Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

thuyết minh về con trâu (đã sửa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.71 KB, 4 trang )

tập làm văn lớp 9 Bài viết số 1
đề 1:
Trõu l mt loi ng vt thuc h múng guc (trõu bũ). Chỳng sng hoang dó Pakistan, n
, Bangladesh, Nepal, Bhutan, Thỏi Lan v Vit Nam, ngoi ra trõu cng sng hoang dó phớa
bc c. Trõu rng vn cũn tn ti trong thiờn nhiờn ụng Nam , nhng s lng trõu hoang dó
khụng cũn nhiu, v ngi ta lo ngi rng trõu rng hoang dó thun chng khụng cũn tn ti na.
Ti Vit Nam vn cú trõu rng, nhng s lng cũn rt ớt, chỳng phõn b dc dóy Trng Sn,
trong ú cú khu vc min tõy Thanh Húa giỏp vi Lo. Nhiu n trõu ó c thun dng v lai.
Trõu cú 2 loi: loi mu da xanh en (trõu en) v loi mu da sỏng hng (trõu trng).
Trõu lỳc trng thnh nng khong t 250 n 500 kg. Loi trõu rng hoang dó ln hn th rt
nhiu, con cỏi cú th nng 800 kg, con c lờn ti 1,2 tn, v cao ti khong 1,8 m. Trõu rng chõu
cú cp sng di nht trong s cỏc loi thỳ cú sng trờn th gii. Mi õy, ti Vit Nam, mt b
sng trõu rng ln cha tng thy ó c phỏt hin, c oỏn to hn trõu rng hin nay rt nhiu
Trõu c thun dng l mt gia sỳc rt quan trng trong i sng ngi dõn mt s vựng
chõu . Chỳng cho sc kộo, tht v sa. n l nc nuụi nhiu trõu nht trờn th gii. nc
ny ngi ta s dng sa v tht ca trõu thay cho bũ.
* Tc ng ca dao Vit Nam cú cõu:
Con trõu l u c nghip
Tu trõu, ly v, lm nh
Trong ba vic y t l khú thay
núi lờn s sung tỳc, thnh cụng ca nh nụng thỡ cú cõu:
Rung sõu, trõu nỏi
Con trõu cũn gn lin vi tui th ca tr em nụng thụn: chn trõu thỡ gn gi, vui ựa vi trõu, tm
trõu, phi ỏo trờn lng trõu, th diu ...
Trõu i ta bo trõu ny
Trõu ra ngoi rung trõu cy vi ta,
Cỏi cy ni nghip nụng gia,
Ta õy trõu y ai m qun cụng.
* Con trõu cng cú mt trong l hi ỡnh ỏm Vit Nam nh tc chi trõu Sn (Hi Phũng),
tc õm trõu Tõy Nguyờn.
* Trong vn hc c Vit Nam cú truyn th Lc sỳc tranh cụng'


