Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Bảo đảm quyền của các nhóm dễ bị tổn thương trong giai đoạn điều tra, truy tố vụ án hình sự từ thực tiễn huyện thường tín, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.63 KB, 121 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

HONG THY HNG

BảO ĐảM QUYềN CủA CáC NHóM Dễ Bị TổN
THƯƠNG
TRONG GIAI ĐOạN ĐIềU TRA, TRUY Tố Vụ áN
HìNH Sự:
Từ THựC TIễN HUYệN THƯờNG TíN, THàNH PHố
Hà NộI

LUN VN THC S LUT HC


HÀ NỘI - 2019


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

HONG THY HNG

BảO ĐảM QUYềN CủA CáC NHóM Dễ Bị TổN
THƯƠNG
TRONG GIAI ĐOạN ĐIềU TRA, TRUY Tố Vụ áN
HìNH Sự:
Từ THựC TIễN HUYệN THƯờNG TíN, THàNH PHố
Hà NộI
Chuyờn ngnh: Phỏp lut v quyn con ngi
Mó s: 8380101.07



LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. L KHNH TNG


HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Hoàng Thúy Hằng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG KHÍA CẠNH LÝ LUẬN CỦA VIỆC BẢO ĐẢM
QUYỀN CỦA CÁC NHÓM DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ....................8
1.1.

Nhóm dễ bị tổn thương và những đặc thù........................................8

1.1.1. Khái niệm về tính dễ bị tổn thương và các nhóm người dễ bị tổn thương
...............................................................................................................8
1.1.2. Sự phân chia các nhóm dễ bị tổn thương............................................10
1.1.3. Tính dễ bị tổn thương của một số nhóm..............................................10
1.2.

Quyền của các nhóm dễ bị tổn thương trong giai đoạn điều
tra, truy tố vụ án hình sự theo pháp luật nhân quyền quốc tế
.............................................................................................................14

1.2.1. Các quyền chung.................................................................................15
1.2.2. Quyền đặc thù của các nhóm dễ bị tổn thương trong giai đoạn
điều tra, truy tố vụ án hình sự..............................................................20
1.3.

Quyền của các nhóm dễ bị tổn thương trong giai đoạn điều
tra, truy tố vụ án hình sự theo Hiến pháp và pháp luật TTHS
Việt Nam.............................................................................................23

1.3.1. Các quyền chung.................................................................................23

1.3.2. Quyền đặc thù của các nhóm dễ bị tổn thương...................................26
1.4.

Phân loại nhóm dễ bị tổn thương trong TTHS theo tư cách


tham gia tố tụng.................................................................................31
Tiểu kết chương 1..........................................................................................34
Chương 2: THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA CÁC NHÓM DỄ
BỊ TỔN THƯƠNG TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA, TRUY
TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI HUYỆN THƯỜNG TÍN, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI.....................................................................................35
2.1.

Khái quát về tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Thường Tín
.............................................................................................................35

2.2.

Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam..........37

2.3.

Bảo đảm quyền của người chưa thành niên....................................49

2.4.

Bảo đảm quyền con người của phụ nữ............................................55

2.5.


Bảo đảm quyền con người của một số nhóm người dễ bị tổn
thương khác trong giai đoạn điều tra, truy tố vụ án hình sự........58

2.6.

Một số kết quả khác trong việc bảo đảm quyền của các nhóm
dễ bị tổn thương.................................................................................66

2.7.

Tồn tại và nguyên nhân....................................................................72

2.7.1. Đối với việc tạm giữ, tạm giam...........................................................72
2.7.2. Đối với người bị buộc tội....................................................................75
2.7.3. Đối với người bị hại............................................................................78
Tiểu kết chương 2..........................................................................................83
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO ĐẢM QUYỀN
CỦA CÁC NHÓM DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA, TRUY TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ......................................84
3.1.

Các biện pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người
nói chung và các nhóm dễ bị tổn thương nói riêng........................84

3.1.1. Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS 2015.................................84
3.1.2. Biện pháp nâng cao trách nhiệm của CQĐT, Viện kiểm sát trong
giai đoạn điều tra, truy tố vụ án hình sự..............................................98
3.1.3. Nâng cao cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ cho các cơ quan tiến



hành tố tụng.......................................................................................100
3.1.4. Tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ quyền con người trong tố
tụng hình sự.......................................................................................102
3.2.

