1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận án
Năm 1987, Quốc hội đã ban hành Luật Ðầu tư nước ngoài
tại Việt Nam, có hiệu lực thi hành từ ngày 111988. Hơn 30 năm
qua, thu hút, sử dung ĐTNN ở Việt Nam, một mặt, ĐTNN đã có
những đóng góp quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội, góp
phần tích cực hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cải thiện môi
trường đầu tư kinh doanh, phát triển quan hệ đối ngoại, hợp tác,
hội nhập quốc tế, bảo đảm an ninh quốc gia và nâng cao uy tín, vị
thế của nước ta trên trường quốc tế. Thực tiễn 30 năm qua cũng
cho thấy ÐTNN luôn đóng vai trò là một trong những bộ phận cấu
thành quan trọng, động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với 184 tỷ USD trong trong
tổng số 334 tỷ USD đầu tư được giải ngân trong 30 năm, ÐTNN đã
bổ sung nguồn vốn quan trọng vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội góp
phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh
tế, như: dầu khí, viễn thông, điện, điện tử...; ÐTNN góp phần phát
triển nhiều ngành dịch vụ chất lượng cao như tài chính ngân
hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn luật, vận tải biển, logistics,
giáo dục đào tạo, y tế, du lịch...; chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp,
nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu, mở rộng thị trường
xuất khẩu, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và
từng bước đưa Việt Nam tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá
trị toàn cầu. Mặt khác, ĐTNN ở Việt Nam cũng đã gây nên những
tác động bất lợi nhất định về KT XH nói chung và ANKT nói
riêng. Trước hết, liên kết của khu vực ÐTNN với khu vực trong
nước hiệu ứng lan tỏa còn hạn chế, năng suất chưa cao có dấu
hiệu chèn lấn. Chuyển giao công nghệ chưa đạt được kết quả như
kỳ vọng. Tỷ trọng đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs)
còn thấp; đầu tư từ Hoa Kỳ, EU vào Việt Nam còn chưa tương
xứng với tiềm năng. Một số dự án ÐTNN chưa tuân thủ nghiêm túc
quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Vẫn có tình trạng
doanh nghiệp có vốn ÐTNN sử dụng máy móc, thiết bị thế hệ cũ,
không phù hợp, gây ô nhiễm môi trường. Ðặc biệt đã có một số dự
án gây sự cố ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Một số doanh
nghiệp ÐTNN vi phạm pháp luật kê khai lỗ giả, lãi thật, tìm cách
2
chuyển giá thường xuyên và rất tinh vi để tìm cách trốn thuế, gây
thất thu lớn cho ngân sách nhà nước. Thực tế đã có nhiều doanh
nghiệp Việt Nam phải rút khỏi liên doanh, doanh nghiệp trở thành
100% vốn nước ngoài. Việc tranh chấp hợp đồng lao động, lợi ích
dẫn đến đình công trong các doanh nghiệp ĐTNN có xu hướng gia
tăng gây bất ổn về mặt xã hội... Trong một số trường hợp, việc
thu hút ÐTNN chưa tính toán đầy đủ, toàn diện các yếu tố liên
quan đến quốc phòng, an ninh.
Trong xu thế mở của hội nhập, thu hút ĐTNN sự quan
tâm đặc biệt của các quốc gia đối với lợi ích kinh tế và ANKT
quốc gia khiến cho vấn đề ANKT ngày càng trở thành một nhân
tố quan trọng, có tác động ảnh hưởng lớn không chỉ đối với
ANQG mà với cả an ninh khu vực và quốc tế. Trong khi đó, nhận
thức về các mối đe doạ ANKT quốc gia do tác động của ĐTNN ở
Việt Nam còn chưa đầy đủ và chưa theo kịp những diễn biến
nhanh chóng của tình hình, đặc biệt là vấn đề ANTC, ANLT,
ANNL. Chúng ta vẫn còn có những lỗ hổng trong chiến lược thu
hút và sử dụng ĐTNN về quản lý nhà nước và bảo đảm an ninh
quốc gia nói chung và an ninh kinh tế nói riêng.
Lý luận và thực tiễn tác động của ĐTNN đối với những
nước nhận đầu tư trên nhiều lĩnh vực, nhất là ANKT đã thu hút sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học dưới nhiều góc độ,
phạm vi khác nhau và đạt được những kết quả nhất định. Tuy
nhiên, đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
đầy đủ, có hệ thống về tác động của ĐTNN đến ANKT ở Việt
Nam dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị, yêu cầu đặt ra là cần
tiếp tục làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn vấn đề trên, từ đó đề
xuất các quan điểm và các giải pháp phát huy tác động tích cực,
hạn chế tác động tiêu cực của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam. Với
ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài “Tác động của đầu tư nước ngoài
đến an ninh kinh tế ở Việt Nam” làm luận án tiến sĩ kinh tế,
chuyên ngành kinh tế chính trị của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của ĐTNN đến
ANKT ở Việt Nam, trên cơ sở đánh giá thực trạng, đề xuất quan điểm và
giải pháp phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của ĐTNN
đến ANKT ở Việt Nam thời gian tới.
3
án.
* Nhiệm vụ:
Tổng quan tinh hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài của luận
Xây dựng cơ sở lý luận về tác động của ĐTNN đến ANKT; đưa
ra quan niệm, nội dung tác động của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam.
Khảo sát, đánh giá thực trạng tác động tích cực, tiêu cực của
ĐTNN đến ANKT, chỉ ra nguyên nhân và những mâu thuẫn đặt ra cần giải
quyết từ thực trạng tác động của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam.
Đề xuất quan điểm và giải pháp phát huy tác động tích cực, hạn
chế tác động tiêu cực của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Tác động của ĐTNN đến
ANKT.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu tác động của
ĐTNN đến ANKT bao gồm an ninh tài chính, an ninh lương thực
và an ninh năng lượng.
Không gian nghiên cứu: Trên lãnh thổ Việt Nam
Về thời gian nghiên cứu: Các số liệu khảo sát từ năm
2011 đến 2018.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên
cứu
* Cơ sở lý luận: Luận án dựa vào lý luận của chủ nghĩa
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xuất khẩu tư bản, về phát
triển kinh tế đối ngoại và ANKT trong nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước.
* Cơ sở thực tiễn: Luận án dựa trên cơ sở khảo sát, phân
tích, đánh giá và tổng hợp tình hình thực tiễn các tỉnh thành trong
nước về xử lý tác động của ĐTNN đến ANKT những năm qua;
dựa vào những số liệu, tư liệu trong các công trình nghiên cứu, các
cuộc hội thảo trong và ngoài nước được công bố trên các tạp chí;
các văn bản báo cáo của Chính phủ, văn bản hướng dẫn thực hiện
các chính sách của các Bộ ngành và các báo cáo của UBND các tỉnh
thành trong cả nước về các vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác
Lênin, luận án sử dụng các phương pháp: Trừu tượng hóa khoa
học; lôgic lịch sử; phân tích tổng hợp; thống kê so sánh,
phương pháp chuyên gia để xây dựng và hoàn thiện luận án.
5. Những đóng góp mới của luận án
4
Xây dựng quan niệm riêng và luận giải làm rõ các nội dung,
tiêu chí tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế ở Việt
Nam.
Luận án phân tích, đánh giá làm rõ thực trạng tác động tích
cực, tiêu cực của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam giai đoạn 2011
2018, xác định nguyên nhân và chỉ ra năm vấn đề bức thiết đặt ra cần
tập trung giải quyết trong sự tác động của ĐTNN đến ANKT ở Việt
Nam.
