Tải bản đầy đủ (.pdf) (197 trang)

Luận án tiến sĩ Lịch sử: Quá trình hình thành và phát triển của thành phố Lạng Sơn từ năm 1925 đến năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 197 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐỖ THỊ HƯƠNG LIÊN

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 
THÀNH PHỐ LẠNG SƠN TỪ NĂM 1925 ĐẾN NĂM 2012

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ


THÁI NGUYÊN ­ 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐỖ THỊ HƯƠNG LIÊN

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 
THÀNH PHỐ LẠNG SƠN TỪ NĂM 1925 ĐẾN NĂM 2012
Ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 9229013

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học:  1. GS.TS Nguyễn Ngọc Cơ
               2. PGS.TS Hà Thị Thu Thủy


THÁI NGUYÊN ­ 2018




5

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số  liệu, 
kết quả  nêu trong luận án này là trung thực và chưa từng được ai công bố  trong 
bất kì công trình nào khác.
           Tác giả

Đỗ Thị Hương Liên


6

LỜI CẢM ƠN
Trước hết tác giả  luận án xin bày tỏ  lòng biết  ơn sâu sắc tới tập thể  các 
thầy cô giáo trong tổ Lịch sử Việt Nam, khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm ­  
Đại học Thái Nguyên. Đặc biệt tác giả  xin bày tỏ  lòng biết  ơn tới thầy giáo 
hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Ngọc Cơ, PGS.TS Hà Thị Thu Thủy đã chỉ 
bảo tận tình, ân cần, động viên khích lệ  tác giả  trong suốt quá trình học tập,  
nghiên cứu để hoàn thành chương trình đào tạo tiến sĩ.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện luận án, tác giả  đã nhận được sự  giúp 
đỡ  nhiệt tình của Trung tâm Lưu trữ  Quốc gia I, III, Tỉnh  ủy, UBND tỉnh Lạng  
Sơn, cùng các đơn vị  trực thuộc quản lí và toàn thể  các ban ngành, đoàn thể  địa 
phương đã cung cấp các tư liệu để  tác giả hoàn thành luận án. Tác giả  xin chân  
thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Cuối cùng tác giả  xin bày tỏ  lòng biết  ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và  
đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và hoàn thành 
luận án.

      Thái Nguyên, ngày 14 tháng 10 năm 2018
                                   Tác giả

                           Đỗ Thị Hương Liên


7

MỤC LỤC
    Trang
Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục các chữ viết tắt

iv

Danh mục các bảng

v



8

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CN

: Công nghiệp

CNH­HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DV

: Dịch vụ

GD

: Giáo dục

HĐND                     : Hội đồng nhân dân 
HTX                       : Hợp tác xã
LN

: Lâm nghiệp

NN

: Nông nghiệp


TCN

: Thủ công nghiệp

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

UBHC      

: Ủy ban hành chính    

          CHND                    : Cộng hòa Nhân dân
           UBND                   : Ủy ban nhân dân


9

DANH MỤC CÁC BẢNG


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Lạng Sơn là một tỉnh nằm ở khu vực phía Bắc có đường biên giới tiếp giáp 
với Trung Quốc, từ  lâu đã được coi như  cửa ngõ giao thương giữa nước ta với 
Trung Quốc. Thành phố Lạng Sơn là đô thị tỉnh lỵ của tỉnh Lạng Sơn, tỉnh miền núi  
Đông Bắc của tổ quốc, là một đô thị cửa khẩu có chức năng quan trọng trong kinh  
tế đối ngoại.
Thành phố  Lạng Sơn ­ vùng đất đã trải qua thời kỳ  Châu lỵ, Trấn lỵ  và 
đến năm 1925 được thành lập, trở thành thị xã tỉnh lỵ, là trung tâm kinh tế, chính  

trị, văn hóa ­ xã hội của tỉnh. Đây là nơi có nhiều di tích lịch sử  như  thành nhà  
Mạc, Đoàn thành, Ải Chi Lăng... cùng các lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc  
dân tộc đã từng hấp dẫn khách thập phương từ ngàn xưa. Sự hội tụ của các điều  
kiện tự  nhiên và xã hội đã tạo cho thành phố  Lạng Sơn thế  mạnh  phát triển đô 
thị, trở thành trung tâm chính trị ­ kinh tế ­ văn hoá ­ xã hội của tỉnh Lạng Sơn và  
vùng Đông Bắc Việt Nam. Thành phố Lạng Sơn là loại hình đô thị thương mại ra 
đời từ  khá sớm, được hình thành theo phương thức "thị" có trước " đô " có sau.  
Ngày nay thành phố  Lạng Sơn là thành phố  thương mại cửa khẩu đang trên đà 
phát triển, là cửa ngõ giao lưu kinh tế ­ văn hoá của cả nước với Trung Quốc, là 
địa bàn có mối quan hệ với vùng tam giác kinh tế trọng điểm Hà Nội ­ Hải Phòng  
­ Quảng Ninh. 
Với quá trình đổi mới diễn ra một cách toàn diện và sâu sắc từ sau Đại hội  
Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của 
thành phố Lạng Sơn, làm nảy sinh những vấn đề về quy hoạch phát triển đô thị,  
về  tổ  chức đời sống kinh tế  ­ xã hội, an ninh quốc phòng [66, 197], đồng thời  
những thay đổi về cơ  sở hạ  tầng đô thị  đã góp phần tích cực vào quá trình phát  
triển kinh tế ­ xã hội của thành phố. 
Trong giai đoạn 2000 – 2002, thực hiện đề  án thành lập thành phố, thị  xã 
được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, kiến thiết đô thị, diện mạo thay đổi. Năm  
2000, thành phố Lạng Sơn được công nhận là đô thị loại III, đến tháng 10/2002, 
Chính phủ đã ban hành Nghị định thành lập thành phố Lạng Sơn. Quá trình đô thị 
hóa cùng với sự chuyển mình ngày càng mạnh mẽ của thành phố Lạng Sơn trong  
những năm qua đã khẳng định sự  đúng đắn trong việc thực hiện chủ  trương,  


đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước để  thành phố  Lạng Sơn trở  thành  
thành phố cửa khẩu quan trọng vùng biên giới Đông Bắc, với chức năng chủ yếu  
là kinh tế  thương mại, chính trị, an ninh quốc phòng của một tỉnh biên giới.  
Thông qua nghiên cứu thực tế  thực hiện đường lối đổi mới  ở  một địa phương  
miền núi biên giới như Lạng Sơn để  thấy được sự  lãnh đạo và đường lối đúng  