Đối với huyện Thường Tín..............................................................103

Tiểu kết chương 3........................................................................................106
KẾT LUẬN..................................................................................................107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................109


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

ĐTV:

Điều tra viên


HRC:

Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc

KSV:

Kiểm sát viên

LTHTGTG: Luật thi hành tạm giữ, tạm giam
TAND:

Tòa án nhân dân

TTHS:

Tố tụng hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu


Tên bảng

Trang

Bảng 2.1

Thống kê các VAHS được điều tra, truy tố, xét
xử từ năm 2016 - 2018

36

Thống kê tình hình bắt giữ và phân loại từ
năm 2016 - 2018

37

Thống kê tình hình giải quyết người bị tạm
giữ từ năm 2016 - 2018

38

Thống kê tình hình giải quyết người bị tạm
giam từ năm 2016 -2018

40

Thống kê tình hình bắt giữ và phân loại từ
năm 2016 - 2018

41


Thống kê tình hình giải quyết người bị tạm
giữ từ năm 2016 - 2018

41

Thống kê tình hình giải quyết người bị tạm
giam từ năm 2016 -2018

42

Thống kê người chưa thành niên phạm tội bị
khởi tố từ năm 2016 - 2018

49

Thống kê các tội phạm xâm hại trẻ em từ năm
2016 - 2018

53

Thống kê vụ án có bị can nữ đã khởi tố từ năm
2016 - 2018

55

Thống kê các vụ án khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại từ 2016 - 2018

65


Bảng 2.2
Bảng 2.3
Bảng 2.4
Bảng 2.5
Bảng 2.6
Bảng 2.7
Bảng 2.8
Bảng 2.9
Bảng 2.10
Bảng 2.11


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Xã hội hiện đại ngày càng phát triển, cùng với sự phát triển của công
nghệ thông tin và truyền thông, nhận thức về quyền con người ngày càng được
nâng cao. Nhân quyền ngày càng trở thành vấn đề được quan tâm và diễn ra
rộng khắp trên quy mô toàn cầu cũng như ở Việt Nam trong thời đại mới.
Đến nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các Công ước quốc tế cơ bản về
quyền con người như: Công ước về các Quyền Dân sự và Chính trị 1966,
Công ước về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa 1966, Công ước về Xoá
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ 1979, Công ước về Quyền Trẻ
em 1989, Công ước về Quyền của Người khuyết tật 2006,... Sau khi tham gia
các công ước, Nhà nước Việt Nam luôn xác định việc tôn trọng, bảo vệ và
thúc đẩy các quyền và tự do cơ bản của con người là nguyên tắc cơ bản của
mọi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cùng với nhu cầu thực
tế về việc tôn trọng, bảo đảm, thực thi quyền con người, Nhà nước Việt Nam
đã sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để phù hợp hơn với tinh thần bảo vệ quyền
con người của Luật nhân quyền quốc tế. Hiến pháp năm 2013 ra đời, lần đầu

tiên ghi nhận khái niệm quyền con người trong Hiến pháp, tách riêng quyền
con người ra khỏi quyền công dân, có những quy định cụ thể hơn, gần gũi
hơn với các quy định của luật nhân quyền quốc tế, đồng thời giao trách nhiệm
tôn trọng, bảo đảm, thực thi quyền con người là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm, hàng đầu đối với các cơ quan thuộc hệ thống bộ máy nhà nước,
nhất là các cơ quan bảo vệ pháp luật. Cùng với việc sửa đổi Hiến pháp, các
luật khác cũng được sửa đổi, bổ sung trên tinh thần bảo vệ quyền con người
được ghi nhận trong hiến pháp.
Quá trình giải quyết các VAHS, giai đoạn điều tra VAHS là những giai

1


đoạn tố tụng quan trọng, trong đó CQĐT tra căn cứ vào các quy định của
pháp luật TTHS và dưới sự kiểm sát của Viện kiểm sát tiến hành các biện
pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình
tiết của VAHS, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm để truy cứu trách
nhiệm hình sự. Giai đoạn truy tố về hình sự là giai đoạn Viện kiểm sát thực
hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ
của toàn bộ các hành vi tố tụng mà cơ quan Điều tra có thẩm quyền đã áp
dụng để bảo đảm cho các quyết định của Viện kiểm sát được chính xác và
khách quan, góp phần truy cứu trách nhiệm hình sự đúng tội, đúng người và
đúng pháp luật.
Các nhóm người dễ bị tổn thương là những đối tượng dễ lâm vào
những hoàn cảnh bất lợi, thua thiệt hơn so với những người bình thường khác.
Do đó, việc quan tâm ưu tiên bảo vệ hơn đối với những nhóm người này là
vấn đề cần được nghiên cứu cụ thể để giúp đỡ họ theo kịp với các nhóm khác,
đảm bảo sự công bằng cho họ. Đối với những nhóm người dễ bị tổn thương,
họ sẽ gặp khó khăn hơn khi có liên quan đến các VAHS. Với tinh thần sửa đổi
nhằm đảm bảo hơn các quyền con người, BLTTHS 2015 cũng đã có những