Từ cơ sở lý luận, thực tiễn, nguyên nhân và những vấn đề
đặt ra, luận án đề xuất bốn quan điểm và năm giải pháp nhằm phát
huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của ĐTNN đến
ANKT ở Việt Nam thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Góp phần luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về
tác động của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu
của luận án là cơ sở lý luận, thực tiễn để các cấp tham khảo trong
chỉ đạo quá trình thu hút ĐTNN và bảo đảm ANKT ở Việt Nam
hiện nay. Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu
khoa học, giảng dạy, học tập những vấn đề có liên quan đến tác
động của đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Luận án bao gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết); danh mục
các công trình của tác giả đã công bố có nội dung liên quan đến
luận án; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu nướ c ngoài liên quan
đến đề tài
1.1.1. Công trình nghiên cứu về an ninh và an ninh kinh
tế
Katarzyna Zukrowska (1999), “The link between economics,
stability and security in a transporming economy”/ (Sự liên kết giữa
kinh tế, ổn định và an ninh trong nền kinh tế chuyển đổ); Report of a
workshop organized by the Institute of Defence and Strategic
5
Studies (IDSS) (2003), “Globalization and Economic Security in
East Asia Governance and Institutions/ (Toàn cầu hóa kinh tế và
an ninh ở khu vực Đông Á Quản trị và thể chế); Miles Kahler
(2004), “Economic security in an era of globalization: defintion and
provision”/ (An ninh kinh tế trong thời đại toàn cầu hóa: định nghĩa
và luận chứng); Valeriu Ioan Franc (2010), “Some Opinions on the
Relation between Security Economy and Economic Security”/ (Một số
ý kiến về quan hệ giữa kinh tế an ninh và an ninh Kinh tế); Stephen
M.Carmel (2013), “Globalization, security, and economic wellbeing”/
(Toàn cầu hóa, an ninh, và sự thịnh vượng của nền kinh tế).
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về thương mại quốc tế,
đầu tư nước ngoài và tác động của an ninh đến đầu tư nước
ngoài
Salvador Barrios, Holger Gorg, Eric Albert Strobl (2004),
“Analyzing the impact of Foreign direct investment on the
development of domestic firms”/ (Phân tích các tác động của đầu
tư trực tiếp nước ngoài đến sự phát triển của doanh nghiệp trong
nước). Asiedu (2006), “Foreign direct investment in Africa: The role of
natural resources, maket size, government policy, institions and politcal
íntability”/ (Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Châu Phi: Vai trò của
nguồn tài nguyên thiên nhiên, quy mô thị trường, chính sách, các tổ
chức cùng sự bất ổn chính trị); Carmen Raluca Stoian & Roger
Vickerman (2005), “The Interplay between Foreign Direct
Investment, Security and European Integration: The Case of the
Central and Eastern European Countries”/ (Tương tác giữa Đầu tư
trực tiếp nước ngoài, An ninh và hội nhập Châu Âu: Trường hợp
các nước Trung và Đông Âu); Robert E.Lipsey and Fredrik Sjoholm
(2006), “The Impact of Inward FDI on Host Countries: Why Such
Different Answers”/ (Tác động của FDI lên nước chủ nhà: Tại sao
có những tác động khác biệt). Faramarz AKARAM (2008),
“Foreign Direct Investment in Developing Countries: Impact on
Distribution and Employment”/ (Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
các nước đang phát triển: Tác động vào phân phối và việc làm);
Mohammad Sharif Karimi and Zulkornain Yusop (March 2009),
“FDI and Economic Growth in Malaysia”/ (Đầu tư trực tiếp nước
ngoài và tăng trưởng kinh tế ở Malaysia). World Inve stment Report
(2011), “Nonequity Modes Of International Production And
Development”/ (Các chế độ không công bằng của sản phẩm quốc
6
tế và trong phát triển); Avinash Dixit (2011), “International Trade,
Foreign Direct Investment, and Security”/ (Thương mại quốc tế,
đầu tư trực tiếp nước ngoài và an ninh; Dickson Oriakhi Presley
Osemwengie (2012),“The Impact of National Security on Foreign
Direct Investment in Nigeria: An Empirical Analysis”/ (Các tác
động của an ninh quốc gia đến đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Nigeria: Một phân tích thực nghiệm); Viviane Bath (March
2012),“Foreign Investment, the National Interest and National
Security Foreign Direct Investment in Australia and China”/ (Đầu
tư nước ngoài, lợi ích quốc gia và an ninh quốc gia Đầu tư nước
ngoài ở Úc và Trung Quốc). John Dunning (2014), “Why Do
Companies Invest Overseas?”/ (Vì sao các doanh nghiệp đầu tư ra
nước ngoài).
1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề
tài
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về đầu tư nước ngoài
Đinh Văn Hồng (2002), “Hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại khu kinh tế trọng điểm phía Nam Những vấn đề đặt ra
cho công tác an ninh”; Nguyễn Trọng Xuân (2002), “Đầu tư trực
tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam”; Trần Xuân Tùng (2005), “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Việt Nam Th ực tr ạng và giải pháp”; Đỗ Đức Bình và
Nguyễn Thường Lạng (2006), “Những vấn đề kinh tế xã hội nảy
sinh trong đầu tư trực tiếp nước ngoài: kinh nghiệm Trung Quốc
và thực tiễn Việt Nam” ; Nguyễn Thị Tuệ Anh (2006), “Tác động
của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam”; Nguyễn Mạnh Thắng (2008), “Đình công trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Những vấn đề đặt ra đối với
công tác an ninh, trật tự” Trần Tuyết Lan (2014), “Đầu tư trực
tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững ở vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ”; Nguyễn Trung Thông (2016), “ Tác động
của đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nướ c ngoài lên các nề n
kinh tế ASEAN”; Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), “30 năm thu hút
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tầm nhìn và cơ hội mới trong kỷ
nguyên mới”
1.2.2. Các ông trình nghiên cứu về an ninh kinh tế, bảo
vệ an ninh quốc gia
7
Trần Đại Quang (1996), “Tăng cường quản lý nhà nước về
an ninh quốc gia ở nước ta hiện nay”; Bùi Mậu Quân (2001
2002),“Thực trạng và giải pháp về công tác bảo vệ an ninh kinh tế
trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Hải
Dương”; Bùi Trung Thành (2001), “Hoạt động xâm phạm an ninh
quốc gia trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài thực trạng và các giải
pháp phòng ngừa, đấu tranh của các cơ quan an ninh”; Bùi Trung
Thành (2002), “Bảo vệ an ninh kinh tế trong giai đoạn hiện nay ở nước
ta Những vấn đề lý luận và thực tiễn”; Trần Kim Ngọc (2003),“An
ninh trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh và
một số tỉnh phía Nam” Nguyễn Xuân Thắng (2006), “Chênh lệch
phát triển và an ninh kinh tế ở ASEAN ”; Nguyễn Văn Dũng
(2007),“Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các tỉnh biên gi ới phía Bắc
Nh ững v ấn đề đặt ra cho công tác bảo đảm an ninh tr ật t ự” ;
Nguyễn Thường Lạng (2008), “An ninh trong đầu tư nướ c ngoài