đắn của Đảng và nhà nước ta, đồng thời với việc nghiên cứu đề  tài này sẽ  góp  
phần cung cấp thêm tư liệu khoa học cho việc nghiên cứu, biên soạn, giảng dạy 
lịch sử địa phương cũng như góp phần giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa  tốt 
đẹp của nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn. 
Đến nay, cũng đã có khá nhiều nghiên cứu về  quá trình đô thị  hóa nói 
chung của các tác giả ở trong và ngoài nước, với nhiều cách tiếp cận khác nhau. 
Tuy nhiên, lại chưa có nghiên cứu nào về  quá trình hình thành, phát triển của 
thành phố  và quá trình đô thị  hóa dưới góc độ  lịch sử diễn ra tại một thành phố 
của một tỉnh miền núi, nhất là lại diễn ra tại một tỉnh miền núi phía Bắc như 
tỉnh Lạng Sơn. Chính vì vậy, tác giả  đã chọn vấn đề: “Quá trình hình thành và  
phát triển thành phố Lạng Sơn từ năm 1925 đến năm 2012”  làm đề tài luận án 
tiến sĩ của mình. 
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu: Luận án sẽ tập trung vào các vấn đề
­ Khái quát quá trình hình thành của đô thị Lạng Sơn từ khởi thủy đến năm  
1925 (năm thành lập thị xã Lạng Sơn) và quá trình phát triển của Lạng Sơn từ thị 
xã lên thành phố  (năm 2002), cùng chặng đường 10 năm xây dựng và phát triển  
thành phố Lạng Sơn (2002­2012).
­ Phân tích những điều kiện lịch sử tác động đến sự  phát triển của thị  xã  
Lạng Sơn và thành phố Lạng Sơn qua các giai đoạn lịch sử.
­ Phân tích sự thay đổi về diên cách (quy mô) thành phố Lạng Sơn qua các 
thời kì, trong đó tập trung vào quy hoạch kiến trúc và cảnh quan môi trường; 
đồng thời tập trung làm rõ các cơ chế, chính sách của bộ máy chính quyền đương  
thời trong công tác quản lí đô thị.
­ Phác họa bức tranh về sinh hoạt đô thị  được thể  hiện qua các mặt như 
dân cư đô thị,  kinh tế đô thị, chính trị, văn hóa, xã hội của đô thị  Lạng Sơn qua 
gần một thế kỉ.


­ Trên cơ  sở  đó làm rõ những thế mạnh thúc đẩy sự  phát triển của Lạng 

Sơn, luận án cũng đóng góp một số  ý kiến nhằm kế  thừa và phát huy mặt tích 
cực của đô thị  hóa góp phần nâng cao hiệu quả  công tác quản lí và quy hoạch 
thành phố trong giai đoạn hiện nay và tương lai.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trên cơ sở  mục tiêu đã đề  ra như   ở  trên, đề  tài hướng tới giải quyết các  
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Trình bày một cách có hệ thống về quá trình hình thành và phát 
triển của thành phố  Lạng Sơn, quá trình đô thị  hóa  ở  thành phố  Lạng Sơn tỉnh  
Lạng Sơn từ năm 1925 đến năm 2012.
Thứ  hai: Rút ra được những đặc điểm của quá trình đô thị  hóa nói chung 
và thành phố Lạng Sơn tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
Thứ ba: Phân tích những tác động tích cực và tiêu cực của quá trình đô thị 
hóa đến sự phát triển kinh tế  ­ xã hội của tỉnh Lạng Sơn từ năm 1925 đến năm 
2012.
Thứ  tư: Trên cơ  sở  nghiên cứu, tác giả  chỉ  ra đặc trưng của đô thị  Lạng 
Sơn. 
3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượ ng nghiên cứu của đề  tài là thành phố 
Lạng Sơn. Trong đó chúng tôi tập trung nghiên cứu về sự ra đời, quá trình phát  
triển của đô thị   ở  thành phố  Lạng Sơn tỉnh Lạng s ơn t ừ ch ức năng một “trấn 
thành” đến một trung tâm đô thị  và những đặc điểm về  kinh tế, văn hóa, xã  
hội ở thành phố Lạng Sơn.
Phạm vi nghiên cứu:
Về  không gian: Không gian nghiên cứu cuả  đề  tài là không gian lịch sử  ­ 
kinh tế ­ văn hóa ­ xã hội Lạng Sơn với trung tâm là thành phố Lạng Sơn. Trong 
quá trình trình bày luận án thuật ngữ  “thị  xã Lạng Sơn nay là thành Phố  Lạng  
Sơn” sẽ có những cách gọi khác tương ứng được sử dụng trong các văn bản hành  
chính cả  chính quyền đương thời để  phù hợp với từng giai đoạn cụ  thể. Trong 



một số  nội dung phạm vi nghiên cứu có thể  mở  rộng ra địa bàn tỉnh để  thấy  
được sự liên quan mật thiết giữa thành phố Lạng Sơn với toàn tỉnh.
Về  thời gian: Đề  tài giới hạn chủ  yếu trong thời gian từ  năm 1925 đến  
năm 2012. Trong đó, năm 1925 là năm chính quyền thực dân Pháp đã ra Nghị định 
số 30431 về việc thành lập thị xã Lạng Sơn là trung tâm đô thị của tỉnh Lạng Sơn  
(theo công điện của Chánh văn phòng Phó Thống sứ Bắc Kỳ  về  Nghị định thiết 
lập Lạng Sơn ­ Thất Khê thành thị xã ngày 23/9/1925. Năm 2012, thành phố Lạng 
Sơn đã trải qua 10 năm xây dựng và phát triển kể từ khi được công nhận là thành  
phố  (giai đoạn 2002 – 2012). Việc lấy mốc năm 2012 có thể  chưa thật sự chính 
xác nhưng sẽ giúp NCS thuận lợi hơn khi khai thác nguồn tư liệu.
Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu để  để có cái nhìn toàn diện, luận án 
còn đề  cập khái quát  một số  vấn đềcủa thành phố  trong phạm vi thời gian và 
không gian rộng hơn.
  Phương pháp nghiên cứu:  Để  tiếp cận đề  tài “Quá trình hình thành và 
phát triển thành phố Lạng Sơn từ năm 1925 đến năm 2012” là một đề tài rộng, cần 
nguồn tư liệu khá lớn, đa dạng bởi vậy phương pháp đầu tiên được sử dụng nghiên 
cứu ở đây là khai thác triệt để những tư liệu gốc như các tài liệu tại Trung tâm Lưu 
trữ Quốc gia I, III, Chi cục Văn thư Lưu trữ Lạng Sơn.
Phương pháp chủ đạo được sử dụng là phương pháp lịch sử và phương pháp 
logic 
Các phương pháp đa ngành, liên ngành: kết hợp giữa phương pháp lịch sử 
với phương pháp điều tra xã hội học để xử lí các số liệu và thông tin liên quan.
Phương pháp khu vực học: Căn cứ vào thực tế  khách quan của lịch sử và  
điều kiện xã hội của địa phương để nghiên cứu.
Phương pháp điều tra khảo sát thực địa: Đối tượng chính của luận án là 
tập trung nghiên cứu về  thành phố  Lạng Sơn nhưng việc nghiên cứu đặt trong  
mối quan hệ với cả các huyện khác và cả tỉnh Lạng Sơn cũng là rất cần thiết, do  
đây là một công việc hết sức quan trọng nên cần được tiến hành bằng các bảng  
câu hỏi điều tra và phỏng vấn mà tác giả đưa ra. 
4. Đóng góp của luận án