quy định cụ thể hơn nhằm bảo vệ quyền của những nhóm người dễ bị tổn
thương khi họ tham gia tố tụng.
Bởi vậy, trong bối cảnh hiện nay, khi BLHS và BLTTHS 2015 đã có
hiệu lực từ ngày 01/01/2018, học viên mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề tài:
“Bảo đảm quyền của các nhóm dễ bị tổn thương trong giai đoạn điều tra,
truy tố vụ án hình sự: Từ thực tiễn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội”
làm luận văn thạc sỹ nhằm so sánh, nghiên cứu những quy định mới, cụ thể
của luật TTHS năm 2003 và năm 2015 về việc bảo vệ quyền con người của
các nhóm người dễ bị tổn thương khi họ tham gia tố tụng, qua một thời gian
đi vào thực tiễn, quyền của các nhóm này trên thực tế (tại địa bàn huyện

2


Thường Tín) đã được quy định và bảo đảm như thế nào, có những ưu điểm và
bất cập gì khi thực hiện những quy định này, từ đó đưa ra những giải pháp
góp phần hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật, nâng cao trách nhiệm
của các cơ quan tiến hành tố tụng và bảo đảm tốt hơn quyền con người của
các nhóm dễ bị tổn thương khi tham gia tố tụng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề bảo đảm quyền con người của các nhóm dễ bị tổn thương trong
luật TTHS: Từ thực tiễn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội trong bối cảnh
BLTTHS 2015 mới có hiệu lực là một vấn đề mới và chưa có công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu và tổng hợp về vấn đề này. Đến nay, có một số công
trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con người nói chung và đối với các nhóm
dễ bị tổn thương nói riêng trong luật TTHS, có thể kể đến một số nghiên cứu
tiêu biểu như:
- Sách Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự, ấn
phẩm của Trung tâm nghiên cứu tội phạm học và tư pháp hình sự - Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội biên soạn, xuất bản năm 2011, đồng chủ biên:

GS.TS Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Lê Văn Cảm, Vũ Công Giao,
Lã Khánh Tùng. Nội dung cuốn sách chứa đựng nhiều tư liệu về các nhóm dễ
bị tổn thương như: Khái quát về việc bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương theo
luật quốc tế; Luật quốc tế về các nhóm dễ bị tổn thương và khả năng áp dụng ở
các tòa án quốc gia; Bào chữa cho các nhóm dễ bị tổn thương theo pháp luật
Việt Nam,... Ngoài ra, cuốn sách còn giới thiệu một số văn kiện pháp luật quốc
tế và Việt Nam liên quan đến bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong TTHS.
- Sách Luật quốc tế về quyền của các nhóm dễ bị tổn thương - Khoa
Luật Đại học quốc gia Hà Nội, xuất bản năm 2010, biên soạn: Đỗ Hồng
Thơm, Vũ Công Giao. Nội dung sách đề cập khái quát đến đặc điểm, các
quyền con người của một số nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em,

3


người khuyết tật, người sống chung với HIV/AIDS, người lao động di trú,
người thiểu số và một số nhóm dễ bị tổn thương khác như người bản địa,
người tị nạn và người không quốc tịch, cơ chế giám sát việc thực thi quyền
của một số nhóm người dễ bị tổn thương.
- Bài viết: Bảo đảm quyền con người, quyền công dân - Tư tưởng
xuyên suốt trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 - Tác giả: PGS.TS.
Nguyễn Hòa Bình trong cuốn sách Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 của Nhà xuất bản chính trị Quốc gia - Sự thật, tr.40-54. Nội
dung bài viết phân tích khái quát những điểm mới ưu việt của BLTTHS năm
2015 trong việc bảo đảm quyền con người nói chung và một số nhóm dễ bị
tổn thương nói riêng như nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, người tiến
hành tố tụng, việc áp dụng các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền
công dân, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội,...
- Bài viết: Bộ luật hình sự năm 2015 với việc bảo đảm thực hiện quyền
con người - Tác giả: PGS.TS. Hoàng Thế Liên - Nguyên Thứ trưởng Thường

trực Bộ Tư pháp. Nội dung bài viết phân tích những điểm mới của BLHS
2015 trong việc bảo vệ các quyền con người, quyền cơ bản của công dân, quy
định về bãi bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội danh, quy định về việc bảo
đảm quyền của một số nhóm dễ bị tổn thương,...
- Bài viết: Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự - một số vấn
đề cần trao đổi - Tác giả Đoàn Thị Ngọc Hải - . Bài viết đề
cập đến quyền con người trong tố tụng hình sự quy định trong pháp luật quốc
tế và pháp luật quốc gia, bên cạnh đó, tác giả có phân tích một số quy định bảo
vệ quyền con người của các nhóm dễ bị tổn thương được phân loại theo tư cách
tham gia tố tụng như người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng.
- Tạp chí tòa án - Bài viết: Quyền con người trong tố tụng hình sự Th.S Nguyễn Thị Thanh Trâm. Bài viết đề cập đến một số quyền chung của

