Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Hàm ý về chính sách và quy định trong việc kết nối nông dân chăn nuôi với các thị trường ở vùng sâu vùng xa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.06 KB, 4 trang )

Chủ đề 3: Chuỗi giá trị thực phẩm an toàn

Hàm ý về chính sách và quy định trong việc kết nối nông dân
chăn nuôi với các thị trường ở vùng sâu vùng xa

HỘI THẢO VỀ PHÁT TRIỂN TÂY BẮC

Dương Nam Hà1,2, Phạm Văn Hùng1, Trần Thế Cường1, Ninh Xuân Trung1,
Trần Văn Long1, Laurie Bonney2,3, Peter Lane2,3, Guillaume Duteurtre4,
Stephen Ives5

52

Cơ quan
1
Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội,
Việt Nam
2
Khoa Đất và Thực phẩm, Đại học Tasmania, Hobart, Australia
3
Viện Nông nghiệp Tasmania (TIA), Đại học Tasmania, Hobart, Australia
4
Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Pháp cho Phát triển Quốc tế (CIRAD), Pháp,
UMR SELMET, S/C DRASEC, Hà Nội, Việt Nam
5
Trường Cao đẳng thuộc Đại học Tasmania, Launceston, Tasmania 7250, Australia
Tác giả đại diện

Từ khóa
Ảnh hưởng văn hóa-xã hội, Can thiệp cho phát triển, Chăn nuôi gia súc, Tác nhân
quy mô nhỏ, Việt Nam



Giới thiệu
Các tỉnh Tây Bắc của Việt Nam có đặc điểm độ cao lớn, cơ sở hạ tầng kém
phát triển và mật độ dân cư thưa thớt với các thành phần dân tộc đa
dạng. Những đặc điểm văn hóa-xã hội ở đây ảnh hưởng mạnh mẽ đến
các hệ thống sản xuất và phong cách sống của người dân. Một phần do
sự cô lập về địa lý và kinh tế, vùng Tây Bắc có tốc độ phát triển chậm cũng
như tỷ lệ nghèo đói cao nhất trong cả nước. Điều này thực sự đòi hỏi các
can thiệp phù hợp chú trọng đến sự thay đổi hành vi của các tác nhân
quy mô nhỏ thông qua phát triển chuỗi giá trị tại địa phương (Baulch,
Chuyen, Haughton, và Haughton, 2007; Donovan, Franzel, Cunha, Gyau và
Mithöfer, 2015; Wells-Dang, 2012). Vì vậy, cần nhiều nghiên cứu hơn về
sự biến động của sinh kế nông thôn, động cơ để làm nông nghiệp và mối
quan hệ giữa các yếu tố văn hóa-xã hội và các quyết định kinh tế (Firth,
1951), đặc biệt là bản chất của những động lực nhằm thúc đẩy các quyết
định về sản xuất và thị trường của người nông dân (Emery và Flora, 2006;
Harvey và Reed, 1996). Tuy nhiên, ở Việt Nam, có rất ít tài liệu về cách
thực hiện cũng như các gợi ý về việc lồng ghép các yếu tố văn hóa-xã hội
vào các can thiệp phát triển chuỗi giá trị, đặc biệt liên quan đến vùng cao


Chủ đề 3: Chuỗi giá trị thực phẩm an toàn

Cách tiếp cận nghiên cứu
Tiếp cận chuỗi giá trị (Kaplinsky và Morris, 2001) đã được áp dụng tại hai
địa điểm nghiên cứu là tỉnh Sơn La và Điện Biên ở khu vực Tây Bắc Việt
Nam. Bên cạnh khảo sát ban đầu với 186 nông dân trong 4 xã được chọn,
một chuỗi các thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu đã được triển khai với
nhiều tác nhân khác nhau trong chuỗi (như các nhà thu mua, các lò giết
mổ, các nhà bán lẻ, nhà hàng và người tiêu dùng) trong khu vực. Phân

