Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Giáo dục học: Dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho học sinh tiểu học dân tộc Hmông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.54 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯

NGUYỄN THU PHƯƠNG

DẠY HỌC TỪ XƯNG HÔ TIẾNG VIỆT
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC DÂN TỘC HMÔNG

Chuyên ngành:
Mã số:

Lý luận và phương pháp dạy học
bộ môn văn và tiếng Việt
9140111

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC

Hà Nội - 2019


CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

AM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Quang Ninh

Phản biện 1: GS.TS Đỗ Việt Hùng

Phản biện 2: PGS.TS Lê Thị Phượng


Phản biện 3: PGS.TS Nguyễn Thị Hồng Vân

Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án, họp tại:
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
Vào hồi ...... giờ, ngày ….tháng …… năm 2019

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Thư viện Quốc Gia, Hà Nội
hoặc Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội


1
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước, giáo dục là lĩnh
vực hoạt động có hiệu quả nhất trong việc rút ngắn khoảng cách văn
hoá, kinh tế giữa các vùng miền và dân tộc. Trong đó, nâng cao chất
lượng dạy học tiếng Việt cho học sinh (HS) dân tộc thiểu số (DTTS)
cấp tiểu học là nhiệm vụ trọng tâm nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục ở vùng DTTS.
1.2. Trong văn hoá giao tiếp tiếng Việt, việc sử dụng từ xưng hô
góp phần quan trọng quyết định thành công của cuộc giao tiếp. Từ
xưng hô tiếng Việt là lớp từ khúc xạ đặc điểm văn hoá giao tiếp của
người Việt một cách tinh tế, truyền tải tình cảm, thái độ, mức độ
khinh - trọng, thân - sơ, quan hệ vai và thứ bậc giữa các nhân vật
tham gia giao tiếp. Với HS tiểu học người DTTS học tiếng Việt như
ngôn ngữ 2 (NN2), từ xưng hô có thể coi là một trong những thách
thức, rào cản trong trong việc sử dụng ngôn ngữ.
1.3. Trong Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn hiện
hành cũng như chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (Ban

hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGD&ĐT ngày 26/12/2018
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), nội dung dạy học của cả hai
chương trình đều rất quan tâm đến việc dạy từ xưng hô, cách xưng hô
để phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt, năng lực giao
tiếp cho HS tiểu học.
1.4. Thực trạng tổ chức dạy học tiếng Việt nói chung và từ xưng
hô tiếng Việt nói riêng cho HS tiểu học dân tộc Hmông còn hạn chế.
Thực tế cho thấy HS tiểu học dân tộc Hmông sử dụng tiếng Việt, đặc
biệt là từ xưng hô tiếng Việt còn mắc nhiều lỗi. Xuất phát từ những lí
do trên, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề nghiên cứu “Dạy học từ xưng hô
tiếng Việt cho học sinh tiểu học dân tộc Hmông”.


2
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là
việc dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho HS tiểu học dân tộc Hmông.
2.2. Phạm vi nghiên cứu: Trong luận án này, chúng tôi chỉ khảo sát
HS dân tộc Hmông ở một số trường phổ thông dân tộc bán trú tại tỉnh
Điện Biên. Chúng tôi nghiên cứu trường hợp để khảo sát sâu và thực
nghiệm (TN) dạy học ở ba trường tiểu học dân tộc bán trú ở huyện
Mường Nhé, tỉnh Điện Biên: trường tiểu học Trần Văn Thọ, Nậm Pố và
Nậm Kè số 2.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu: Luận án được thực hiện với mục đích đề
xuất và vận dụng các biện pháp dạy học nhằm nâng cao khả năng sử
dụng từ xưng hô tiếng Việt trong giao tiếp cho HS tiểu học dân tộc
Hmông, góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở
trường tiểu học với tư cách là NN2.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

(1) Hệ thống hóa lí luận về dạy học NN2 và thụ đắc NN2, từ
xưng hô trong tiếng Việt và tiếng Hmông; (2) Khảo sát thực trạng
dạy học từ xưng hô (3) Đề xuất một số yêu cầu trong dạy học từ xưng
hô tiếng Việt; sử dụng một số phương pháp (PP) dạy học phù hợp với
đối tượng HS và nội dung dạy học; xây dựng và sử dụng hệ thống bài
tập (BT) nhằm nâng cao việc việc dùng từ xưng hô tiếng Việt cho HS
tiểu học dân tộc Hmông; (4) Tiến hành thực nghiệm sư phạm.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các PP nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong quá trình triển
khai luận án là: PP điều tra, khảo sát thực tiễn; PP phỏng vấn sâu; PP
phân tích, tổng hợp tài liệu; PP thực nghiệm sư phạm; PP thống kê,
xử lí số liệu.


3
5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Hiện nay, HS tiểu học dân tộc Hmông sử dụng từ xưng hô
tiếng Việt còn nhiều bất cập do sự chuyển di tiêu cực (giao thoa
ngôn ngữ) từ tiếng mẹ đẻ. Vì vậy, nếu GV sử dụng những PP dạy
học tích cực, có được một hệ thống BT rèn luyện khoa học thì HS
tiểu học dân tộc Hmông học tiếng Việt sẽ sử dụng từ xưng hô tiếng
Việt trong giao tiếp hiệu quả hơn; từ đó nâng cao năng lực giao tiếp
tiếng Việt, giúp các em tham gia trong các hoạt động xã hội tự tin,
thuận lợi hơn.
6. DỰ KIẾN ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
6.1. Về mặt lý luận: Luận án tổng hợp, phân tích những nghiên
cứu về dạy học tiếng Việt dựa trên lí thuyết thụ đắc NN2, lí thuyết
phân tích lỗi; đặc điểm từ xưng hô, cách xưng hô trong tiếng Việt đối
chiếu với tiếng Hmông.
6.2. Về mặt thực tiễn: Luận án đã đề xuất những PP dạy học phù

hợp với đối tượng HS tiểu học dân tộc Hmông, xây dựng và sử dụng
hệ thống BT dạy học từ xưng hô, cách xưng hô tiếng Việt để nâng
cao năng lực giao tiếp cho HS tiểu học Hmông. Các biện pháp này có
thể là những gợi ý giúp GV vùng DTTS tham khảo trong dạy học tiếng
Việt với tư cách NN2 .
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận án gồm bốn chương.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. NGHIÊN CỨU VỀ TỪ XƯNG HÔ TIẾNG VIỆT
Từ xưng hô là một phân lớp quan trọng trong mỗi ngôn ngữ,
lớp từ này đã thu hút sự nghiên cứu của rất nhiều nhà ngôn ngữ học.
Từ xưng hô tiếng Việt cũng được một số nhà nghiên cứu nước