Con trõu l u c nghip, cõu tc ng gn lin vi nn nụng nghip lỳa nc Vit Nam ó cú
t xa xa nhng bõy gi hỡnh nh con trõu i trc cỏi cy theo sau c xem l hỡnh nh biu hin
ca mt nn nụng nghip lc hu ca Vit Nam.
Dự núi gỡ thỡ núi, con trõu vn l ngi bn thõn thng ca nụng dõn Vit Nam t bao i nay
vi nhng cõu ca trõu i ta bo trõu ny, trõu n no c trõu cy vi ta. Vy m gi õy, cú ni
ngi ta ang tỡm cỏch bo tn con trõu, s ri mt ngy no ú, tr em, hc sinh Vit Nam ch cũn
bit con trõu trong sỏch giỏo khoa.
c trờn bỏo, thy tnh ng Thỏp trc õy cú hng chc ngn con trõu, nay ch cũn vi trm
con, thm chớ ngnh chn nuụi thỳ y ca tnh ang kờu gi tỡm cỏch bo tn n trõu. An Giang
cnh ú v nhiu tnh lỳa khỏc ca va lỳa min Tõy, ri hng lot tnh min Trung, min Bc
cng tng t.
n trõu gim nhanh cng ỳng thụi. Hai chc nm trc, nn nụng nghip trong nc vi sc
kộo cy trờn ng rung ch yu l trõu, bũ. Nay nụng nghip phỏt trin, nụng dõn cú tin mua sm
mỏy cy kộo thay trõu, ri ng c chn th mờnh mụng nụng thụn nay c trng luỏ, trng bp
1
tËp lµm v¨n líp 9 Bµi viÕt sè 1
thì lấy đâu có chỗ cho trâu bò gặm cỏ. Với nhiều người dân ở nông thôn, bây giờ nuôi trâu, lấy sức
kéo là phụ, mà nuôi bán thịt là chính, ngược lại hoàn toàn với trước kia.
Những ai đã từng chăn trâu, chăn bò, thế nào cũng hiểu được sự khác biệt giữa hai loài vật nhai
lại này. Bò, có ưu điểm ngoài cày kéo, cung cấp thịt còn có thể nuôi nhốt mà không cần chăn thả
nhưng điểm yếu lại là sức kéo không mạnh, không dẻo dai như trâu.
Trâu, có ưu điểm là dẻo dai, có thể cày bừa ở ruộng sâu (nên mới có câu: “ruộng sâu trâu nái”),
ruộng nhiều bùn, lún mà bò không thể cày được nhưng nhược điểm thì trâu khó nuôi nhốt như bò,
cần phải chăn thả. Ngoài ra, thịt bò được người tiêu dùng khoái hơn thịt trâu và đây cũng là lý do
khiến đàn trâu giảm nhanh, trong khi nuôi bò giết thịt trong nước phát triển mạnh.
Ngành nông nghiệp bây giờ cũng đang lúng túng trước việc đàn trâu giảm quá nhanh, vừa biểu
hiện cuả cơ giới hóa đồng ruộng đang ngày một tăng nhưng cũng lo lắng bởi ở Việt Nam, còn lâu
máy móc có thể hoàn toàn thay thế con trâu.
Trước kia, vì sức kéo trên đồng dựa vào trâu bò, ngành nông nghiệp đã chi không ít tiền cho việc
nhập khẩu trâu giống to, khỏe từ nước ngoài để nâng cấp đàn trâu trong nước. Thậm chí có người

chăn trâu giỏi được phong tặng Anh hùng Lao động. Hơn chục năm qua, các trung tâm nghiên cứu
trâu, các dự án lai tạo, phát triển đàn trâu biến mất trong các báo cáo hàng năm cuả ngành nông
nghiệp.
Đất nông nghiệp của ta vốn phân tán, manh mún, địa hình lại không bằng phẳng. Như ở miền
Tây, đất đai cò bay thẳng cánh thì việc cày bừa bằng máy có vẻ dễ dàng nhưng ở miền Trung, miền
Bắc thì khác, thửa đất 2.000-3.000 mét vuông rất hiếm cho máy móc dụng võ. Máy móc chắc chắn
sẽ chẳng có hiệu quả cày kéo bằng con trâu nếu thửa ruộng chỉ có vài trăm mét vuông, hay ruộng
trũng, luôn ngập nước. Máy móc cũng chẳng thể phát huy tác dụng bằng con trâu nếu đó là đầt đồi
địa hình không bằng phẳng.
Cơ giới hóa, hiện đại hóa với ngành nông nghiệp Việt Nam không chỉ đơn giản là loại bỏ con trâu
ra khỏi đời sống người nông dân, nơi nó từng gắn bó nhưng cũng là hình ảnh để báo chí bảo rằng
nông nghiệp lạc hậu.
Với đà suy giảm đàn trâu như hiện nay, cũng không có gì lạ nếu một ngày nào đó, Chính phủ hay
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phải chi tiền để triển khai các dự án phát triển đàn trâu.
Nó cũng tương tự như cây lúa, cũng chẳng có gì khó hiểu nếu một ngày nào đó, Việt Nam trở thành
nước nhập khẩu gạo nếu cứ mỗi năm, gần 100.000 héc ta đất nông nghiệp được chuyển thành đất ở,
thành khu công nghiệp.
Ngoài ra trâu con gắn liền với những lễ hội truyền thống như chọi trâu đâm trâu . Lẽ hội chọi trâu ở
HP là nổi tiếng nhất .Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hoá với nhiều di tích lịch sử và danh
thắng mang đặc trưng của miền biển. Trong những di sản văn hoá ấy, nổi bật là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn
- một lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Lễ hội nói chung là một sinh hoạt văn hoá, tôn giáo,
nghệ thuật truyền thống phản ánh cuộc sống vật chất và tâm linh của một cộng đồng trong quá khứ. Lễ
hội chọi trâu Đồ Sơn được khôi phục lại hơn 10 năm nay và được Nhà nước xác định là 1 trong 15 lễ hội
quốc gia, bởi lễ hội này không chỉ có giá trị văn hoá, tín ngưỡng, độc đáo mà còn là điểm du lịch hấp
dẫn với mọi người. Cßn mét lÔ héi n÷a lµ lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên .Lể hội này sẽ được dân
làng chọn một con trâu khỏe mạnh đưa đi tắm rửa sạch sẽ và cho ăn uống no nê rồi đem buộc bằng
dây mây vào một cây cột cao trên 5 m. Chủ trì đọc lời khấn cầu xin hay tạ ơn thần linh và mời thần
linh xuống ăn thịt trâu, uống rượu cần. Chủ trì khấn xong thì các đội cồng chiêng bắt đầu diễn tấu.
Cả làng nhảy múa, ca hát, uống rượu, biểu diễn võ thuật...Con trâu bị giết được đem xẻ thịt nhỏ
chia cho các nhà trong buôn làng cũng liên hoan. Nhắm mục đích cho dân làng được ăn mừng sau