4


con người trong quá trình tham gia tố tụng hình sự theo quy định của pháp
luật nhân quyền quốc tế và pháp luật Việt Nam như quyền không bị bắt, giam
giữ tùy tiện; quyền được xét xử nhanh chóng, không bị trì hoãn; quyền được
xét xử công bằng,...
Như vậy, tuy đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản về bảo đảm
quyền con người nói chung và các nhóm dễ bị tổn thương nói riêng trong
TTHS nhưng chưa có một công trình nghiên cứu khoa học về bảo đảm quyền
của các nhóm dễ bị tổn thương trong giai đoạn điều tra, truy tố VAHS qua
thực tiễn tại huyện Thường Tín - thành phố Hà Nội trong những năm gần đây.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích sự thay đổi của BLHS 2015 dẫn đến những thay đổi trong thủ
tục tố tụng được quy định trong BLTTHS 2015 và các luật có liên quan, các
văn bản hướng dẫn thi hành, trọng tâm nghiên cứu tập trung chủ yếu vào một
số nhóm dễ bị tổn thương như: Người chưa thành niên, người có nhược điểm
về thể chất hoặc tinh thần, người bị tước tự do (người bị tạm giữ, tạm giam),...

So sánh, phân tích, đánh giá sự tương thích với quy định của pháp luật nhân
quyền quốc tế.
Việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn tại huyện Thường
Tín, thành phố Hà Nội tại thời điểm trước và sau khi BLTTHS 2015 có
hiệu lực thi hành.
Đưa ra những giải pháp để nâng cao chất lượng hiệu quả của hoạt động
bảo vệ quyền con người nói chung và quyền của các nhóm dễ bị tổn thương
nói riêng trong quá trình điều tra, truy tố VAHS.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Nghiên cứu những điểm ưu việt của BLTTHS 2015 (có hiệu hực thi
hành từ ngày 01/01/2018) dưới góc độ so sánh với BLTTHS 2003, có liên
hệ với các luật cụ thể khác có quy định liên quan đến các nhóm dễ bị tổn

5


thương. Đánh giá mức độ phù hợp trên tinh thần Hiến pháp 2013 và luật
nhân quyền quốc tế.
- Những ưu điểm, hạn chế trong việc thực thi BLTTHS mới tại địa bàn
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Vai trò, trách nhiệm của các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
để bảo đảm, thực thi quyền con người của các nhóm dễ bị tổn thương.
- Đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng
cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
nhằm bảo đảm các quyền con người của các nhóm dễ bị tổn thương trong giai
đoạn điều tra, truy tố VAHS.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên
cứu, giảng dạy về vấn đề này. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo
có giá trị đối với các cán bộ đang làm công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án các cấp.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành đối với người tham gia TTHS thuộc các
nhóm dễ bị tổn thương chủ yếu như: Người chưa thành niên, người có nhược
điểm về thể chất hoặc tinh thần, người bị tước tự do (người bị tạm giữ, tạm
giam), người bị đối mặt với hình phạt tử hình, người nghèo, người có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn.
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn tại huyện Thường Tín, thành phố Hà
Nội từ thời điểm năm 2016 đến năm 2018.
6. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu
6.1. Nội dung nghiên cứu
Quyền con người của các nhóm dễ bị tổn thương trong các quy định
của luật nhân quyền quốc tế, BLTTHS 2015, các văn bản hướng dẫn thi hành,
các luật có liên quan - quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành.

6


6.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, kết hợp với các phương pháp cụ thể như:
phương pháp phân tích, điều tra, tổng hợp, hệ thống, v.v. để luận giải, khái
quát và phân tích thực tiễn theo mục đích của đề tài.
6.3. Địa điểm nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu tại huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Thường
Tín là huyện nằm phía Nam ngoại thành Hà Nội, có các tuyến đường giao
thông quan trọng chạy qua như: Tuyến đường sắt Bắc - Nam, đường thủy nội
địa sông Hồng, đường Quốc lộ 1A, 1B.... có nhiều làng nghề truyền thống và
các khu công nghiệp tập trung số lượng lớn công nhân, người lao động. Đây
là điều kiện tốt để phát triển kinh tế, văn hóa nhưng cũng là yếu tố thuận lợi
cho các loại tội phạm hoạt động, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính

trị, trật tự an toàn xã hội của địa phương. Trong những năm gần đây, tình hình
vi phạm tội phạm trên địa bàn huyện vẫn diễn biến phức tạp, thủ đoạn phạm
tội của các đối tượng tinh vi, manh động, nguy hiểm. Các đối tượng gây án và
người bị hại thuộc nhiều nhóm có độ tuổi khác nhau, đặc điểm tâm sinh lý,
hoàn cảnh gia đình,… khác nhau. Do vậy, tác giả chọn huyện Thường Tín là
địa điểm nghiên cứu chủ yếu cho đề tài của mình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những khía cạnh lý luận của việc bảo đảm quyền của các
nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự
Chương 2: Thực tiễn bảo đảm quyền của các nhóm dễ bị tổn thương
trong giai đoạn điều tra, truy tố vụ án hình sự tại huyện Thường Tín, thành
phố Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền của các nhóm dễ
bị tổn thương trong giai đoạn điều tra, truy tố vụ án hình sự.
7


Chương 1
NHỮNG KHÍA CẠNH LÝ LUẬN CỦA VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
CÁC NHÓM DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA, TRUY TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Nhóm dễ bị tổn thương và những đặc thù
1.1.1. Khái niệm về tính dễ bị tổn thương và các nhóm người dễ bị
tổn thương
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tính dễ bị tổn thương. Theo quan
điểm của Ingrid Nifosi-Sutton (Giáo sư về Luật Quốc tế, Luật Nhân quyền
quốc tế và tổ chức quốc tế của Trường Đại học Luật Washington, Mỹ) trong
cuốn sách Bảo vệ nhóm dễ bị tổn thương trong Luật nhân quyền quốc tế thì

“tính dễ bị tổn thương” trong luật quốc tế được thể hiện ở hai yếu tố cấu
thành: (i) có đặc điểm về thể chất hoặc trong tình trạng bị khiếm khuyết v.v.,
không quốc tịch hoặc bị tước quyền tự do, tình trạng tìm kiếm tị nạn; (ii) về
mặt pháp lý căn cứ vào hoạt động của luật pháp mà làm cho một số người bị
tổn thương hơn trong việc vi phạm quyền con người hoặc không thể thực hiện
được các quyền con người này, ví dụ như nhóm người bản địa, người di cư,
người sống chung với HIV/AIDS [47].
Theo quan điểm của Bryan Stanley Turner (Giáo sư về xã hội học của
Trường Đại học Cambrigde, Anh) trong cuốn Dễ bị tổn thương và nhân quyền,
cho rằng, toàn bộ hệ thống của Liên Hợp quốc được hình thành trên cơ sở lấy
nền tảng là nhóm dễ bị tổn thương, cụ thể:
(i) các quy định của luật nhân quyền quốc tế công nhận về tính dễ bị
tổn thương của các nhóm người như người Do Thái, người đồng tính
và người khuyết tật; (ii) các quy định được xây dựng trên tiền đề về sự
cần thiết phải tôn trọng nhân phẩm và bình đẳng của mỗi con người và
cam kết thực hiện nhân quyền; (iii) quy định về việc ngăn chặn phát
8


sinh các vi phạm về nhân quyền. Tuy nhiên, các thiết chế bảo đảm
quyền con người chưa có học thuyết cụ thể để xác định nhóm người
dễ bị tổn thương, điều này được thể hiện ở việc chưa có tiêu chí cụ thể
xác định thế nào là dễ bị tổn thương và chưa nhận diện được các
nhóm trong các trường hợp đặc biệt [46].
Nhóm người dễ bị tổn thương (Vulnerable Group) được sử dụng khá
phổ biến trong các hoạt động nghiên cứu, học tập và trong các văn kiện pháp
lý quốc tế. Tuy nhiên lại không có một văn kiện pháp lý chính thức nào định
nghĩa một cách rõ ràng về thuật ngữ này cũng như hiểu một cách chính thức
về tính chất dễ bị tổn thương của nhóm người này. Theo Giáo trình lý luận và
pháp luật về quyền con người của Đại học quốc gia Hà Nội thì khái niệm

nhóm người dễ bị tổn thương là khái niệm “chỉ những nhóm, cộng đồng
người có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có
nguy cơ cao hơn bị tổn thương về quyền con người, và bởi vậy, cần được chú
ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác” [7, tr.229].
Một số nhóm người được coi là dễ bị tổn thương trong luật nhân quyền
quốc tế bao gồm: phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người sống chung với
HIV, người di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh nạn, người không quốc tịch, người
lao động di trú, người thiểu số (về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo...), người bản
địa, nạn nhân chiến tranh, những người bị tước tự do, người cao tuổi...
Trong pháp luật Việt Nam cũng quy định về những người dễ bị tổn
thương như:
- Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định những người được trợ giúp
pháp lý bao gồm người nghèo, người có công với cách mạng, người già cô
đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa, người dân tộc thiểu số
thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn [30, Điều 7].
- Luật phòng, chống thiên tai năm 2013 quy định về đối tượng dễ bị tổn

