Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.73 KB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ THOA

ĐỐI TƯỢNG CHỨNG MINH
TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ THOA

ĐỐI TƯỢNG CHỨNG MINH
TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN MAI BỘ

Hà Nội – 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Thị Thoa

3


MỤC LỤC

4


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT

Ký hiệu


Nguyên nghĩa

1

TAND

Tòa án nhân dân

2

THTT

Tiến hành tố tụng

3

TNHS

Trách nhiệm hình sự

4

TTHS

Tố tụng hình sự

5

VKSND


Viện kiểm sát nhân dân

5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, việc
xác định đối tượng nhận thức có ý nghĩa hết sức quan trọng, vì nó xác định mục
tiêu mà tri thức con người phải đạt tới. Đối với vụ án hình sự, việc xác định đối
tượng nhận thức hay đối tượng chứng minh, lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn,
vì nếu xác định không đúng đối tượng chứng minh, hoạt động của các cơ quan
có thẩm quyền THTT sẽ bị lệch hướng, lãng phí công sức tiền của vào việc xác
minh, kiểm tra những tình tiết không liên quan đến vụ án, nhưng lại bỏ sót
những tình tiết quan trọng có ý nghĩa quan trọng đối với việc làm sáng tỏ vụ án.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy do không xác định đối tượng chứng minh của từng
vụ án một cách chính xác nên dẫn đến việc Toà án hoặc Viện kiểm sát phải trả hồ
sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung, điều tra lại hoặc dẫn đến việc giải
quyết vụ án sai sót, không phù hợp với quy định của pháp luật, làm oan người vô
tội, bỏ lọt tội phạm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như: quy định
của pháp luật TTHS về đối tượng chứng minh còn có những điểm bất cập, trình
độ nhận thức chưa cao, ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm của người có
thẩm quyền THTT… cho nên việc nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề
lý luận và thực tiễn về đối tượng chứng minh trong TTHS, đánh giá thực trạng
quy định của luật TTHS Việt Nam về đối tượng chứng minh và thực tiễn hoạt
động của các cơ quanTHTT hình sự để từ đó đề ra giải pháp hoàn thiện về mặt
lập pháp và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong giải quyết vụ án hình
sự là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và mang tính cấp thiết, góp phần nâng cao
chất lượng giải quyết vụ án hình sự. Do vậy tác giả chọn đề tài “Đối tượng
chứng minh trong vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” cho luận

văn tốt nghiệp.

6


2. Tình hình nghiên cứu
Với tư cách là đối tượng nghiên cứu của khoa học Luật TTHS, đối tượng
chứng minh trong tố tụng hình sự đã được nghiên cứu ở cấp độ giáo trình, sách
tham khảo, tạp chí, luận văn trong tốt nghiệp Đại học, Thạc sỹ luật học. Cụ thể:
Ở cấp độ giáo trình, sách tham khảo, tạp chí có: Giáo trình luật TTHS Việt
Nam của Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật TTHS Việt Nam của
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật TTHS Việt Nam của Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, của Học viện cảnh sát, “Tài liệu tập huấn chuyên sâu
về Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật Bộ Công an, Hà Nội tháng 6-2004; “Một số vấn đề về chứng
minh trong tố tụng hình sự” của tác giả Trần Quang Tiệp, tạp chí Kiểm sát số 9,
2003;...Nội dung của “Đối tượng chứng minh trong TTHS” trong các giáo trình,
sách tham khảo, tạp chí này mới đề cập mang tính giải thích, nêu khái niệm, đặc
điểm để phục vụ cho học viên hiểu về cơ bản về vấn đề.
Ở cấp độ Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật học có: Đề tài: “Chứng
minh trong tố tụng hình sự Việt Nam”của tác giả Phạm Thế Lực - K41B Khoa Luật - Đại học QGHN thì “ Đối tượng chứng minh trong TTHS” được
đề cập góc độ là một vấn đề của quá trình chứng minh, nêu đến khái niệm đối
tượng chứng minh và phân loại đối tượng chứng minh nên việc nghiên cứu
mới dừng lại ở mức độ nhất định, mang tính khái quát sơ bộ về vấn đề.
Ở cấp độ Luận văn Thạc sỹ có: Đề tài: “Đối tượng chứng minh trong
vụ án hình sự mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên”của tác giả Nguyễn
Thị Diệu Hương, bảo vệ năm 2014, có đề cập đến một phần nội dung về đối
tượng chứng minh trong vụ án hình sự - trong đó gồm các vấn đề: khái niệm,
nội dung và phân loại đối tượng chứng minh – Tuy nhiên việc nghiên cứu
chưa thật sâu sắc và toàn diện. Đề tài “Quá trình chứng minh trong tố tụng

hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Minh Ngọc - bảo vệ năm 2014.

