Tải bản đầy đủ (.pdf) (204 trang)

Luận án tiến sĩ Triết học: Tác động của một số xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 204 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN TRIẾT HỌC

BÙI THỊ THỦY

TÁC ĐỘNG CỦA MỘT SỐ XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI TÔN GIÁO 
ĐẾN ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62.22.03.02

 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn  khoa học: 1. GS.TS. Lê Hữu Nghĩa
             2. PGS.TS. Lê Văn Lợi


HÀ NỘI ­ 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,  
kết quả trong luận án là kết quả điều tra thực địa và thu thập tư liệu của tác 
giả luận án.
Nghiên cứu sinh

Bùi Thị Thủy

                                                                                                


LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành luận án Tiến sĩ về  đề  tài: Tác động của một số xu hướng  
biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo  ở  Việt Nam hiện nay , ngoài sự  nỗ  lực 
phấn đấu của bản thân tôi đã nhận được sự giúp đỡ, động viên rất nhiều từ tập  
thể, các cá nhân. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới:
­ Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Lê Hữu Nghĩa và PGS.TS. Lê Văn 
Lợi đã tư  vấn, định hướng khoa học rõ ràng cho tôi trong quá trình học tập và 
thực hiện luận án, đồng thời có những ý kiến gợi mở  và đóng góp quý báu trực  
tiếp vào các nội dung nghiên cứu của luận án.
­  Ban  Giám  hiệu   Trường  Đại  học   Sư   phạm   Hà   Nội,   Khoa   Triết   học, 
Trường Đại học Sư  phạm Hà Nội– nơi tôi đang công tác, đã tạo điều kiện về 
thời gian và hỗ  trợ  một phần kinh phí để  tôi hoàn thành chương trình học tập 
nghiên cứu sinh;
­ Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Viện Triết học đã tận tình 
giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận án;
­ Các ban ngành chức năng, các cơ  quan quản lý văn hóa, các trung tâm 
nghiên cứu, các tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng, các tín đồ  đã nhiệt tình giúp đỡ  và 
cộng tác giúp tôi thu thập thông tin, tư liệu của luận án;
­ Các thành viên trong gia đình đã động viên, tạo mọi điều kiện về  vật  
chất và tinh thần cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận án. 
­ Người thân, bạn bè và đồng nghiệp đã chia sẻ, khích lệ, động viên tôi  
trong thời gian thực hiện luận án này;
Xin chân thành cảm ơn!
  Hà Nội, ngày  tháng  năm 2019
Nghiên cứu sinh


Bùi Thị Thủy


BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT CỦA LUẬN ÁN


CNDVBC : 

Chủ nghĩa duy vật biện chứng

CNDVLS



Chủ nghĩa duy vật lịch sử 

CNXH



Chú nghĩa xã hội

DTTS

:

Dân tộc thiểu số  

HTTGM



Hiện tượng Tôn giáo mới

KHXH & NV: 


Khoa học xã hội và Nhân văn

Nxb



Nhà xuất bản

TW



Trung ương


MỤC LỤC
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phức tạp, ra đời rất sớm trong lịch sử 
loài người. Trong suốt chiều dài tồn tại cùng với sự phát triển của xã hội, tôn  
giáo đã có những lúc tác động cùng chiều hoặc ngược chiều với sự tiến bộ của  
loài người. Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò của tôn giáo đối với đời sống  
tinh thần của nhân loại, bằng chứng là, những thăng trầm của lịch sử đều liên 
quan ít nhiều với tôn giáo. Trong những năm gần đây, thế  giới chứng kiến 

những xung đột, bùng nổ xã hội, thậm chí là những xung đột vũ trang hay chiến  
tranh khu vực (đặc biệt là cuộc khủng bố của Nhà nước Hồi giáo tự  xưng IS) 
gây ra nhiều đau khổ, chết chóc mà nguyên nhân của nó có liên quan đến vấn 
đề  tôn giáo và vấn đề  dân tộc. A. Malraux ­ nhà văn hóa nổi tiếng của nước  
Pháp đã có nhận định về tôn giáo trong tình hình mới, đòi hỏi xem xét, nghiên  
cứu tôn giáo trên một mảnh đất mới và đưa ra một câu hỏi có tính chất dự báo: 
“Vấn đề  then chốt của cuối thế kỷ này là vấn đề  tôn giáo được diễn ra dưới 
một dạng khác với sự hiểu biết của chúng ta ngày nay” [133,13].
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, các tôn giáo tuy xuất hiện không  
giống nhau và có vai trò khác nhau trong sự  phát triển của dân tộc nhưng có 
một điều đặc biệt là dù tôn giáo khác nhau, nhưng đại đa số tín đồ đều có một 
mục đích chung mong muốn được đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát 
triển đất nước, để vừa là một công dân tốt vừa là một tín đồ tốt của tôn giáo 
mình. 
Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tôn giáo và đời sống 
tôn giáo  ở  Việt Nam cũng có những biến đổi mạnh mẽ. Trong đời sống tôn 
giáo, xuất hiện những xu hướng biến đổi tôn giáo có tính chất mâu thuẫn 
nhau như: xu hướng đa dạng hóa và cá nhân hóa tôn giáo; xu hướng vừa cạnh  