4
ngoài khá quan tâm. Ở Việt Nam, có thể nói, lịch sử nghiên cứu từ
xưng hô tiếng Việt đã trải qua hơn 350 năm kể từ những trang viết
của Alexandre de Rhodes. Việc nghiên cứu từ xưng hô tiếng Việt có
thể được chia thành hai giai đoạn gắn với các giai đoạn của lí thuyết
ngôn ngữ: từ chủ nghĩa cấu trúc đến lí thuyết giao tiếp. Giai đoạn
đầu tiên, các nhà Việt ngữ học như Trần Trọng Kim, Nguyễn Minh
Thuyết, Nguyễn Văn Chiến, Lê Biên...gọi các từ dùng để xưng hô là
“đại từ nhân xưng”. Giai đoạn nghiên cứu thứ hai gắn liền với thuật
ngữ “từ xưng hô”. Khái niệm từ xưng hô có ngoại diên rộng hơn đại
từ nhân xưng, được nghiên cứu từ lí thuyết giao tiếp, từ góc nhìn của
ngôn ngữ học xã hội... Trong hướng nghiên cứu này phải kể các tác
giả: Nguyễn Văn Chiến, Nguyễn Văn Khang, Trương Thị Diễm…
1.2. NGHIÊN CỨU VỀ PP DẠY HỌC NGÔN NGỮ THỨ HAI
PP dạy học ngôn ngữ chịu ảnh hưởng của lí thuyết ngôn ngữ và lí
thuyết học tập. Hai lí thuyết này có thể độc lập hoặc kết hợp với nhau để

cho ra đời những PP dạy học khác nhau. Trên thế giới, bàn về PP dạy
học ngôn ngữ, đã có nhiều cuốn sách chuyên khảo nghiên cứu sâu. Có
thể kể đến các cuốn sách: “Approaches and Methods in Language
Teaching” của Jack C. Richards, Theodore S. Rodgers, “Fundamental
Concepts of Language teaching” của H. H. Stern, “Teaching Language
in Context” của Alice Omaggio Hadley. Các tài liệu nghiên cứu đã tổng
kết các mô hình dạy học NN2 từ nhiều lí thuyết, phân tích bối cảnh xã
hội và vai trò của các thành tố trong việc dạt học NN2. Bên cạnh đó,
cũng phải kể đến các bài bài báo viết về dạy học NN2 của các tác giả:
Jill Kerper Mora, Francis Mangubhai, James J. Asher…
1.3. NGHIÊN CỨU VỀ DẠY HỌC TIẾNG VIỆT NHƯ NGÔN
NGỮ THỨ HAI
Trong nghiên cứu về dạy học tiếng Việt như NN2, trước hết phải
kể đến Nguyễn Thiện Giáp với cuốn “Những lĩnh vực ứng dụng của


5
Việt ngữ học”, Nguyễn Thị Phương Thảo với “Dạy học Ngữ văn ở
trường phổ thông” (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội). Hai cuốn sách
đã đưa ra quan niệm về tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ quốc gia, NN2, ngoại
ngữ; sự khác biệt giữa học ngôn ngữ thứ nhất và NN2.
1.4. NGHIÊN CỨU VỀ VIỆC DẠY HỌC TIẾNG VIỆT CHO
HỌC SINH TIỂU HỌC NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
Về PP dạy học tiếng Việt cho HS người DTTS, các công trình
nghiên cứu về vấn đề này còn khá ít ỏi. Có thể kể đến bài báo của
các tác giả Nguyễn Hữu Hoành, Ngô Thị Thanh Quý, Nguyễn Thị
Thu Thủy... Về dạy học tiếng Việt cho HS dân tộc Hmông, đã có
một số bài nghiên cứu của Nguyễn Diệu Thương và Phạm Hùng
Linh; Nguyễn Kiến Thọ, Đào Thiện Xuân …Ngoài ra, phải kể đến
một vài chương trình, dự án nghiên cứu và thí điểm triển khai dạy

học tiếng Việt như một NN2 trong môi trường song ngữ, đa ngữ của
các vùng DTTS.
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC DẠY HỌC TỪ
XƯNG HÔ TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH TIỂU HỌC DÂN
TỘC HMÔNG
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC DẠY HỌC TỪ XƯNG HÔ
TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH TIỂU HỌC DÂN TỘC HMÔNG
2.1.1. Tiếng Việt với học sinh tiểu học dân tộc Hmông
2.1.1.1. Vai trò của tiếng Việt với học sinh tiểu học dân tộc Hmông
Trong hiến pháp, tiếng Việt được quy định là ngôn ngữ quốc
gia. Giáo dục tiếng Việt và giáo dục bằng tiếng Việt được đặc biệt
quan tâm, trong đó có giáo dục tiếng Việt cho HS người DTTS. Sử
dụng tiếng Việt thành thạo có thể coi là một chìa khoá quan trọng
giúp HS người DTTS tiến gần hơn với những cơ hội phát triển cuộc
sống một cách bền vững.


6
2.1.1.2. Tiếng Việt - ngôn ngữ thứ hai của học sinh tiểu học dân
tộc Hmông
Từ những quan niệm của các chuyên gia dạy học ngôn ngữ,
có thể thấy, với HS tiểu học dân tộc Hmông, tiếng Việt có thể là
tiếng mẹ đẻ nếu các em có người thân (bố hoặc mẹ) là người Kinh.
Tiếng Việt cũng có thể là ngôn ngữ bản địa nếu HS người Hmông
được sinh ra trong cộng đồng nói tiếng Việt. Tiếng Việt cũng có
thể là NN2 với HS tiểu học Hmông (thuần Hmông) sinh sống
trong môi trường nói tiếng Hmông. HS tiểu học Hmông tại những
điểm trường chúng tôi khảo sát đa số là HS thuần Hmông, sống trong
môi trường ít có điều kiện giao tiếp bằng tiếp Việt. Vì thế, tiếng Việt
với các em là NN2.