7


Trong các luận văn thạc sỹ nêu trên các tác giả mới chỉ đề cập đến: đối tượng
chứng minh - nhưng đây không phải là đối tượng nghiên cứu chính của luận
án, nên các tác giả cũng chỉ giải quyết vấn đề một cách khái quát chung và
làm rõ mối quan hệ của nó với các vấn đề khác trong luận văn để từ đó nhằm
phục vụ cho việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề chính của luận án… Như
vậy, có thể nói rằng chưa có nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về đối
tượng chứng minh trong TTHS với quy mô là một đề tài độc lập, chuyên biệt
về vấn đề. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về đối tượng chứng minh trong vụ
án hình sự theo pháp luật TTHS là cần thiết.
3. Mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của
luận văn
- Mục đích, yêu cầu: Làm rõ một cách cơ bản và toàn diện những vấn
đề lý luận và thực tiễn về đối tượng chứng minh trong tố tụng hình sự.
Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật TTHS nước ta
về đối tượng chứng minh có so sánh với quy định của luật TTHS một số
nước trên thế giới về vấn đề này, đánh giá thực tiễn hoạt động của các cơ quan
có thẩm quyền THTT hình sự ở Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng
minh, tìm ra những điểm còn tồn tại, bất cập từ đó bước đầu đề xuất một số
giải pháp góp phần hoàn thiện về mặt lập pháp có liên quan đến đối tượng
chứng minh và nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong thực tiễn, từ đó góp phần
nâng cao chất lượng giải quyết vụ án hình sự.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu
luận văn cần giải quyết những vấn đề sau:
+ Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về đối tượng chứng minh
trong vụ án hình sự;

+ Xem xét, đánh giá tính khoa học, tính pháp lý những quy định của luật
TTHS Việt Nam và luật TTHS của một số nước trên thế giới về đối tượng chứng
minh trong vụ án hình sự;
8


+ Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
về đến đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự;
+ Từ đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực tiễn áp dụng những
quy định đó của các cơ quan có thẩm quyền THTT hình sự ở Việt Nam.
- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn: là những quy định của pháp luật
TTHS về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng các
quy định của pháp luật hình sự về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự.
- Phạm vi nghiên cứu của Luận văn: là các quy định của pháp luật
TTHS Việt Nam từ 1945 đến nay, có sự so sánh đối chiếu với pháp luật TTHS
của một số nước trên thế giới; thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật TTHS
về đối tượng chứng minh trọng vụ án hình sự trong một số năm gần đây; đánh
giá thực trạng hoạt động của các Cơ quan THTT hình sự Việt Nam liên quan
đến đối tượng chứng minh trong khoảng thời gian 5 năm trở lại đây.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê
Nin, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm
nói chung và về giải quyết vụ án hình sự nói riêng, những thành tựu của các
khoa học: triết học, luật hình sự, luật TTHS, lôgic học, tội phạm học, điều tra
hình sự và các học thuyết chính trị pháp lý.
- Cơ sở sự thực tiễn của luận văn là thực tiễn hoạt động chứng minh,
giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan có thẩm quyền THTT cũng như các
văn bản của 3 ngành Công an, Kiểm sát, Toà án hướng dẫn về hoạt động, điều
tra, xử lý vụ án hình sự.
- Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp với một số
phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp: hệ thống, lôgic, phân
tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tế để chọn lọc tri thức khoa học, kinh

9


nghiệm thực tiễn liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong tố tụng
hình sự, từ đó làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn.
- Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của Luận văn có
thể được khai thác sử dụng trong công tác nghiên cứu lý luận của các cơ
quan có thẩm quyền THTT hình sự và có thể làm tài liệu tham khảo trong
xây dựng, sửa đổi BLTTHS và một số văn bản pháp luật khác có liên quan
đến đối tượng chứng minh để hoàn thiện hơn.
- Về mặt thực tiễn: Các cơ quan có thẩm quyền THTT có thể khai
thác vận dụng những kết quả nghiên cứu của Luận văn để nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của mình trong quá trình chứng minh, giải quyết
vụ án hình sự.
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu còn tham
khảo, Luận văn gồm 3 chương :
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về đối tượng chứng minh trong
vụ án hình sự
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và
một số nước trên thế giới về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự
Chương 3: Thực tiễn thi hành quy định Luật tố tụng hình sự Việt Nam
về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự và một số giải pháp để nâng cao
hoạt động áp dụng quy định của Luật tố tụng hình sự về đối tượng chứng
minh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự


10


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỐI TƯỢNG
CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự
Tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của từng lĩnh vực hoạt động nhận
thức cụ thể mà trong mỗi lĩnh vực của hoạt động nhận thức lại có đối tượng
nhận thức riêng.
Theo triết học Mác – Lênin, thì nhận thức là sự phản ánh biện chứng
tích cực và là một quá trình vận động và phát triển không ngừng từ không biết
đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến bản chất, từ thấp đến cao,
từ nông đến sâu để nắm được bản chất quy luật của sự việc và hiện tượng[10,
Tr 98]. Trong thế giới khách quan, không có cái gì là con người không thể
nhận thức được, mà chỉ có những cái con người chưa nhận thức được nhưng
dần dần cũng sẽ nhận thức được.
Theo nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì: thế giới thống
nhất ở tính vật chất, thế giới vật chất luôn vận động và phát triển, mọi sự vật
hiện tượng trong thế giới luôn có mối liên hệ, tác động với nhau, ràng buộc
lẫn nhau, quy định và chuyển hoá lẫn nhau. Phép biện chứng cũng chỉ ra rằng
phản ánh là thuộc tính của chung của mọi đối tượng vật chất, V. I -Lênin viết:
“Hết thảy mọi vật chất đều có một đặc tính về bản chất gần giống như cảm
giác, đặc tính phản ánh”[11, tr 104]. Bởi vậy về nguyên tắc, hoạt động của
con người nói chung và hành vi phạm tội nói riêng bao giờ cũng để lại dấu vết
trong thế giới khách quan.
Như vậy, theo nguyên lý của lý luận nhận thức thì không có sự vật,
hiện tượng nào mà con người không nhận thức được, vì thế không thể có tội


11


phạm không bị phát hiện, chỉ có điều chúng ta có vận dụng một cách khách
quan quy luật nhận thức trong quá trình chứng minh làm rõ vụ án hay không.
Nhưng quá trình nhận thức sự thật khách quan của vụ án hình sự không
phải là quá trình nhận thức trực tiếp mà là quá trình nhận thức gián tiếp về vụ án.
Bởi vì, khi đó sự việc phạm tội không phải là đang xảy ra một cách hiện hữu để
chúng ta nhận thức, mà trên thực tế sự việc phạm tội đã xảy ra, vì vậy các cơ
quan có thẩm quyền THTT phải nhận thức khôi phục lại nó thông qua việc phát
hiện thu thập và đánh giá những dấu vết mà nó để lại trong hiện thực khách
quan. Những dấu vết của hành vi phạm tội có thể được thể hiện dưới dạng vật
chất hoặc được phản ánh ghi nhận trong trí nhớ của con người. Dựa trên cơ sở
đó mà cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự cần phải tuân thủ những quy luật chung của quá trình
nhận thức hiện thực khách quan để làm rõ sự việc phạm tội, người thực hiện
tội phạm và những tình tiết khác có liên quan đến vụ án một cách khách quan,
có căn cứ và đúng quy định của pháp luật, làm cơ sở cho việc truy cứu trách
nhiệm hình sự người phạm tội. Đó cũng chính là quá trình nhận thức và xác
định về đối tượng chứng minh.
Bởi vậy, đối tượng chứng minh trong TTHS là tổng hợp những vấn đề
chưa biết nhưng các cơ quan có thẩm quyền THTT cần phải biết để giải quyết
đúng đắn vụ án hình sự và đề ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm và những
vấn đề này được luật TTHS quy định và các cơ quan có thẩm quyền THTT
phải chứng minh làm rõ.
Do tính chất, mức độ và hoàn cảnh xảy ra trong từng vụ án hình sự
không giống nhau nên đối tượng chứng minh ở mỗi vụ án có những phạm vi
và yêu cầu khác khác nhau. Tuy vậy, tội phạm đều có những đặc điểm, quy
luật chung giống nhau và được khái quát thành những vấn đề chung nhất mà

những vấn đề này đươc luật TTHS quy định một cách trực tiếp cụ thể hoặc

12


quy định một cách gián tiếp và thường phải chứng minh trong bất kỳ vụ án
nào. Theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam thì để truy cứu trách nhiệm
hình sự người và một tội phạm cụ thể, cơ quan có thẩm quyền THTT phải
chứng minh: có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và
những tình tiết khác của hàng vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm
tội, có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực TNHS hay không;
mục đích, động cơ phạm tội; những tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của bị
can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Mặt khác, trong luật TTHS còn quy định phải chứng minh các tình tiết
khác có liên quan đến vụ án, mà những tình tiết này có thể chỉ phải chứng
minh trong vụ án cụ thể nào đó chứ không phải chứng minh trong tất cả vụ án
nào. Hoặc có những tình tiết, vấn đề chỉ phải chứng minh khi phát sinh những
hoạt động tố tụng có liên quan. Chẳng hạn như: những tình tiết là căn cứ áp
dụng biện pháp tạm giam chỉ phải chứng minh nó khi các cơ quan có thẩm
quyền THTT áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo.
Trong TTHS, nhiệm vụ đặt ra cho các cơ quan có thẩm quyền THTT,
người có thẩm quyền THTT… là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý
công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội. Đưa ra những nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm để đấu
tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Một trong những nguyên tắc cơ bản của
luật TTHS Việt Nam là “trong quá trình THTT hình sự, Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát và Toà án có nhiệm vụ tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm
tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và
ngăn ngừa. Các cơ quan, tổ chức hữu quan phải trả lời về việc thực hiện yêu cầu
của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án.” (Điều 27, BLTTHS Việt Nam

năm 2003). Như vậy, trong quá trình THTT hình sự yêu cầu đặt ra cho các cơ
quan có thẩm quyền THTT là phải tìm ra các nguyên nhân và điều kiện phạm tội

