Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Vận dụng triết học mác lênin trong hoạt động giáo dục nhân cách học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.94 KB, 29 trang )

ĐAI HọC QUỐC GIA TP Hồ CHÍ MINH TRƯờNG ĐAI HQC
KHOA HQC TƯ NHIÊN

VÂN DụNG TRIÉT HQC MÁC - LÊNIN
TRONG HOAT ĐÔNG GIÁO DUC NHÂN
CÁCH HQC SINH
(Tiểu luận Triết học dành cho học viên Cao học và nghiên cứu sinh không
thuộc chuyên ngành Triết học)

Giảng viên hướng dẫn: GS.TS. Vũ Tình
Học Viên thực hiện: Tô Lâm Viễn Khoa
MSHV: 02094.41104

Chuyên ngành Vật lý ứng dụng
TP Hồ Chí Minh, 9/2010


MUC LUC
LMỞ ĐÂU... 3

II.Cơ Sở LÝ THUYÊT.... 4.
1.Mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức ................................................... 4.
2.Phép biện chứng duy
Vật ............................................................................................. 5

3.Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến..... 6
1.Khái quát về mối liên hệ phổ biến 6
2. Các tính chất của mối liên hệ 6

4.Nguyên lý về sự phát


triển ..................................................................... 7
1. Những quan niệm khác nhau về sự phát triển 7

2. TÍnh chất của sự phát triển 9 illWANDUNG........................................................
............. 11
1.Hoạt động hình thành và phát triển nhân cách học
sinh............... 11
2.Đối với học sinh đặc biệt................................................................ 13

3.Phối hợp các lực lượng giáo dục
khác............................................ 15 IV.KếT LUÂN ... 16

V.TAI LIÊU THAM KHẢO ... 17


I.MỞ ĐÂU
Khái niệm giáo dục được hiểu theo nghĩa rông là bao gồm cả quá trình
giáo dục
kiến thức và giáo dục đạo đức. Tuy nhiên, hiện nay đa số giáo viên đều đặt
nặng

Việc dạy chữ mà xem nhẹ việc dạy làm người. Thậm chí, nếu có dạy
đạo đức thì cũng thiếu những kiến thức căn bản, nền tảng có thể dẫn
đến những hậu quả xấu,
ảnh hưởng đến tâm lý của học sinh.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu triết học Mác - Lenin với tinh thần
tiếp thu
và vận dụng vào thực tiễn, tôi nhận thấy có một số quan điểm của triết học
Mác Lênin có thể áp dụng trong các công việc của một giáo viên dạy Vật lý. Vì
vậy, tiểu

luận này với tên gọi “Vận dụng triết học Mác - Lênin vào hoạt động giáo
dục nhân
Cách của học sinh” sẽ tập trung vào làm rõ những vận dụng của triết học
Mác Lenin với tư cách là phương pháp luận, kim chỉ nam hành động cho công tác
hình

thành và phát triển nhân cách cho học sinh phổ thông.


II.CO SỞ LÝ THUYÊT
1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Giữa Vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò
quyết định của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác
động trở
lại của ý thức đối với vật chất.
Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, vật chất là cơ sở, cội
nguồn sản sinh ra ý thức. Vật chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức, quyết
định
nội dung và xu hướng phát triển của ý thức. Không có vật chất thì không
thể có ý
thức bởi vì nguồn gốc của ý thức chính là vật chất trong đó bộ óc người là

quan vật chất của ý thức, Cơ quan phản ánh thế giới xung quanh, Sự tác
động
của thế giới khách quan vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên
của ý
thức. Lao động trong hoạt động thực tiễn, hoạt động sản xuất của cải vật
chất và
ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết), cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự
hình

thành tồn tại và phát triển của ý thức. Ngoài ra, ý thức chỉ có thể trở thành
sức mạnh vật chất, sức mạnh cải tạo hiện thực thông qua hoạt động thực
tiễn, bằng
Việc khai thác, sử dụng hợp lý các điều kiện phương tiện vật chất cần thiết
cho
hành động.

