Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Ứng dụng thang nhu cầu của Maslow trong đào tạo đại học – Một số kết quả thực nghiệm tại trường Đại học FPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.66 KB, 6 trang )

Hồ Yên Thục

Ứng dụng thang nhu cầu của Maslow...

ỨNG DỤNG THANG NHU CẦU CỦA MASLOW
TRONG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC – MỘT SỐ KẾT QUẢ
THỰC NGHIỆM TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC FPT
Hồ Yên Thục(1)
(1) Trường Đại học FPT
Ngày nhận 15/8/2018; Ngày gửi phản biện 26/8/2018; Chấp nhận đăng 1/12/2018
Email:
Tóm tắt
Thang nhu cầu của Maslow được nhà tâm lý học Abraham Maslow đưa ra vào năm 1943
đã trở thành một trong những lý thuyết quan trọng nhất của quản trị kinh doanh và marketing.
Với tính ứng dụng cao, lý thuyết này còn là cơ sở cho nhiều nghiên cứu giáo dục về nhu cầu
của người học trong các cơ sở đào tạo. Thang nhu cầu cho phép nhà trường kiểm tra mức độ
hài lòng của sinh viên và khả năng đáp ứng của mình đối với nhu cầu của họ từ nhu cầu thể lý
đến nhu cầu xã hội. Như những trường đại học khác, trường Đại học FPT - cơ sở thành phố Hồ
Chí Minh cũng tiến hành khảo sát mức độ hài lòng của sinh viên qua các học kì dựa trên nhiều
tiêu chí như chất lượng giảng viên, giáo trình, cơ sở vật chất … nhưng không dựa trên nền tảng
lý thuyết cụ thể . Do đó bài viết này khảo sát mức độ hài lòng của sinh viên trường Đại học
FPT dựa trên bậc hai và ba của thang nhu cầu của Maslow và nêu ra đề nghị về hành vi ứng
xử cho giảng viên để cải thiện mức độ hài lòng của sinh viên nhà trường.
Từ khoá: hài lòng, nhu cầu, người học, thang nhu cầu Maslow
Abstract
APPLYING MASLOW’S HIERACHY OF NEEDS IN UNIVERSITY EDUCATIONA PRACTICE AT FPT UNIVERSITY
Abraham Maslow, an American psychologist, created the hierachy of needs in 1943 which
soon became one of the most significant theories in business administration and marketing. With its
high applicability, this theory is applied in many educational researches on learners’ needs. This
hierachy supports educational organizations to analyze the students’ satisfaction and their ability in
satisfying those needs at different levels from physiological to social. Similarly to other universities,


FPT university – Ho Chi Minh City also collects students’ feedback every semester to analyze its
students’ satisfaction on various criteria such as teaching quality, course books, infrastructure, etc.
which, however, are not based on any specific theory. Thus, this paper analyzes FPT students’
satisfaction based on two levels of Maslow’s hierachy of safety, love and belonging; also provides
recommendation for lecturers about appropriate communication with students to improve their
satisfaction in learning experience.
1. Đặt vấn đề
Học tập là một hoạt động xã hội quan trọng mang tính quyết định cho thành công của
từng cá nhân, mức độ đóng góp của cá nhân cho xã hội, từ đó ảnh hưởng lên sự phát triển của
130


Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một

Số 4(39)-2018

cả cộng đồng. Các nhà giáo dục đã nghiên cứu cách thức thoả mãn nhu cầu của người học để
giúp con đường học vấn của họ thuận lợi, từ đó đạt được thành tựu tốt hơn. Qua quan sát 4 lớp
học của người viết trong học kì hè 2018 ở trường Đại học FPT, chúng tôi nhận thấy không khí
trong lớp học không thoải mái, sinh viên không tích cực tham gia hoạt động trong lớp, ít giao
tiếp với giảng viên và các bạn; do đó tác giả thực hiện nghiên cứu này để khảo sát ảnh hưởng từ
cách giao tiếp của giảng viên giúp sinh viên có môi trường học thân thiện. Nghiên cứu này
phân tích thực trạng các nhu cầu của sinh viên theo thang nhu cầu Maslow được thoả mãn như
thế nào ở Trường Đại học FPT (cơ sở Thành phố Hồ Chí Minh).
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
Abraham Maslow (1908-1970), nhà tâm lí học Hoa Kì, nghiên cứu về hành vi và động
lực của loài vật và con người. Các nghiên cứu sau này của ông tập trung về hành vi xã hội, nhu
cầu được tôn trọng và thống trị của con người. Ông cũng tìm hiểu về các động lực ảnh hưởng
đến một số hoạt động, hành vi cụ thể của con người và sắp xếp các động lực này thành năm loại

nhu cầu cá nhân theo mô hình bậc thang như hình 1.