13


và đề ra các biện pháp, yêu cầu khắc phục. Chính vì vậy, các cơ quan có thẩm
quyền THTT, người có thẩm quyền THTT phải chứng minh làm rõ nguyên nhân
và điều kiện phạm tội - và đây là những vấn đề chứng minh không chỉ góp phần
để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự mà còn phục vụ chủ yếu cho công tác
phòng ngừa tội phạm. Nên theo chúng tôi đối tượng chứng minh trong vụ án
hình sự còn bao gồm cả những vấn đề liên quan đến vụ án và phục vụ cho việc
đề ra các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm.
Theo nguyên tắc pháp chế trong Bộ Luật TTHS Năm 2003 thì: mọi
hoạt động TTHS của cơ quan có thẩm quyền THTT, người có thẩm quyền
THTT và người tham gia tố tụng cũng phải tuân thủ những quy định của luật
TTHS và đương nhiên đối tượng chứng minh cũng phải được luật TTHS quy
định - tức là trong quá trình tố tụng đối với vụ án hình sự cần phải chứng
minh những vấn đề gì đều được luật TTHS quy định.
Hiện nay trong một số giáo trình cũng như một số công trình nghiên
cứu đó được công bố, có một số quan điểm về đối tượng chứng minh như sau:
- Quan điểm thứ nhất: "Đối tượng chứng minh là tổng hợp những vấn đề
cần phải được xác định làm rõ để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự”[14, Tr 87].
- Quan điểm thứ hai: "Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là
tổng hợp tất cả các tình tiết thể hiện đầy đủ bản chất của sự việc liên quan đến
tội phạm và người phạm tội, những tình tiết khác giúp cho việc giải quyết
đúng đắn vụ án hình sự" [7,Tr 166]
- Quan điểm thứ ba cho rằng: Đối tượng chứng minh trong vụ án hình
sự là tất cả những vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết để làm sáng tỏ bản
chất của vụ án, trên cơ sở đó các cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định

phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự [8, Tr 165].
- Quan điểm thứ tư cho rằng: Đối tượng chứng minh trong vụ án hình
sự là tất cả những vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết để làm sáng tỏ bản

14


chất của vụ án, trên cơ sở đó các cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định
phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và đề ra các biện pháp phòng
ngừa[12, Tr 24].
Các quan điểm trên đều xác định đối tượng chứng minh là "tổng hợp"
những vấn đề hay những tình tiết cần phải xác định để giải quyết đúng đắn vụ án
hình sự. Tuy nhiên, quan điểm thứ nhất về đối tượng chứng minh chưa bao hàm
hết nội dung của đối tượng chứng minh. Cụ thể là khái niệm chưa bao hàm những
vấn đề có liên quan đến vụ án cũng như đặt ra các biện pháp phòng ngừa là đối
tượng chứng minh. Ở quan điểm thứ hai, nội dung khái niệm mới chỉ mang tính
liệt kê những tình tiết thuộc đối tượng chứng minh mà chưa thể hiện được bản
chất của đối tượng chứng minh trong khái niệm, chưa nhắc đến các biện pháp
phòng ngừa là một trong những vấn đề cần phải chứng minh khi giải quyết vụ án
hình sự. Theo tôi, quan điểm thứ ba thể hiện được bản chất của đối tượng chứng
minh - là tất cả những vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết để làm sáng tỏ bản
chất của vụ án nhưng xét về nội hàm của khái niệm thì chưa được thật đầy đủ bởi
về nội dung khái niệm chưa bao quát các biện pháp phòng ngừa là một trong
những vấn đề cần phải chứng minh khi giải quyết vụ án.
Trong các quan điểm về đối tượng chứng minh, chúng ta thấy quan
điểm thứ tư tương đối hoàn chỉnh, thể hiện đầy đủ bản chất của đối tượng
chứng minh trong vụ án hình sự, coi các biện pháp phòng ngừa là một trong
những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự. Như chúng ta đã biết,
tội phạm là một hiện tượng xã hội, gắn với xã hội có giai cấp nên tội phạm có
sự vận động, biến đổi theo quy luật vận động của xã hội. Vì vậy, cùng với

việc chứng minh tất cả những tình tiết làm sáng tỏ bản chất của vụ án, cơ
quan tiến hành tố tụng cũng phải nghiên cứu, xác định các biện pháp phòng
ngừa tội phạm cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của xã hội, đảm bảo
yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm.