Ý thức do vật chất sinh ra và quy định nhưng nó lại có tính độc
lập tương đối


nhưng nó lại có tính độc lập tương đối, sự phản ánh của ý thức đối với vật
chất là
Sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là Sự phản ánh sáng tạo chủ
động, là quá
trình con người không ngừng tìm kiếm tích lũy những hiểu biết mới ngày
càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về mặt bản chất, quy luật vận động và phát
triển sự vật.
Vì vậy, sau khi đã hình thành, ý thức có vai trò định hướng cho con người trong

Việc xác định mục tiêu, phương hướng tìm ra biện pháp lựa chọn Các
phương án, hành động tối ưu nhất và sử dụng các điều kiện vật chất
cần thiết để làm biến đổi
chúng đạt đến mục tiêu đã đặt ra. Mặt khác sự tác động của ý thức đến vật
chất
có thể theo hai khuynh hướng: Một là ý thức sẽ thúc đẩy cùng chiều đối
với sự
phát triển của sự vật nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực, khách quan nếu
con
người nhận thức đúng quy luật khách quan, Có ý chí động Cơ hành động đúng



thông qua cơ chế tổ chức hoạt động phù hợp trong thực tiễn. Hai là ý
thức kìm
4.


hảm, cản trở, thậm chí phá hoại sự phát triển bình thường của sự vật nếu
ý thức
phản ánh không đúng hiện thực khách quan, ý thức lạc hậu, phản khoa học,
phản

động, nếu Con người không có ý chí, không nhiệt tình, động Cơ Sai ...Tuy
vậy, sự
tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với mức độ nhất định, nó
không thể
sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất.

Từ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức một nguyên tắc được rút ra, đó là nguyên tắc, khách quan.
Nguyên tắc khách
quan trước nhất thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức,
nó đòi
hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ
hiện thực
khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, “phải lấy
thực thể
khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình”. Tuy nhiên, việc thực hiện
nguyên tắc khách quan không có nghĩa là quan điểm khách quan xem nhẹ, tính
năng động, Sáng tạo Của ý thức mà nó Còn đòi hỏi phát phát huy tính năng

động

Sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan.

2.Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới
quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. Chính vì vậy, nó đã
khắc phục được những hạn chế của phép biện chứng chất phác thời
cổ đại và những thiếu sót của phép biện chứng duy tâm khách quan
thời cận đại. Nó đã khái quát đúng đắn những
quy luật cơ bản chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới.
Phép biện


chứng duy vật trở thành một khoa học.

Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống
những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến
phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó, nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái
quát nhất. Vì thế Ph,Ảngghen đã định nghĩa: “phép biện chứng chẳng
qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của
Sự vận động và Sự phát triển của tự nhiên, Của xã hội loài người và của
tư duy”.


3.Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái quát về mối liên hệ phổ biến

Trong thế giới có vô vàn các sự vật, các hiện tượng và các quá

trình khác nhau. Vậy giữa chúng có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh
hưởng lẫn nhau hay
chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì
cái gì
quy định mối liên hệ đó?

Quan điểm biện chứng cho rằng các sự vật, hiện tượng và các
quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua
lại, chuyển hoá lẫn nhau. Quan điểm duy vật biện chứng còn khẳng
định tính thống nhất vật chất của
thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng. Các sự
vật, hiện
tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao
nhiêu,
Song chúng dều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất,
thống

nhất- thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể
tồn tại biệt lập tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại
chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở
đó triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng mối liên hệ là phạm
trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự tác động qua lại sự chuyển
hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt
của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới .
b. Các tính chất của mối liên hệ
Mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, vốn có của mọi
sự
Vật hiện tượng. Ngay cả những vật Vô trị, Vô giáC Cũng đang hàng ngày chịu
sự



tác động của các sự vật hiện tượng khác (như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm,
áp suất
không khí ..., đôi khi cũng chịu sự tác động của Con người). Con người - một
sinh