1 vụ mùa thành công vất vả.
2
tập làm văn lớp 9 Bài viết số 1
Con trâu ở làng quê Việt Nam có vai trò quan trọng trong đời sống vật chất và ý nghĩa to lớn ở
đời sống tinh thần của nông dân Việt Nam. Nh ngời bạn tốt với nông dân và không thể thiếu đợc
trong kỉ niệm sâu sắc của trẻ em ở làng quê Việt Nam mà chắc hẳn không ai có thể quên đợc kí ức
tuổi thần tiên đó.
Đề 2:
H Tõy, mt thng cnh ca H Ni, trc khi mang tờn Dõm - m (h Mự Sng) thi Lý, oỏi h, Tõy h
(h phớa tõy kinh thnh) di thi Lờ, ó tng mang tờn h Trõu, h Trõu vng... Mt cõu th c cũn nhc nh:
Ngu h d bin tam triu cc
Long nhng lu bỏch chin thnh
(H Trõu ó tri ba triu i
Thnh (bỏch) chin cũn lu t Rn Rng).
H Trõu v dũng sụng Kim Ngu - mt nhỏnh sụng Tụ chy bao quanh phớa nam H Ni, t tõy sang ụng - cũn
gi li mt huyn tớch ca thi k thn thoi Vit Nam:
vựng m ly chõn nỳi Tiờn - Du (Bc Ninh) cú con Trõu vng nỏu mỡnh. Mt phỏp s dựng gy (tớch trng)
ym trờn trỏn trõu. Trõu vựng vng lng chy xung phớa nam, qun nỏt c mt vựng Khoỏi Chõu ly li, vựng y
sau gi l Vng trõu m. Cha ht cn gin d, Trõu li bi qua sụng Cỏi ri chy ngc lờn phớa bc, ng
do vt chõn trõu dm lỳn thnh sụng Kim Ngu. Ri trõu chy vũng vo lm st c mt vựng thnh m h v n
kớn di ni y, ú l h Trõu Vng. Tng truyn nh ai sinh c mi trai thỡ 10 chng trai ú s kộo c
Trõu vng lờn m hng phỳc. Nhng t ú n nay, chng nh ai mi trai... (Xem Lnh Nam chớch quỏi).
Huyn thoi l mt cỏch thc t duy, cm ngh ca ngi xa c, y mng m siờu thc song v vn bt
ngun t hin thc...
Trõu l loi sinh vt thớch nghi vi h sinh thỏi m ly - m - m, vn sinh sng thnh by, cú th lnh u n.
Quanh m ly l rng tt ti c di, lỳa di trõu n. Trõu rng (Bubalus bubalis), t tiờn ca cỏc loi trõu nh,
vn sinh sng vựng m ly ụng - Nam ỏ nhit i - giú mựa - thp m. Cỏch õy khụng lõu, trõu rng cũn tn
ti khỏ ph bin min trung nc ta. Trõu rng nhỡn chung ging trõu nh nhng cú vúc sng rng v di hn,
chỳng di ng nhanh v nh nhng hn trõu nh, trong n trõu rng cng cú nhng con "bch bin", gi l trõu
trng, nh hin tng thng thy trõu nh...