­ Thứ  nhất: Luận án trình bày một cách có hệ thống quá trình hình thành 
và phát triển thành phố  Lạng Sơn nói riêng cũng như  mảnh đất Lạng Sơn nói 
chung.    
­ Thứ hai:  Phục dựng lại một bức tranh toàn cảnh về thành phố Lạng Sơn 
từ  năm 1925 đến 2012 và thấy được những tác động cũng như   ảnh hưởng của  
quá trình đô thị hóa đến kinh tế ­ xã hội của thành phố Lạng Sơn.
Th ứ ba: Tái hiện lại bức tranh toàn cảnh về  kinh tế, chính trị, văn hóa,  
xã hội của thành phố  Lạng Sơn. Qua đó chỉ  ra những đặ c điểm riêng mang  
tính đặc thù trong quá trình phát triển c ủa thành phố  Lạng Sơn so với các 
thành phố khác ở nướ c ta.
Thứ  tư: Luận án còn cung cấp nguồn tư liệu mới, đáng tin cậy về  thành 
phố  Lạng Sơn từ  năm  1925 đến năm 2012,  phục vụ  việc nghiên cứu và giảng 
dạy lịch sử địa phương. 
5. Bố cục Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục. Luận án được 
chia thành 5 chương chính:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài.
Chương 2. Thị xã Lạng Sơn từ khi thành lập đến ngày hòa bình lập lại (1925­
1954).
Chương 3. Chuyển biến của thị xã Lạng Sơn trong những năm 1954­1975.
Chương 4. Chuyển biến của thị  xã Lạng Sơn sau ngày thống nhất đất 
nước và sự thành lập thành phố (1975­2002).
Chương 5. Thành phố Lạng Sơn qua 10 năm xây dựng, phát triển (2002­2012).


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về nguồn tư liệu

Để hoàn thiện luận án, tác giả đã sử dụng một số nguồn tư liệu liên quan 
trực tiếp và gián tiếp đến đề  tài như: tư  liệu thành văn; tư  liệu tranh  ảnh, bản  
đồ, hiện vật; tư liệu điền dã.
1.1.1. Tư liệu thành văn
Nguồn tư  liệu là các văn kiện của các kì Đại hội Đảng, các nghị  quyết,  
quyết định của Chính phủ  và các văn bản quy phạm pháp luật; báo cáo và nghị 
quyết triển khai, tổng kết của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh 
Lạng Sơn và của Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Lạng Sơn, Ủy ban hành  


chính thị  xã Lạng Sơn cùng một số  các báo cáo, quyết định của chính phủ  Pháp 
thi hành trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn trước năm 1945. Ngoài ra còn có các  
số liệu, báo cáo thống kê của chi cục thống kê và của các cơ quan, ban ngành của 
Trung ương và địa phương có liên quan đến đề tài luận án. 
Nguồn tư liệu là các công trình nghiên cứu của các tác giả ở trong và ngoài  
nước, trong đó có các chuyên khảo đề cập đến vấn đề kinh tế, văn hóa của thành 
phố  Lạng Sơn; các kỷ  yếu Hội thảo khoa học cùng các bài viết trên các tạp chí 
chuyên ngành có liên quan đến đề tài luận án nghiên cứu. 
Tư liệu lưu trữ
Nguồn tư  liệu có liên quan trực tiếp đến đề  tài được lưu giữ  tại Trung 
tâm Lưu trữ quốc gia. Trước tiên là Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, tập trung chủ 
yếu ở ba phông tài liệu lưu trữ là Fonds de la residenee Superieure au tonkin (Phủ 
Thống sứ  Bắc Kỳ), Phủ  Toàn quyền Đông Dương và Nha kinh lược Bắc kì. 
Trong đó có nhiều tư  liệu quan trọng về  lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã 
hội, sự thay đổi địa giới hành chính của thành phố  Lạng Sơn. Do đó có thể  khai 
thác chủ yếu ở một số dãy tài liệu sau: ở dãy tài liệu kí hiệu E (về tổ chức chính  
quyền địa phương) có dãy tài liệu E2 (sự thay đổi địa giới hành chính với 68 hồ 
sơ), trong đó có một số  hồ  sơ liên quan đến Lạng Sơn như hồ  sơ  33306 có tiêu  
đề   “Modificcations   dans   lescirconsciptions   administratius   de   la   provice   de  
LangSon”  (sửa đổi các đơn vị  hành chính của tỉnh Lạng Sơn); hay tài liệu số 