tại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế qu ốc t ế” ; Nguyễn
Xuân Yêm (2008), “An ninh kinh tế thời kỳ hội nhập và gia nhập
WTO”; Nguyễn Hồng Hải (2010) “Công tác bảo vệ an ninh kinh
tế đối với hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam với Mỹ” ; Đỗ
Ngọc Quang (2011), “Một số thách thức về an ninh quốc gia trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế”; Nguyễn Thị Kim Hồng & Nguyễn
Thị Bé Ba (2011),“An ninh lương thực vùng đồng bằng sông Cửu
Long” Phạm Ngọc Hiền, Nguyễn Văn Lan, Nguyễn Văn Việt, Lê
Thị Quỳnh (2011), “Hội nhập kinh tế quốc tế những vấn đề đặt
ra đối với công tác Công an”; Trần Minh Tơn (2014),“Bảo đảm
an ninh môi trường, phục vụ nhiệm vụ phát triển bền vững đất
nước trong tình hình mới”; Lê Minh Thảo (2014), “Bảo đảm an
ninh các khu công nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội” ; Nguyễn
Ngọc Thế (2014), “Công tác bảo đảm an ninh kinh tế nông nghiệp,
những vấn đề lý luận và thực tiễn”; Nguyễn Thị Mùi (2015), “An
ninh tài chính tiền tệ ở Việt Nam trước các biến động của thị
trường tài chính thế giới”; Tô Lâm, Nguyễn Xuân Yêm (2017),
“An ninh phi truyền thống trong thời kỳ hội nhập quốc tế”; Tạ
Ngọc Tấn, Phạm Thành Dung, Đoàn Minh Huấn (2018), “An ninh
phi truyền thống những vấn đề lý luận và thực tiễn”
8
ngoài
1.2.3. Các công trình nghiên cứu về sự tác động của đầu tư nước
Trần Xuân Dung (2006), “Hoạt động tài trợ, đầu tư nước ngoài
tại Tây Nguyên và những vấn đề đặt ra đối với công tác an ninh”; Trần
Quang Thắng (2012), “Những vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh trong đầu
tư trực tiếp nước ngoài của một số nước Châu Á và giải pháp cho Việt
Nam”; Vũ Đình Ánh (2012), “Chống chuyển giá và một số vấn đề tài
chính liên quan đến FDI”; Phạm Văn Thừa (2013), “Những tác động tiêu
cực về kinh tế của đầu tư trực tiếp nước ngoài và một số vấn đề đặt ra
đối với công tác an ninh kinh tế ở nước ta hiện nay”; Nguyễn Thị Thu
Hoài (2014), “Khủng hoảng tài chính toàn cầu: Ứng phó của thế
giới và của Việt Nam”
1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học đã được công bố và những vấn đề đặt ra luận án
cần tiếp tục giải quyết
1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học đã được công bố liên quan đến đề tài luận án
Qua khảo sát các công trình liên quan cho thấy, các tác giả
trong và ngoài nước đã tập trung nghiên cứu đề cập đến nhiều khía
cạnh khác nhau về ĐTNN, ANKT và tác động của ĐTNN đến
ANKT.
Một là: Các công trình này đã trình bày các khái niệm, phạm
trù kinh tế và ANKT. Tuy nhiên, các khái niệm, phạm trù cũng như
các mối quan hệ và sự ảnh hưởng của ANKT được nghiên cứu ở
dạng chung nhất trong các khu vực và thế giới. An ninh và ANKT
trong thời kỳ toàn cầu hóa và những nhân tố ảnh hưởng đến nó,
cần được đề cập cụ thể ở từng lĩnh vực, trong mỗi quốc gia. Các
công trình này giúp cho nghiên cứu sinh có thêm hiểu biết về tên
gọi, mối quan hệ qua lại giữa kinh tế với ANKT.
Hai là: Một số công trình đã đề cập đến ảnh hưởng của
ANKT nước sở tại đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và vai
trò của chính phủ trong việc duy trì sự ổn định của an ninh để thúc
đẩy thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, các công
trình mới chỉ phản ánh đến các chính sách thu hút đầu tư, hoặc so
sánh lợi ích, có ít công trình nghiên cứu các tác động bất lợi của
ĐTNN đến ANKT trong nước một cách cụ thể.
Ba là, các công trình khác đã đưa ra những vấn đề nảy sinh
trong đầu tư trực tiếp nước ngoài cả về mặt nhân lực, kinh tế, xã
hội. Một số công trình đã trình bày được thực trạng đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Bắc Bộ và một số tỉnh vùng kinh tế trọng điểm
9
phía Nam góp phần phát triển bền vững và bảo đảm an ninh. Tuy
nhiên, các tác động của ĐTNN đến ANKT chưa được các công
trình đề cập đến.
Bốn là: Một số công trình đã nêu lên và phân tích các vấn đề
an ninh trong hội nhập và ĐTNN. Đã chỉ ra những ảnh hưởng của
ĐTNN tại Việt Nam và những thách thức an ninh quốc gia trong
quá trình hội nhập. An ninh tài chính tiền tệ, an ninh thông tin, an
ninh lương thực, an ninh môi trường, an ninh trong hoạt động xuất
nhập khẩu cũng đã được một số tác giả đề cập. Các tác giả cũng
đã đưa ra các giải pháp để đảm bảo ANKT trong các hoạt động
phát triển KT XH. Một số công trình đã đề cập đến thực trạng,
giải pháp công tác bảo vệ ANKT trong lĩnh vực FDI và tại các khu
công nghiệp trên địa bàn các tỉnh, thành phố. Đề cập thực trạng
hoạt động phá hoại ANKT của các thế lực thù địch lợi dụng FDI.
Một số công trình đã bổ sung, hoàn thiện lý luận nghiệp vụ an
ninh, bảo vệ an ninh các khu vực, địa bàn kinh tế đặc thù trong
điều kiện hội nhập và đề xuất, tham mưu cho lãnh đạo, các cơ
quan quản lý về hoạt động đầu tư trong khu vực. Có một số
công trình đã nghiên cứu, phân tích hệ thống lý luận nghiệp vụ
bảo vệ ANKT trong th ời điểm hiện tại, đưa ra các giải pháp
nâng cao hiệu quả t ổ ch ức th ực hi ện công tác bảo đảm ANKT
của ngành công an trong lĩnh vực ĐTNN. Ở đây, vấn đề mà
nghiên cứu sinh quan tâm là các tác động tích và cực tiêu cực của
ĐTNN đến những gì thuộc ANKT trong ở các vùng miền, cũng
như ở phạm vi cả nước. Công tác bảo vệ ANKT cần phải ti ến
hành như thế nào trước tác động của ĐTNN. Do vậy, cần thiết nghiên
cứu chi tiết tác động của ĐTNN cả chiều tích cực và bất lợi đến các
vấn đề cụ thể của ANKT.
Năm là, các công trình đã đề cập đến những tác động tiêu
cực của FDI đến các vấn đề kinh tế xã hội và ANKT. Các tác động đó
thể hiện ở những hoạt động phá hoại an ninh trên cơ sở các khoản tài
trợ, đầu tư đã được các tác giả đề cập, phân tích và đưa ra các giải
pháp.
Cho đến nay, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách có hệ thống tác động tích cực và tiêu cực của ĐTNN đến
ANKT ở Việt Nam. Do vậy “Tác động của đầu tư nước ngoài
đến an ninh kinh tế ở Việt Nam” cần được nghiên cứu một cách
hệ thống cả về lý luận và thực tiễn, cùng các quan điểm và giải
pháp về nhận thức, về quản lý, về nghiệp vụ bảo vệ ANKT trong
thời kỳ hội nhập nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tác
10
động tiêu cực của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam thời gian tới.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra mà luận án cần tiếp tục
nghiên cứu
Từ tổng quan các công trình đã được công bố trong nước
và quốc tế, tác giả luận án nhận thấy còn một số khoảng trống
khoa học trước những tác động của ĐTNN đến ANKT tại Việt
Nam. Một là, đầu tư nước ngoài và an ninh kinh tế là gì? Quan niệm
tác động của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam như thế nào? Nội dung tác
động ra sao? Hai là, thực trạng tác động cả mặt tích cực, tiêu cực của
ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam như thế nào? Nguyên nhân thực trạng
và những vấn đề cần giải quyết từ tác động của ĐTNN đến ANKT
trong thời gian tới? Ba là, để phát huy những tác động tích cực, hạn
chế những tác động tiêu cực của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam
cần thực hiện đồng bộ các quan điểm, giải pháp nào?