9


thương là nhóm người có đặc điểm và hoàn cảnh khiến họ có khả năng phải
chịu nhiều tác động bất lợi hơn từ thiên tai so với những nhóm người khác
trong cộng đồng. Đối tượng dễ bị tổn thương bao gồm trẻ em, người cao tuổi,
phụ nữ đang mang thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, người khuyết
tật, người bị bệnh hiểm nghèo và người nghèo [24, Điều 3].
Ngoài ra, Luật Người khuyết tật, Luật Trẻ em,... là những luật cụ thể
quy định về từng nhóm người dễ bị tổn thương.
1.1.2. Sự phân chia các nhóm dễ bị tổn thương
Căn cứ vào độ tuổi có thể chia ra các nhóm dễ bị tổn thương gồm: Trẻ
em, phụ nữ, người cao tuổi,...

Căn cứ vào đặc điểm về thể chất có thể chia ra các nhóm dễ bị tổn thương
gồm: Người khuyết tật, người mắc bệnh hiểm nghèo, người sống chung với
HIV/AIDS,...
Căn cứ vào các đặc điểm về hoàn cảnh sống có thể chia ra các nhóm dễ
bị tổn thương gồm: Người tị nạn, người lao động di trú, người thiểu số, người
bản địa, người không quốc tịch, người nước ngoài,…
Căn cứ vào tư cách tham gia TTHS có thể phân chia các nhóm dễ bị tổn
thương gồm: Người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, người
bị kết án, người bị thi hành án, người bị hại,…
1.1.3. Tính dễ bị tổn thương của một số nhóm
1.1.3.1. Trẻ em
Trẻ em được coi là một trong các nhóm xã hội dễ bị tổn thương nhất và
được tất cả các quốc gia, cộng đồng trên thế giới quan tâm bảo vệ. Lý do trẻ
em dễ bị tổn thương là do trẻ em là người đang trong quá trình phát triển cả
về sinh lí, tâm lí và ý thức. Đây là giai đoạn diễn ra những biến cố rất đặc
biệt, đó là sự phát triển cơ thể mất cân bằng nên đã dẫn đến tình trạng mất cân
bằng tạm thời của trẻ em. Trong giai đoạn này, các em không có hoặc bị hạn

10


chế khả năng tự bảo vệ mình, hơn nữa tâm lý muốn khẳng định bản lĩnh, cái
tôi của tuổi mới lớn dễ dẫn đến tình trạng dễ bị tổn thương cho các em như dễ
bị lạm dụng, xúi giục phạm tội hoặc trở thành nạn nhân của tội phạm, nhiều
em không biết và không nhận thức được việc mình đã làm là hành vi sai trái.
Trẻ em là những đối tượng đặc biệt cần được toàn xã hội quan tâm và bảo vệ.
Theo Điều 1 Công ước về Quyền Trẻ em (CRC), trẻ em là những người dưới
18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia quy định khác.
Trong lĩnh vực hình sự, trẻ em (hay người dưới 18 tuổi) là những người
dễ bị tổn thương, dễ bị xâm hại bởi tội phạm và dễ bị kích động, dụ dỗ bước

chân vào con đường phạm tội. Khi tham gia tố tụng, trẻ em do có nhận thức
về pháp luật còn hạn chế, thiếu hoặc không có khả năng tự bảo vệ, phần nhiều
các em không nhận thức được các quyền con người của mình đang bị vi phạm
nên dễ chịu tổn thương bởi các hành vi tố tụng của các cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền tiến hành tố tụng.
1.1.3.2. Người khuyết tật
Người khuyết tật cũng là một nhóm người chiếm tỷ lệ lớn trên thế
giới. Theo Điều 1 Công ước về người khuyết tật thì người khuyết tật được
hiểu là “những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ
hoặc giác quan mà khi tương tác với những rào cản khác nhau có thể
phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ
sở bình đẳng với những người khác”. Người khuyết tật được coi là một trong
những nhóm dễ bị tổn thương nhất, vì tình trạng khuyết tật khiến họ dễ bị
phân biệt đối xử do những nhược điểm cơ thể, tâm thần, trí tuệ, cảm xúc,…
và thường bị người khác kỳ thị, trêu đùa, bỏ rơi và bị mặc cảm. Tình trạng
khuyết tật cũng làm cho người bị khuyết tật khó khăn hơn trong việc thực
hiện các quyền của mình như quyền học tập, lao động, tham gia vào các hoạt
động vui chơi, giải trí,… [7, tr.289].