15


Từ những phân tích nêu trên có thể rút ra khái niệm về đối tượng
chứng minh trong vụ án hình sự như sau: Đối tượng chứng minh trong vụ án
hình sự là tổng hợp các vấn đề liên quan đến vụ án hình sự mà theo quy định
của pháp luật TTHS thì cơ quan có thẩm quyền THTT và người có thẩm
quyền THTT phải làm sáng tỏ để ra các quyết định phù hợp với quy định của
luật hình sự, luật TTHS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và đề ra các
biện pháp phòng ngừa tội phạm.
1.1.2. Đặc điểm của đối tượng chứng minh vụ án hình sự
Từ khái niệm đã được đưa ra nêu trên cho thấy đối tượng chứng minh
trong vụ án hình sự có một số đặc điểm như sau:
- Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là những vấn đề liên
quan đến vụ án hình sự
Đó là sự tồn tại về mặt không gian, thời gian của sự việc phạm tội; nội
dung sự việc phạm tội; người thực hiện hành vi phạm tội và ý thức chủ quan
của người đó khi thực hiện hành vi; các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ do pháp
luật hình sự quy định; tính chất mức độ thiệt hại do tội phạm này gây ra.
Như vậy ở phương diện chung nhất, để xác định được đúng và đầy đủ
đối tượng chứng minh trong vụ án cụ thể trước hết đòi hỏi phải nắm được đầy
đủ những vấn đề cần phải chứng minh do luật TTHS quy định cùng với những
quy định của luật hình sự về những vấn đề liên quan đến đối tượng chứng
minh và căn cứ vào những quy định này để xác định những vấn đề phải chứng
minh trong vụ án hình sự đã xảy ra. Chúng ta không chỉ phải căn cứ vào quy

định của luật TTHS mà còn phải căn cứ vào quy định của luật hình sự bởi lẽ:
Bộ luật TTHS quy định những vấn đề phải chứng minh dưới dạng khái quát
chung, còn luật hình sự quy định cụ thể những nội dung của vấn đề cần phải
chứng minh. Chẳng hạn như: luật TTHS quy định phải chứng minh những
tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo. Nhưng những

16


tình tiết nào là tình tiết tăng nặng TNHS, tình tiết nào là tình tiết giảm nhẹ
TNHS lại do luật hình sự quy định mà chúng ta phải dựa vào những quy định
này để xác định, chứng minh tình tiết tăng nặng TNHS, tình tiết giảm nhẹ
TNHS nào đối với bị can, bị cáo trong vụ án cụ thể. Những quy định của luật
TTHS và luật hình sự chính là những căn cứ để chúng ta dựa vào đó và đối
chiếu, so sánh với vụ án cụ thể đã xảy ra để xác định được đối tượng cần
chứng minh trong vụ án đó, bảo đảm được đầy đủ, không bị sót thiếu vấn đề
gì. Nhưng trên thực tế khi một vụ án xảy ra chúng ta không thể biết ngay
được nội dung và các tình tiết của vụ án đó mà đòi hỏi chúng ta phải chứng
minh làm rõ những nội dung, tình tiết của vụ án có ý nghĩa pháp lý mà luật
quy định cần phải chứng minh. Song nếu chúng ta cứ dựa vào những quy định
của luật về đối tượng chứng minh và lần lượt chứng minh những vấn đề luật
quy định xem trong vụ án cụ thể có những tình tiết gì, không có tình tiết gì so
với quy định của luật là việc làm không hợp lý vì nó dẫn đến lãng phí về thời
gian và chi phí cho việc điều tra, chứng minh. Bởi vậy, căn cứ vào những quy
định của luật về đối tượng chứng minh, dựa vào tính chất, mức độ, hoàn cảnh
của từng vụ án cũng như dựa vào những chứng cứ đã được thu thập, những
tình tiết đã được chứng minh trong quá trình chứng minh vụ án… những
người có thẩm quyền THTT trong tư duy phải phân tích, đánh giá để xác định
trong vụ án đó phải chứng minh những vấn đề gì? Những vấn đề gì rõ ràng
không xảy ra trong vụ án và không phải chứng minh. Đồng thời phải biết xác

định những tình tiết quan trọng thể hiện bản chất của vụ án cần được chứng
minh trước vì nếu có những tình tiết này thì mới phải chứng minh các tình tiết
khác và ngược lại không có tình tiết này thì việc giải quyết vụ án có thể dừng ở
giai đoạn sớm hơn nên không phải chứng minh các tình tiết khác.
Thông thường, khi nhận được tin báo tội phạm, các cơ quan có thẩm
quyền THTT tiến hành kiểm tra, xác minh và xác định có hay không có dấu

17


hiệu tội phạm. Dấu hiệu của tội phạm phản ánh ở: hành vi nguy hiểm cho xã
hội, hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là hành vi có lỗi, hành vi nguy hiểm
cho xã hội phải được quy định mà cơ quan có thẩm quyền THTT phải xử lý
về hình sự. Nên khi xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu của
tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền THTT mới ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự và khi đó mới phải tiến hành điều tra để chứng minh những vấn đề
tiếp theo trong vụ án, ngược lại nếu không có dấu hiệu của tội phạm hoặc có
những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan có thẩm quyền
THTT ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự và lúc này không đòi hỏi
phải chứng minh tiếp những vấn đề khác, đồng thời quá trình tố tụng chấm
dứt ở đó. Cũng cần lưu ý rằng trong một số trường hợp tuy có dấu hiệu của tội
phạm nhưng luật TTHS quy định chỉ khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của
người bị hại.
Trong trường hợp có dấu hiệu của tội phạm và đã khởi tố vụ án hình
sự thì cơ quan có thẩm quyền THTT tiến hành chứng minh các vấn đề tiếp
theo của vụ án. Trong đó, nên tập trung vào chứng minh những vấn đề thể
hiện bản chất của vụ án. Tức là chứng minh các yếu tố cấu thành tội phạm
nhưng chỉ cần xác định được không có một trong các yếu tố cấu thành tội
phạm thì vụ án được đình chỉ điều tra và đương nhiên vấn đề chứng minh
cũng không đặt ra nữa.