2.1.2. Dạy học từ xưng hô tiếng Việt dựa trên lí thuyết thụ đắc
ngôn ngữ thứ hai
2.1.2.1. Quan niệm về thụ đắc ngôn ngữ thứ hai
Một số nhà nghiên cứu cho rằng cần phân biệt thụ đắc tự nhiên
(naturalistic acquisition) và thụ đắc qua chỉ dẫn (instructed acquisition).
Trong luận án này, chúng tôi quan niệm thụ đắc NN2 để chỉ quá trình
học tập, tiếp thu tiếng Việt của HS tiểu học dân tộc Hmông cả ở trong và
ngoài nhà trường, một cách vô thức hay có ý thức.
2.1.2.2. Các giai đoạn thụ đắc ngôn ngữ thứ hai
Mỗi giai đoạn phát triển của con người gắn liền với những đặc
trưng nổi bật về cả mặt thể chất và tâm lí, ý thức. Từng giai đoạn khi
được tận dụng hợp lí vào những mục đích cụ thể, ví dụ như trong việc
phát triển khả năng thụ đắc NN2, sẽ đem lại những hiệu quả vượt bậc.
Lenneberg (1967) cho rằng trẻ em chỉ có thể thụ đắc ngôn ngữ tốt nhất
trước tuổi dạy thì. Krashen (1981) đưa ra năm giai đoạn chính trong


7
quá trình thụ đắc NN2. Do đó, GV cần tận dụng thời kì vàng trong lứa
tuổi tiểu học để nâng cao khả năng thụ đắc ngôn ngữ cho HS.
2.1.2.3. Một số yếu tố tác động đến quá trình thụ đắc ngôn ngữ
thứ hai
Thụ đắc ngôn ngữ nói chung và thụ đắc NN2 nói riêng là quá
trình bị chi phối, tác động bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan
như môi trường thụ đắc tự nhiên, động cơ, thái độ học tập của HS...
Những yếu tố này cần được GV quan tâm trong việc tổ chức dạy học
từ xưng hô tiếng Việt cho HS tiểu học dân tộc Hmông.
2.1.2.4. Vai trò của phân tích lỗi đối với việc dạy học từ xưng hô
tiếng Việt
Các nhà nghiên cứu thụ đắc NN2 cho rằng trong dạy học NN2,

người học thường mắc hai loại lỗi cơ bản là lỗi giao thoa ngôn ngữ
(interlingual errors) và lỗi chuyển tiếp (intralingual errors). Giao thoa
là lỗi do kết quả của chuyển di tiêu cực (negative transfer), gây ra bởi
tác động của tiếng mẹ đẻ lên việc học ngôn ngữ đích. Lỗi chuyển tiếp
(intralingual errors) là kết quả của việc “học ngôn ngữ đích chưa
thuần thục hoặc học bị sai, hoàn toàn không phải do giao thoa ngôn
ngữ”. Trong dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho HS tiểu học Hmông,
cần chú ý cả đến lỗi giao thoa và chuyển tiếp.
2.1.3. Từ xưng hô trong tiếng Việt và tiếng Hmông
2.1.3.1. Khái niệm về xưng hô và từ xưng hô
Dựa trên những nhận định của các nhà nghiên cứu về xưng hô,
luận án quan niệm: từ xưng hô là những từ thuộc vốn từ của một
ngôn ngữ được chủ thể giao tiếp dùng để tự quy chiếu (tự xưng),
hoặc dùng để quy chiếu vào khách thể giao tiếp (hô, gọi). Trong thực
tế nói năng, chủ thể giao tiếp cũng có thể sử dụng những kết hợp từ
hoặc cách diễn đạt tương đương để tự xưng và gọi.


8
2.1.3.2. So sánh từ xưng hô tiếng Việt và từ xưng hô tiếng Hmông
ở bình diện hệ thống - cấu trúc
a) Từ xưng hô tiếng Việt
Từ xưng hô tiếng Việt theo các nhà nghiên cứu bao gồm đại từ
nhân xưng, các từ chỉ quan hệ thân tộc và tên riêng, từ chỉ chức danh,
nghề nghiệp trong tiếng Việt.
b) Từ xưng hô tiếng Hmông
- Đại từ nhân xưng tiếng Hmông được tác giả Lý Sheo Chúng1
trình bày như sau:
Số đơn


Số đôi

Số nhiều

Ngôi thứ nhất

Cur

Ưz

Pêz

Ngôi thứ hai

Caox

Mêx

Mêx

Ngôi thứ ba

Nưl

puôz

Puôz, lươr

- Danh từ chỉ họ hàng thân tộc trong tiếng Hmông: Theo Lý Sheo
Chúng, danh từ chỉ quan hệ thân tộc là các từ chỉ quan hệ trong gia

đình, dòng họ, ví dụ: “nav” (mẹ), “txir” (bố), “tuz” (con trai), “nxeik”
(con gái),
- Tiếng Hmông gốc không có các danh từ chỉ nghề nghiệp, chức
danh. Những năm gần đây, từ thực tiễn của xã hội và nhu cầu giao
tiếp, người ta đã vay mượn các từ chỉ nghề nghiệp, chức danh bằng
cách phiên âm từ tiếng Việt.
c) Những điểm tương đồng và khác biệt giữa từ xưng hô
tiếng Việt và tiếng Hmông
- Điểm tương đồng: Hệ thống từ xưng hô trong tiếng Việt và
tiếng Hmông cùng bao gồm hai nhóm cơ bản: Đại từ nhân xưng;
Danh từ chỉ quan hệ thân tộc.
Lý Sheo Chúng - chủ biên (2007), Tài liệu dạy học tiếng H'Mông, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
1


9
- Điểm khác biệt: Số lượng đại từ nhân xưng trong tiếng Việt
phong phú hơn so với số lượng đại từ nhân xưng trong tiếng Hmông.
Bên cạnh đó, các đại từ nhân xưng tiếng Việt rất giàu sắc thái biểu
cảm. Ngược lại, xưng hô trong giao tiếp bằng tiếng Hmông trung tính.
Người tham gia giao tiếp khi lựa chọn đại từ nhân xưng chỉ cần chú ý
đến hai yếu tố là ngôi và số.
2.1.3.3. So sánh từ xưng hô tiếng Việt và tiếng Hmông trong hoạt
động giao tiếp
a) Từ xưng hô tiếng Việt trong hoạt động giao tiếp
- Văn hoá xưng hô trong giao tiếp tiếng Việt: Xưng hô luôn
được đặt trong hoàn cảnh giao tiếp gắn liền với các không gian văn
hóa khác nhau. Xưng hô trong giao tiếp tiếng Việt có một số quy tắc
văn hoá như xưng khiêm, hô tôn, trọng tuổi tác, thứ bậc, xưng hô gia