Để trả lời cho các câu hỏi trên, luân án tập trung luận giải và
làm rõ những vấn đề sau: Thứ nhất, xây dựng khung lý luận về
ĐTNN, ANKT và sự tác động của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam;
Thứ hai, khảo sát, đánh giá khách quan thực trạng tác động của ĐTNN
đến ANKT ở Việt Nam, chỉ rõ nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
cần giải quyết trong thời gian tới; Thứ ba, đề xuất h ệ th ống các
quan điểm, gi ải pháp nhằm phát huy tác động tích cực, kh ắc
phục tác động tiêu cực của ĐTNN đế n ANKT ở Vi ệt Nam th ời
gian t ới.
Kết luận chương 1
Trong chương 1, tác giả đã tổng quan 16 công trình của tác
giả nước ngoài; 33 công trình của các tác giả trong nước dưới
nhiều loại hình khác nhau, như sách chuyên khảo, luận án tiến sĩ và
các đề tài, báo khoa học. Trên cơ sở đó, NCS đã khái quát được
những thành công và hạn chế của các công trình, từ đó đưa ra
nhũng vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI ĐẾN AN NINH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
2.1. Những vấn đề chung về đầu tư nước ngoài và an ninh kinh
tế
2.1.1. Quan niệm, hình thức và vai trò của đầu tư nước
ngoài
2.1.1.1. Quan niệm đầu tư nước ngoài
Với Luật Đầu tư năm 2014 đã có nhiều điểm mới về ĐTNN
vào Việt Nam. Theo luật này thì các hình thức đầu tư tại Việt Nam
11
được áp dụng chung cho các nhà đầu tư (theo mục 13, Điều 3 của
Luật Đầu tư năm 2014 thì “Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện
hoạt động đầu tư kinh doanh, gồm nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư
nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”.
2.1.1.2. Hình thức đầu tư: Luật Đầu tư năm 2014 đã quy
định rõ các hình thức đầu tư tại Việt Nam. Theo đó, có 4 hình thức
đầu tư như sau: Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình
thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế;
hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư (hợp đồng PPP);
hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng BCC).
2.1.1.3. Vai trò của đầu tư nước ngoài
1) Bổ sung một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát
triển ở trong nước, giải quyết được khó khăn về vốn nội lực đối
với nước đầu tư; 2) Góp phần làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế
theo hướng phát triển công nghiệp, khai thác tiềm năng; 3) Thúc
đẩy chuyển giao công nghệ, kỹ thuật, phương pháp quản lý tiên
tiến, hiện đại một cách trực tiếp và nhanh chóng, tạo tiền đề cho
việc đổi mới công nghệ và phát huy năng lực trong nước và mục
tiêu phát triển; 4) Tạo điều kiện cho nước tiếp nhận đầu tư tiếp
cận với thị trường thế giới, mở rộng ảnh hưởng, khai thác tiềm
năng, tìm tòi và phát huy lợi thế của chính mình và thời đại, giúp
tham gia và cạnh tranh quốc tế; 5) Tạo ra nhiều việc làm cho
người lao động trong nước trên cơ sở phát triển các ngành nghề
mới hoặc các dịch vụ tổng hợp, góp phần khắc phục dần tình
trạng thất nghiệp; 6) Giúp cho nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện
tham gia vào các diễn đàn quốc tế và khu vực khác nhau, tạo lợi
thế trong các quan hệ song phương và đa phương cả về kinh tế và
chính trị, từng bước nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế.
2.1.2. An ninh kinh tế
2.1.2.1. Quan niệm An ninh kinh tế
Từ sự nghiên cứu phân tích ở trên, tác giả luận án quan niệm
rằng: ANKT là một bộ phận của an ninh quốc gia, là trạng
thái của nền kinh tế phát triển ổn định, có ít hoặc không có
nguy cơ đe dọa các lợi ích kinh tế cốt lõi của quốc gia, có khả
năng ngăn ngừa và đối phó có hiệu quả với những tác động
của nhân tố trong nước và quốc tế; ANKT bao gồm an ninh
tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực.
ANKT quốc gia là trạng thái của nền kinh tế phát triển ổn
12
định nền kinh tế tự chủ, có sức cạnh tranh quốc tế của các ngành
sản xuất trụ cột, thị trường phát triển… Nền kinh tế có ít hoặc
không có nguy cơ đe dọa các lợi ích kinh tế cốt lõi của quốc gia;
nền kinh tế có đủ khả năng ngăn ngừa và đối phó hiệu quả những
tác động của các nhân tố trong nước và quốc tế.
Nội dung của ANKT bao gồm: An ninh tài chính, an ninh năng
lượng và an ninh lương thực. Đó là sự phản ánh những lợi ích cốt lõi
của quốc gia, là cơ sở của quan hệ an ninh khác ở một quốc gia.
2.1.2.2. Các yếu tố cấu thành An ninh kinh tế
* An ninh tài chính là phạm trù chỉ trạng thái tài chính
ổn định, an toàn, vững mạnh, không bị khủng hoảng, có khả
năng ngăn ngừa chống đỡ một cách hiệu quả những tác động
tiêu cực bên trong và bên ngoài trong quá trình phát triển kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế qu ốc tế.
* An ninh lương thực: Năm 1996, FAO định nghĩa an ninh
lương thực, mà tác giả luận án rất đồng tình là: An ninh lương
thực tồn tại khi tất cả mọi người, ở mọi thời điểm, có thể tiếp cận
xã hội cả về vật chất và kinh tế tới lương thực một cách đầy đủ,
an toàn và đủ dinh dưỡng, đáp ứng nhu cầu và sở thích về ăn uống
của người dân cho một cuộc sống năng động và khỏe mạnh.
* An ninh năng lượng: Khái niệm ANNL đã trải qua nhiều
tranh luận và các cách tiếp cận khác nhau, tuy nhiên các quan niệm
hiện nay ở Việt Nam tương đối thống nhất, tác giả luận án cũng
đồng tình rằng: An ninh năng lượng là sự đảm bảo đầy đủ năng
lượng dưới nhiều dạng khác nhau, sạch và giá cả hợp lý.
2.2. Quan niệm, nội dung tác động của đầu tư nước
ngoài đến an ninh kinh tế ở Việt Nam
2.2.1. Quan niệm về tác động của đầu tư nước ngoài
đến an ninh kinh tế ở Việt Nam
Từ sự phân tích một số lý luận tác giả đưa ra quan niệm: Tác
động của đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế ở Việt Nam là hoạt
động của đầu tư nước ngoài với sự tham gia của các chủ thể tạo ra
những biến đổi tích cực và tiêu cực đến các yếu tố cấu thành an ninh
kinh tế như an ninh tài chính, an ninh lương thực, an ninh năng lượng
trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Quan niệm chỉ rõ những vấn đề sau:
13
Tác động của ĐTNN đến ANKT là hoạt động của các chủ
thể với tư cách là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực
hiện đầu tư tại Việt Nam . Trong thực tế, tác động của ĐTNN đến
ANKT thể hiện trên một số vấn đề như: Thứ nhất, ĐTNN với chủ
thể nó là những tập đoàn lớn, xuyên quốc gia, xét theo một ý nghĩa
nào đó, ĐTNN đã và đang trở thành người ra quyết sách đứng ở sau
hậu trường, của quá trình hình thành chính sách đối ngoại của một
quốc gia có chủ quyền. Thứ hai, điều cốt lõi của các nhà ĐTNN
quan tâm chỉ là sự khác nhau về tỉ lệ thu lợi so với các yếu tố và tài
nguyên của các nước và các khu vực khác nhau đối với nguồn vốn
lưu động, nhằm bảo đảm lời ích lớn nhất của nguồn vốn đầu tư.