vật phát triển cao nhất trong tự nhiên dù muốn hay không cũng luôn luôn bị
tác
động của các sự vật, hiện tượng khác và các yếu tố ngay trong chính bản
thân.
Ngoài sự tác động của tự nhiên, Con người còn tiếp nhận sự tác động của
xã hôị
và của những người khác. Chính con người và chỉ có con người mới tiếp
nhận
Vô Vàn các mối mối liên hệ. Do vậy, con người phải hiểu biết các mối quan
hệ,


vận dụng chúng vào hoạt động của mình, giải quyết các mối liên hệ phù
hợp nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của xã hội và bản thân con người .

Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính phổ
biến:
- Thứ nhất , bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật
hiện tượng khác. Không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
- Thứ hai , mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt tuỳ theo

điều kiện nhất định. Song dù dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là
biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất những hình thức
liên hệ riêng rẽ, cụ thể,

được các nhà khoa học cụ thể nghiên cứu. Phép biện chứng duy vật chỉ
nghiên
cứu những mối quan hệ chung nhất, bao quát nhất của thế giới. Bởi thế,
Ph.Ảnghen viết: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”.
- Thứ ba, nghiên cứu mối liên hệ của các sự vật hiện tượng trong thế giới
còn nhìn thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ của nó. Dựa vào tính đa dạng đó
có thể
phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: mối liên hệ bên
trong và
mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu; mối liên
hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất; mối liên hệ tất nhiên và mối liên
hệ ngẫu
nhiên, mối liên hệ chung bao quát toàn thế giới và mối liên hệ riêng bao
quát một
lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực của thế giới; mối liên hệ trực tiếp và mối liên
hệ
gián tiếp; mối liên hệ giữa các sự vật và mối liên hệ giữa các mặt hay giữa
các
giai đoạn phát triển của một sự vật để tạo thành lịch sử phát triển của Sự
vật.V.V.


Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển của bản
thân sự
vật và hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ.Vì vậy, trong một
sự vật
có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ chứ không phải chỉ có một cặp
mối liên
hệ Xác định.


4.Nguyên lý về sự phát triển
a.Những quan niệm khác nhau về sự phát triển
Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, đối lập với
nhau, quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng .


Quan điểm siêu hình xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay
giảm đi đơn thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi về chất của sự
vật. Những người theo quan điểm siêu hình coi tất cả chất của sự vật
không có sự thay đổi gì trong
quá trình tồn tại của chúng. Sự vật ra đời với những chất như thế nào
thì toàn bộ quá trình tồn tại của nó vẫn được giữ nguyên, hoặc nếu có
sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra trong
một vòng khép kín. Họ cũng coi Sự phát triển chỉ là sự thay đổi về mặt
lượng của từng loại mà sự vật đang có
chứ không có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Những người
theo
quan điêm siêu hình còn xem sự phát triển là một quá trình tiến lên liên tục
không
Có những bước quanh CO, thăng trầm, phức tạp.
Quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ
thấp
đến cao. Quá trình đó diễn ra Vừa dần dần Vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời
của
cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy,
Sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà rất
quanh co, phức
tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.

Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá

trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá
trình diễn ra theo đường
Xoáy ốc. Điều đó có nghĩa là quá trình phát triển dường như Sự vật ấy
quay trở
Về điểm khởi đầu song trên cơ sở mới cao hơn .

Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và
tôn giáo về nguồn gốc của Sự phát triển, khẳng định nguồn gốc của


sự phát triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong
chính sự vật quy định. Nói cách khác, đó là quá trình giải quyết liên
tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó cũng là
quá trình tự thân của mọi sự vật. Trái lại, những người theo quan điểm duy
tâm
hay quan điểm tôn giáo lại thường tìm nguồn gốc của sự phát triển ở thần
linh,
Thượng đế, các lực lượng siêu nhiên hay ở ý thức của Con người .

Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn
tại trong hiện thực, quan điểm duy vật biện chứng khẳng định sự phát
triển là một phạm
trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn
giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.


Theo quan điểm này, Sự phát triển không bao quát toàn bộ Sự vận động
nói
Chung. Nó chỉ khái quát Xu hướng Chung của Sự vận động, Xu hướng Vận

động đi

lên của sự vật, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ. Sự phát triển chỉ

trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển, sự vật sẽ
hình thành những quy định mới cao hơn về chất, sẽ làm thay đổi mối liên
hệ, Cơ cấu,
phương thức tồn tại và vận động của mình.
Sự phát triển thể hiện rất khác nhau trong hiện thực tuỳ theo hình thức tồn

tại cụ thể của từng dạng vật chất. Sự phát triển của giới vô cơ thể
hiện ở dạng biến đổi các yếu tố và hệ thống vật chất, sự tác động qua
lại giữa chúng và trong
các điều kiện nhất định sẽ làm nảy sinh các hợp chất phức tạp. Từ đó cũng
làm

Xuất hiện các hợp chất hữu cơ ban đầu - tiền đề của sự sống. Trong
giới hữu cơ, sự phát triển thể hiện ở khả năng thích nghi của sinh vật
với sự biến đổi phức tạp của môi trường, ở sự hoàn thiện thường
xuyên quá trình trao đổi chất giữa cơ
thể và môi trường ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày
càng
cao hơn và từ đó làm xuất hiện ngày càng nhiều các giống loài mới phù
hợp với

môi trường sống. Sự phát triển của xã hội biểu hiện ở năng lực chinh
phục tự nhiên và cải biến xã hội cũng như bản thân con người. Sự
phát triển của mỗi con
người biểu hiện ở khả năng tự hoàn thiện mình cả về thể chất và tinh thần,
phù

hợp với sự vận động và phát triển của môi trường trong đó có con người
sinh


Sống .
Như vậy, sự phát triển trong đó sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ là hiện
tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội, trong bản thân
Con
người, trong tư duy. Nếu xem xét từng trường hợp cá biệt thì có những vận
động
đi lên, vận động tuần hoàn, thậm chí có vận động đi xuống. Song nếu xét
cả quá
trình vận động với không gian rộng và thời gian dài thì quá trình vận động đi lên

khuynh hướng chung của mọi sự vật.

b. Tính chất của sự phát triển
Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì như trên
đã phân tích, theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự
phát triển nằm ngay
trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu
thuẫn nảy 9


sinh trong Sự tồn tại và vận động của Sự vật, nhờ đó Sự vật luôn luôn phát
triển.
Vì thế, sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn,
nguyện Vọng, ý chí, ý thức Con người. Dù Con người có muốn hay không
muốn, sự vật vẫn phát triển theo khuynh hướng chung nhất của thế giới
vật chất.


Sự phát triển mang tính phổ biến vì nó diễn ra ở mọi lĩnh vực của tự
nhiên,
xã hội và tư duy, ở bất cứ sự vật hiện tượng nào của thế giới khách quan.
Ngay cả các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm trong
quá trình vận
động và phát triển, hoặc đúng hơn, mọi hình thức của tư duy cũng luôn
phát triển.
Chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái
niệm
và các phạm trù mới có thể phản ánh đúng hiện thực luôn Vận động và
phát triển.

Ngoài tính khách quan và tính phổ biến, sự phát triển còn có tính đa
dạng
phong phú. Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chung của mọi
sự vật, mọi hiện tượng, Song mỗi sự vật hiện tượng lại có quá trình
phát triển không giống
nhau, tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau. Đồng thời
trong quá
trình phát triển của mình, Sự vật còn chịu sự tác động của các hiện tượng
khác,

của rất nhiều yếu tố khác. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng
của phát triển của sự Vật, thậm chí làm cho sự Vật thụt lùi. Chẳng
hạn, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí tuệ
so với trẻ em ở thế hệ trước do chúng được