11


Với những đặc điểm dễ bị tổn thương như vậy, người khuyết tật dễ
phạm tội và dễ bị tổn thương bởi tội phạm. Khi tham gia TTHS, người khuyết
tật là đối tượng dễ chịu thiệt thòi do thiếu hiểu biết pháp luật, thiếu những
phương tiện kỹ thuật hỗ trợ tiếp cận tư pháp, đa số họ có hoàn cảnh khó khăn
thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý nhưng quyền này của họ dễ bị bỏ qua
bởi những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền tiến hành tố tụng…
1.1.3.3. Phụ nữ
Phụ nữ là nhóm dễ bị tổn thương chiếm số lượng lớn nhất trong số các

nhóm dễ bị tổn thương do phụ nữ chiếm một nửa thế giới nên vấn đề quyền
của phụ nữ thu hút sự quan tâm rất lớn của cộng đồng quốc tế [7, tr.232]. Năm
1967, Liên hợp quốc thông qua Tuyên bố về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử chống lại phụ nữ. Sau đó là sự ra đời của Công ước về xoá bỏ mọi hình
thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) vào ngày 18-12-1979, có
hiệu lực từ ngày 3-9-1981, nội dung của công ước đề ra những cách thức, biện
pháp nhằm loại trừ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong việc hưởng thụ
các quyền con người mà họ đã được thừa nhận trong những điều ước quốc tế
trước đó.
Phụ nữ dễ chịu sự tổn thương bởi các lý do sau: Do tư tưởng trọng nam
khinh nữ từ thời xã hội phong kiến nên phụ nữ dễ bị phân biệt đối xử, phụ nữ
là phái yếu do thể chất không bằng nam giới, dễ lâm vào tình trạng bị bạo hành,
cưỡng bức, lợi dụng,… Trong lĩnh vực hình sự, phụ nữ dễ trở thành nạn nhân
của tội phạm và thời gian gần đây, phụ nữ thực hiện hành vi phạm tội cũng trở
thành tình trạng đáng báo động. Khi tham gia TTHS, phụ nữ dễ bị tổn thương
hơn so với nam giới bởi những khác biệt về giới tính, về sức khỏe,…
1.1.3.4. Người cao tuổi
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về người cao tuổi. Trong Bình luận
chung số 6 năm 1995 về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của người cao tuổi

12


xác định người cao tuổi là người từ 60 tuổi trở lên. Theo tổ chức Lao động
quốc tế ILO xác định tuổi già là 65 tuổi. Theo WHO, Người cao tuổi phải từ
70 tuổi trở lên. Luật Người cao tuổi Việt Nam năm 2010 thì quy định: Người
cao tuổi là “Tất cả các công dân Việt Nam từ 60 tuổi trở lên”.
Người cao tuổi dễ bị tổn thương bởi họ dễ rơi vào hoàn cảnh bị đói
nghèo và bị phụ thuộc vào người khác. Người cao tuổi còn dễ bị lạm dụng,
ngược đãi, bỏ mặc do tình trạng sức khỏe và vị trí trong gia đình bị suy

giảm,... Cho đến nay, chưa có một công ước riêng về người cao tuổi, do vậy,
người cao tuổi có tất cả các quyền chung của con người, đặc biệt là các quyền
về an sinh xã hội, quyền về sức khỏe, quyền không bị phân biệt đối xử,…
Trong lĩnh vực hình sự, người cao tuổi ít khi là chủ thể thực hiện tội phạm,
tuy nhiên, người cao tuổi lại dễ trở thành đối tượng bị xâm hại bởi tội phạm.
Khi người cao tuổi tham gia TTHS, cũng có những quy định riêng đảm bảo
cho người cao tuổi không phải chịu thiệt thòi, được đối xử bình đẳng với
những người tham gia tố tụng khác.
1.1.3.5. Người thiểu số
Cho đến thời điểm hiện nay, mặc dù quyền của người thiểu số đã được
khẳng định trong ICCPR (Điều 27) và Tuyên bố về quyền của những người
thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo hoặc ngôn ngữ năm
1992, nhưng vẫn chưa có một định nghĩa nào về “người thiểu số” được chính
thức xác nhận trong bất cứ văn kiện quốc tế nào của Liên hợp quốc. Tuy
nhiên, có thể thấy người thiểu số có những đặc điểm sau: Có số lượng ít, nếu
so sánh với nhóm đa số cùng sinh sống trên cùng lãnh thổ; Là nhóm yếu thế
trong xã hội (thể hiện ở tiềm lực, vai trò và ảnh hưởng của nhóm tới đời sống
chính trị, kinh tế, xã hội ở lãnh thổ nơi họ sinh sống); Có những đặc điểm
riêng về mặt chủng tộc, dân tộc, ngôn ngữ, phong tục tập quán... mà vì thế có
thể phân biệt họ với nhóm đa số [7, tr.319].