2

tranh vừa đối thoại giữa các tôn giáo; xu hướng quốc tế hóa và dân tộc hóa tôn 
giáo; xu hướng vừa thế tục vừa tăng tính thiêng của tôn giáo, xu hướng hiện 
đại hóa tôn giáo Những xu hướng đó có cả những tác động tích cực và có cả 
những tác động tiêu cực đến đời sống xã hội nói chung và đến đời sống tôn 
giáo  ở  Việt Nam nói riêng,  ảnh hưởng không nhỏ  tới các lĩnh vực của đời  
sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.Trước những tác động đó,  
nhiều cấp  ủy và chính quyền  ở  địa phương còn nhiều lúng túng trong nhận  
thức giải quyết, thậm chí còn những lệch lạc, sơ hở để  các thế  lực thù địch 

lợi dụng, gây mất trật tự an ninh xã hội.
Nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về    xu hướng biến đổi tôn  
giáo, xem xét những mặt tích cực và những tiêu cực trong những tác động đó  
đền đời sống tôn giáo, nhận thức rõ những xu hướng biến đổi đó, làm rõ  
nguyên nhân, hệ quả, , đề xuất một số những giải pháp nhằm hạn chế những  
tác động tiêu cực, phát huy những tác động tích cực là một việc làm có ý nghĩa 
cả  về mặt lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề   “Tác  
động của một số xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt  
Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của Luận án tiến sĩ Triết học.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu 
Trên cơ sở phân tích, làm rõ xu hướng biến đổi của tôn giáo và những tác 
động của nó đến đời sống tôn giáo ở  Việt Nam, luận án đề  xuất một số  quan 
điểm và giải pháp nhằm phát huy những tác động tích cực đồng thời hạn chế 
những tác động tiêu cực của xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở 
Việt Nam hiện nay nhằm góp phần giữ vững ổn định chính trị và phát triển bền 
vững khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 


3

Thứ  nhất,  trên cơ  sở  tổng quan   những công trình nghiên cứu về  xu  
hướng biến đổi tôn giáo ở trong và ngoài nước, Luận án khái quát, tổng hợp các 
tư  liệu có liên quan đến xu hướng biến đổi tôn giáo, tác động của xu hướng 
biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo  ở  Việt Nam hiện nay, xác định rõ 
những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Thứ hai, Luận án làm rõ những vấn đề lý luận về tác động của một số xu  
hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Thứ  ba, Phân tích thực trạng tác động của một xu hướng biến đổi tôn 

giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, từ đó rút ra nguyên nhân và 
một số vấn đề đặt ra.
Thứ tư, Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát huy những tác động 
tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời  
sống tôn giáo Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Xu hướng biến đổi tôn giáo và những tác động của nó đối với đời sống tôn  
giáo ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Có rất nhiều xu hướng biến đổi tôn giáo hiện nay đang diễn ra trên thế 
giới trong đó có Viêt Nam, tuy nhiên Luận án lựa chọn 5 xu hướng biến đổi 
tôn giáo nổi bật và tác động mạnh mẽ  đến đời sống tôn giáo  ở  Việt Nam 
trong giai đoạn từ  khi đổi mới đến nay. Đó là các xu hướng: xu hướng đa  
dạng hóa và cá nhân hóa niềm tin tôn giáo; xu hướng vừa cạnh tranh vừa đối  
thoại giữa các tôn giáo; xu hướng toàn cầu hóa và dân tộc hóa tôn giáo; xu  
hướng vừa thế tục vừa thiêng hóa của các tôn giáo và xu hướng hiện đại hóa  
tôn giáo.