Nếu trong vụ án có đủ yếu tố cấu thành tội phạm và cơ quan có thẩm
quyền THTT phải tiếp tục tiến hành chứng minh các vấn đề khác có liên quan
đến vụ án thì cần lưu ý là phải biết dựa trên cơ sở những nội dung, tình tiết
của vụ án đã được chứng minh và các chứng cứ đã thu thập được để xác định
những vấn đề tiếp theo cần phải chứng minh và loại trừ những vấn đề rõ ràng
không có trong vụ án và không phải chứng minh. Chẳng hạn như: Tội phạm
mới được thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội thì rõ ràng lúc này hậu quả

18


của tội phạm chưa xảy ra nên đương nhiên không phải chứng minh hậu quả
của tội phạm, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả… Nếu
tội phạm chỉ do một người thực hiện thì chỉ phải chứng minh nhân thân,
những tình tiết tăng nặng TNHS, tình tiết giảm nhẹ TNHS... liên quan đến người
đó. Còn trong trường hợp có đồng phạm thì phải chứng minh tính chất của đồng
phạm, vai trò của từng người trong thực hiện tội phạm, nhân thân, các tình tiết
tăng nặng TNHS, tình tiết giảm nhẹ TNHS... đối với từng người; Nếu người thực
hiện tội phạm chưa thành niên thì phải chứng minh: tuổi, trình độ, phát triển về
thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của họ, điều kiện
sinh sống và giáo dục… còn đối với người phạm tội đã thành niên thì không phải
chứng minh những vấn đề đó hoặc khi đã chứng minh có các căn cứ miễn TNHS
cho người phạm tội thì đương nhiên không phải chứng minh những tình tiết liên
quan đến xác định TNHS và hình phạt…
- Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là
những vấn đề liên quan đến vụ án hình sự đã xảy ra
trong quá khứ mà cơ quan có thẩm quyền THTT và người
có thẩm quyền THTT chưa biết nên phải xác minh
Xét về mặt thời gian thì:
Việc khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, truy tố và xét xử vụ án hình

sự được thực hiện sau khi hành vi phạm tội được thực hiện. Cơ quan có thẩm
quyền THTT và người có thẩm quyền THTT khi nhận được các tin: Tố giác
của cá nhân; Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;Tin báo trên phương tiện
thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; Cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; Người
phạm tội tự thú thì phải phân tích, đánh giá để đi đến những kết luận: Có sự
việc đã xảy ra hay không, thời gian, địa điểm, diễn biến sự việc… Sự việc có
đủ dấu hiệu một tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự hay

19


không ? Để từ đó làm căn cứ quyết định khởi tố vụ án hình sự. Trong thời hạn
24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát phải gửi
quyết định đó đến Cơ quan điều tra có thẩm quyề̀n để tiến hành điều tra.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải
gửi quyết định đó kèm theo tài liệu liên quan đến Viện kiểm sát có thẩm
quyền để kiểm sát việc khởi tố. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự, Tòa án phải gửi quyết định đó kèm theo tài liệu liên
quan đến Viện kiểm sát cùng cấp". Quyết định khởi tố vụ án hình sự là hành
vi tố tụng hình sự của một pháp nhân (chủ thể tiến hành tố tụng) có thẩm
quyền khởi tố vụ án hình sự biểu hiện bằng một văn bản tố tụng hình sự xác
định một sự kiện pháp lý xảy ra trong thực tế là có dấu hiệu của những tội
phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự nhằm khởi phát những quan
hệ tố tụng, mở đầu cho việc thực hiện những hành vi tố tụng hình sự cần thiết
để làm rõ sự thật khách quan về sự kiện đó. Quyết định khởi tố vụ án hình sự,
xét từ giác độ giá trị pháp lý là văn bản pháp lý làm cơ sở ban đầu để tiến
hành một cách hợp pháp các hoạt động tiếp theo nhằm làm rõ vụ án hình sự
và là cơ sở pháp lý trực tiếp của các quan hệ tô tụng hình sự phát sinh liên

quan đến việc giải quyết vụ án. Tất cả các hoạt động tô tụng hình sự chỉ được
tiến hành sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự (trừ trường hợp khám
nghiệm hiện trường, bắt khẩn cấp, tạm giữ và khám người trong các trường
hợp này thì được tiến hành trước khi quyết định khởi tố vụ án hình sự). Như
vậy hành vi phạm tội được xảy ra trước đó và cơ quan có thẩm quyền THTT
và người có thẩm quyền THTT thực hiện các công việc để chứng minh hành
vi phạm tôi và người phạm tội.
Để khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, truy tố, xét xử vụ án hình sự
thì cơ quan có thẩm quyền THTT và người có thẩm quyền THTT phải thu