đình hoá…
- Các cách thức xưng hô thường gặp: Trong thực tiễn giao tiếp,
các từ xưng hô được vận dụng rất linh hoạt như: xưng hô bằng họ và
tên; xưng hô bằng đại từ nhân xưng, từ thân tộc; xưng hô bằng chức
danh; gọi bằng từ thân tộc + tên; khuyết vắng từ xưng hô...
b) Từ xưng hô tiếng Hmông trong hoạt động giao tiếp
- Văn hóa xưng hô trong giao tiếp tiếng Hmông: Người Hmông
có thể không dùng từ xưng hô, hoặc dùng từ xưng hô không phân
biệt thứ bậc, quan hệ, thái độ tình cảm.
- Các cách thức xưng hô của người Hmông: Hiện nay, trong văn
hoá giao tiếp của người Hmông, tồn tại ba cách sử dụng từ xưng hô
khác nhau: (1) Sử dụng đại từ nhân xưng trong mọi trường hợp; (2)
Sử dụng kết hợp danh từ chỉ họ hàng thân tộc/danh từ chỉ nghề
nghiệp, chức danh kết hợp với đại từ nhân xưng; (3) Dùng từ chỉ
quan hệ thân tộc, từ chỉ chức danh, nghề nghiệp thay cho từ xưng hô


10
nhằm biểu thị quan hệ, thái độ, tình cảm giữa người nói và người đối
thoại. Đây là cách xưng hô tương đối mới, xuất hiện như một nét
chuyển giao văn hoá nhờ sự ảnh hưởng của hội nhập và phát triển
kinh tế.
c) Điểm tương đồng và khác biệt trong cách sử dụng từ xưng
hô tiếng Việt và tiếng Hmông
- Điểm tương đồng: Cách dùng từ xưng hô trong tiếng Việt và
tiếng Hmông đều sử dụng danh từ thân tộc trong xưng hô cũng như
các danh từ chỉ chức danh nghề nghiệp dù chưa phổ biến.
- Điểm khác biệt: Các quy tắc sử dụng từ xưng hô trong giao
tiếp bằng tiếng Việt phức tạp hơn trong tiếng Hmông, xuất phát từ
đặc điểm văn hoá khác nhau. Việc sử dụng từ xưng hô tiếng Việt có

thể coi là yêu cầu bắt buộc khi tham gia giao tiếp, trong khi người
Hmông khi giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ của mình có xu hướng giản
tiện hoá, không dùng từ xưng hô.
2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY HỌC TỪ XƯNG HÔ
TIẾNG VIỆT
2.2.1. Đặc điểm tâm lí, nhận thức của học sinh tiểu học Hmông
Người Hmông thường tin vào trực cảm, họ cũng rất thực
chứng, thực dụng, nghĩa là chỉ tin khi mắt thấy tai nghe, chỉ có
nhu cầu khi thấy thiết thực. Ngoài ra, đa số người dân tộc Hmông
có suy nghĩ hồn nhiên, đơn giản. Tâm lí, nhận thức của HS tiểu
học Hmông mang đặc điểm chung của tâm lí, khả năng nhận thức
ở lứa tuổi thiếu nhi từ 6 đến 11 tuổi. Mặt khác, HS tiểu học
Hmông có khả năng bắt chước cao, dễ tiếp nhận và cũng dễ tổn
thương, xuất phát từ gốc văn hóa không quá bảo thủ, được tiếp
biến từ nhiều nguồn.


11
2.2.2. Dạy học từ xưng hô trong chương trình giáo dục phổ thông
môn Ngữ văn
2.2.2.1. Nội dung dạy học từ xưng hô trong chương trình, sách
giáo khoa Tiếng Việt hiện hành
Việc dạy HS về từ xưng hô và cách xưng hô để tham gia vào
hoạt động giao tiếp đã xuyên suốt các lớp, đặc biệt ở trong dạy
học kĩ năng nói cho HS. Trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5
tập 1, có hai bài HS được học trực tiếp về từ xưng hô là bài “Đại
từ” (tuần 9), “Đại từ xưng hô” (tuần 11). Ngoài ra, từ xưng hô và
cách xưng hô được tích hợp trong các bài Tập đọc, Tập làm văn,
Kể chuyện, Luyện từ và câu từ lớp 1 đến lớp 5.
2.2.2.2. Yêu cầu cần đạt và nội dung dạy học từ xưng hô trong

Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (2018)
Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (2018) xác định
một trong những mục tiêu môn học ở cấp tiểu học là phát triển năng
lực ngôn ngữ ở tất cả các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe. Từ xưng hô
được quan tâm dạy học thể hiện rõ nhất ở mạch nói - nghe. Chương
trình cũng định hướng chung về PP giáo dục là dạy học tích hợp và
phân hoá để phát huy tính chủ động, sáng tạo trong học tập của HS.
2.2.3. Thực trạng dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho HS tiểu học
Hmông
2.2.3.1. Mục tiêu và đối tượng khảo sát
Chúng tôi đã khảo sát GV tại 03 trường tiểu học bán trú tại tỉnh
Điện Biên là trường Trần Văn Thọ, Nậm Pố và Nậm Kè số 2 thông
qua điều tra, dự giờ và phỏng vấn sâu.
2.2.3.2. Cách thức khảo sát
Chúng tôi khảo sát GV bằng ba hình thức: phát phiếu điều tra
trên diện rộng, dự giờ dạy học của GV và phỏng vấn sâu.


12
2.2.3.3. Kết quả khảo sát
a) Từ phiếu điều tra: Chúng tôi thu được 127 phiếu khảo sát
GV với kết quả:
- Nhận thức của GV về NN2 và PP dạy học NN2 còn chưa rõ
ràng. Mặc dù hầu hết GV (88,2%) cho rằng tiếng Việt là NN2 với HS
tiểu học Hmông trong lớp mình đang dạy, nhưng chỉ rất ít GV (7,8%)
nêu đúng tên các PP dạy học NN2.
- Phần lớn GV (82,7%) cho rằng dạy học từ xưng hô, cách xưng
hô cho HS tiểu học dân tộc Hmông là rất cần thiết. Tuy nhiên cũng
khá nhiều GV (45,3%) cho rằng cho rằng việc dạy từ xưng hô, cách
xưng hô cho HS tiểu học dân tộc Hmông là rất khó.