01025913, hồ sơ số 4049 với tiêu đề “Asorganisation administrative et Suppession  
de la delegation de la provice de LangSon” (về việc thay đổi hành chính và xóa bỏ 
địa lí tỉnh Lạng Sơn   hay E02 (bảng tiểu dẫn các điều kiện kinh tế  ­ xã hội).  
Ngoài ra tác giả  luận án cũng tiến hành khai thác tài liệu lưu trữ  tại Trung tâm  
Lưu trữ Quốc gia III, với các phông Văn phòng Chính phủ, là phông tài liệu lưu trữ 
có giá trị trong thành phần phông lưu trữ quốc gia Việt Nam. Đa số các tài liệu tác 
giả khai thác được đều là tài liệu gốc, hình thành trong quá trình hoạt động của các 
cơ  quan nhà nước trung  ương và địa phương. Có thể  kể  tới một số  hồ  sơ  như 
708/17589, “Quyết định của Hội đồng Bộ  trưởng về  việc đổi tên các xã, huyện  
thuộc tỉnh Lạng Sơn”; hồ  sơ  9420: “Báo cáo về tình hình lũ lụt  ở  Lạng Sơn năm  
1986”. Phông Bộ  Kế  hoạch và Đầu tư: Hồ  sơ  số  2054, “Quyết định của  Ủy ban  


nhân dân tỉnh Lạng Sơn về việc phê duyệt đồ án thiết kế quy hoạch chung xây dựng  
thị xã Lạng Sơn năm 1986­2000”……
Xuất phát từ nhu cầu phục vụ công tác sưu tầm nghiên cứu, sưu tầm, bảo 
tồn các giá trị  văn hóa lịch sử  của tỉnh nhà. Thực hiện sự  chỉ  đạo của  Ủy ban  
nhân dân tỉnh và thành phố  Lạng Sơn cũng như  sự quản lí trực tiếp của Sở  văn  
hóa Thể  thao và Du lịch Lạng Sơn nên trong những năm gần đây Thư  viện và 
Bảo tàng tổng hợp tỉnh đã tiến hành dịch, sưu tầm, khai thác các tư liệu về tất cả 
các mảng đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…. Việc bảo tồn các giá trị 
văn hóa, lịch sử đã tạo sự thuận lợi hơn cho các nhà nghiên cứu nói chung và tác  
giả luận án nói riêng trong công tác sưu tầm tư liệu. 
Ngoài những tư  liệu  ở  Trung tâm Lưu trữ  Quốc gia, tác giả  luận án đã 
khai thác thêm những tư liệu lưu trữ khác tại Chi cục văn thư Lưu trữ tỉnh Lạng  
Sơn và Phòng lưu trữ  thành  ủy thành phố  Lạng Sơn, qua đó đã giúp cho tác giả 
những tư liệu cần thiết liên quan đến nội dung luận án.
 Nguồn tư liệu báo chí
 Các tờ báo của Trung ương và Địa phương:
Trước hết là một số  tờ  báo dưới hình thức thông tin như  Báo Bắc Kạn ­ 

Ty thông tin Bắc Kạn số 83 (12/6/1950);  Báo Hà Giang ­ Ty thông tin Hà Giang 
số  22, 28…; một số bản tin của  Ty thông tin Thanh Hóa hay Ty thông tin Tuyên  
Quang;   Ty thông tin Thái Nguyên; Bản tin ­  tin tức ­ cơ  quan của Quận chính 
thành phố  Hà Nội số  3 ngày 22/10/1954; hay   Báo Cứu quốc ­  Cơ  quan tuyên 
truyền kháng chiến của tổng bộ  Việt Minh; báo Liên khu I; báo Ninh Thuận; Báo 
Liên hiệp kháng chiến ­ cơ quan tuyên truyền kháng chiến tỉnh hội Thanh Hóa; báo 
Việt Minh độc lập ­ cơ quan tuyên truyền của Việt Minh ­ Cao Bằng ­ Bắc Kạn ­  
Lạng Sơn; báo Lạng Sơn…đã đăng tải nhiều thông tin về tình hình kinh tế, chính trị,  
xã hội...của thành phố Lạng Sơn.
 Các tạp chí chuyên ngành:
Trên các tạp chí chuyên ngành một số  các bài viết có nội dung liên quan  
đến đề  tài luận án như “Một số  nét về  hoạt động của hệ  thống ngân hàng trên  
địa bàn tỉnh Lạng Sơn” (Tạp chí ngân hàng, số 6­2004); “Lạng Sơn với phát triển  
kinh tế và hội nhập” (Tạp chí Đông Nam Á, số 1­2005), “Khu kinh tế cửa khẩu  
Tân Thanh, chặng đường 10 năm phát triển” (Tạp chí Đông Nam Á, số 2­ 2007), 


“Các khu kinh tế cửa khẩu biên giới Việt ­ Trung” (Tạp chí Cộng Sản, số 4­2007)

1.1.2. Tư liệu tranh ảnh, bản đồ, hiện vật
Bao gồm tranh ảnh và bản đồ cũng là nguồn tư liệu hết sức quan trọng và  
cần thiết cho tác giả  luận án. Các tư  liệu tranh  ảnh, bản đồ  hiện vật  được khai 
thác chủ yếu tại Bảo tàng thành phố Lạng Sơn và Thư viện tỉnh Lạng Sơn, với các  
danh mục ảnh về con người, về phong tục tập quán, hệ thống các chợ ở Lạng Sơn, 
về diện mạo thành phố Lạng Sơn… Ngoài ra còn có các nguồn ảnh tư liệu về lịch 
sử, kinh tế, văn hóa, xã hội…của thành phố đăng tải trên các trang Web của Trung  
ương, địa phương…
1.1.3. Tư liệu điền dã
Tác giả  luận án đã trực tiếp điền dã, thu thập tư  liệu tại nhiều nơi  ở cả 
thành phố  và các huyện trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Bao gồm khảo sát tại hệ 