4

 Nghiên cứu một số xu hướng biến đổi tôn giáo trên đây cũng như đánh 
giá tác động của chúng đối với đời sống tôn giáo ở  Việt Nam hiện nay được  
thực hiện qua phân tích các tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo và Tin Lành  
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
­ Cơ  sở  lý luận của Luận án là chủ  nghĩa Mác ­ Lê nin, tư  tưởng Hồ 
Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà 
nước Việt Nam về tôn giáo.
­ Cơ sở thực tiễn, Luận án dựa trên tổng kết 30 năm đổi mới của Đảng, 

xem xét, tổng kết quá trình tồn tại, biến đổi của các tôn giáo, những xu hướng  
biến đổi, tác động xã hội và nguyên nhân.
­ Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ  sở  phương pháp luận của chủ  nghĩa 
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đề tài sử dụng các phương pháp 
như: phân tích – tổng hợp, lịch sử ­ logic, so sánh,  kết hợp phân tích lý luận với 
tổng kết thực tiễn, phương pháp chuyên gia, phỏng vấn sâu, phương pháp hệ 
thống cấu trúc, phương pháp liên ngành. 
­ Cách tiếp cận chủ  đạo của Luận án là cách tiếp cận triết học, dựa  
trên các nguyên lý của chủ  nghĩa duy vậy biện chứng và chủ  nghĩa duy vật  
lịch sử về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa  
đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Trong đó, để  hiểu được xu hướng 
biến đổi tôn giáo, tác giả  đặc biệt vận dụng cặp phạm trù khả  năng – hiện  
thực, nguyên nhân – kết quả làm cơ  sở trực tiếp để  nghiên cứu về  những xu  
hướng biến đổi tôn giáo hiện nay, đó là cơ sở để đánh giá những tác động của 
chúng đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, Luận án cũng quan tâm đến cách tiếp cận đa ngành như: Nhân 
học tôn giáo khi xem xét đời sống tôn giáo trong sự biến đổi cả  về thời gian, 
không gian, trong đời sống cá nhân và đời sống công cộng. Thông qua cách 
tiếp cận này giúp cho luận án có cái nhìn sâu hơn vào trong đời sống tôn giáo.


5

Cách tiếp cận Xã hội học tôn giáo giúp cho luận án có thể  nhìn nhận,  
đánh giá được những tác động của xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống  
tôn giáo ở Việt Nam qua các số liệu, biểu bảng, thống kê,…
5. Đóng góp mới của Luận án
Thứ nhất, luận án đưa ra những luận cứ mới về những xu hướng biến  
đổi tôn giáo hiện nay như: xu hướng vừa cạnh tranh vừa đối thoại giữa các 
tôn giáo, xu hướng vừa thế tục hóa vừa thiêng hóa của các tôn giáo, xu hướng 

hiện đại hóa tôn giáo,…. Luận án bước  đầu làm rõ khái niệm đời sống tôn  
giáo, những yếu tố  của đời sống tôn giáo, mối quan hệ  giữa xu hướng biến  
đổi tôn giáo và đời sống tôn giáo
 Thứ  hai, luận án phân tích, đánh giá tác động của xu hướng biến đổi 
tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay ở trên 3 khía cạnh: ý thức  
tôn giáo, quan hệ tôn giáo và hoạt động tôn giáo.Từ  đó, đưa ra một số những 
vấn đề đặt ra đối với sự tác động này của xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời 
sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
 Thứ ba, luận án đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát huy những 
tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của xu hướng biến đổi 
tôn giáo đến đời sống tôn giáo  ở  Việt Nam hiện nay, khuyến nghị  về  hoạch  
định chính sách tôn giáo và công tác tôn giáo đối với việc quản lý tôn giáo ở các 
cấp, các ban ngành, địa phương.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
Luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về xu  
hướng biến đổi tôn giáo ở Việt Nam cũng như tác động của một số xu hướng  
biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo của Việt Nam.
Kết quả  nghiên cứu của Luận án góp phần cung cấp cơ  sở  khoa học  
cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định các chủ  trương, chính sách, 
pháp luật về tôn giáo và quản lý tôn giáo ở nước ta hiện nay.


6

 Luận án cũng có thể  làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu 
và giảng dạy lý luận về tôn giáo trong các trường chính trị, các trường Đại 
học và Cao đẳng.
7. Kết cấu của Luận án
Luận án ngoài phần Mở  đầu, Kết luận, Danh mục các Tài liệu tham 
khảo, Phụ  lục, Các công trình khoa học của tác giả  đã công bố, luận án bao  

gồm 4 chương, 13 tiết.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Trong nghiên cứu ngày nay đã xuất hiện rất nhiều những dạng thức  
nghiên cứu tôn giáo mới, dưới hình thức liên ngành văn hóa – tôn giáo, tôn giáo  
– triết học, tôn giáo và các khoa học khác,... Mỗi một lĩnh vực đều có những 
công trình khá tiêu biểu. Đi sâu nghiên cứu những xu hướng biến đổi tôn giáo 