Hình 1
Mô hình này đã được áp dụng trong nhiều lĩnh vực liên quan đến hoạt động xã hội để giải
thích hành vi của con người trong kinh tế, chính trị, quản trị, y học, và kể cả giáo dục từ khía
cạnh tâm lí học (Milheim, 2012); (Altbach, Reisberg, & Rumbley, 2017). Các nhu cầu được
xếp theo hình thang có nghĩa chúng cần được thoả mãn theo đúng thứ tự từ thấp lên cao. Ví dụ
như nhu cầu thấp nhất về sinh lí là ăn, ngủ chưa được thoả mãn thì người sinh viên sẽ tập trung
mọi nỗ lực để thoả mãn cơn đói hoặc cơn buồn ngủ của mình, lấy đó làm ưu tiên chứ không tập
trung học. Tuy nhiên, môi trường đại học không thể tạo điều kiện giúp thoả mãn hoàn toàn nhu
cầu này của sinh viên được (Martin & Loomis, 2014; Sarah & Andrew, 2013). Thực tế cũng
cho thấy rất ít người trên thế giới có thể đạt được mức cao nhất về tự thể hiện mình (selfactualization). Bài viết này giới hạn phân tích nhu cầu của sinh viên đại học ở hai mức thang
nhu cầu an toàn và hoà hợp.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp được áp dụng là so sánh xã hội học thông qua một cuộc điều tra bảng câu
hỏi online với sinh viên hệ đại học chính quy trường Đại học FPT (cơ sở Thành phố Hồ Chí
131


Hồ Yên Thục

Ứng dụng thang nhu cầu của Maslow...

Minh). Các câu hỏi được thiết kế dựa trên thuyết thang nhu cầu của Maslow nhằm tìm hiểu ảnh
hưởng của giảng viên đến nhu cầu an toàn và hoà hợp của sinh viên. Ngoài ra, tác giả cũng sử
dụng phương pháp quan sát nhằm tìm hiểu biểu hiện của sinh viên trong lớp học của mình khi
áp dụng những phương cách giao tiếp khác nhau. Thời gian thực hiện khảo sát là 10 tuần của
học kì hè, tháng 7-9 năm 2018. Dữ liệu thu được đã được phân tích theo phương pháp so sánh
xã hội học và phương pháp logic.
Nghiên cứu này lấy mẫu 121 sinh viên, tương đương 4 lớp học (25-30 sinh viên/lớp), là

số lượng sinh viên mà một giảng viên cơ hữu dạy trong một học kì kéo dài 10 tuần tại trường
Đại học FPT. Sinh viên tham gia khảo sát đang học hai môn Kĩ năng làm việc nhóm và Giao
tiếp Doanh nghiệp, thuộc ngành Kĩ thuật phần mềm, Quản trị kinh doanh, Thiết kế đồ hoạ năm
1-4, trong đó có 73% sinh viên nam, 27% sinh viên nữ.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Nhu cầu an toàn (safety)
Đây là nhu cầu thứ hai trong thang nhu cầu của Maslow gồm có nhu cầu của mỗi cá nhân
về an toàn vật chất, tài sản, sức khoẻ, tâm lý. Về an toàn vật chất, nhà trường hoàn toàn có thể
xoá bỏ những lo âu không cần thiết cho sinh viên như tạo một môi trường an toàn, nơi sinh viên
yên tâm không bị thất thoát tài sản dưới mọi hình thức (ví tiền, điện thoại, laptop đắt tiền trong
lớp học cũng không lo bị mất hoặc xem trộm; tất cả mọi người ra vào khuôn viên trường đại
học đều phải đeo thẻ sinh viên, nhân viên để tránh người lạ vào trường). Việc bảo vệ kiểm tra
thẻ sinh viên, nhân viên ngay ở cổng trường không chỉ mang tính hình thức mà nhằm giảm
thiểu lo âu, giúp sinh viên dồn năng lượng và tâm trí vào việc học. Tuy nhiên, theo khảo sát ở
Trường Đại học FPT, 45,1% sinh viên không xem lớp học là nơi an toàn. Sinh viên ra vào lớp
với các bạn cùng học vẫn còn cảm giác lo lắng mất tài sản.
Về an toàn tâm lí, theo Sarah (2013) thì sinh viên sẽ cảm thấy an toàn, tự tin hơn khi chủ
động được trong việc học khi được hướng dẫn chi tiết cách học, được thông báo các nội dung,
bài tập cần làm để hoàn thành một khoá học thành công ngay trước buổi học đầu tiên. Khi chủ
động được công việc thì người sinh viên sẽ tự điều chỉnh lịch học, nội dung, chuẩn bị những gì
cần thiết cho môn học. Từ đó, họ sẽ có cảm giác an tâm khi tham gia các hoạt động, đối thoại
với các bạn học và giảng viên, kể cả khi không dự lớp được đầy đủ thì họ cũng không quá lo
lắng sẽ bị mất bài. Ý kiến này được 88.5% sinh viên tham gia khảo sát đồng tình.
3.2. Nhu cầu hoà hợp (love and belonging)
Nhu cầu hoà hợp cũng quan trọng như nhu cầu về thể lý. Nếu bị cách li, bắt nạt quá mức,
sinh viên sẽ bị ảnh hưởng xấu đến thể trạng như stress kéo dài dẫn đến mất ngủ, ăn không ngon,
và các bệnh lý hình thành dần dần. Thực trạng các lớp học trong trường đại học ở Việt Nam bị
ảnh hưởng từ văn hoá truyền thống phương Đông mang đặc trưng các đặc điểm của xã hội coi
trọng tôn ti trật tự (high context), nơi mà sinh viên mặc dù được khuyến khích tự do nêu ý kiến
cá nhân, sáng tạo trong học tập. Tuy nhiên, được nuôi dưỡng và sinh sống trong xã hội nhiều