- Chỉ có rất ít (5,7%) GV thường xuyên xây dựng thêm BT trong
dạy học từ xưng hô và cách xưng hô để phù hợp với đối tượng HS.
Chỉ có 14,8% GV thường xuyên tích hợp dạy học từ xưng hô trong
các bài học Tiếng Việt. Chỉ có 10,4% GV chủ động so sánh, đối
chiếu từ xưng hô tiếng Việt với tiếng Hmông.
b) Từ hoạt động dự giờ: Chúng tôi đã dự giờ 12 tiết Tiếng Việt
(06 tiết lớp 1, 06 tiết lớp 5). Qua dự giờ, chúng tôi nhận thấy, hầu hết
GV vẫn chỉ sử dụng các PP dạy học truyền thống như PP thuyết trình,
vấn đáp,… GV cũng còn ít tích hợp dạy học từ xưng hô trong bài học
Tiếng Việt cho HS. Việc đối chiếu từ xưng hô tiếng Việt với tiếng
Hmông hầu như không được thực hiện hoặc được làm chưa hiệu quả.
Việc chữa lỗi dùng từ xưng hô cho HS cũng còn nhiều bất cập.
c) Từ phỏng vấn trực tiếp: Các GV đều khẳng định tính cần
thiết của việc dạy học từ xưng hô cho HS tiểu học Hmông vì các em
thường xuyên mắc lỗi dùng từ xưng hô. Tuy nhiên, việc dạy học còn
gặp nhiều khó khăn vì thiếu tài liệu dạy học, hạn chế trong cập nhật
các PP dạy học mới…


13
2.2.4. Thực trạng sử dụng từ xưng hô tiếng Việt của học sinh tiểu
học Hmông
2.2.4.1. Mục tiêu, đối tượng khảo sát
Để tìm hiểu về môi trường sử dụng tiếng Việt, thực trạng sử
dụng từ xưng hô tiếng Việt của HS tiểu học Hmông, chúng tôi đã
khảo sát HS của 3 trường tiểu học trong thời gian từ tháng 09 năm
2016 đến tháng 04 năm 2017.
2.2.4.2. Cách thức khảo sát
Chúng tôi khảo sát HS bằng cách phát hai loại phiếu điều tra,
phiếu bài tập cho HS lớp 1 và lớp 5.

2.2.4.3. Kết quả khảo sát
- Về môi trường giao tiếp tiếng Việt, hầu hết HS (98%) được
khảo sát đều chỉ giao tiếp bằng tiếng Hmông trong gia đình. Rất
nhiều HS (84,5%) thỉnh thoảng mới tiếp xúc với các sản phẩm thông
tin, văn hoá, nghệ thuật bằng tiếng Việt. Về hứng thú học môn Tiếng
Việt, hầu hết các em đều cảm thấy rất thích thú. Đa số HS cho rằng
xưng hô bằng tiếng Việt là khó không.
- Khả năng sử dụng từ xưng hô tiếng Việt của HS lớp 1 dân tộc
Hmông: Nhiều HS sử dụng từ xưng hô theo vai còn chưa tốt, chưa
nhận viết được quan hệ của các nhân vật tham gia giao tiếp qua cách
dùng từ xưng hô, chưa có khả năng sử dụng từ xưng hô trong các tình
huống cho trước.
- Khả năng sử dụng từ xưng hô tiếng Việt của HS lớp 5 dân tộc
Hmông: Khả năng sử dụng từ xưng hô của HS lớp 5 dân tộc Hmông
đã ở mức độ khá. Nhiều HS đã có khả năng sử dụng từ xưng hô phù
hợp với tình huống cho trước. Tuy nhiên, khả năng kể chuyện thay
ngôi (sử dụng từ xưng hô theo vai) và phát hiện, chữa lỗi dùng từ
xưng hô của HS vẫn còn hạn chế.


14
CHƯƠNG 3. TỔ CHỨC DẠY HỌC TỪ XƯNG HÔ TIẾNG
VIỆT CHO HỌC SINH TIỂU HỌC DÂN TỘC HMÔNG
3.1. MỘT SỐ YÊU CẦU TRONG DẠY HỌC TỪ XƯNG HÔ
TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH TIỂU HỌC DÂN TỘC HMÔNG
Trong dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho HS tiểu học dân tộc
Hmông, cần lưu ý đến một số yêu cầu sau: dạy học theo quan điểm
tích hợp, chú ý đến yếu tố giao thoa ngôn ngữ, tận dụng môi trường
thụ đắc tiếng Việt tự nhiên, dạy học theo quan điểm giao tiếp, tạo
hứng thú cho học sinh

3.2. SỬ DỤNG MỘT SỐ PP VÀO DẠY HỌC TỪ XƯNG HÔ
TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH TIỂU HỌC DÂN TỘC HMÔNG
Luận án sử dụng ba PP vào dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho
HS tiểu học người Hmông là trực quan hành động, đóng vai, phân
tích ngôn ngữ. Trực quan hành động là PP tiêu biểu trong dạy học
NN2, phù hợp với HS Hmông đầu cấp tiểu học. Đóng vai là PP
dạy học có ưu thế phát triển năng lực giao tiếp cho HS. Phân tích
ngôn ngữ giúp HS hiểu sâu về ngôn ngữ, văn hoá xưng hô trong
tiếng Việt qua việc đối chiếu những điểm tương đồng và khác biệt
giữa hệ thống từ xưng hô và cách xưng hô tiếng Việt và tiếng
Hmông.
3.2.1. PP trực quan hành động (Total physical response)
3.2.1.1. Quan niệm về PP trực quan hành động
Theo quan niệm của James Asher, “cha đẻ” của PP dạy học
này, trực quan hành động là tổng hợp tất cả các phản ứng trả lời
bằng hành động của HS. Trong luận án, hình thức trực quan được
chú trọng là trực quan hành động với cơ thể. Qua đó, HS nhận biết