thống các chợ lớn  ở thành phố Lạng Sơn như phố chợ Kỳ Lừa, chợ Đông Kinh,  
chợ Giếng Vuông, chợ Chi Lăng, chợ Tân Thanh, chợ Đêm. Tìm hiểu lịch sử hình 
thành và phát triển của các chợ  gắn với sự ra đời và phát triển của đô thị  Lạng 
Sơn qua các hoạt động mua bán, thương mại… giữa người Việt với nhau, giữa 
người Việt với người Hoa và người Pháp. Cùng với đó là khảo sát hệ thống sông 
ngòi như sông Thương, sông Kỳ Cùng và các vấn đề về lịch sử, văn hóa, xã hội  
của một số phường trên địa bàn thành phố nhằm bổ sung tư liệu thực tế cho đề 
tài luận án như: phường Đông Kinh, phường Vĩnh Trại, phường Tam Thanh, Chi  
Lăng, Hoàng Văn Thụ….
1.2. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.2.1. Những nghiên cứu về đô thị và đô thị hóa ở Việt Nam
 Những nghiên cứu trong nước
Có thể thấy rằng, từ trước đến nay cũng đã có khá nhiều những công trình  
trên thế  giới cũng như   ở  Việt Nam nghiên cứu về  đô thị  và đô thị  hóa.  Ở  Việt 
Nam các đô thị cũng được hình thành từ khá sớm. Từ sau năm 1975, đã có một số 
công trình nghiên cứu một cách chuyên sâu về đô thị và đô thị hóa. Tại Việt Nam  
những nghiên cứu đầu tiên về  đô thị  và quá trình đô thị  hóa đã được tiếp cận 
dưới góc độ sử học, trong đó chủ yếu là tìm hiểu về sự hình thành và phát triển  
của các đô thị của Việt Nam. Trước tiên phải kể đến cuốn “Đô thị cổ Việt Nam” 
(Viện Sử học Việt Nam), xuất bản năm 1989. Đây là công trình tổng hợp nhiều  
bài nghiên cứu của nhiều tác giả  khảo cứu về  các đô thị  cổ  trong lịch sử  của  


Việt Nam như Hà Nội, Hoa Lư, Phố  Hiến, Hội An …[ ; ]ra đời và phát triển từ 
thế kỉ thứ III đến thế kỉ thứ XIX.
Những năm 90 của thế kỉ XX, vấn đề  đô thị  và đô thị  hóa được mở  rộng 
nghiên cứu trên các lĩnh vực nhân học, kinh tế học như: cuốn “ Đô thị Việt Nam”, 
xuất bản năm 1995 của tác giả Đàm Trung Phường  [80]. Sự ra đời của cuốn sách 
này không chỉ cho thấy bước phát triển mới trong việc nghiên cứu đô thị  mà còn 
về  vấn đề  quy hoạch và phát triển đô thị   ở  Việt Nam. Nội dung sách gồm 4 

chương chính, trong đó có những vấn đề  chung về  đô thị, đánh giá thực trạng 
mạng lưới đô thị, định hướng chiến lược phát triển đô thị  của Việt Nam trong  
bối cảnh đô thị hóa trên thế giới. Công trình này đưa ra cách tiếp cận mới về đô 
thị và đô thị hóa. Thứ hai là công trình “Đô thị hóa tại Việt Nam và Đông Nam Á” 
(xuất bản năm 1995) của Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, đã đề cập đến tình  
hình và xu thế đô thị hóa tại Việt Nam cũng như các nước Đông Nam Á; nhu cầu 
quản lí đô thị, bảo vệ môi trường, tình trạng tăng dân số cơ học, các kinh nghiệm 
phát triển đô thị  ở các nước Đông Nam Á; về vấn đề  môi trường nhân văn, môi 
trường văn hóa trong quá trình đô thị hóa cũng như tiến trình đô thị hóa trong lịch 
sử, đồng thời giới thiệu một số đô thị cổ ở nước ta cũng như trên thế giới [111].
Năm 1998, công trình nghiên cứu “Đô thị hóa và chính sách phát triển đô thị  
trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” của các tác giả Trần Ngọc Hiên, 
Trần Văn Chử  [51].  Cuốn sách đã đề  cập đến những lí thuyết chung về  đô thị. 
Trong đó con người được đặt vào vị  trí trung tâm, đồng thời đánh giá những tác  
động của công cuộc công nghiệp thóa ­ hiện đại hóa tới quá trình đô thị  và đô thị 
hóa; của các chính sách tác động đến sự phát triển đô thị ở nước ta. 
Bước sang những năm đầu thế kỉ XXI, khi vấn đề công nghiệp hóa ­ hiện 
đại hóa, toàn cầu hóa là xu thế tất yếu của nhân loại, vấn đề  đô thị  và tác động  
của đô thị  hóa càng được các nhà nghiên cứu quan tâm đặc biệt với nhiều cách  
tiếp cận khác nhau trên các lĩnh vực văn hóa học, kinh tế  học, xã hội học, nhân  
học, sử học… 
Năm 2000, cuốn “Đô thị  Việt Nam dưới thời Nguyễn” của các tác giả 
Nguyễn Thừa Hỷ, Đỗ  Bang, Nguyễn Văn Đăng được xuất bản  [60]. Với vai trò 
là một trung tâm đầu não chính trị, tốc độ  đô thị  hóa của Hà Nội dưới thời Pháp  
thuộc được chuyển biến nhanh chóng hơn so với các thế  kỉ  trước, cả  về  diện 


mạo và quy hoạch đô thị. Quá trình đô thị hóa đã đem lại những chuyển biến về 
kinh tế, văn hóa, giáo dục, hệ thống giao thông đô thị…
           Năm 2002, hai tác giả là Tôn Nữ Quỳnh Trân, Nguyễn Thế Nghĩa (đồng  