tích lợi ích-chi phí cũng được thực hiện với một số nông dân vào giai đoạn
cuối của dự án nhằm đánh giá các can thiệp đã được tiến hành. Nghiên
cứu cũng xem xét hành vi của các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ liên quan đến
nhận thức về giá trị do có thể có liên quan đến văn hóa của họ (Harvey và
Reed, 1996; Gasson, 1973). Những cách thực hành khác nhau của nông
dân được phân tích qua các cách tiếp cận trên với giả định rằng các yếu tố
văn hóa xã hội có tác động đáng kể tới các hộ chăn nuôi địa phương hơn
là các động lực kinh tế đơn thuần. Hơn nữa, chúng tôi cũng sử dụng tiếp
cận thể chế trong bối cảnh chuỗi giá trị (Kaplinsky và Morris, 2001) nhằm
tìm hiểu nền tảng chính sách với các thể chế được hiểu là “qui định của
cuộc chơi” và các tổ chức được hiểu là “những người chơi” (Aoki, 2007;
North, 1990).
Kết quả
Một chuỗi giá trị địa phương ở vùng cao Tây Bắc thường liên quan tới
nhiều hộ chăn nuôi nhỏ từ khâu sản xuất tới phân phối và tiêu thụ do tính
chất địa hình phức tạp. Trong bối cảnh này, sự lấn át của một vài tác nhân
trung gian trong chuỗi giá trị địa phương có thể dẫn đến những bất lợi về
nông nghiệp và kinh tế-xã hội của các hộ chăn nuôi nhỏ do việc bất bình
bẳng trong tiếp cận thị trường và thông tin, do đó, bất đối xứng về quyền
lực. Mặt khác, các hộ chăn nuôi nhỏ lại là các chủ thể chăn nuôi chính
trong khu vực. Tuy nhiên, sự tham gia không tích cực của họ trong chuỗi
giá trị thể hiện ở việc bán gia súc không thường xuyên có thể hàm ý cả
những động lực kinh tế hoặc phi kinh tế; và mặc dù những lý do này khác
nhau giữa các nhóm dân tộc ở các địa bàn khác nhau, các động lực kinh tế
vẫn đóng một vai trò quan trọng. Hiểu biết nhiều hơn về chuỗi giá trị địa
phương với sự chú ý tới các yếu tố văn hóa-xã hội giúp dự án của chúng
tôi thiết kế những hoạt động can thiệp về kỹ thuật và thị trường thích hợp
nhằm cải thiện kết quả của chuỗi.

NÚI CƠ HỘI CHO PHÁT TRIỂN


Tây Bắc (xem Friederichsen, 2004; Tugault-Lafleur và Turner, 2011; Turner,
2012; Wells-Dang, 2012). Thông qua nghiên cứu chuỗi giá trị bò thịt địa
phương vùng Tây Bắc, báo cáo này là một nỗ lực khỏa lấp những khoảng
trống kiến thức nhằm hỗ trợ việc thiết kế chính sách trong tương lai để
tăng cường tính bao trùm thị trường cho các hộ nông dân quy mô nhỏ.

53


HỘI THẢO VỀ PHÁT TRIỂN TÂY BẮC

Chủ đề 3: Chuỗi giá trị thực phẩm an toàn

54

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy các hoạt động chăn nuôi bò thịt của
nông dân tại các tỉnh đã được hỗ trợ bởi các nhà chức trách địa phương
thông qua hai loại chính sách khác nhau được đưa ra ở cấp quốc gia: (i)
chính sách phát triển chăn nuôi, và (ii) chính sách xóa đói giảm nghèo. Các
chính sách cơ sở hạ tầng cũng đóng vai trò quan trọng nhằm hỗ trợ kinh
doanh gia súc và thị trường thịt gia súc. Sở Nông nghiệp Phát triển Nông
thôn (DARD) với các đơn vị trực thuộc và các dịch vụ hoạt động phân cấp
tương tác với Ủy ban Nhân dân tỉnh và các trung tâm cấp tỉnh chịu trách
nhiệm quản lý nông nghiệp và các chính sách phát triển chăn nuôi. Nghiên
cứu cũng phát hiện hai nhóm thể chế có lẽ khá hữu ích cho việc phát triển
chuỗi giá trị tại địa phương. Thứ nhất là các thể chế quản lý việc tiếp cận
đồng cỏ tự nhiên dường như hạn chế việc thương mại hóa bò thịt. Thứ
hai chăn nuôi theo hợp đồng có thể khuyến khích việc chăn nuôi và tiếp
thị bò thịt, theo hình thức các doanh nghiệp tư nhân ký gửi gia súc cho