7

và tác động của chúng ở Việt Nam hiện nay là vấn đề khá mới, luận án khảo 
cứu các công trình nghiên cứu với nội dung sau:
1.1. Những công trình nghiên cứu về lý luận tác động của xu hướng biến  
đổi  tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu về  tôn giáo và những xu hướng biến đổi của tôn giáo tồn  
tại dưới dạng các đề tài nghiên cứu khoa học, sách giáo trình và các Luận án, 
có thể kể đến các công trình có liên quan đến vấn đề này như:
­ Đặng Nghiêm Vạn (2006),  Về  những điều mới xuất hiện trong đời  
sống tôn giáo hiện nay, tập trung phân tích những biểu hiện mới trong đời sống 
tôn giáo ở Việt Nam và thế giới. Tác giả lý giải sự phục hổi của các hình thức 
thờ cúng trong nhân dân, sự trỗi dậy của các dạng thức tôn giáo mà trước đây  
chúng ta quan niệm là mê tín. Từ  đó tác giả nêu lên thái độ ứng xử cụ thể đối 
với những điều mới xuất hiện trong đời sống tôn giáo nước ta hiện nay.
Lê Hữu Nghĩa (Chủ  nhiệm đề  tài), 2003, Xu hướng phát triển tôn giáo  
hiện nay ở nước ta và những vấn đề đặt ra cho công tác lãnh đạo, quản lý  (Đề 
tài Độc lập Nhà nước) đã trình bày một cách khái quát thực trạng tôn giáo  ở 

Việt Nam, về  sự  phân bố, đặc điểm tôn giáo của Việt Nam những năm đầu  
của thế kỷ XXI, đồng thời đi sâu, làm rõ xu hướng phát triển tôn giáo và những 
nguyên nhân của sự  phát triển đó. Đề  tài đã nêu ra 6 xu hướng phát triển tôn  
giáo ở Việt Nam, đó là: xu hướng ý thức chính trị của đồng bào có đạo sẽ tăng 
lên tuy nhiên vẫn tồn tại những ý thức chính trị tiêu cực trong một số bộ phận  
chức sắc tín đồ; xu hướng đoàn kết giữa đồng bào có đạo và đồng bào không  
có đạo, giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau sẽ gia tăng; Các tôn giáo đẩy 
mạnh thích nghi với truyền thống văn hóa dân tộc; Các thế  lực thù địch tăng  
cường lợi dụng tôn giáo và gắn vấn đề  tôn giáo với dân tộc để  phá hoại sự 
nghiệp cách mạng của Đảng; sự xuất hiện của các hiện tượng tôn giáo mới gia 
tăng; tín đồ các tôn giáo vẫn tiếp tục gia tăng. Như vậy, các tác giả đã khái quát  


8

những xu hướng phát triển tôn giáo Việt Nam, tuy nhiên, hướng tiếp cận ở đây  
chủ yếu theo hướng tôn giáo gắn với những vấn đề có tính chính trị.
“Sự biến đổi của tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay” (2008) của 
tác giả  Nguyễn Thị  Hiền, Trần Hồng Liên, Nguyễn Thị  Minh Ngọc, gồm  
những công trình nghiên cứu về  vấn đề  tôn giáo, tín ngưỡng và sự  biến đổi 
của nó ở Việt Nam hiện nay. Mỗi hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo đều được 
xem xét dưới góc độ  văn hoá nhằm phác hoạ  thực trạng tôn giáo tín ngưỡng 
trước tác động của toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên,  ở  đây, các 
tác giả chưa chỉ ra xu hướng biến đổi của các tôn giáo ở Việt Nam là gì?
Trần Văn Trình, Trao đổi về một số xu hướng phát triển tôn giáo  (2008) 
có bàn đến một số xu hướng phát triển tôn giáo trong những năm đầu của thế kỷ 
XXI. Trong khuôn khổ của một bài báo, tác giả cũng đã chỉ ra 3 xu hướng đó là: 
xu hướng đa dạng hóa tôn giáo, xu hướng thế tục hóa tôn giáo và xu hướng phát 
triển quan hệ quốc tế về tôn giáo. Ở mỗi một xu hướng phát triển tôn giáo, tác  
giả cũng đã khái quát những đặc điểm cơ bản của xu hướng đó là gì như: ở một  