Gii c sinh v kho c hc Vit Nam ó tỡm thy húa thch loi trõu trong cỏc hang ng Thm Khuyờn, Phai
V, Kộo Lống (Lng Sn), Hang Hựm (Hũa Bỡnh), Thm ũm (H Tnh)... cỏch ngy nay trờn di vi chc vn
nm: ngi ti c Lng Sn, ngi c Hang Hựm ó sn bt trõu rng cựng cỏc loi voi, i i, ln vũi, gu
mốo, kh, vn... m sinh sng.
Mun hn na, trong cỏc hang ng cha ng di tớch vn húa Hũa Bỡnh - Bc Sn, cỏch ngy nay trờn di
mt vn nm, bờn cnh húa thch mt s ht cõy trng, ngi ta cng tỡm thy xng trõu bũ (Bovinae).
n cui thi ỏ mi, cỏch ngy nay 5 - 6.000 nm cựng vi s ra i ca ngh nụng trng lỳa cỏc thung
lng chõn nỳi v ng bng ven bin, con trõu ó c thun phc v thun dng. Xng trõu bũ nh ó c
gii kho c hc tỡm thy ph bin trong cỏc di ch ỏ mi v ng thau Trng Kờnh (Hi Phũng), Tiờn Hi, ỡnh
Chng (H Ni), ng u (Phỳ Th) v nhiu ni khỏc. m ly, mụi trng sinh thỏi ca loi trõu, cng l quờ
hng ca loi lỳa. Con trõu v cõy lỳa gn bú vi nhau, t thi hoang di cng nh t lỳc c con ngi thun
dng, nh mt cõu thnh ng Thỏi:
Nhinh chm trai, quai chm c
(gỏi gn trai, trõu gn m).
n b, t thc tin hỏi lỳa di m ly ó tin lờn trng lỳa. n ụng, t thc tin sn bt trõu rng ó tin
ti vic nuụi trõu. Hỏo - hỡnh thc by sn bt trõu rng - ó bin thnh hao, hng ro rung lỳa.
Thot tiờn, ngi ta bt trõu n tht, sau c thun dng, cng n tht v lm vt hin sinh trong nghi l
nụng nghip hi mựa. Hỡnh nh hi õm trõu ca ngi Vit c cũn c khc chm trờn trng ng v vn cũn
sng ng trong l hi mựa Xuõn min khụng gian xó hi Ba Na Tõy Nguyờn.
Ri trõu c s dng cựng vi ngi vo vic dm nỏt c, sc bựn trong rung sa son t ai trng lỳa.
L li canh tỏc m sỏch c gi l "thy nu" (cy bng nc, a nc vo rung ri lựa trõu xung dm c, sc
bựn) ny, cho ti trc sau Cỏch mng mựa Thu vn tng ph bin trong cỏc thung lng Thỏi - Mng, min Tõy
Bc.
Huyn thoi v ngi Khng L - Thn Nụng, i Lc - Cc (Thỏi en), Sỏi Ha (Thỏi Trng), Tỏng Ngo (Ty
3
tËp lµm v¨n líp 9 Bµi viÕt sè 1
Khao ở Hà Giang), thân cao hơn núi, vành tai to bằng dăm ba chiếc quạt thóc, đã vỡ vạc bốn cánh đồng lớn
Mường Thanh (Điện Biên), Mường Lò (Nghĩa Lộ), Mường Tấc (Phù Yên), Mường Than (Than Uyên) và thung
lũng Mường Phạ (Vị Xuyên)... rất nổi tiếng. Vị thần nông Tày - Thái cổ khổng lồ này đã biết nuôi trâu để kéo cày,
biết ăn xôi đồ bằng gạo nếp và vẫn bắt cá, xúc tôm tép ở các dòng sông suối... Đó là huyền thoại của thời đại kim