tầng lớp nơi lợi ích tập thể luôn được ưu tiên thì sinh viên dần dần hình thành thói quen và qua
năm tháng hình thành đặc tính thụ động, không nêu ý kiến cá nhân nếu ý kiến đó khác biệt hoặc
mâu thuẫn với lợi ích của tập thể, điển hình là sinh viên không nêu câu hỏi mình còn thắc mắc
nếu đa số các bạn trong lớp đã hiểu vấn đề.
132


Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một

Số 4(39)-2018

Trong Trường Đại học FPT, mặc dù các giảng viên luôn được ban quản lí nhắc nhở hãy
thân thiện với sinh viên để sinh viên mở lòng, thoải mái để học tập, nêu thắc mắc, trao đổi bài
với giảng viên; nhưng tuỳ thuộc vào tính cách và thế giới quan của từng giảng viên mà mỗi
người xây dựng cho mình phong cách và mức độ “thân thiện” với sinh viên. Hơn nữa, không
phải giảng viên nào cũng nhận thấy đây là một nhu cầu tâm lí quan trọng ảnh hưởng đến chất
lượng học tập cần chú ý nhiều bằng nội dung và lượng kiến thức, kĩ năng cần giảng dạy.
Bản chất tự nhiên của con người là trao và nhận, khi sinh viên nhận được quan tâm của
giảng viên thì họ cũng sẽ tự nhiên nảy sinh nhu cầu quan tâm ngược lại đối với người giảng
viên và môn học của người giảng viên đó. Một nghiên cứu của Milheim (2012) đã cho thấy
thực tế sinh viên thường có xu hướng học tốt, làm bài đầy đủ, tham dự lớp của những giảng
viên mà họ yêu mến hoặc được giảng viên yêu mến. Thực trạng này cũng xảy ra ở Trường Đại
học, 90.0% sinh viên đồng tình rằng sự thân thiện của giảng viên ảnh hưởng đến chất lượng học
tập, 61.5% cho hay sẽ tham dự lớp của giảng viên họ yêu thích. Biểu hiện cụ thể của sự thân
thiện quan tâm đến sinh viên là nhớ và gọi tên sinh viên trong lúc trao đổi bài học trên lớp sẽ
tạo không khí thoải mái và nâng cao chất lượng học tập của sinh viên (81.1% sinh viên đồng
tình với ý kiến này).