chủ  biên) đã cho ra đời  ấn phẩm “Phát triển Đô thị  bền vững”[110], cuốn sách 
được biên soạn với nội dung chủ yếu từ cuộc Hội thảo khoa học quốc tế: “Phát  
triển Đô thị  bền vững ­ Vai trò của nghiên cứu và giáo dục”, cuốn sách đã tập 
hợp nhiều bài viết có nội dung mang tính lí luận chung và nghiên cứu những 
trường hợp cụ thể về phát triển đô thị  ở  Việt Nam cùng các nước trên thế  giới, 
những đặc thù và phương hướng giải quyết theo nguyên tắc bền vững trong đô 
thị; năm 2004, Võ Kim Cương đã cho ra đời cuốn “ Quản lí đô thị thời kì chuyển  
đổi”[29], nêu lên một số  vấn đề  cơ  bản về  quản lí đô thị  trong thời kì chuyển  
đổi, phần hai là các bài viết của tác giả  được đúc kết trong quá trình tham gia 
quản lí đô thị.
Năm 2005, tác giả Đình Quang cho ra đời cuốn sách “ Đời sống văn hóa đô  
thị và khu công nghiệp Việt Nam”, nội dung đi sâu vào nghiên cứu quá trình đô thị 
hóa  ở  nước ta và trên thế  giới hiện nay, về đời sống văn hóa đô thị, thực trạng 
văn hóa ­ xã hội khu vực đô thị, cũng như khu công nghiệp cùng triển vọng đô thị 
hóa Việt Nam và bối cảnh văn hóa thế kỉ XXI.
Cuốn “Biến đổi văn hóa đô thị  Việt Nam hiện nay” (2006) của tác giả 
Nguyễn Thanh Tuấn [114], cung cấp cái nhìn mới về văn hóa trong đô thị, tác giả 
đi sâu nghiên cứu: Đô thị  và biến đổi văn hóa đô thị  nói chung, trong thời kì đổi  
mới cũng như thời kì hiện đại; những quan điểm và biện pháp điều tiết quá trình 
tiếp tục biến đổi văn hóa đô thị. 
Ngoài ra còn có các tác phẩm đã được Nhà xuất bản Xây dựng  ấn hành 
như  Đỗ  Hậu (2010), “Quản  lí đất đai và bất động sản đô thị”. Trương Quang 
Thao (2011), “Đô thị học, những khái niệm mở đầu”, đề cập tới năm khái niệm – 
chìa khóa đi vào nghiên cứu đô thị  học, đó là: đô thị, đô thị  hóa, đô thị  học, quy  
hoạch và nhà đô thị cùng nhiều khái niệm phát sinh từ các thuật ngữ ấy [   ; ].
Năm 2012, tác giả  Trần Hữu Quang đã cho ra đời tác phẩm “Hạ  tầng đô  
thị Sài Gòn buổi đầu” [82], trong đó đã khắc họa một bức tranh khái lược về quá 
trình hình thành hạ tầng đô thị của thành phố Sài Gòn vào giai đoạn đầu của thời  
kì Pháp thuộc, tìm hiểu lịch sử của đô thị  Sài Gòn. Có thể  nói một trong những  
điểm khác biệt giữa đô thị  hiện đại với làng xã trong nông thôn cổ  truyền chính  



là điểm sau đây: đô thị  luôn luôn là nơi xuất hiện rất nhiều chuẩn mực hết sức  
cụ thể quy định cả về không gian vật lí lẫn về quy cách sinh hoạt, với số lượng  
nhiều   hơn   và   phức   tạp   hơn   nhiều   so   với   làng   xã   ở   nông   thôn.   Hay   tác   giả 
Nguyễn Sĩ Quế với cuốn “Lịch sử đô thị” (xuất bản năm 2012), đề cập đến công 
tác quy hoạch đô thị của một số nước trên thế giới cũng như các đô thị tiêu biểu  
thời kì cổ đại, phong kiến, cận đại và một phần đô thị hiện đại Việt Nam. Là cơ 
sở  khoa học trong việc phục vụ  nghiên cứu định hướng quy hoạch các đô thị 
mới, cũng như tôn tạo và phục hồi các di sản của đô thị cũ [ ; ].
Năm  2013,   tác   giả  Đăng Trường với  “Đô   thị  thương  cảng  Phố  Hiến” 
[112].  Nội dung chính được đề  cập đến là thế  kỉ  XVII­XVIII, là thời kì hưng 
khởi của đô thị  cổ  Việt Nam, nhiều đô thị  xuất hiện và đạt được những thành  
tựu đáng kể, hàng loạt các đô thị trở lên nổi tiếng trong đó có Phố  Hiến, là một  
đô thị thương cảng phát triển rực rỡ, một trung tâm đô hội rất nhiều ngành, mang 
diện mạo một đô thị kinh tế, một tập hợp chợ, các thương điếm phương Tây.
Năm 2014, tác giả  Đỗ  Bang (chủ  biên), thuộc Hội khoa học Lịch sử  tỉnh  
Thừa Thiên Huế đã cho ra đời cuốn sách “Đô thị Thừa Thiên Huế, tiến trình phát  
triển và những giải pháp quy hoạch” [16]. Cuốn sách tập hợp các bài viết của 
các  tác giả khu vực miền Trung và Thừa Thiên Huế, nghiên cứu chủ yếu về tiến 
trình phát triển đô thị qua các giai đoạn lịch sử, đúc kết bài học kinh nghiệm đưa  
giải pháp quy hoạch thành thành phố loại I trực thuộc trung ương.
Năm 2015, tác giả  Phan Xuân Biên (chủ  biên) với “ Xây dựng văn hóa đô  
thị trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Hồ Chí Minh ” [20]. Nội dung chủ yếu 
đề  cập đến vấn đề  đô thị  hóa tác động mạnh đến kinh tế, văn hóa, xã hội, đời 
sống vật chất và tinh thần của nhân dân…ở  Thành phố  Hồ  Chí Minh và những 
hệ quả, mà đặc biệt là sự tác động đến nền văn hóa đô thị hiện nay.
Năm 2016, tác giả  Nguyễn Văn Kim trong “Vân Đồn, thương cảng quốc  
tế  của Việt Nam”. Đây là công trình xuất bản dựa trên kết quả  nghiên cứu của  
Đề tài khoa học trọng điểm, Đại học Quốc gia Hà Nội. Công trình không chỉ  làm 

rõ quá trình hình thành và phát triển của đô thị, thương cảng Vân Đồn mà còn đạt  
đến những nhận thức toàn diện, hệ thống về truyền thống khai thác biển, tư duy  
hướng biển của người Việt trước đây cũng như  hiện nay qua trường hợp Vân  
Đồn – Quảng Ninh.
 Những nghiên cứu của người nước ngoài