khí.
Hàng trăm lưỡi cày đồng các loại thuộc nền văn hóa Đông Sơn (500 năm trước Công nguyên) tìm thấy ở Cổ
Loa và nhiều nơi khác đã được giới khảo cổ học Việt Nam cày thực nghiệm bằng trâu kéo trên chín loại đồng đất
khác nhau của miền châu thổ sông Hồng...
Kể từ thời đại vua Hùng dựng nước, con Trâu trở nên một nhân tố cấu trúc hữu cơ của nền văn minh nông
nghiệp trồng lúa nước Việt Nam: "Con Trâu là đầu cơ nghiệp".
Cảnh sắc thường thấy trong môi trường sinh thái - nhân văn Việt Nam là cảnh:
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa!
Trâu kéo cày dưới thung đồng. Trâu kéo gỗ trên ngàn, kéo lết không cần xe bánh... Những đoàn xe trâu đi trên
đường Trường Sơn, từ Quảng Bình tới Quảng Nam, đã được Lê Quý Đôn (thế kỷ 18) mô tả kỹ lưỡng trong Kiến
văn tiểu lục... Và thảng hoặc, trâu còn được dùng trong chiến trận. Đinh Bộ Lĩnh và Bầy trẻ mục đồng trong thung
lũng Hoa Lư cưỡi trâu, rước cờ lau tập trận. Lê Đại Hành lùa trâu cùng quân sĩ đứng dày đặc trên hai bờ sông
Hoàng Long để đón chào và dọa dẫm sứ thần nhà Tống. Trâu được cho uống rượu say và lùa xô vào húc phá đội
hình quân địch. Và trâu còn được buộc mồi lửa sau đuôi, lùa sang trại giặc trong nhiều trận hỏa công...
Từ đời sống thực tại, con trâu đã đi vào lĩnh vực tinh thần, tâm linh của người Việt chúng ta.
Tượng trâu bằng đất nung đã được giới khảo cổ tìm thấy trong các di chỉ Tiên Hội, Đồng Đậu... hơn ba nghìn
năm trước.
Vật trang sức hình đầu trâu bằng đá nửa quý, mài nhẵn bóng, đã tìm thấy ở di chỉ Đình Chàng Hà Nội, cũng có
tuổi trên dưới ba nghìn năm. Trong 15 bộ lạc hợp thành nước Văn Lang của các vua Hùng có hẳn một bộ lạc
mang tên Trâu. Giữa đêm trường Bắc thuộc, sách Giao châu ký (thế kỷ 3) ghi lại hình ảnh trẻ mục đồng Việt Nam
véo von thổi sáo trên lưng trâu trên đường thôn, ngõ xóm. Con Trâu hiện diện trong tranh dân gian và điêu khắc
gỗ đình làng thế kỷ 17-18.
Hình sừng trâu gợi lên hình ảnh Trăng lưỡi liềm và được dùng làm biểu tượng của Trăng. Một huyền thoại của
miền ven biển Việt Nam được ghi lại từ thế kỷ 6 trong sách Thủy kinh chú chép rằng: Huyện Câu Lậu ở Giao Chỉ
có giống tiềm thủy ngưu (trâu ở ngầm đáy nước) chúng thường lên bờ chọi nhau, bao giờ sừng mềm ra lại nhảy
xuống nước, sừng trâu sẽ cứng lại rồi chúng lại lên bờ chọi nhau tiếp. Đó là báo hiệu của ngày con nước theo lịch
trăng: Trăng với thủy triều và giống trâu nước có liên quan về thời tiết. Sách Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề
chép rằng: Dưới thời Trần, có Yết Kiêu, người Gia Lộc (Hải Dương), một hôm đi trên bờ biển thấy hai con trâu
nước chọi nhau. Ông dùng đòn gánh phang, trâu lặn xuống nước mất tích. Thấy trên đòn gánh còn dính vài sợi

lông trâu, ông nuốt vào bụng, từ đó ông có tài bơi lặn, đi lại dưới nước như đi trên cạn!
Huyền thoại trâu nước là huyền thoại về Trăng và thủy triều, rất phổ biến cùng với tục thờ Trăng thờ Trâu ở
miền ven biển Tây Thái Bình Dương. Ngày hội Trăng mùa thu ở vùng ven biển Đồ Sơn (Hải Phòng) trước đây còn
giữ tục lệ thi chọi trâu:
Dù ai buôn bán đâu đâu
Mồng mười tháng Tám chọi trâu thì về!
Tục lệ ấy là tàn dư xa xôi của lễ hội thờ Trăng. Chọi trâu là biểu tượng của xung lực vũ trụ. Chọi trâu hằng năm
là để tái vận hành và tiếp sức sinh sôi nguồn xung lực, sinh lực của Trời - Đất - Con người...
Như vậy đó, vai trò quan trọng của con trâu trong nền văn hóa Việt Nam và Đông - Nam Á cổ truyền. Chính vì
vậy mà nó đi vào năm - tháng - ngày - giờ của lịch 12 con vật.
Xin chú thích thêm rằng các thầy đồ Nho học ngày xưa thường dạy học trò: "Ngưu là trâu, mã là ngựa...". Đó là
một sự hiểu lầm. Người Hoa khởi nguồn từ miền hoàng thổ khô hạn vùng Hoa Bắc, lưu vực Hoàng Hà, ở đó chỉ
có giống bò và "ngưu" chỉ có nghĩa là "bò". Triển nở và bành trướng xuống miền nam, người Hoa mới thấy con
trâu và mệnh danh nó là "thủy ngưu" (bò nước) hay "hắc ngưu" (bò đen).
Quê hương trâu là miền đầm lầy Đông - Nam Á. Trâu - Tre - Klu - Kécbau... là một từ thuần Đông - Nam á.
Trâu là một nét trội của khu vực văn hóa chung Đông - Nam Á!
4

×