thừa hưởng những thành quả, những điều kiện thuận lợi mà xã hội mang
lại. Hay

trong thời đại hiện nay, thời gian Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước của các quốc gia chậm phát triển và kém phát triển sẽ ngắn hơn
nhiều so với các quốc gia đã thực hiện chúng do được thừa hưởng
kinh nghiệm và sự hỗ trợ của các quốc gia đi trước. Song vấn đề còn
ở chỗ, sự vận dụng kinh nghiệm và tận dụng sự hỗ
trợ đó như thế nào lại phụ thuộc rất nhiều vào các nhà lãnh đạo và nhân
đân của
Các nước chậm phát triển và kém phát triển.
Những điều kiện nêu ra ở trên cho thấy, dù sự vật hiện tượng có thể có
những giai đoạn vận động đi lên như thế này hoặc như thế khác nhưng
xem xét

toàn bộ quá trình thì chúng vẫn tuân theo khuynh hướng chung.
10


III.VÂN DUNG
Những quan điểm trên của Triết học Mác - Lenin có ý nghĩa phương pháp
luận
trong việc giáo dục và hình thành nhân cách của học sinh. Phần này sẽ
trình bày
về những vận dụng của Triết học Mác - Lenin đối với công việc giáo dục
học sinh
Của giáo Viên.

1.Hoạt động hình thành và phát triển nhân cách học sinh
Một trong những nhiệm vụ chính của giáo viên phổ thông là hình

thành và
phát triển nhân cách của học sinh. Khi thực hiện nhiệm Vụ này, giáo viên
cần lưu ý
các điểm sau đây:
- Quá trình hình thành và phát triển nhân cách của học sinh là quá trình
phát triển tất yếu và lâu dài của học sinh. Không có giáo viên thì học sinh
cũng vẫn hình thành nhân cách, nhân sinh quan. Tuy nhiên giáo viên đóng
vai trò là
người điều chỉnh và chỉ đạo sự phát triển đó theo đúng hướng, phù hợp
nhất với
học sinh. Giáo viên phải hiểu rõ: Vật chất có trước, ý thức có sau. Muốn có
sự thay đổi trong ý thức của học sinh, phải trải quá một quá trình tác động
của vật
chất. Quá trình này không diễn ra trong ngày một ngày hai, duy ý chí mà là
một
quá trình kéo dài, phức tạp và mang những đặc điểm của quá trình phát
triển vật
chất theo quan điểm của Triết học Mác - Lenin.

- Động lực của sự phát triển là mâu thuẫn. Nhân cách của học sinh


cũng sẽ
được hình thành và phát triển thông qua các tình huống va chạm trong
cuộc

sống. Giáo viên cần chấp nhận, thậm chí là tạo điều kiện cho học sinh
có những tình huống ứng xử, tranh cãi thậm chí là mâu thuẫn để nhân
cách được phát triển
toàn diện. Qua các tình huống đó, các phẩm chất của cá thể sẽ được hình

thành
và phát triển một cách đa dạng, đầy đủ; đồng thời những khiếm khuyết của

nhân cũng sẽ bộc lộ và chỉnh sửa trong các tình huống này. Bảo bọc, né
tránh
những va chạm như thế, nhân cách của học sinh sẽ chỉ phát triển theo một
hướng, thiếu kinh nghiệm ứng xử, thiếu phát triển toàn diện hoặc phát triển
châm
Chąp.
11


- Tuy nhiên, giáo viên phải tích cực phân tích, hướng dẫn học
sinh xử lý các tình huống trên chứ không nên để học sinh tự giải
quyết vì có thể dẫn đến
Các hành Vi, tính Cách lệch lạC, Cực đoan. Các hoạt động tranh luận, hùng
biện,

hoạt động nhóm, thi đấu cạnh tranh là những hoạt động hiệu quả để hình
thành
đầy đủ nhân cách của học sinh.
- Khuynh hướng của sự phát triển là sự phủ định và kế thừa các giá trị

trước đó. Nhân cách của học sinh cũng vậy, sự phát triển của nó phải
được dựa trên các nền tảng giá trị đã có sẵn. Tuy ở mỗi giai đoạn,
việc giáo dục đạo đức
học sinh có những yêu cầu riêng nhưng chúng phải có tính kế thừa. Việc
giáo
dục đạo đức cho học sinh phải xét đến quá trình giáo dục trước đó bao
gồm

những giá trị đạo đức nào đã được hình thành, những giá trị đạo đức nào còn
lệch lạc, chưa đúng đắn.