Ba là, sự thúc đẩy ĐTNN trên quy mô lớn có tác động lớn đến
nước chủ nhà cả mặt tích cực và mặt tiêu cực.
2.2.2. Nội dung tác động của đầu tư nước ngoài đến an
ninh kinh tế ở Việt Nam
2.2.2.1. Tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh tài chính ở Việt
Nam
* Tác động tích cực của ĐTNN đến an ninh tài chính
Một là, tác động làm phát triển và ổn định an ninh tài chính trong
nước; Hai là, làm tăng tổng vốn đầu tư gián tiếp của xã hội; Ba là,
tác động tích cực vào phát triển thị trường tài chính nói riêng, hoàn
thiện các thể chế và cơ chế thị trường nói chung. Bốn là, tác động
làm tăng cường cơ hội và đa dạng hoá phương thức đầu tư, cải
thiện chất lượng nguồn nhân lực và thu nhập của đông đảo người
dân. Năm là, tác động như cú hích nâng cao năng lực và hiệu quả
quản lý nhà nước theo các nguyên tắc và yêu cầu kinh tế thị trường,
hội nhập quốc tế.
* Tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài đến an ninh tài
chính
Thứ nhất, các công ty đa quốc gia (TNCs) có thể can thiệp,
lũng đoạn nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng đến tự chủ nền tài
chính.
Thứ hai, tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài quá lớn lấn át đầu
tư trong nước; hoạt động đầu cơ tiền tệ, rút vốn đột ngột dẫn đến
nền kinh tế thị trường dễ phụ thuộc bên ngoài.
Thứ ba, ĐTNN rất hạn chế chuyển giao công nghệ mới có
tính cạnh tranh cao.
14
Thứ tư, tạo xung lực lạm phát trong nền kinh tế.
Thứ năm, tăng mức độ nhạy cảm và khả năng bất ổn về
kinh tế liên quan đến các nhân tố nước ngoài.
Thứ sáu, gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống chế
và lũng đoạn tài chính đối với các doanh nghiệp và tổ chức phát
hành chứng khoán.
Thứ bảy, tăng quy mô, tính chất và sự cấp thiết đấu tranh
với tình trạng tội phạm kinh tế quốc tế
2.2.2.2. Tác động của đầu tư nướ c ngoài đến an ninh
lươ ng thực ở Việt Nam
* Tác động tích cực c ủa ĐTNN đế n an ninh l ươ ng th ực
ở Vi ệt Nam
Thứ nhất, ĐTNN góp phần bổ sung nguồn vốn cho đầu tư
phát triển nông nghiệp.
Thứ hai, gia tăng cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng nông
sản thế giới.
Thứ ba: Đầu tư nước ngoài tác động làm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hiện đại hóa, đa dạng hóa
sản phẩm nông nghiệp cung ra thị trường.
Thứ tư: Đầu tư nước ngoài tác động đến nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực và tạo việc làm trong kinh tế nông nghiệp,
nông thôn.
* Tác động tiêu cực của ĐTNN đối với an ninh lương
thực ở Việt Nam.
Một là, các dự án ĐTNN trong nông nghiệp còn ít, vốn thấp và
phân bố không đều ở các lĩnh vực ảnh hưởng đến cung lương thực.
Hai là, làm biến đổi cơ cấu các nguồn lực gây bất lợi đối
với an ninh lương thực.
Ba là, gia tăng áp lực cạnh tranh trên thị trường nội địa.
Bốn là, tác động mạnh mẽ của các “rào cản kĩ thuật”
đối với các doanh nghi ệp, ng ười nông dân nguồn cung bảo
đảm an ninh l ương th ực.
Năm là, gây mất an ninh môi trườ ng doanh nghi ệp và
môi trườ ng sống của dân cư trên địa bàn đầu tư.
2.2.2.3. Tác động của đầu tư nướ c ngoài đến an ninh
năng lượ ng ở Việt Nam
* Tác động tích cực của Đầu tư nướ c ngoài đến an ninh
15
năng lượ ng ở Việt Nam
Một là, tác động đến giá năng lượng, nguồn cung cấp điện
và hoàn thiện chính sách năng lượng ở Việt Nam.
Hai là, làm dịch chuyển nền kinh tế nông nghiệp sử dụng
năng lượng chủ yếu dựa trên các loại nhiên liệu sinh khối truyền
thống sang nền kinh tế công nghiệp sử dụng các dạng năng lượng
tổng hợp và hiện đại.
* Tác động tiêu cực của ĐTNN đến an ninh năng lượng ở Việt
Nam
Một là, nhiều rủi ro trong cung ứng điện toàn quốc.
Hai là, tác động bất lợi đến quản lý tài nguyên năng lượng
và cơ chế giá năng lượng.
Kết luận chương 2
Trong chương 2, NCS đã xây dựng khung lý luận. Đây là
căn cứ quan trọng để NCS tiếp tục nghiên cứu thực trạng, thu hút
đầu tư nước ngoài và thực trạng tác động của đầu tư nước ngoài
đến an ninh kinh tế, từ đó đề xuất các quan điểm và các giải pháp
phát huy tắc động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của đầu tư
nước ngoài đến an ninh kinh tế thời gian tới
Chương 3
THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
ĐẾN AN NINH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
3.1. Khái quát về đầu tư nước ngoài ở Việt Nam thời gian
qua
Luận án đã tổng kết khái quán tình hình thu hút đầu tư
nước ngoài đến năm 2018 cự thể: Sau hơn 30 năm “đón” vốn FDI,
từ năm 1988 đến tháng 8/2018, 63 tỉnh, thành phố của cả nước
thu hút 26.438 dự án FDI của 129 quốc gia và vùng lãnh thổ còn
hiệu lực với tổng vốn đăng ký 333,83 tỷ USD, vốn thực hiện ước
đạt 183,62 tỷ USD, bằng 55% t ổng v ốn đăng ký còn hiệu lực
được giải ngân trong 30 năm, ÐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan
trọng vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Qua khái quán đầu tư nước ngoài ở Việt Nam thời gian
qua, NCS đi đến khẳng định: Trong một số trường hợp, vi ệc thu
hút ÐTNN chưa tính toán đầy đủ, toàn diện, thu hút đầu tư bằng
mọi giá... dẫn đến nguy cơ mất cân đối các biến số vĩ mô đe dọa
16
an ninh kinh tế như: (i) mức độ tăng trưởng vẫn còn thấp, chất lượng
tăng trưởng chưa thật sự bền vững; (ii) Cán cân thượng mại trong giai
đoạn từ 20012017 chủ yếu thâm hụt; (iii) Thâm hụt NSNN có xu
hướng tăng do hiệu quả sản xuất, đầu tư thấp. Để bù đắp thâm hụt
ngân sách, nếu Chính phủ phải vay nợ sẽ làm gia tăng gánh nặng cho
thế hệ tương lai cũng như tạo ra cuộc khủng hoảng nợ nếu quy mô
nợ vượt quá sức chịu đựng của ngân sách nhà nước. Đây là những
một nhân tố đe dọa đến tính bền vững của an ninh kinh tế trong giai
đoạn hiện nay.
3.2. Thực trạng tác động tích cực, tiêu cực của đầu tư
nước ngoài đến an ninh kinh tế ở Việt Nam
3.2.1. Tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh tài
chính
* Tác động tích cực của đầu tư nước ngoài đến an ninh tài
chính
Thứ nhất, đầu tư nước ngoài bổ sung vốn, tăng thu ngân
sách nhà nước thông qua thuế.