Hình 3
Một biểu hiện của nhu cầu an toàn là phát biểu trong lớp học, có đến 27,3% sinh viên

không phát biểu vì lớp học không thoải mái, 23.1% không muốn mất mặt nếu trả lời sai, 20,7%
không phát biểu vì giảng viên không đánh giá cao nỗ lực học của bạn. Những con số này cho
thấy môi trường học ở Trường Đại học FPT khá cạnh tranh và chưa đủ thân thiện, an toàn tâm
lí cho sinh viên bộc lộ bản thân để phát triển. Vai trò tạo môi trường học tốt phần lớn là do
giảng viên.
Ngoài ra, hoà hợp với các bạn học cũng góp phần rất quan trọng trong xây dựng môi
trường an toàn cho người học. 64.8% sinh viên tham gia khảo sát cho hay thích làm hoạt động
nhóm vì cảm thấy là một phần của lớp học, chỉ có 13.5% không đồng ý với ý kiến này; 50.8%
học tốt hơn khi được làm bài tập nhóm cùng bạn cũ, tuy nhiên khảo sát bất ngờ khi 41.8% sinh
133


Hồ Yên Thục

Ứng dụng thang nhu cầu của Maslow...

viên cho hay việc cùng chung nhóm với bạn cũ hay bạn mới ảnh hưởng đến chất lượng học của
họ hay không còn tuỳ từng môn.

Hình 4
4. Một số giải pháp đảm bảo nhu cầu an toàn, hoà hợp cho sinh viên
Trước khi bắt đầu khoá học: Để chuẩn bị tâm lý an toàn cho sinh viên, giảng viên cần
nêu rõ yêu cầu môn học, cách hoàn thành các cột điểm thành phần, yêu cầu của mỗi bài tập; gửi
chương trình học tới email của sinh viên để lưu và chủ động theo dõi. Đồng thời, các nguyên
tắc trong lớp học cũng cần được thảo luận và đồng thuận với sinh viên.
Trong giờ học: Để tăng lượng tương tác trong giờ học, giảng viên có thể thiết kế hoạt động
trong lớp, tránh trường hợp chỉ giảng làm cho sinh viên như người khách, không cần làm gì trong
suốt giờ học. Ngoài ra, giảng viên không nên ngắt lời khi sinh viên phát biểu trong lớp. Việc một
sinh viên phát biểu trước lớp đã là một nỗ lực không nhỏ. Khi nhận xét về phát biểu của sinh viên,
giảng viên nên tránh dùng từ tiêu cực như “không chính xác”, “ sai”, ảnh hưởng đến tâm lí sinh viên

mà nên dùng từ mang tính khích lệ như “đáp án của bạn gần đúng”, “rất gần với đáp án”. Khi sinh
viên phát biểu xong và trước khi tan lớp, giảng viên có thể nói đơn giản “cảm ơn” để cho sinh viên
cảm nhận được mỗi đóng góp và sự hiện diện của họ được trân trọng.
Đối với mỗi người giảng viên, ngoài việc phát triển chuyên môn, cũng nên cân nhắc
nghiêm túc việc thoả mãn các nhu cầu rất con người của từng sinh viên để việc đến lớp vui vẻ
và nhẹ nhàng hơn, gián tiếp “bôi trơn” việc dạy học. Việc thoả mãn các nhu cầu này cần được
xét đến một cách chủ động, có hệ thống và duy trì hành động để giúp người học tập trung tốt
nhất vào học tập, không mặc định người học phải tự thoả mãn các nhu cầu cá nhân. Đồng thời,
nếu xem dạy học là một dịch vụ giáo dục, người dạy là nhà cung cấp dịch vụ và sinh viên là
khách hàng, thì việc làm cho người thụ hưởng dịch vụ có thể thụ hưởng dịch vụ trọn vẹn nhất là
vô cùng quan trọng, mang yếu tố quyết định thành công của dịch vụ giáo dục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Altbach, P. G., Reisberg, L., & Rumbley, L. E. (2017). Xu hướng giáo dục đại học toàn
cầu: theo vết một cuộc cách mạng học thuật. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
[2]. Engleberg, I. N., & Wynn, D. R. (2010). Working in groups: communication principles and
strategies (5th ed.). Boston: Pearson/Allyn & Bacon.
134


Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một

Số 4(39)-2018

[3]. Huyền, N. T. (2018). Rèn luyện kỹ năng giao tiếp và xử lý tình huống sư phạm là yếu tố
cần thiết cho sinh viên ngành Giáo dục Chính trị trường Đại học Tây Bắc. Nguồn
/>[4]. Martin, D. J., & Loomis, K. S. (2014). Xây dựng đội ngũ nhà giáo - một cách tiếp cận kiến
tạo để nhập môn Giáo dục học. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
[5]. Milheim, K. L. (6/2012). Toward a better experience: examining student needs in the
Online classroom through Maslow's hierarchy of needs model. MERLOT journal of Online
learning and teaching, 8(2), 158–171.

[6]. Sarah, E. B., & Andrew, C. T. (2013). Maslow's hierarchy of needs and its relation to
learning and achievement. University of Florida. Department of Agriculture Education and
Communication.

135



×