Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

cá nhám thuộc lớp cá sụn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 18 trang )

Thuốc từ cá nhám
Cá nhám là loài cá sụn cỡ vừa và lớn, sống ở biển.
Nhiều loài được dùng làm thuốc như cá nhám góc
(Squalus brevirostris Tanaka, họ Squalidae), cá nhám
hổ hay cá nhám vằn (Heterodontus zebra Gray, họ
Heterodontidae), cá nhám voi hay cá nhám khổng lồ, cá
mập voi (Cetorhinus maximus Gunther, họ
Cetorhinidae).
Các loài cá nhám thường được khai thác để lấy gan làm
dầu cá, nhất là cá nhám voi và cá nhám kình.
Trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian, cá nhám được dùng với tên là sa ngư gồm các bộ
phận như: thịt, gan, da và vây.
Thịt cá nhám chứa hàm lượng cao chất protid, 1,9% lipid trong đó có 0,5% acid béo omega-3, có vị
ngọt, mặn, tính bình, không độc, có tác dụng bồi bổ cơ thể, tăng lực, trục ứ, tiêu thũng. Theo các
tài liệu cổ, cá nhám được dùng làm thuốc như cá diếc. Thịt cá nhám để tươi 250g, thái nhỏ, nấu
với râu ngô 25g đến chín nhừ. Bỏ râu ngô, rồi ăn cái uống nước chữa bệnh đái tháo đường.
Gan cá nhám chiếm 10-15% trọng lượng cơ thể cá, chứa khoảng 50% dầu có hàm lượng vitamin
A và D cao hơn dầu gan cá thu. Dược liệu có vị đắng, tính bình, không độc, có tác dụng chống hư
lao, bổ can tạng, làm sáng mắt. Gan cá nhám nấu với lá dâu non hoặc lá bìm bìm non, ăn chữa
được quáng gà. Dùng 5-7 ngày. Dầu gan cá nhám uống theo giọt có tác dụng bổ dưỡng, mạnh
xương như dầu gan cá thu.
Da cá nhám để tươi hoặc phơi khô, nấu với nước và ít muối cô cho đặc, dùng bôi hàng ngày chữa
ngón tay sưng đau, kẽ tay lở ngứa (Nam dược thần hiệu).
Vây cá nhám có vị ngọt, mặn, tính bình, có tác dụng ích khí, khai vị, được dùng dưới dạng thức ăn
- vị thuốc hoặc dạng bột chữa tạng phủ hư lao, thần kinh bất ổn.
Theo Sức Khỏe & Đời Sống
Cá nhám voi ( Rhincodon
typus )
Cá nhám voi hay cá mập voi (Rhincodon typus) là một thành viên đặc biệt trong
phân lớp Elasmobranchii (cá mập, cá đuối) của lớp cá Sụn (Chondrichthyes). Nó là
loại cá mập lớn nhất và cũng là loài cá hiện còn sống lớn nhất. (Loài cá nhỏ nhất hiện


được biết là chi Paedocypris thuộc họ Cá chép.)
Tên gọi
Loài này được nhận dạng lần đầu tiên năm 1828 ngoài bờ biển Nam Phi. Họ
Rhincodontidae đã không được thông qua cho tới tận năm 1984. Tên gọi "cá nhám
voi" có lẽ là do kích thước lớn của nó.
Phân bổ và môi trường sống
Các nhám voi sinh sống trong các đại dương vùng nhiệt đới và vùng nước ấm của thế
giới. Được coi là sống ngoài đại dương nhưng chúng cũng tụ tập lại theo mùa ở một
vài khu vực ven bờ như dải đá ngầm Ningaloo ở khu vực miền tây Australia cũng như
Pemba và Zanzibar ở khu vực ven bờ đại dương của Đông Phi. Khu vực phân bổ của
chúng giới hạn trong khoảng vĩ độ ±30 ° tính từ các khu vực này. Cá nhám voi chủ
yếu sống cô độc và ít khi thấy chúng bơi thành đàn. Người ta tin rằng chúng sống di
trú, nhưng các chuyên gia vẫn không rõ chúng có thể di cư xa bao nhiêu (có thể là di
trú xuyên đại dương).
Giải phẫu và bề ngoài
Kích thước lớn chính thức của chúng được đo chính xác là dài 12 mét (39 ft), với các
số liệu không chính thức lên tới 18 mét (59 ft). Không nên nhầm lẫn chúng với cá
nhám tắm nắng (Cetorhinus maximus), loài cá lớn thứ hai.
Thành viên của bộ Cá nhám thảm (Orectolobiformes), nó là loại cá ăn uống theo cơ
chế lọc bỏ. Nó có miệng rộng có thể đạt tới 1,5m (5 ft) rộng và chứa tới 300 răng
nhỏ. Là một phần trong quá trình ăn uống của mình, nó có 5 cặp mang lớn. Hai mắt
nhỏ nằm ngay ở phần trước của cái đầu rộng và bẹt. Thân của chúng có màu xám
chuyển thành trắng ở phần bụng; với ba lằn gân rõ nét chạy dọc theo mỗi bên hông
và da của chúng giống như 'bàn cờ đam' với các đốm màu vàng nhạt và các sọc. Các
đốm này là duy nhất cho từng cá thể. Do vậy các đốm này có thể dùng để đánh dấu
mỗi con cá nhám voi nhằm thực hiện việc kiểm đếm chính xác số lượng cá nhám voi.
Tuy nhiên, cho tới nay người ta vẫn không biết rõ về số lượng của chúng. Lớp da của
chúng có thể dày tới 10 cm. Các nhám voi có hai cặp vây lưng và vây ngực. Đuôi của
cá nhám voi non có vây trên lớn hơn vây dưới nhưng ở cá nhám voi trưởng thành thì
đuôi có hình bán nguyệt hay hình trăng lưỡi liềm. Các lỗ thở của chúng nằm ngay