nông dân.
Thảo luận và kết luận
Để phát triển chăn nuôi bò thịt ở vùng sâu vùng xa, các động lực kinh tế
đóng vai trò quan trọng trong định hướng nhận thức của người nông dân
về chăn nuôi gia súc. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế từ các cách thực hành
cần phải được trình diễn thử nghiệm thông qua những người nông dân
nòng cốt của cộng đồng như trưởng bản. Những hộ khác sẽ dễ dàng chấp
nhận hơn và tin tưởng vào động cơ thúc đẩy sự can thiệp và thay đổi hành
vi bằng cách tham gia vào các nghiên cứu và quá trình phát triển. Hơn
nữa, việc tập hợp người dân vào các nhóm sở thích cũng cần kết hợp biện
pháp tiếp cận văn hóa-xã hội. Sự tham gia của các trưởng bản hoặc những
người nông dân thực hành tốt sẽ giúp hình thành một nhóm nông dân lớn
hơn cũng như tổ chức có hiệu quả hơn cho việc áp dụng và phổ biến kiến
thức trong cộng đồng. Liên quan đến liên kết dọc giữa nông dân, các lò
mổ và các nhà bán lẻ thông qua việc tạo lập mạng lưới và thương hiệu, rõ
ràng là sự hợp tác giữa các nhà nghiên cứu và những người tham gia vào
chuỗi là rất quan trọng trong phát triển chuỗi giá trị.
Hiện vẫn còn nhiều tiềm năng để phát triển chăn nuôi và thị trường bò
thịt tại khu vực Tây Bắc Việt Nam. Đa dạng hóa chăn nuôi bò thịt trong hệ
thống nông hộ quy mô nhỏ cũng như tiến hành các can thiệp thích hợp
chú trọng đến tiếp cận văn hóa-xã hội nên được xem là những nhiệm vụ
chính của các nhà hoạch định chính sách nhằm cải thiện hiệu quả kinh tế
trong chăn nuôi bò thịt cũng như nâng cấp toàn bộ chuỗi giá trị bò thịt
dựa trên phát triển thị trường địa phương.


Tài liệu tham khảo
1. Aoki, M. (2007). Các thể chế nội sinh và sự thay đổi thể chế. Tạp chí kinh tế
tổ chức, 3, 1-31.
2. Baulch, B., Chuyen, T. T. K., Haughton, D., & Haughton, J. (2007). Phát triển

dân tộc thiểu số tại Việt nam. Tạp chí nghiên cứu phát triển , 43(7), 11511176. doi:10.1080/02673030701526278
3. Donovan, J., Franzel, S., Cunha, M., Gyau, A., & Mithöfer, D. (2015). Hướng
dẫn xây dựng chuỗi giá trị: rà soát so sánh. Tạp chí kinh doanh nông nghiệp
ở những nền kinh tế mới nổi và đang phát triển, 5(1), 2-23. doi: https://doi.
org/10.1108/JADEE-07-2013-0025
4. Emery, M. & Flora, C. (2006). Phát triển xoắn ốc: lập bản đồ chuyển đổi cộng
đồng với khuôn khổ vốn cộng đồng. Phát triển cộng đồng , 37(1), 19-35.
5. Firth, R. (1951). Các yếu tố tổ chức xã hội. London: Watts.
6. Friederichsen, J. R. (2004). Sự tham gia của các hộ nông dân H’mông vào các
nghiên cứu nông nghiệp tại vùng cao phía bắc Việt Nam. Báo cáo được trình
bày tại Trans-KARST 2004, Hà Nội, Việt Nam.
7. Gasson, R. (1973). Mục tiêu và giá trị của người nông dân. Tạp chí kinh tế
nông nghiệp 24(3), 521-542. doi:10.1111/j.1477-9552.1973.tb00952.x
8. Harvey, D.L. và Reed, M.H. (1996). Văn hóa nghèo đói: Phân tích tư tưởng.
Những quan điểm xã hội học, 39(4), 465-495.
9. Kaplinsky, R., & Morris, M. (2001). Sổ tay nghiên cứu chuỗi giá trị. IDRC Ottawa.
10.North, D. (1990). Thể chế, thay đổi thể chế và hoạt động kinh tế: Nhà xuất
bản đại học Cambridge.
11.Tugault-Lafleur, C., & Turner, S. (2011). Về Gạo và Gia vị: Sinh kế và sự đa
dạng của người H’mông tại Miền núi phía Bắc Việt Nam. Trong J. Michaud
& T. Forsyth (Eds.), Di chuyển miền núi : tính dân tộc và sinh kế tại vùng cao
Trung Quốc, Việt Nam và Lào (tr. 100-122). Vancouver: Ấn phẩm Đại học
British Columbia.
12.Turner, S. (2012). “Mãi mãi H’Mông”: Sinh kế dân tộc thiểu số H’Mông và
chuyển đổi đất nông nghiệp tại vùng cao phía Bắc Việt Nam. Nhà địa lý
chuyên nghiệp 64(4), 540-553. doi:10.1080/00330124.2011.611438
13.Wells-Dang A. (2012). Phát triển dân tộc thiểu số tại Việt Nam: Điều gì dẫn
đến thành công? Tài liệu bối cảnh giới thiệu Đánh giá nghèo đói cấp chương
trình 2012, tháng 5-2012, 45 p. />send/4084


NÚI CƠ HỘI CHO PHÁT TRIỂN

Chủ đề 3: Chuỗi giá trị thực phẩm an toàn

55



×