20


thập và đánh giá chứng cứ. Chứng cứ là phương tiện của việc chứng minh,
của việc xác định các sự kiện có ý nghĩa với việc giải quyết vụ án hình sự.
Thông qua các tài liệu, chứng cứ các sự kiện thực tế được xác định, khẳng
định và đồng thời cũng phủ định, loại trừ các sự kiện không xảy ra trong thực
tế. Rõ ràng vai trò, giá trị của chứng cứ là rất quan trọng, là cơ sở duy nhất, là
phương tiện duy nhất để chứng minh trong vụ án hình sự. Khi giải quyết vụ
án hình sự, trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng, cơ quan điều tra,
viện kiểm sát và toà án cần xác minh những sự việc có liên quan đến tội phạm
đang được tiến hành xem xét, cần phải khẳng định được rằng tội phạm đã xảy
ra, xác định được người cụ thể đã thực hiện tội phạm và họ phải chịu trách
nhiệm về hành vi đã thực hiện. Tất cả các sự kiện và tình tiết của vụ án phải
phù hợp với hiện thực khách quan. Để làm được điều đó, cơ quan tiến hành tố
tụng phải dựa vào chứng cứ. Thông qua chứng cứ, kiểm sát viên thực hành
quyền công tố trước toà án đưa ra lời buộc tội đối với bị cáo, còn người bào
chữa và thân chủ của họ có thể bác bỏ lời buộc tội hoặc đưa ra những tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Việc nghiên cứu, xác định các sự
kiện, tình tiết của vụ án được tiến hành trên cơ sở của các chứng cứ và chỉ

bằng cách dựa vào các chứng cứ mới làm sáng tỏ được những vấn đề cần
chứng minh trong vụ án hình sự. Thông qua việc phát hiện chứng cứ, xem xét
và ghi nhận chứng cứ về mặt tố tụng, kiểm tra tính xác thực của chứng cứ,
đánh giá chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng có thể nghiên cứu đầy đủ và
toàn diện các tình tiết của vụ án, xác định sự phù hợp của chúng với hiện thực
từ đó tìm ra chân lý khách quan. Việc nhận thức đúng vấn đề chứng cứ sẽ là
cơ sở lý luận, định hướng đúng đắn cho quá trình thu thập, nghiên cứu, kiểm
tra, đánh giá chứng cứ. Thông thường, một vụ án hình sự xảy ra bao giờ cũng
để lại dấu vết và những dấu vết đó được thể hiện dưới những hình thức khác
nhau, mà những dấu vết này có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định có hay

21


không có hành vi phạm tội. Các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ căn cứ vào
những dấu vết đã thu thập được để khởi tố, truy tố hay xét xử một người đã có
hành vi phạm tội, những dấu vết đó được gọi là chứng cứ. Theo quy định
pháp luật thì: Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự do pháp
luật tố tụng hình sự quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng
làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành
vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn
vụ án. Chứng cứ được xác định bằng:Vật chứng; Lời khai, lời trình bày; Dữ liệu
điện tử; Kết luận giám định, định giá tài sản; Biên bản trong hoạt động khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp
tác quốc tế khác; Các tài liệu, đồ vật khác. Kết quả của các hoạt động tố tụng này
là dựng lại quá trình diễn biến của vụ án đã xảy ra trước đó. Đây là vấn đề mà
khi được giao nhiệm vụ điều tra, truy tố xét xử vụ án hình sự, người có thẩm
quyền THTT chưa biết cho nên họ phải xác minh.
Yêu cầu xác minh không phụ thuộc vào kết quả xác minh của giai đoạn
tố tụng trước mà phải được lập trong việc đánh giá chứng cứ.

- Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là cơ sở để cơ quan co
thẩm quyền THTT và người co thẩm quyền THTT quy định biện pháp
giải quyết vụ án hình sự
Trong giải quyết vụ án hình sự, mục đích và yêu cầu đặt ra không
những đòi hỏi phải làm rõ bản chất của vụ án và xử lý nghiêm minh người
phạm tội mà còn đòi hỏi toàn bộ quá trình giải quyết vụ án phải tuân thủ đúng
quy định của luật hình sự, luật TTHS, việc giải quyết vụ án phải đảm bảo
đúng đắn khách quan bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người tham
gia tố tụng và người có liên quan đến vụ án, khắc phục hậu quả của tội phạm,
cũng như đề ra được các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Nói cách khác việc
giải quyết vụ án hình sự là việc đưa ra quy định hành vi nguy hiểm cho xã hội