sau mắt. Cá nhám voi không phải là những tay bơi lội cừ khôi; toàn thân của nó
chuyển động khi nó bơi, kết quả là nó có vận tốc thấp rất bất thường cho các loại cá
mập, vận tốc trung bình của nó chỉ là khoảng 5 km/h.
Ăn uống
Các nhám voi ăn các loại sinh vật phù du, tảo lớn, nhuyễn thể hay các loại mực và
động vật có xương sống nhỏ. Các răng nỏ li ti không giúp ích gì cho quá trình ăn
uống của nó, thay vì thế, nước bị hút vào qua miệng và đi qua mang lược và sau đó
bị tống ra khỏi bằng mang cung. Những gì mắc lại tại mang lược được nó nuốt hết.
Cá nhám voi có thể luân chuyển nước với tốc độ tới 1,7 L/s (3,5 panh (pint) Hoa
Kỳ/s). Tuy nhiên, cá nhám voi là loài tích cực săn mồi và chúng phát hiện các mục
tiêu như các chỗ có nhiều sinh vật phù du hay cá nhờ các tín hiệu khứu giác chứ
không phải luôn luôn chỉ là cơ chế 'hút bụi'.
Theo những thủy thủ thì cá nhám voi tập trung tại các bãi đá ngầm ngoài khơi bờ
biển Belize (vùng Caribe), là nơi có thể bổ sung thêm cho thức ăn thông thường của
chúng các loại trứng cá chỉ vàng, được các loài cá này đẻ vào giai đoạn từ tháng 5
đến tháng 7 hàng năm trong khoảng thời gian 6-7 ngày kể từ ngày trăng tròn trong
các tháng này.
Hành xử
Khi cần giải thích là phần lớn các loại cá mập không gây nguy hiểm cho con người thì
loài này là một ví dụ điển hình. Những người thợ lặn có thể bơi xung quanh loài cá
khổng lồ này mà không gặp phải vấn đề gì.
Cá nhám voi có thể gặp tại các khu vực biển của Thái Lan, Maldives, Hồng Hải, tây
Australia (dải đá ngầm Ningaloo), khu bảo tồn hải dương Gladden Spit ở Belize, và
tại quần đảo Galapagos. Những thợ lặn may mắn cũng có thể gặp chúng tại
Seychelles, Puerto Rico và Philipin (Donsol).
Sinh sản
Giống như phần lớn các loại cá mập khác, hành vi sinh sản của cá nhám voi vẫn
chưa được rõ. Dựa trên nghiên cứu một quả trứng đơn lẻ tìm thấy ngoài khơi Mexico
vào năm 1956, người ta cho rằng chúng là loài đẻ trứng, nhưng con cá nhám voi cái
có chửa bị bắt vào tháng Bảy năm 1996 chứa tới 300 cá nhám voi con [1] lại chỉ ra

rằng chúng là loài đẻ con với sự phát triển của cơ chế đẻ trứng thay. Các trứng phát
triển thành cá con trong cơ thể con mẹ bằng các nguồn dưỡng chất ngay trong trứng
và con mẹ sẽ đẻ các con non dài 40 - 60 cm. Người ta tin rằng cá nhám voi đạt tới
độ tuổi trưởng thành vào khoảng 30 năm và chúng có tuổi thọ ước tính khoảng 60 -
150 năm.

×