Như đã tổng quan về thu hút ĐTNN 30 năm qua, tính đến
tháng 8/2018 đã có hơn 26.500 dự án FDI, vốn đăng ký hơn 334 tỷ
USD, vốn thực hiện khoảng 184 tỷ USD. Nhà đầu tư nước ngoài
có đóng góp gần 20% GDP và là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho
vốn đầu tư đầu tư phát triển với tỷ trọng khoảng 23,7% trong tổng
vốn đầu tư toàn xã hội. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cho biết,
ĐTNN đóng vai trò là một động lực quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam, mức đóng góp của khu vực đầu tư
nước ngoài trong GDP của cả nước tăng từ 9,3% năm 1995 lên
19,6% năm 2017.
Thứ hai, ĐTNN tác động đến ANTC trên thị trường tài
chính quốc gia.
ĐTNN có đầy đủ điều kiện đảm bảo để tham gia phát
triển thị trường tài chính, trong đó có thị trường chứng khoán. N ăm
2016 mức vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt khoảng 2,53 triệu tỷ
đồng (đạt 56% GDP năm 2016) tăng 30% so với thời điểm cuối năm
2016; đối với thị trường trái phiếu, dư nợ tương đương khoảng
30,09% GDP. Năm 2017 vốn FII thông qua các hoạt động đầu tư góp
vốn, mua cổ phần của nhà ĐTNN lên tới 6,2 tỷ USD (tăng 45,1% so
với năm 2016). Điều này đồng nghĩa với việc đã có gần 140.000 tỷ
đồng vốn FII được nhà đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam. Việc
khai thác hiệu quả dòng vốn FII luôn gắn với công tác thu hút vốn
17
vào và kiểm soát rủi ro rút vốn ra. Dòng vốn FII vào Việt Nam là tín
hiệu tốt cho cả nền kinh tế, thị trường chứng khoán, bảo hiểm và
sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tiếp tục
được thực hiện đồng bộ.
* Tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài đến an ninh tài chính,
Thứ nhất, ĐTNN can thiệp, lũng đoạn nền kinh tế thị
trường, gây bất ổn cho nền tài chính quốc gia.
Các hoạt động lừa đảo, hoạt động rửa tiền, hoạt động
tiếp vốn cho các kinh doanh phi pháp và hoạt động khủng bố,
cùng các loại tội phạm và các đe doạ an ninh phi truyền thống
khác. Sự cộng hưởng của các hoạt động tội phạm và tác động
mặt trái của các dòng vốn kể trên, nhất là khi chúng diễn ra một
cách “có tổ chức” của giới đầu cơ hay lực lượng thù địch chính trị
quốc tế, sẽ ít nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt và lâu dài
gây tổn hại tới hoạt động kinh tế lành mạnh và làm tăng tính dễ
tổn thương và có thể gây ra lạm phát cao của nền kinh tế nước
tiếp nhận đầu tư trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay; thậm chí
trong một số trường hợp, chúng còn làm mất uy tín nhà nước, ảnh
hưởng và gián tiếp can thiệp vào chính trị, gây sụp đổ một nội các
chính phủ.
Thứ hai, đầu tư nước ngoài quá lớn sẽ chi phối và quyết định
các hoạt động sản xuất trong nước.
Hoạt động đầu cơ tiền tệ, rút vốn đột ngột dẫn đến nền kinh
tế thị trường dễ phụ thuộc bên ngoài. Sự gia tăng tỷ lệ nắm giữ cổ
phần đầu tư trong sản xuất chế tạo và thị trường tài chính, nhất là các
cổ phiếu, cổ phần sáng lập, được biểu quyết của các nhà đầu tư nước
ngoài đến một mức “vượt ngưỡng” nhất định nào đó sẽ cho phép họ
tham dự trực tiếp vào chi phối và quyết định các hoạt động sản xuất.
Thứ ba, ĐTNN ở Việt Nam thường là cũ, lạc hậu, gây ô
nhiễm môi trường và ít chuyển giao công nghệ mới.
Theo thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đào Quang Thu,
thống kê cho thấy trên 80% doanh nghiệp FDI sử dụng công nghệ
trung bình của thế giới, 56% sử dụng công nghệ cao, 14% ở mức
thấp và lạc hậu. Không ít trường hợp nhà đầu tư nước ngoài lợi
dụng sơ hở của luật pháp, yếu kém trong quản lý nhà nước để
nhập khẩu vào Việt Nam máy móc, thiết bị lạc hậu gây ô nhiễm
18
môi trường, khai tăng giá trị nhập khẩu và giá trị chuyển giao công
nghệ.
Thứ tư, ĐTNN gây bất ổn tâm lý cho nhà đầu tư trong
nước . Thứ năm, ĐTNN tác động làm cho thị trường chứng khoán
trong nước phát triển không bền vững dễ bị lũng đoạn
Thứ sáu, tội phạm kinh tế có yếu tố nước ngoài ngày càng
gia tăng, tinh vi và phức tạp hơn.
3.2.2. Tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh lương
thực
* Tác động tích cực của ĐTNN đến an ninh lương thực
Thứ nhất, ĐTNN giúp đẩy nhanh dòng lưu chuyển vốn
trên thế giới, đặc biệt là dòng vốn FDI vào Việt Nam qua đó tăng
nguồn vốn đầu tư vào nông nghiệp.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư),
tính đến tháng 2/2018, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) vào nông nghiệp là 350 triệu USD với 514 dự án. Nếu so
với tổng vốn đầu tư lũy kế vào ngành Nông nghiệp thì số vốn
này chỉ chiếm khoảng 1%. Nguồn v ốn này chủ yếu đến từ Nhật
Bản.
Thứ hai, ĐTNN bước đầu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hướng hiện đại hóa, đa dạng hóa sản phẩm nông
nghiệp.
Các dự án FDI đã thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu
nông, lâm nghiệp, đa dạng hóa sản phẩm. Tính đến thời điểm này, đã
có hơn 50 quốc gia và cùng lãnh thổ đầu tư trong lĩnh vực nông lâm
thủy sản của nước ta. Các quốc gia dẫn đầu là: Hàn Quốc, Nhật Bản,
Đài Loan, Hồng Kông, Malaysia. Nhật Bản là nhà đầu tư lớn trong lĩnh
vực này, cho đến nay, đã có các dự án triển khai thành công trong việc
ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp của Nhật Bản vào Việt
Nam
Thứ ba, đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm trong
nước.
Nông nghiệp nước ta đã đáp ứng cơ bản nhu cầu lương
thực và thực phẩm trong nước, an ninh lương thực đảm bảo, đã
hình thành những vùng sản xuất nông sản hàng hóa quy mô tương
đối lớn, tỷ suất hàng hóa tăng nhanh.
19
Thứ tư, tăng giá trị xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp Việt Nam.
Tổng kim ngạch Xuất khẩu 10 năm (2008 2017) đạt
261,28 tỷ USD, tăng bình quân 9,24%/năm; riêng năm 2017 đạt
36,52 tỷ USD, tăng 20,05 tỷ so với năm 2008 và dự kiến năm 2018
kim ngạch Xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 40 tỷ USD. Nông sản
Việt Nam hiện có mặt trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ. Xuất
khẩu nông sản Việt Nam đứng thứ 2 Đông Nam Á và thứ 16 thế
giới.
Thứ tư, góp phần đào tạo đội ngũ chất lượng cao và giải
quyết việc làm cho người lao động trong nông nghiệp.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê, tính đến
01/07/2008 lao động làm việc trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài có tổng cộng 1831,4 nghìn lao động, trong đó ngành nông
nghiệp chiếm khoảng 8,2% số lao động
* Tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài đến an ninh
lương thực
Một là, chưa thu hút được các nhà đầu tư lớn vào nông
nghiệp, phân bố chưa đồng đều
Các dự án ĐTNN trong nông nghiệp cũng chủ yếu đến từ các
nhà đầu tư của khu vực Châu Á có nền công nghệ chưa thực sự phát
triển cao như Thái Lan, Đài Loan, Indonesia… Nhà đầu tư từ những
nước có trình độ phát triển nông nghiệp cao như Mỹ, Nhật Bản, EU…
còn ít.