22


do ai thực hiện và có phải là hành vi phạm tội được quy định tại một điều luật
cụ thể tại phần các tội phạm Bộ luật hình sự hay không. Nếu có phạm tội thì
hành vi phạm tội gì được quy định tại điều, khoản, điểm nào của BLHS.
Trong phạm vi quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền THTT phải áp
dụng mọi biện pháp để xác định sự thật khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm
rõ chứng cứ xác định có tội, xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Trách nhiệm chứng minh tội
phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội
không buộc phải chứng minh mình vô tội. Muốn xác định một người bị có tội
hay không thì phải dựa trên những chứng cứ thu được trong vụ án để xem
xét. Trong

quá trình tiến hành tố tụng, điều tra viên, kiếm sát viên, thẩm

phán, hội thẩm và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác không

được thiên vị, định kiến, phải thu thập và đánh giá chứng cứ của vụ án trên tất
cả các phương diện, cân nhắc mọi tình tiết có thể ảnh hưởng đến việc giải
quyết vụ án. Dựa trên cơ sở những chứng cứ rút ra từ những lời khai của
người bị buộc tội, kết hợp với chứng cứ khác cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng xác định người bị buộc tội có tội hay không có tội.
Việc chứng minh rõ các vấn đề: Có hành vi phạm tội xảy ra hay
không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là
người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý;
có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và những
đặc điểm; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Để cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định, đưa ra các chế tài, biện
pháp tư pháp đối với người phạm tội. The quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam thì chế tài gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Hình phạt chính
là: Cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ; trục xuất; tù có thời hạn; tù

23


chung thân và tử hình. Hình phạt bổ sung là: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số
quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền; trục xuất. Trong đó, có 2 hình phạt
có thể là hình phạt chính, có thể là hình phạt bổ sung là phạt tiền và trục xuất.
Các biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy định trong
Bộ luật hình sự, do cơ quan có thẩm quyền THTT áp dụng đối với người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhằm hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt gồm:
Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; Trả lại tài sản, sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại; Buộc công khai xin lỗi; Bắt buộc chữa bệnh; Giáo
dục tại xã, phường, thị trấn; Đưa vào trường giáo dưỡng (chỉ áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội).

Chính vì vậy ngoài việc chứng minh những vấn đề liên quan đến việc
xác định tội phạm, xử lý người phạm tội, còn phải chứng minh những vấn đề
khác để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được đúng đắn và phục vụ
cho việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm, đó là bao gồm những vấn đề như:
Các tình tiết để xác định việc bồi thường thiệt hại hoặc để áp dụng các
biện pháp tư pháp như: Mức độ thiệt hại gây ra, hoàn cảnh của nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự…
Tung tích của nạn nhân trong những vụ án mà người bị hại đã chết
hoặc mất khả năng nhận thức và điều khiển năng lực hành vi…
Mối quan hệ giữa người làm chứng với bị can, bị cáo hoặc với người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự…
Nguyên nhân và điều kiện phạm tội của bị can, bị cáo.
Những tình tiết là căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, là căn cứ
xác định thẩm quyền điều tra, giải quyết vụ án; những tình tiết là căn cứ tạm
đình chỉ, đình chỉ vụ án.
Hành vi phạm tội của người đó đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ

24


vụ án có hiệu lực pháp luật không?
Người bị hại có yêu cầu khởi tố không? (trong một số trường hợp khởi
tố theo yêu cầu của người bị hại)
Những tình tiết làm căn cứ cho việc xử lý vật chứng hoặc làm căn cứ
cho việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp tư pháp và các biện pháp tố
tụng khác như: khi trả lại vật chứng cho chủ sở hữu phải chứng minh việc trả
đó không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án hoặc khi áp dụng biện pháp ngăn
chặn thì phải chứng minh bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội cũng như để bảo đảm thi hành án.
- Việc chứng minh vụ án hình sự là nghĩa vụ của cơ quan co thẩm

quyền THTT, người co thẩm quyền THTT và tuân thủ theo quy định của
pháp luật TTHS
Chứng minh trong vụ án hình sự là hoạt động quan trọng trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, để có một bản án quyết định giải quyết vụ án
đúng đắn đòi hỏi việc chứng minh phải khách quan, trung thực chính xác
nhằm xử đúng người đúng tội. Việc chứng minh của cơ quan có thẩm quyền
THTT và người có thẩm quyền THTT để quy định có truy cứu TNHS đối với
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan có thẩm quyền
THTT. Bị can, bị cáo có quyền, nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô
tội. Quan hệ pháp luật hình sự có nội dung là mối quan hệ giữa nhà nước và
người phạm tội. Nhà nước với tư cách là chủ thể tham gia pháp luật hình sự có
quyền quy định hành vi nào là tội phạm đồng thời buộc người có hành vi phạm
tội gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi bằng bản án của Tòa án hoặc các
quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Trong xã hội phát triển, để truy cứu trách
nhiệm hình sự một người, nhà nước phải có những chứng cứ chứng minh hành
vi phạm tội của tội phạm, và đi ngược lại lợi ích của xã hội. Nếu không đủ

25


×