15
được đối tượng chỉ xuất của từ xưng hô, cũng như nắm được các
nghi thức khi tham gia giao tiếp như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi... GV
có thể thực hiện PP theo các bước: GV chuẩn bị; GV làm mẫu,
minh họa; HS thực hiện; GV sửa lỗi, củng cố cho HS.
3.2.1.2. Vận dụng PP trực quan hành động vào dạy học từ xưng hô
tiếng Việt
PP trực quan hành động có thể được vận dụng trong các giai
đoạn của quá trình dạy học: khởi động, hình thành kiến thức mới,
luyện tập và vận dụng. Ví dụ 1: “Bài 1” (Chữ “e”, SGK Tiếng
Việt 1 tập 1) là bài học đầu tiên của HS tiểu học. Do vậy, GV có

thể vận dụng PP trực quan hành động để giúp HS hình thành thói
quen chào thầy cô giáo, bạn bè khi đến lớp, làm quen với các từ
xưng hô “thầy/cô/em/mình/bạn”. Ví dụ 2: Khi dạy học bài “Vẽ
ngựa”, (Tiếng Việt 1 tập 2), GV sử dụng PP trực quan hành động
vào dạy học các cặp từ xưng hô “chị” - “em”, “bà” - “cháu” trong
hoạt động hình thành kiến thức mới. Ví dụ 3: Trong dạy học bài
“Mít làm thơ” (SGK Tiếng Việt 2 tập 1), GV sử dụng PP trực
quan hành động để tích hợp dạy học mở rộng các cặp từ xưng hô
ngang vai “tớ/mình/tôi” - “cậu/bạn/ấy” trong hoạt động luyện tập.
3.2.1.3. Một số lưu ý khi sử dụng PP trực quan hành động
PP chủ yếu được vận dụng cho HS đầu cấp tiểu học. GV cần chú
ý đến việc quản lí lớp học khi vận dụng PP này.
3.2.2. PP đóng vai (Role play)
3.2.2.1. Quan niệm về PP đóng vai
Trong dạy học Tiếng Việt, đóng vai hay sắm vai là PP dạy học
mà GV tổ chức cho HS được “nhập” vào một vai diễn để phát triển
ngôn ngữ. PP đóng vai được thực hiện theo các bước: GV giới thiệu
nhiệm vụ; GV hướng dẫn; HS thực hiện; GV và HS đánh giá; GV và
HS rút ra bài học về dùng từ xưng hô trong giao tiếp tiếng Việt.


16
3.2.2.2. Vận dụng PP đóng vai (Role play)
a) Đóng vai theo ngữ liệu SGK
Đóng vai theo ngữ liệu SGK có tác dụng giúp HS tiểu học dân
tộc Hmông vừa hiểu kĩ về bài học vừa nắm được kĩ năng sử dụng
ngôn ngữ trong những tình huống giao tiếp cụ thể. Ví dụ: khi dạy học
bài tập đọc “Ai có lỗi?” (Tiếng Việt 3 tập 1), vận dụng PP đóng vai
giúp HS biết dùng từ xưng hô thể hiện sự tôn trọng, lịch sự với bạn
của mình, ngay cả khi ở tình huống tranh cãi, tức giận. Đóng vai

trong dạy học bài “Cái gì quý nhất?” (Tiếng Việt 5 tập 1) giúp HS
biết tranh luận một cách có văn hóa.
b) Đóng vai xử lý tình huống
Đóng vai xử lí tình huống có thể chia làm nhiều mức độ khác
nhau: hội thoại hoá ngữ liệu có sẵn thành kịch bản, viết sáng tạo đoạn
kết cho kịch bản, viết kịch bản cho tình huống mở. Ví dụ trong bài
tập đọc “Bác đưa thư” (Tiếng Việt 1, tập 2), bài “Trận bóng dưới
lòng đường” (Tiếng Việt 3, tập 1), GV có thể cho HS đóng vai xử lý
tình huống kể chuyện nối tiếp.
3.2.2.3. Một số lưu ý khi sử dụng PP đóng vai
Kịch bản đóng vai phải đảm bảo tính đúng lúc, đúng chỗ trong
tiến trình dạy học. Ngoài ra, kịch bản phải có tính tích cực, mang lại
hiệu quả giáo dục cao.
3.2.3. PP phân tích ngôn ngữ (Language analysis)
3.2.3.1. Quan niệm về PP phân tích ngôn ngữ
PP phân tích ngôn ngữ là việc GV đưa ra các tài liệu ngôn ngữ
và tổ chức cho HS tìm ra, sắp xếp các hiện tượng ngôn ngữ vào một
phạm trù nhất định và chỉ rõ những đặc trưng của chúng. Trong dạy
học từ xưng hô tiếng Việt cho HS tiểu học Hmông, cần chú trọng
phân tích tương phản hệ thống từ xưng hô, cách xưng hô tiếng Việt


17
với tiếng Hmông, nhằm làm bật lên những nét đặc trưng của hệ thống
từ xưng hô, cách xưng hô trong tiếng Việt. PP dạy học này được tiến
hành theo các bước: GV cung cấp ngữ liệu cần phân tích; GV hướng
dẫn HS quan sát và phân tích ngữ liệu; Hình thành khái niệm lí
thuyết về từ xưng hô cho HS; Củng cố và vận dụng lí thuyết về từ
xưng hô vào việc thực hành luyện tập.
3.2.3.2. Vận dụng PP phân tích ngôn ngữ

Ví dụ: Ở bài “Từ đồng nghĩa” (Tiếng Việt 5), GV có thể tích
hợp dạy học các từ xưng hô cùng chỉ một đối tượng. Trong bài “Đại
từ xưng hô” (Tiếng Việt 5), PP phân tích ngôn ngữ giúp HS thấy
được sự khác biệt giữa đại từ xưng hô tiếng Việt và tiếng Hmông.
3.2.3.3. Một số lưu ý khi sử dụng PP phân tích ngôn ngữ
Những yếu tố ngôn ngữ (từ xưng hô tiếng Việt) được lựa chọn
khi áp dụng PP phân tích ngôn ngữ cần chứa đựng các đặc điểm
tương phản rõ nét với từ xưng hô tiếng Hmông.
3.3. Xây dựng hệ thống BT dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho học
sinh tiểu học dân tộc Hmông
3.3.1. Cấu trúc của hệ thống BT dạy học từ xưng hô tiếng Việt
Hệ thống BT dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho HS tiểu học dân
tộc Hmông được xây dựng nhằm giải quyết những vấn đề về giao
thoa ngôn ngữ giữa hai hệ thống từ xưng hô. Đây là những kiểu bài ít
hoặc chưa hoặc xuất hiện trong SGK, do đó, sẽ làm phong phú hơn
cơ hội luyện tập về từ xưng hô, cách xưng hô cho các em. Luận án
hướng dẫn GV cách xây dựng hệ thống bài tập cho HS tiểu học
Hmông và đưa ra 50 ví dụ bài tập cụ thể. Hệ thống BT dạy học từ
xưng hô tiếng Việt cho HS tiểu học Hmông được chia làm bốn nhóm
và nhiều loại. Sơ đồ hệ thống BT như sau:


18
Hệ thống bài tập dạy học từ xưng hô
tiếng Việt cho học sinh tiểu học HMông

Nhóm 1
Nhận diện
từ xưng


1a

1b 1c

Nhóm 2
Hệ thống hoá
từ xưng hô
2a 2b 2c

2c

Nhóm 3
Tích cực hoá
từ xưng hô

Nhóm 4
Chữa lỗi
dùng từ
xưng hô

3a 3b 3c 3d

4a 4b 4c

Trong nhóm 1, có các loại BT: 1a: Nhận diện nghĩa, vai, ngôi, số
của từ xưng hô; 1b: Nhận diện tình cảm, thái độ qua từ xưng hô; 1c:
Nhận diện sự phù hợp của từ xưng hô với không gian, hoàn cảnh giao
tiếp. Nhóm 2 có các loại BT: 2a: Hệ thống hoá từ xưng hô theo vai và
giới; 2b: Hệ thống hoá từ xưng hô theo ngôi; 2c: Hệ thống hoá từ
xưng hô theo số; 2d: Hệ thống hoá từ xưng hô qua so sánh với tiếng

Hmông. Nhóm 3 có các loại: 3a: Dùng từ xưng hô theo mẫu; 3b:
Dùng từ xưng hô theo tình huống; 3c: Thay đổi từ xưng hô theo ngôi,
vai; 3d: Dùng từ xưng hô tiếng Việt qua so sánh với tiếng Hmông.
Nhóm 4 có loại BT: 4a: Chữa lỗi khuyết thiếu từ xưng hô; 4b: Chữa
lỗi dùng từ xưng hô không phù hợp với quan hệ, thái độ giao tiếp; 4c:
Chữa lỗi dùng các kết hợp từ xưng hô.
3.3.2. Mô tả hệ thống BT
3.3.2.1. BT nhận diện từ xưng hô
Nhóm BT này có mục đích hình thành hiểu biết về từ xưng
hô cho HS, giúp các em nhận diện nghĩa của từ xưng hô trong lời
nói, nhận diện phạm trù vai, ngôi và số; thái độ, tình cảm thể
hiện qua cách dùng từ xưng hô tiếng Việt.


19
3.3.2.2. BT hệ thống hoá từ xưng hô
BT hệ thống hoá từ xưng hô có mục đích giúp HS từng bước
có thể sắp xếp, quy chiếu vốn hiểu biết về từ xưng hô tiếng Việt vào
các phạm trù cụ thể.
3.3.2.3. BT tích cực hoá từ xưng hô
Nhóm bài này giúp HS làm quen với việc sử dụng từ xưng hô
trong hoàn cảnh cụ thể.
3.3.2.4. BT chữa lỗi dùng từ xưng hô
Nhóm bài này hướng dẫn HS sửa chữa một vài lỗi các em
thường mắc phải khi dùng từ xưng hô tiếng Việt, xuất phát từ những
tương phản giữa hệ thống từ xưng hô, cách xưng hô trong tiếng Việt
với tiếng Hmông.
3.3.3. Vận dụng hệ thống BT vào thực tiễn dạy học từ xưng hô
tiếng Việt cho HS tiểu học Hmông
Hệ thống BT chủ yếu được sử dụng trong buổi học thứ hai. Các

BT có thể được sử dụng linh hoạt trong các giờ Tập đọc, Kể chuyện,
Luyện từ và câu, Tập làm văn.
CHƯƠNG 4. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
4.1. MỤC ĐÍCH CỦA THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
Mục đích của việc TN là kiểm tra mức độ khả thi của những PP
dạy học và hệ thống BT bổ trợ đã đề xuất.
4.2. ĐỐI TƯỢNG VÀ THỜI GIAN THỰC NGHIỆM
4.2.1. Đối tượng thực nghiệm
- HS lớp 1 và lớp 5 của 3 trường tiểu học bán trú tại huyện
Mường Nhé, tỉnh Điện Biên: Trường Tiểu học Trần Văn Thọ, Nậm
Pố, Nậm Kè số 2. Lí do chúng tôi lựa chọn lớp 1 để TN vì HS lớp 1


20
dân tộc Hmông mới bỡ ngỡ đi học, các em còn chưa biết sử dụng từ
xưng hô tiếng Việt cho phù hợp. Mặt khác, từ xưng hô là lớp từ quan
trọng, cơ bản cần dạy ngay cho HS để các em có thể tự tin, chủ động
tham gia vào các hoạt động giao tiếp trong nhà trường và ngoài xã
hội. Chúng tôi TN trên đối tượng HS lớp 5 vì trong SGK Tiếng Việt
5 tập 1, HS được học hai bài liên quan trực tiếp đến từ xưng hô: Đại
từ (tuần 9) và Đại từ xưng hô (Tuần 11).
4.2.2. Thời gian thực nghiệm
Thời gian TN từ tháng 6/2017 đến tháng 5/2018.
4.3. NỘI DUNG VÀ CÁCH THỨC TIẾN HÀNH THỰC NGHIỆM
4.3.1. Nội dung thực nghiệm
- Ở lớp 1, chúng tôi TN 04 bài: 01 bài Làm quen với chữ cái
(“Bài 1: e”), 02 bài Tập đọc (“Mời vào”, “Bác đưa thư”) và thiết kế
01 bài học bổ trợ “Cả nhà thương nhau”.
- Ở lớp 5, chúng tôi TN 4 bài: 01 bài Kể chuyện (“Lý Tự
Trọng”), 01 Tập đọc (“Cái gì quý nhất), 02 bài Luyện từ và câu (“Đại

từ”, “Đại từ xưng hô”).
4.3.2. Cách thức tiến hành thực nghiệm
Quá trình TN được tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Xây
dựng kế hoạch TN; Bước 2: Kiểm tra đánh giá đầu vào trước khi thực
nghiệm; Bước 3: Tổ chức dạy học; Bước 4: Tổng hợp, xử lí số liệu
và đánh giá kết quả TN.
4.4. Tiêu chí đánh giá kết quả thực nghiệm
Với HS lớp 1, chúng tôi đánh giá việc sử dụng từ xưng hô của
các em qua hai hình thức: phỏng vấn về việc xưng hô của HS; làm
BT thực hành về việc sử dụng từ xưng hô. Với HS lớp 5, chúng tôi
đánh giá việc sử dụng từ ngữ qua phiếu BT.


