Số học
sinh Chưa hoàn thành giảm hẳn và số học sinh Hoàn thành tăng dần theo thời
gian. Khả năng đọc, viết của các em tốt hơn, các em đã thích hoạt động, giao
tiếp bằng Tiếng Việt.
- Giá trị khoa học mang lại khi thực hiện đề tài: Nghiên cứu và áp dụng
thực tế rèn kĩ năng đọc hàng ngày có vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng
cao chất lượng dạy – học môn Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 nói

riêng và học sinh bậc Tiểu học nói chung. Bên cạnh đó nâng cao khả năng giao
tiếp bằng Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
III. 1. Kết luận
Phương pháp giảng dạy của giáo viên có tính chất quyết định đến chất
lượng giờ dạy, kết quả giáo dục. Hiện nay đối với môn Tiếng Việt nói chung
môn Tập đọc nói riêng bao gồm sách giáo khoa, tranh ảnh, vật thật,... à phương
tiện dạy học môn Tiếng Việt theo hướng thực hành giao tiếp, chú ý đến kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết mà ở những giờ Tập đọc thì kĩ năng đọc lại là hiệu quả. Vận
dụng phương hướng vừa nêu kết quả cao hay thấp phụ thuộc vào sự nhiệt tình và
mạnh dạn cải tiến phương pháp dạy và học. Muốn cải tiến được phương pháp
học Tập đọc sao cho phù hợp và đạt hiệu quả cao hơn, phải nghiên cứu, tìm tòi,
sáng tạo. Như vậy công tác nghiên cứu rất quan trọng, nó giúp cho phương
pháp, nội dung giáo dục luôn được phát huy những tích cực để phù hợp với hoàn
cảnh thực tiễn. Việc rèn đọc cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh dân
tộc thiểu số nói riêng cũng cần có sự tìm ra phương pháp, hình thức kĩ năng tốt
nhất và đạt hiệu quả cao nhất. Trong quá trình giảng dạy tôi đã nghiên cứu đầy đủ
các phương pháp hình thức kĩ năng đọc cho học sinh qua phân môn Tập đọc nói
riêng và học sinh Tiểu học nói chung. Từ đó đề ra những biện pháp tối ưu nhằm
phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm, tồn tại. Tôi đã áp dụng và thực hiện
thành công các biện pháp sau:
- Chuẩn bị giờ dạy của giáo viên.
- Chuẩn bị đồ dùng trực quan.
- Chuẩn bị của học sinh.
- Đọc mẫu của giáo viên.
- Hướng dẫn học sinh kĩ năng đọc.
+ Luyện đọc đúng.
+ Luyện đọc nhanh.
+ Luyện đọc thầm – đọc hiểu.
+ Luyện đọc diễn cảm.

+ Luyện đọc thuộc lòng.
- Tổ chức giờ học thân thiện – học sinh tích cực.
GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

21


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

- Tăng cường Tiếng Việt và bài tập bổ trợ cho học sinh dân tộc thiểu số
lớp 3.
- Chơi trò chơi luyện đọc.
- Kết hợp giữa gia đình và nhà trường.
Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng của nghiên cứu những biện
pháp dạy học đó là nhiệm vụ của người giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, ở
Tiểu học cần có những kiến thức sâu rộng, phải không ngừng học hỏi rèn luyện
kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 trong thực tế hiện nay cũng như
mức độ tiếp thu của học sinh, thông qua phương pháp giảng dạy. Qua một số
biện pháp tôi cũng mong muốn góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả
rèn đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3 nói riêng và hiệu quả giáo dục nói
chung cho tất cả phân môn phù hợp với mọi đối tượng. Thể hiện được ý thức
của con người trong quá trình học tập và rèn luyện,….
III. 2. Kiến nghị, đề xuất
- Đối với nhà trường: Quan tâm hơn về cơ sở vật chất giúp cho các em
học sinh dân tộc thiểu số có điều kiện tốt hơn nữa để học tập như mua sắm đầy
đủ đồ dùng dạy học phục vụ cho môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác.
- Đối với giáo viên: Cần phải rèn kĩ năng đọc, viết thật chuẩn, thường
xuyên sử dụng đồ dùng dạy học trong giảng dạy, tự học hỏi, rèn luyện mình để
thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Giáo viên phải kiên trì, vượt
khó, tìm tòi, sáng tạo và có bản lĩnh, có tinh thần trách nhiệm cao, say mê với

công việc, tận tụy với học sinh.
Trên đây là “Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc
thiểu số lớp 3” của bản thân tôi trong quá trình trực tiếp giảng dạy và rèn kĩ
năng đọc cho học sinh. Tuy bước đầu đã thu được những kết quả nhất định song
không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Tôi kính mong nhận được sự đóng
góp, bổ sung của chuyên môn nhà trường, của các đồng nghiệp để nâng cao hiệu
quả trong công tác rèn kĩ năng đọc cho học sinh./.
Krông Ana, ngày 06 tháng 02 năm 2016.
Người viết

Phạm Thị Phượng

GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

22


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CẤP TRƯỜNG
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CẤP HUYỆN
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

23


Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 3

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công văn 9832/BGDĐT-GDTH ngày 01/9/2006 về việc Hướng dẫn
thực hiện chương trình các môn học lớp 1, 2, 3, 4, 5.
2. Công văn số 8114/BGDĐT-GDTH V/v nâng cao chất lượng dạy học
cho học sinh dân tộc thiểu số ban hành ngày 15 tháng 9 năm 2009.
3. Công văn 9890/ BGD&ĐT – GDTH ngày 17 tháng 9 năm 2007 về việc
Hướng dẫn nội dung, phương pháp giáo dục cho học sinh có hoàn cảnh khó
khăn.
4. Công văn 5842/BGD&ĐT –VP ngày 01 tháng 09 năm 2011 Hướng dẫn
điều chính nội dung dạy học các môn học cấp tiểu học.

5. Quyết định số 16/2006/QĐ- BGD&ĐT về việc ban hành chương trình
giáo dục phổ thông của Bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo ban hành ngày 05
tháng 5 năm 2006.
6. Thông tư 41/2010/TT-BGDĐT ngày 30/12/2010 ban hành Điều lệ
trường tiểu học.
7. Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28/8/2014 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo Quy định đánh giá học sinh tiểu học.
8. Sách giáo khoa, sách giáo viên lớp 3.
9. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học.
10. Dự án PEDC dạy học cho HS có hoàn cảnh khó khăn (Dự án GDTH
cho trẻ có hoàn cảnh khó khăn).
11. Chuẩn kiến thức - kĩ năng lớp 3.

GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu

24



×