Hai là, thay đổi việc làm và thu nhập của người lao động,
bất ổn cho phát triển bền vững trong nông nghiệp.
Chất lượng cuộc sống của người dân sản xuất lương thực
không được cải thiện và dễ bị tổn thương. Hiện nay, lao động
sống trong nông thôn chiếm khoảng 70% tổng số lao động. Chính
vì vậy, thiếu tính toán kỹ ĐTNN vào lĩnh vực nông nghiệp có thể
ảnh hưởng tới việc làm của hầu hết lao động khu vực nông thôn.
Ba là, năng suất lao động nông nghiệp thấp làm gia tăng
áp lực cạnh tranh trên thị trường nội địa..
Bốn là, áp lực cạnh tranh, bảo đảm chất lượng của các nhà
sản xuất nông nghiệp trong nước trên thị trường quốc tế. Năm là,
20
đất đai nông nghiệp bị thu hẹp và môi trường sống bị hủy hoại.
3.2.3. Tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh năng
lượng
* Tác động tích cực của đầu tư nước ngoài đến an ninh năng
lượng
Thứ nhất, tăng vốn ĐTNN vào ngành năng lượng sạch,
năng lượng tái tạo, thức đẩy sử dụng công nghệ cao, tiêu tốn ít
năng lượng, cải thiện môi trường bảo đảm an ninh năng lượng
quốc gia.
Tính đến nay, đã có 9 nước đầu tư vào dự án FDI năng lượng
xanh bao gồm Hàn Quốc, Đức, Pháp, Ấn độ, Hoa Kỳ, Singapore, Nga,
Bỉ và Trung Quốc. Trong đó, đứng đầu là nhà đầu tư Hàn Quốc với
tổng vốn đầu tư đăng ký trên 371 triệu USD, chiếm 48%; Đức đứng
thứ 2 với tổng vốn đầu tư đăng ký là 226,68 triệu USD, chiếm 29,3%
tổng vốn đầu tư đăng ký trong lĩnh vực năng lượng xanh. Tiếp theo là
các nhà đầu tư Pháp, Ấn Độ và Hoa Kỳ với tổng vốn đầu tư đăng ký
lần lượt là 77,12 triệu USD; 59,22 triệu USD và 26 triệu USD
Thứ hai, ĐTNN tác động đến cơ chế giá năng lượng hợp lý
và phát triển kết cấu hạ tầng ngành năng lượng ở Việt Nam
* Tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài đến an ninh năng
lượng
Một là, cung ứng điện toàn quốc không bền vững
Các dự án ĐTNN về khí điện thường chậm tiến độ (nguồn
khí Lô B, khí Cá Voi Xanh và các dự án nguồn điện mới) làm thiếu
điện tăng thêm từ 7,2 đên
́ 7,5 tỷ kWh/năm. Các nguồn điện đã
được khởi công xây dựng để đưa vào vận hành trong thời gian tới
tới rất thấp so với yêu cầu, hiện nay chỉ có 7 dự án nhiêt điên than
̣
̣
với 7.860MW đã được khởi công và đang triển khai xây dựng.
Hai là, quản lý và cơ chế giá cả năng lượng gặp nhiều
bấp bênh, thiếu ổn định.
Việt Nam đã thu hút được 16 dự án FDI trong lĩnh vực năng
lượng xanh. Các nước đầu tư vào dự án FDI năng lượng xanh đều là
những nước có kinh tế phát triển và mới nổi như Hàn Quốc, Đức,
Pháp, Hoa Kỳ, Bỉ và Singapore, Ấn độ, Nga, Trung Quốc. Tuy nhiên,
số lượng dự án FDI trong lĩnh vực năng lượng xanh chưa tương xứng
21
với tiềm năng và thế mạnh của Việt Nam.
3.3. Nguyên nhân của thực trạng và những vấn đề
đặt ra cần giải quyết trong tác động của đầu tư nướ c ngoài
đến an ninh kinh tế ở Vi ệt Nam
3.3.1. Nguyên nhân tác động tích cực của đầu tư nướ c
ngoài đến an ninh kinh t ế ở Vi ệt Nam
Một là, xu thế khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế làm
tăng ĐTNN và bảo đảm lợi ích kinh tế, bảo đảm an ninh của các quốc
gia.
Hai là, sự hợp tác về kinh tế và ràng buộc giữa các quốc
gia trong quá trình phát triển tạo điều kiện tăng cường thu hút
ĐTNN và tác động có lợi của ĐTNN đối với phát triển kinh tế, đối
với ANKT đạt được nhiều hơn.
Ba là, chu kỳ sản phẩm, khai thác chuyển giao công nghệ,
chuyên gia và tiếp cận tài nguyên thiên nhiên đang thúc đẩy đầu tư
nước ngoài phát huy tác động tích cực, bảo đảm lợi ích nhà đầu tư và
lợi ích của nước nhận đầu tư.
Bốn là, mối quan hệ giữa doanh nghiệp trong nước với
doanh nghiệp nước ngoài có sự cởi mở nhất định góp phần bảo
đảm lợi ích của các bên.
Nam là, Nhà nước bảo đảm về chính sách, luật pháp đối với
ĐTNN.
Sáu là, năng lực của doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi
cung ứng cho doanh nghiệp ĐTNN từng bước được khẳng định.
Thứ bẩy, bước đầu phát huy được vai trò của các cơ quan,
ban ngành, chính quyền địa phương và các tổ chức trong doanh
nghiệp đối với hoạt động ĐTNN, đảm bảo ANKT trước tác động
của ĐTNN.
3.3.2. Nguyên nhân tác động tiêu cực của đầu tư nước
ngoài đến an ninh kinh tế ở Việt Nam
Một là, tác động mặt trái của toàn cầu hóa
Hai là, kinh tế thế giới diễn biến thăng trầm đã gián tiếp
gây bất ổn cho kinh tế Việt Nam, FII trực tiếp tác động đến an
ninh tài chính của Việt Nam.
Ba là, những vấn đề mang tính toàn cầu diễn biến phức tạp,
khó lường dẫn đến ĐTNN cũng phức tạp hơn, gây bất ổn an ninh
quốc gia.
Bốn là, một số các nhà ĐTNN vì tối đa hóa lợi nhuận và giá trị
thặng dư đã bất chấp tất cả, lợi dụng hoạt động ĐTNN chống phá ta về
kinh tế.
22
Năm là, sự thiếu đồng bộ về cơ chế, chính sách, các điều
luật, văn bản quy định về ĐTNN.
Sáu là, một bộ phận cán bộ, nhân dân nhận thức và hành động
về pháp luật và trước các mối đe dọa ANKT quốc gia trong hoạt động
ĐTNN còn có bất cập.
3.3.3. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng tác động của
đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế ở Việt Nam
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa sự mất cân đối trong thu hút đầu
tư nước ngoài với sự năng động, linh hoạt trong công tác xúc tiến đầu
tư và quản lý ĐTNN.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao hiệu quả ĐTNN
và đảm bảo ANKT lâu dài với sự chưa hợp lý về chiến lược, giá trị
gia tăng cao, hàm lượng công nghệ tri thức trong hút ĐTNN.
Thứ ba, mâu thuẫn giữa yêu cầu khắc phục tác động tiêu
cực của đầu tư nước ngoài và an ninh kinh tế với những khó khăn
nội tại của nền kinh tế chậm được tháo gỡ.