- Ngoài ra, nhân cách phải bắt đầu hình thành từ lúc nhỏ để tạo
thành nền tảng cho việc giáo dục về sau. Lứa tuổi càng lớn, các yêu
cầu về đạo đức, hành
Vi, phẩm chất cần phải được nâng cao, tiệm cận với các chuẩn mực
về đạo đức nhưng phải dựa trên nền tảng sẵn có. Nói cách khác “Dạy
con từ thưở còn thơ”,
nền tảng kém thì không thể phát triển tốt được.
- Hơn nữa, giáo viên cũng phải tạo cho học sinh Có nhu cầu phát triển và
hoàn thiện nhân cách bởi vì khuynh hướng phát triển là liên tục và không
có giới
hạn. Người có khả năng tác động lớn nhất đến nhân cách của học sinh
chính là


bản thân của em đó. Học sinh sau khi vào đời phải luôn luôn rèn luyện và giữ

vững các phẩm chất đạo đức của mình đồng thời cập nhật những
chuẩn mực mới của thời đại. Giáo viên không thể theo học sinh suốt
đời để kềm cặp và nhắc
nhở, nên cần trang bị cho học sinh phương pháp và nhu cầu phải rèn
luyện nhân
CáCh, đạO đỨC.

- Theo triết học Mác - Lenin, cách thức của sự phát triển chính là sự tích

lũy về lượng sẽ dẫn đến biến đổi về chất. Giáo viên phải kiên nhẫn và
chủ động

trong suốt quá trình hình thành và phát triển nhân cách của bản thân.
Đừng bao
giờ hi vọng tất cả sẽ tốt lên ngay lập tức, chỉ cần muốn là được. Nhân cách
của
học sinh phải được hình thành chậm rãi, từ những điều nhỏ nhặt nhất.
Giáo viên
12


cần phải theo dõi những thay đổi của học sinh qua từng ngày, từng
tháng dù là
nhỏ nhất. Cần nhớ khuyến khích, khen ngợi đối với những tiến bộ nhỏ và
điều
chỉnh ngay những hành vi chưa đúng. Như Bác Hồ đã nói “Việc tốt dù nhỏ
mấy
Cũng phải làm.”

- Ngoài ra, chính những tình huống va chạm, mâu thuẫn trong giao
tiếp
cũng sẽ tích lũy cho học sinh những kinh nghiệm sống để hình thành và
phát triển nhân cách của mình. Một ngày nào đó, chính sự tích lũy về
lượng này sẽ dẫn đến
sự biến đổi về chất.

- Để lượng biến đổi thành chất thì chính giáo viên phải là người chủ
động
a

tạo ra điểm nút. Nếu để quá trình biến đổi tự diễn ra thì rất có thể “chất” đó
sẽ

khác với những gì chúng ta mong muốn. Điểm nút mà giáo viên tạo ra,
những cú
hích cần thiết, có thể là một lời khen, một nhiệm vụ được giao với sự tin
tưởng,
một vài câu nói dặn dò ân cần hoặc thậm chí có thể là một đòn trừng phạt
theo
kiểu “thương cho roi cho Vọt”. Điều quan trọng là sau những cú hích đó,
giáo viên
phải tiếp tục theo dõi sự biến đổi chất diễn ra như thế nào và điều chỉnh kịp
thời.