21
4.5. PP XỬ LÍ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
Chúng tôi xử lí các kết quả TN theo PP thống kê toán học
trong khoa học giáo dục. Khi biểu diễn trên đường phân phối tần
suất, chúng tôi nhận thấy số phần trăm (%) HS ở các mức điểm dưới
trung bình (1, 2, 3, 4, 5) của nhóm TN thấp hơn ĐC và số phần trăm
(%) HS đạt điểm khá giỏi (7, 8, 9, 10) của nhóm TN cao hơn nhóm
ĐC. Ngoài ra, kết quả cũng cho thấy, sau TN, sự phân hoá về khả
năng sử dụng từ xưng hô của HS tại ba trường TN đã có sự thuyên
giảm đáng kể.
4.6. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH THỰC NGHIỆM
- Về thiết kế bài học: trong quá trình tập huấn và TN, nhiều
GV đã có ý thức tích hợp dạy HS cách xưng hô trong nhiều giờ học
Tiếng Việt
- Về phía GV: Trong những tiết học đầu, GV còn lúng túng
trong sử dụng PP trực quan hành động, đóng vai và phân tích ngôn
ngữ. Sau đó, các GV đã sử dụng khá nhuần nhuyễn và hợp lí các PP

dạy học này. GV đã biết sử dụng hệ thống BT linh hoạt trong dạy
học từ xưng hô, cạch xưng hô cho HS tiểu học Hmông.
- Về phía HS: Hầu hết HS đều rất hứng thú, hưởng ứng khi
được dạy học bằng PP mới, các em có cơ hội tham gia vào các hoạt
động giao tiếp và thể hiện mình. HS đã làm BT rèn luyện về cách
xưng hô trong giao tiếp tiếng Việt. Chính vì thế, năng lực sử dụng
tiếng Việt của HS có tiến bộ hơn.
- Quá trình thể nghiệm những đề xuất của luận án ở trên lớp
nhìn chung là khá suôn sẻ. Điều này chứng tỏ những đề xuất của
luận án là tích cực, khả thi.


22
KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
KẾT LUẬN
1. Luận án đã tổng kết, phân tích quan điểm của các nhà nghiên
cứu về từ xưng hô tiếng Việt, PP dạy học NN2 cũng như quá trình thụ
đắc NN2. Từ đó, chúng tôi cho rằng, việc dạy học từ xưng hô tiếng
Việt cho HS tiểu học dân tộc Hmông cần chú trọng đến các yếu tố cơ
bản như sự tương phản giữa hệ thống từ xưng hô tiếng Việt với tiếng
Hmông, tận dụng và phát triển môi trường thụ đắc tiếng Việt tự nhiên
tại địa bàn các em sinh sống, đề cao vai trò của yếu tố trực quan trong
dạy học tiếng Việt cho HS tiểu học Hmông, tạo môi trường học tập
thân thiện, thuận lợi cho việc phát triển ngôn ngữ cho HS.
2. Luận án khảo sát yêu cầu cần đạt và nội dung dạy học của
chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn hiện hành và
chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (2018), qua đó
thấy được việc dạy học từ xưng hô tiếng Việt đã được quan tâm
và xây dựng xuyên suốt trong cả cấp học ở cả hai chương trình.
Các chương trình đều đặt ra vấn đề dạy học phân hóa, cần xây

dựng nội dung và sử dung các PP, biện pháp dạy học phù hợp
với những đối tượng HS khác nhau. Chúng tôi đã điều tra thực
trạng dạy học Tiếng Việt nói chung, từ xưng hô nói riêng ở một
số trường phổ thông dân tộc bán trú tiểu học (Điện Biên). Kết
quả cho thấy nhiều GV chưa hiểu kĩ về NN2, PP dạy học NN2 và
vẫn lúng túng trong việc biên soạn tài liệu dạy học cho HS
Hmông. Thực trạng sử dụng từ xưng hô tiếng Việt của HS
Hmông đầu và cuối cấp tiểu học còn nhiều hạn chế. Các em mắc
nhiều lỗi giao thoa ngôn ngữ như không sử dụng từ xưng hô
trong giao tiếp, dùng từ xưng hô chưa đúng ngôi, vai, sắc thái
biểu cảm.


23
3. Từ thực tế dạy học tiếng Việt nói chung, từ xưng hô tiếng
Việt nói riêng cho HS tiểu học Hmông còn nhiều bất cập, luận án đã
đưa ra các giải pháp để nâng cao khả năng sử dụng từ xưng hô tiếng
Việt cho HS tiểu học Hmông. Luận án tập trung và hai giải pháp là:
sử dụng PP dạy học và xây dựng hệ thống BT. Luận án đã xác định
các nguyên tắc trong dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho HS tiểu học
dân tộc Hmông, từ đó, lựa chọn các PP dạy học phù hợp là PP trực
quan hành động, đóng vai, phân tích ngôn ngữ. Trong mỗi PP, chúng
tôi đều trình bày các vấn đề: quan niệm về PP, các bước tiến hành,
vận dụng PP vào dạy học từ xưng hô tiếng Việt cùng các ví dụ cụ thể,
các lưu ý khi vận dụng các PP dạy học trên. Hệ thống BT rèn kĩ năng
sử dụng từ xưng hô cho HS tiểu học Hmông trong các hoạt động
đọc, viết, nói và nghe. Chúng tôi đã đề xuất cách thức sử dụng hệ
thống BT trong dạy học các phân môn ở môn Tiếng Việt.
4. Tính khả thi của đề tài đã được khẳng định qua việc dạy
học TN tại 03 trường tiểu học ở Điện Biên. Kết quả của dạy học

TN cho thấy kết quả học tập của HS ở lớp TN cao hơn lớp ĐC. HS
khá hứng thú với các BT về từ xưng hô. Đặc biệt là sau khi học
những tiết học TN, các em đã tự tin hơn khi xưng hô trong các
hoạt động giao tiếp.
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
1. Đề xuất về việc phát triển chương trình nhà trường, xây dựng
tài liệu dạy học cho HS tiểu học DTTS nói chung và HS dân tộc
Hmông nói riêng. Hiện nay, chương trình giáo dục phổ thông môn
Ngữ văn năm 2018 đưa ra yêu cầu về việc dạy học phân hoá, phù hợp
với từng đối tượng HS. Đây là yêu cầu bức thiết đối với tình hình
giáo dục hiện nay tại Việt Nam, bắt kịp xu hướng của giáo dục thế
giới. Do vậy, chương trình nhà trường, SGK, tài liệu học tập dành


×