Thứ tư, mâu thuẫn giữa thu hút đấu tư nước ngoài bằng mọi giá,
với hạn chế trong chiến lược sử dụng, quản lý đầu tư nước ngoài cho
hiệu quả.
Kết luận chương 3
Trong chương 3, NCS đã tiến hành phân tích, đánh giá
những thành tựu, hạn chế về thu hút ĐTNN và đánh giá thực trạng
tác động của ĐTNN đến ANKT, chỉ ra nguyên nhân và những vấn
đề đặt ra đối với tác động của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam thời
gian qua; cùng với kết quả nghiên cứu ở chương 2, kết quả nghiên
cứu ở chương 3 sẽ là cơ sở để NCS tiếp tục thực hiện nội dung
chương 4 của luận án.
23
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY TÁC ĐỘNG
TÍCH CỰC, HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI ĐẾN AN NINH KINH TẾ
Ở VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
4.1. Quan điểm phát huy tác động tích cực, hạn chế tác
động tiêu cực của đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế ở
Việt Nam thời gian tới
4.1.1. Thực hiện nhất quán quan điểm đầu tư nước
ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, an ninh kinh
tế giữ vị trí trung tâm của an ninh quốc gia
Một là, nhận thức đúng vị trí của ĐTNN phải khuyến khích
phát triển lâu dài ĐTNN và tạo sự lan tỏa đúng hướng.
Hai là, nhận thức đúng về vị trí ĐTNN trong điều kiện mới
phải thực hiện hợp tác ĐTNN với nội hàm mở rộng hơn.
Ba là, phải nhận thức đúng vị trí của ANKT và giải quyết
tốt quan hệ giữa ĐTNN với ANKT.
4.1.2. Thu hút đầu tư nước ngoài phải đi đôi với bảo
đảm lợi ích quốc gia, dân tộc và an ninh kinh tế
Một là, nhất quán thực hiện quan điểm bảo đảm lợi ích
quốc gia, dân tộc trong thu hút ĐTNN.
Hai là, định hướng đúng đắn hoạt động ĐTNN, bảo đảm
ANKT.
4.1.3. Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài với
hạn chế thấp nhất tác động tiêu cực của nó đến kinh tế xã
hội, an ninh kinh tế
Một là, cần phải thể chế hóa đường lối, quan điểm của
Đảng trong lĩnh vực này bằng các văn bản quy phạm pháp luật.
Hai là, phải chủ động hợp tác ĐTNN phù hợp với yêu cầu
phát triển KT XH và bảo đảm ANKT quốc gia.
Ba là, cần tăng cường theo dõi, giám sát hoạt động ĐTNN
để hạn chế tác động tiêu cực của nó đến KT XH, ANKT.
4.1.4. Kết hợp chặt chẽ giữa thu hút đầu tư nước ngoài
với đảm bảo quốc phòng, an ninh
Một là, nâng cao vai trò của các chủ thể tham gia kết hợp
24
kinh tế với quốc phòng, an ninh trong hoạt động ĐTNN.
Hai là, nâng cao vai trò và năng l ực qu ản lý củ a Nhà
nướ c đối với k ế t hợp kinh tế v ới qu ốc phòng, an ninh trong
hoạt động ĐTNN.
Ba là, tiếp tục tạo dựng cơ sở pháp lý đáp ứng yêu cầu thực
tiễn kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh trong hoạt động
ĐTNN.
Bốn là, nâng cao hiệu qu ả ph ối h ợp các lực lượ ng tham
gia kết hợp kinh tế v ới qu ốc phòng trong nghiên cứu và dự báo
tình hình ĐTNN.
Năm là, phải tiến hành thườ ng xuyên, đồng bộ, toàn
diện, có trọng điểm hoạt động kết hợp kinh tế với qu ốc phòng
trong hoạt động ĐTNN.
4.2. Giải pháp phát huy tác động tích cực, hạn chế tác
động tiêu cực của đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế ở
Việt Nam thời gian tới
4.2.1. Nâng cao vai trò của Nhà nước trong thu hút đầu
tư nước ngoài với bảo đảm an ninh kinh tế
Một là, giữ vững ổn định chính trị xã hội.
Hai là, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường
thuận lợi cho hoạt động ĐTNN
Ba là, hoàn thiện khung khổ pháp lý liên quan đến ĐTNN,
ANKT.
4.2.2. Tái cơ cấu vốn, cơ cấu đầu tư theo hướng nâng
cao hiệu quả đầu tư nước ngoài
Một là, tái cơ cấu vốn ĐTNN theo hướng có trọng tâm, trọng
điểm.
Hai là, thực hiện tái cơ cấu đầu tư của khu vực có vốn
ĐTNN.
4.2.3. Đảm bảo an ninh kinh tế trong thu hút đầu tư nước
ngoài
Một là, đổi mới tư duy, nhận thức về vị trí vai trò đảm bảo
ANKT trong chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia.
Hai là, yêu cầu trong bảo đảm an ninh tài chính.
Ba là, yêu cầu bảo đảm về an ninh lương thực.
Bốn là, yêu cầu bảo đảm an ninh năng lượng.
4.2.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài
Một là, tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp và cơ sở đào
25
tạo.
Hai là, tăng cường đào tạo lại đội ngũ cán bộ ở Trung
ương và địa phương về kiến thức, năng lực thực hiện chính sách
ĐTNN, bảo đảm ANKT.
Ba là, nâng cao trình độ nguồn nhân lực để đón đầu các
dự án ĐTNN chất lượng cao.
4.2.5. Phối, kết hợp chặt chẽ các lực lượng trong quản
lý hoạt động đầu tư nước ngoài và bảo đảm an ninh kinh tế
Một là, phải tuân thủ chương trình, kế hoạch và xác định
đúng lực lượng phối, kết hợp.
Hai là, cần xác định rõ nội dung, hình thức phối, kết hợp
các lực lượ ng.
Ba là, xác định rõ cơ quan chủ trì hoạt động phối, kết
hợp các lực lượ ng.
Bốn là, Quân đội, Công an tích cực tham gia ho ạt động
phối, kết hợp.
Kết luận chương 4
Từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn về tác động của ĐTNN
đến ANKT, trên cơ sở đánh giá thực trạng tác động của ĐTNN đến
ANKT ở Việt Nam thời gian qua, chương 4 của luận án đã nghiên
cứu đề xuất hệ thống 4 quan quan điểm và 5 giải pháp nhằm phát
huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của ĐTNN đến an
ninh kinh tế thời gian tới.
KẾT LUẬN
1. ANKT trong thu hút ĐTNN ở Việt Nam là vấn đề hết sức
phức tạp, chứa đựng nhiều mối quan hệ đan xen, đa dạng, nhiều
cấp độ, cần có phương pháp phân tích và đánh giá rõ ràng. Điều này
đòi hỏi phải nghiên cứu sâu hơn quan niệm tác động của ĐTNN đến
ANKT cũng như cần phải tỏ rõ quan điểm và giải pháp thích hợp,
hữu hiệu lâu dài nhằm phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động
tiêu cực của ĐTNN đến ANKT quốc gia trong các giai đoạn phát
triển kinh tế đất nước. Vì vậy, nghiên cứu đề tài”tác động của
ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam” với tư cách đề tài luận án tiến sĩ là là
vấn đề bức thiết cả ở bình diện kinh tế và chính trị.
2. ĐTNN vốn là một hoạt động kinh tế rất phức tạp. Nó
lại càng phức tạp hơn khi đó là đầu tư của tư bản vào một nước
xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, tác động của ĐTNN đến ANKT ở Việt
Nam hiện nay cần tập trung nhi ều v ấn đề, thực hiện ở nhiều
khâu, nhiều bước với sự tham gia của nhiều chủ th ể. Tuy nhiên,