Ngoài những tác giả Việt Nam đi sâu  nghiên cứu về đô thị  và đô thị  hóa ở 
nước ta, đặc biệt thời kì này còn có các tác giả người nước ngoài nghiên cứu chủ 
yếu về các đô thị lớn của Việt Nam như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Có thể kể 
đến:
Tác   giả   André   Masson   (Pháp,   1929)   với   cuốn   sách   “Hanoi   pendant   la  
periode heroique 1873­1888” (Dịch: Hà Nội giai đoạn 1873­1888, Lưu Đình Tuân 
dịch, 2003), cuốn sách đã mô tả  chi tiết những thay đổi của Hà Nội trong một 
thời kì lịch sử  đặc biệt khi đô thị  này chuyển mình từ  thành thị  phương Đông 
sang một đô thị  theo kiểu châu Âu dưới sự kiểm soát của chính quyền thực dân  
Pháp.
Cuốn: “Hà Nội ­ chu kì của những đổi thay” (Mạc Thu Hương, Trương 
Quốc Toàn dịch, 2003), cuốn sách tập hợp các bài viết của 22 tác giả chủ yếu là 
người Pháp và có 3 tác giả  người Việt Nam, cuốn sách gồm 5 phần: Mở  đầu, 
Thăng Long; Vùng đất sinh ra từ những dòng nước; Hình ảnh thành phố qua bản 
đồ; Ký ức lắng đọng: từ những mô hình đô thị  tới các công trình; Hình thái kiến 
trúc và tương lai của thành phố.
Tác giả  người Mỹ  là Timothy M.Gorman (2008) trong “Nền kinh tế  hàng  
ngày: suy nghĩ lại về tính chất không chính thống ở Việt Nam” đã nghiên cứu về Hà 
Nội thời kì đô thị hóa đã xuất hiện những người nông dân từ nông thôn vào thành phố 
để kiếm sống. Qua đó tác giả cũng coi đó là hệ quả tất yếu của quá trình đô thị hóa.
Cũng trong năm 2008, tác giả người Mỹ nữa là Mike Douglass thuộc Trung 
tâm Nghiên cứu đô thị hóa, Khoa Quy hoạch đô thị và vùng Đại học Hawaii trong  
công trình “Đô thị  hóa vùng ven Đông Nam Á: bỏ  rơi không gian công cộng” đã 

đưa ra kết quả nghiên cứu về những chuyển biến trong văn hóa đô thị, đó là một  
cảnh quan hoàn toàn mới đang bao quanh các thành phố lớn ở Đông Nam Á, theo  
tác giả thì toàn cầu hóa Đông Nam Á đang  phát triển. Được xây dựng lên từ đất 
nông nghiệp và làng mạc là những công trình xây dựng mới, bao gồm các khu đô  
thị mới rộng lớn và những khu nhà ở biệt lập bên cạnh những trung tâm mua sắm  
là những siêu thị bán lẻ và siêu thị ngoại ô mới xây, tất cả đều lớn về số lượng 
và quy mô. Thành phố  Hồ  Chí Minh là một điển hình của sự  biến đổi này. Tác 
giả  cũng khẳng định đô thị  hóa tạo cho Hà Nội một diện mạo mới, mở  rộng ra  
các vùng ven đô theo cả chiều rộng và cao với những khu đô thị, khách sạn…Với  


những khu đô thị  mới như  Bắc An Khánh, Nhà Bè, New City, Ciputra, Phú Mỹ 
Hưng…
Lisa Drummond (2008) trong “Đô thị hóa ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh” 
đã nghiên cứu quá trình đô thị  hóa ngoại ô thành phố  Hồ  Chí Minh, trong đó có  
những biến đổi một cách sâu sắc trên tất cả  các lĩnh vực. Song song với những  
tác động tích cực của đô thị  hóa như  tăng trưởng kinh tế, đời sống văn hóa, vật  
chất và tinh thần của người dân được nâng cao thì còn tồn tại nhiều mặt trái như 
chênh lệch giàu nghèo, ô nhiễm môi trường ….
Các bài viết, hội thảo, luận văn, luận án
Trong những năm trở  lại đây từ  nhận thức đúng đắn để  có thể  phát huy 
những tác động tích cực và hạn chế những hệ lụy do đô thị  hóa gây ra, các nhà 
khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau đã nghiên cứu để  đưa ra những khái  
niệm mới, mô hình mới cho sự  phát triển đô thị  hóa bền vững. Ngoài các công  
trình kể trên còn có một số bài viết hay một số đề tài của các tác giả  được đăng 
trên các tạp chí hay các kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế và trong nước. Có thể 
kể đến  bài viết của  tác giả Đào Thế Tuấn với “ Đô thị hóa và đô thị hóa ven đô ở  
Hà Nội” trong “Phát triển bền vững thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình”.  
Tác giả  Lê Quang Hậu với bài “Vài nét về quá trình đô thị  hóa  ở  Sài Gòn thời kì  
1954­1975”, trong cuốn “Phát triển đô thị bền vững” (xuất bản năm 2002),  đã đề 

cập đến quá trình đô thị hóa ở thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1945 đến năm 1975…
Năm 2016, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học quốc  
gia Hà Nội phối hợp với trường Đại học Hoa Đông của Thượng Hải (Trung 
Quốc), tổ chức hội thảo quốc tế và cho xuất bản Kỷ yếu hội thảo về đô thị ở cả 
châu Á và châu Âu: “Đô thị  châu Á và châu Âu: Nghiên cứu so sánh” (Asian –  
European cities: A comparative study)”. Cuộc hội thảo đã quy tụ được nhiều bài 
nghiên cứu có chất lượng của nhiều nhà khoa học uy tín trong và ngoài nước. Có 
thể   tới  một   số   nghiên  cứu  nổi   bật   về   đô   thị   như   Prof.   Wang  Lei   (Shanghai 
University of Traditional Chinese Medicine) “Urban Dreams and Consequences of  
Urbanization:   Historical   Reflections   on   the   Emerging   Cities   in   the   Medieval  
Europe” (Những giấc mộng đô thị  và hệ  quả  của quá trình đô thị  hóa: Góc nhìn  
lịch sử về những đô thị trỗi dậy ở châu Âu trung đại); hay tác giả  Detlef Briesen  
(Gießen University, Germany/ USSH) “Cityscape in Europe and Southeast Asia.  
Ideas for a Systematic Comparison” (Không gian đô thị châu Âu và Đông Nam Á: 
Những ý tưởng so sánh hệ thống). Đỗ  Thị  Thanh Loan (USSH) trong “ In Search 


of   a   Metropolitan   Model:   Experiences   from   Tokyo   Metropolis   and   Lessons   for  
Hanoi City” (Nghiên cứu Mô hình vùng đô thị: Kinh nghiệm từ  đô thị  Tokyo và 
bài học cho thủ đô Hà Nội)…..Qua đó, cho thấy các tác giả đã có những cái nhìn  
và cách tiếp cận nghiên cứu mới về  vấn đề  đô thị, những bài học kinh nghiệm 
được rút ra và vận dụng trong các vấn đề về quy hoạch và quản lí đô thị  ở  việt  
Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa hiện nay.
Bên cạnh đó cũng phải kể  tới những luận văn, luận án có nội dung liên  
quan đến vấn đề  đô thị  hóa  ở  nước ta: Luận văn “ Quá trình đô thị  hóa  ở  Phú  
Minh (Phú Xuyên ­ Hà Tây)”  (1997)  của tác giả  Nguyễn Ngọc Hà cũng cho ta 
thấy rõ tốc độ  đô thị  hóa diễn ra nhanh chóng tại nơi đây. Luận văn “ Sự  hình  
thành đô thị  Hội An trong lịch sử” của tác giả  Tạ  Thị  Hồng Vân (2000), đã nêu  
lên quá trình hình thành và phát triển đô thị thương cảng Hội An cùng những biến 
động do sự hình thành thương cảng này. Luận văn “Quá trình đô thị hóa của Hà  