13


Người thiểu số do những hiểu biết về pháp luật bị hạn chế nên họ dễ trở
thành nạn nhân của tội phạm. Bên cạnh đó, người thiểu số cũng dễ bị lợi dụng
bởi những lợi ích về vật chất và trở thành đồng phạm trong những vụ án buôn
bán ma túy xuyên quốc gia hay buôn lậu,… Khi tham gia TTHS, người thiểu
số cũng bị cản trở bởi khác biệt về tiếng nói, chữ viết, bản sắc văn hóa, trình
độ hiểu biết pháp luật nên họ dễ bị phân biệt đối xử hoặc bị bỏ qua các quyền

trong tố tụng bởi những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
1.2. Quyền của các nhóm dễ bị tổn thương trong giai đoạn điều tra,
truy tố vụ án hình sự theo pháp luật nhân quyền quốc tế
Bảo đảm quyền của các nhóm dễ bị tổn thương trong giai đoạn điều tra,
truy tố vụ án hình sự là việc bảo đảm các yếu tố cần và đủ cho quá trình thực
hiện quyền con người của các nhóm dễ bị tổn thương trong giai đoạn điều tra,
truy tố nhằm làm cho các hoạt động này có hiệu lực, hiệu quả cao nhất. Các
yếu tố cơ bản đó bao gồm: Một hệ thống quy phạm pháp luật đầy đủ, cơ sở vật
chất - kỹ thuật hiện đại, hệ thống các CQĐT, Viện kiểm sát có chất lượng; có
nguồn lực cán bộ tốt đáp ứng tốt mọi yêu cầu trong hoạt động điều tra, truy tố...
Quyền của các nhóm dễ bị tổn thương không tách rời các quyền con
người nói chung được pháp luật nhân quyền quốc tế bảo vệ. Các quyền con
người được ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền (UDHR)
năm 1948, sau đó được tiếp tục ghi nhận và cụ thể hóa trong hai Công ước về
các quyền dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hóa (ICCPR và ICESCR)
năm 1966. Bên cạnh các quyền con người chung được pháp luật quốc tế bảo
vệ, còn có các quyền đặc thù cho từng nhóm người dễ bị tổn thương dựa trên
những đặc điểm, tính chất và hoàn cảnh của họ. Trong lĩnh vực hình sự và
TTHS cũng có những quy định riêng đảm bảo quyền cho những nhóm dễ bị
tổn thương. Trong giai đoạn điều tra truy tố các VAHS, các nhóm dễ bị tổn
thương được bảo đảm các quyền con người theo các quy định của pháp luật
nhân quyền quốc tế sau:
14


1.2.1. Các quyền chung
* Quyền tự do
Điều 3, Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, 1948 (UDHR)
khẳng định: “Ai cũng có quyền sống, tự do và sự an toàn của một con
người.”. Điều 9, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR)

cũng nêu rõ: “Ai cũng có quyền tự do và sự an toàn của một con người.
Không một ai có thể là mục tiêu của sự bắt, giam giữ tùy tiện. Không một ai
có thể bị tước quyền tự do ngoại trừ trong những trường hợp được quy định
trong luật pháp, và theo trình tự được quy định bởi luật pháp”. Theo đó, mỗi
người đều có quyền tự do cá nhân, quyền tự do là quyền cơ bản của con
người, là tiền đề để con người có thể thực hiện những quyền con người khác.
Con người chỉ có thể bị tước đoạt quyền tự do một cách hợp pháp trong một
số trường hợp nhất định. Quyền tự do tuy không phải là quyền tuyệt đối
nhưng là quyền rất quan trọng cần phải được tôn trọng và bảo vệ trong TTHS.
* Quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện
Trong Luật nhân quyền quốc tế, quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện
được quy định tại Điều 9, UDHR: “Không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một
cách tùy tiện”. Quyền này cũng đã được cụ thể hóa hơn tại Điều 9, ICCPR.
Điều 9, ICCPR đã được giải thích tại Bình luận chung số 8 (phiên họp thứ 16,
1992). Các quy tắc chuẩn, tối thiểu của Liên hợp quốc về những biện pháp
không giam giữ (Các quy tắc Tokyo), 1990 cũng có quy định về tránh giam
giữ tiền xét xử. Như vậy, theo quy định của pháp luật nhân quyền quốc tế,
việc giam, giữ một con người trước khi xét xử chỉ được coi là biện pháp cuối
cùng và việc áp dụng phải tuân thủ những quy định tố tụng chặt chẽ để tránh
việc áp dụng tùy tiện có thể gây ảnh hưởng lớn đến các quyền con người.
* Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo,
vô nhân đạo hoặc hạ nhục
Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô
15


×