2. Đối với học sinh đặc biệt
Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh, chắc


chắn
giáo Viên sẽ gặp những học sinh “đặc biệt”, chưa ngoan, được gọi là học sinh


biệt. Vậy thì, đối với những trường hợp như vậy, giáo Viên cũng cần nhớ
những
điểm sau đây:
- Như đã nói ở trên, quá trình phát triển nhân cách là quá trình tất yếu của
bất kỳ cá thể nào. Học sinh hư, chưa ngoan là do quá trình này thiếu sự
định
hướng hoặc do nhận thức chưa đầy đủ. Tất cả những học sinh này đều có
thể
được giáo dục lại để phát triển theo đúng hướng và tốt đẹp hơn. Tuy
nhiên, hình
thức và phương pháp giáo dục phải có sự khác biệt với các đối tượng học

sinh
khác và đòi hỏi quá trình lâu dài, tốn nhiều công sức hơn.
- Cần nhớ, vật chất có trước, ý thức có sau, những khiếm khuyết trong
nhân cách, suy nghĩ của học sinh không phải tự nhiên hình thành mà phải
là kết
quả tác động của một quá trình, một tác nhân nào đó. Do vậy, trước hết,
giáo Viên
13


phải tìm hiểu nguyên nhân của sự chưa ngoan, cá biệt. Theo Triết học Mác
Lênin, khi xem xét sự vật hiện tượng phải xét nó trong mối quan hệ với
những
yếu tố khác. Vì vậy, nguyên nhân không bao giờ chỉ đơn giản đến từ học
sinh mà chắc chắn có những yếu tố ngoại cảnh khác như gia đình, bạn bè,
xã hội thậm
chí là thầy cô.

- Bản chất thể hiện ra ngoài thông qua hiện tượng nhưng hiện
tượng không phải là bản chất. Giáo viên tuyệt đối không được chụp
mũ, quy kết mọi tội lỗi cho
học sinh, nặng hơn là kết luận học sinh không phải là người tốt chỉ qua một
vài
hành vi hoặc biểu hiện kém. Cần theo dõi trong suốt thời gian dài trước khi
kết
luận và nhất thiết phải tìm ra được nguyên nhân. Nếu không tìm ra được
những
nguyên nhân thực sự của “căn bệnh”, việc “chữa bệnh” - giáo dục lại - sẽ không

thể đạt được kết quả như mong muốn.

- Kế đến, giáo Viên phải chủ động tạo ra những động lực, cách thức để
học

sinh hình thành và phát triển lại nhân cách. Giáo viên cần tạo ra
những mâu thuẫn về trách nhiệm đối với gia đình, bạn bè, thầy cô để
học sinh suy nghĩ lại
những hành vi của mình, từ đó tạo ra động lực kích thích học sinh có
những điều
chỉnh để phát triển. Các tác động của giáo viên đến học sinh không nên ồ
ạt, giáo
điều mà cần chậm rãi, từ từ, ghi nhận sự tiến bộ qua từng ngày dù là nhỏ
nhặt


nhất. Những động viên, điều chỉnh kịp thời đúng lúc của giáo viên sẽ hiệu
quả hơn hàng trăm, hàng ngàn bài giảng về đạo đức. Quá trình này chắc
chắn sẽ gặp
rất nhiều khó khăn hơn các học sinh khác. Tuy nhiên, giáo viên cần kiên trì

không từ bỏ. Bởi vì lượng cứ tích lũy dần dần thì dù chậm cũng sẽ có lúc
chất biến đổi, chắc chắn những tác động hôm nay sẽ mang lại hiệu quả về
sau.

Giáo viên phải luôn nhớ rằng khi xem xét sự việc, phải xét trên quan
điểm
phát triển. Không có học sinh cá biệt, không có học sinh không thể dạy
được,
không có học sinh không thể tiến bộ. Chỉ có học sinh phát triển nhân cách
chậm
hoặc khiếm khuyết. Chính giáo Viên, nhận ra điều đó, sẽ có những tác

động phù

hợp để sự phát triển nhân cách diễn ra đúng đắn theo cách mà nó
nên diễn ra.
14


×