Nội thời Pháp thuộc (1885­1945)”  của tác giảNguyễn Hồng Chi (2010), đã nêu 
được quá trình đô thị  hóa  ở  Hà Nội trong gần 2 thế  kỉ và sự  chuyển biến quan  
trọng từ một đô thị truyền thống phương Đông sang đô thị hiện đại kiểu phương 
Tây.   Luận   văn  “Quá   trình   đô  thị   hóa  ở   Thành   phố   Thủ   Dầu  Một,   tỉnh  Bình  
Dương (1997­2012)”  (2014) của tác giả  Dương Ngọc Hải đã tái hiện một cách 
khách quan quá trình đô thị  hóa  ở  thành phố  Thủ  Dầu Một, những yếu tố  tác  
động, ưu và nhược điểm trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Thủ Dầu Một.
Bên cạnh những luận văn được bảo vệ thành công cũng có nhiều luận án  
tiến sĩ trên một số lĩnh vực nghiên cứu về đô thị hóa. Có thể kể đến như:
Luận án của tác giả  Nguyễn Th ừa H ỷ  với  đề  tài “ Thăng Long ­ Hà  
Nội thế  k ỉ  XVII­XVIII­XIX ” (1983), đây là bản luận án đi sâu nghiên cứu về 
kinh tế, xã hội của Thăng Long ­ Hà Nội trong 3 th ế  k ỉ  trên phươ ng diện 
thành thị  trung đại Việt Nam. Tác giả  còn so sánh, đố i chiếu cấu trúc và sự 
phát triển c ủa Thăng Long ­ Hà Nội với một số  thành thị  khác trên thế  giới,  
chủ yếu là các thành thị trung đạ i Tây Âu. 
Có thể nói từ đầu thế kỉ XXI là thời kì nở rộ của các nghiên cứu về đô thị, 
điều đặc biệt là những nghiên cứu này không chỉ  dừng lại  ở  nghiên cứu các đô 
thị  lớn như  Hà Nội, Thành phố  Hồ  Chí Minh mà hàng loạt các đô thị  khác cũng 
được nghiên cứu. Năm 2000, tác giả Nguyễn Quang Hồng với đề tài “ Thành phố 
Vinh, quá trình hình thành và phát triển, từ năm 1908 đến trước cách mạng tháng  


Tám 1945” [54]. Luận án đã chỉ ra sự phát triển của các trung tâm đô thị Vinh, Bến 
Thủy, Trường Thi và sự ra đời của thành phố Vinh ­ Bến Thủy, cùng với việc khái 
quát các đặc điểm phát triển của thành phố Vinh trong hai hình thái tổ chức xã hội 
từ năm 1804 đến trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Tác giả Phạm Thị Tuyết  
(2011), đã bảo vệ  thành công luận án “Đô thị  Hải Dương thời kì thuộc địa (1886  
­1945)” [115] với nội dung chủ yếu làm rõ Hải Dương từ một đô thị cổ phong kiến  
thành đô thị thuộc địa trên tất cả các phương diện cùng quá trình nâng cấp lên thành  
phố.

Năm 2012, luận án “Từ hành cung Tức Mặc ­Thiên Trường đến đô thị  Vị  
hoàng (thế kỉ XIII­XIX)” [44] của tác giả Trần Thị Thái Hà, đã trình bày rõ nét quá 
trình hình thành, phát triển và chức năng của trung tâm Thiên Trường thế kỉ XIII­
XIV của đô thị Vị Hoàng ­ Nam Định thế kỉ XV­XIX, phản ánh rõ nét những đặc 
trưng của đô thị  Vị  Hoàng. Điều cần nhấn mạnh là, tác giả  đã lý giải được vì  
sao, Tức Mặc ­ Thiên Trường ­ Sơn Nam Hạ ­ Nam Định luôn trở thành trung tâm 
của một xứ trong nhiều thế kỷ (từ thế kỷ XIII đến thế  kỷ  XIX). Đó là do vị  trí  
địa lý trọng yếu mà đóng vai trò quan trọng là hệ thống giao thông sông, biển. Từ 
đây thuyền bè có thể thuận tiện ra biển Đông, vào Nam, ra Thăng Long v.v. Đặc 
biệt là các cửa biển Liêu, Lác dưới thời Nguyễn đóng vai trò hết sức quan trọng 
trong vận tải và giao thông của quốc gia. Đô thị Vị Hoàng ra đời, hội tụ các yếu  
tố căn bản: từ làng Vị Hoàng; từ trị sở của lộ Sơn Nam Hạ (1741) và từ hệ thống  
giao thông đường sông và các cửa biển cho thuyền bè vào. Quá trình đô thị  hóa 
làng Vị  Hoàng để  trở  thành đô thị  Vị  Hoàng, mặc dù có những đổi thay nhưng  
điều đặc biệt là đã không làm cho làng Vị Hoàng bị tan biến mà vẫn tồn tại song 
song với phố  Vị  Hoàng. Năm 2014, luận án “Thành phố  Thanh Hóa, quá trình  
hình thành và phát triển từ  năm 1804 đến nay (2010)” [46] của tác giả  Nguyễn 
Thị  Thu Hà đã nghiên cứu một cách có hệ  thống về quá trình hình thành và phát 
triển của thành phố Thanh Hóa từ khi thành lập đến 2010 với một bước chuyển.  
Từ một lỵ sở sang một đô thị rồi một thành phố  ở  cửa ngõ Bắc Trung Bộ. Năm  
2015, luận án “Thành phố Hải Phòng từ 1888 đến 1945” [79] của tác giả Nguyễn 
Thị  Hoài Phương. Luận án tập trung nghiên cứu vào quá trình hình thành và sự ra 
đời của thành phố Hải Phòng cùng với sự phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, văn 
hóa, xã hội. Đồng thời cũng rút ra những nhận xét về hình thái phát triển cũng như 


×