trình độ nhận thức được nâng cao, không gian được mở rộng, con người không  
chỉ biết tiếp thu một tôn giáo truyền thống của riêng mình mà còn biết đến các 
tôn giáo khác, con người một khi tiếp thu một tôn giáo mới, đồng thời bị níu kéo  
bởi những tôn giáo truyền thống, từ đó dẫn đến hệ  quả  chia rẽ  tín đồ  thành 3 
loại khác nhau: “khô đạo, nhạt đạo và đậm đạo” [119,10], nảy sinh hiện tượng  
nhiều tôn giáo song hành trong cùng một con người,... Hay khi bàn đến xu hướng 
thế tục hóa tôn giáo, Trần Văn Trình cũng chỉ ra rằng, ở Việt Nam thể hiện ở 2  
khía cạnh: “thứ  nhất là tôn giáo hòa nhập với đời sống kinh tế  xã hội và với 
cộng đồng, thứ hai là xu hướng vật chất hóa các hoạt động tôn giáo” [119,11]. 
Như  vậy, dựa trên những tác động của tôn giáo lên đời sống kinh tế, xã hội  
Trần Văn Trình đã thấy được điểm giao thoa giữa chúng và chỉ  ra sợi dây gắn  
bó mật thiết giữa đời sống tôn giáo và đời sống xã hội. 


9

Nguyễn Phú Lợi (chủ nhiệm, 2010),  Sự  biến đổi đời sống tôn giáo ở  
Việt Nam trước tác động của toàn cầu hóa, Đề tài cấp Bộ, Học viện Chính trị 
­ Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đề tài đã đi sâu phân tích sự tác  
động của toàn cầu hóa đến sự  biến đổi của đời sống tôn giáo mới  ở  Việt  
Nam, trong đó, đặc biệt tác giả  chỉ  ra xu hướng toàn cầu hóa tôn giáo là một  
xu hướng đang diễn ra trên thế  giới cũng như   ở  Việt Nam. Mặc dù cũng đề 
cập đến các xu hướng biến đổi khác nữa, nhưng xu hướng toàn cầu hóa là xu 
hướng chủ  đạo bởi đó chính là vụ  chính của đề  tài. Các tác giả  cũng đề  cập  
đến sự  xuất hiện của các HT TGM. Theo đó, sự xuất hiện của các HT TGM 
làm cho hệ thống tôn giáo hiện nay trở nên đa dạng hơn, phức tạp hơn.
Đỗ Quang Hưng (2012), Tái cấu hình đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện  
nay: Những vấn đề pháp lý và thách thức, đã giải thích tái cấu hình đời sống tôn 
giáo như là nguyên nhân cơ bản cho mọi sự biến đổi trong đời sống tôn giáo ở 
Việt Nam hiện nay. Trong đó, tái cấu hình đời sống tôn giáo được hiểu là: “sự 

tái cấu trúc bên trong thế giới mỗi tôn giáo và sự biến đổi cấu trúc cái tôn giáo, 
dẫn đến sự biến đổi sự hiện diện của chúng trong đời sống xã hội và pháp lý,  
phù hợp với điều kiện thị trường tôn giáo đã thay đổi và bản thân lô gic các tôn 
giáo cũng đã biến đổi” [63, 7]. Từ  đó tác giả  đã chỉ  ra những hệ  luỵ  khi quá 
trình tái cấu trúc đời sống tôn giáo ở Việt Nam như: sự thay đổi về nhân khẩu  
học tôn giáo, sự thay đổi địa – chính trị tôn giáo, đặt ra những thách thức có tính  
pháp lý về vấn đề tôn giáo, đặc biệt là “ mô hình nhà nước thế tục ưu tiên cho  
sự đa dạng các tôn giáo” [63,3].
Đặng Thị Lan (2012),  Xu hướng biến đổi của Phật giáo Việt Nam hiện  
nay,    trong “Tính hiện đại và đời sống tôn giáo hiện nay  ở  Việt Nam” của  
Trung tâm nghiên cứu tôn giáo đương đại, Đại học Khoa học xã hội và Nhân 
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Tôn giáo, đề cập đến xu hướng biến đổi 
của Phật giáo, trong đó tác giả nhấn mạnh đến xu hướng thế tục hóa tôn giáo, 


10

khẳng định “xu hướng thế  tục hóa, hiện đại hóa đang chi phối chiều hướng 
và cả  nội dung phát triển của Phật giáo Việt Nam từ  khi đất nước đổi mới” 
[121,233] và phân tích biểu hiện của nó, đó là hiện nay hoạt động của Phật 
giáo không giới hạn trong chùa chiền, lễ bái và cầu nguyện mà đang tích cực 
cùng với xã hội tham gia giải quyết những vấn đề nan giải: thiện nguyện, xóa 
đói giảm nghèo, môi trường,... Nói chung, quan điểm “thế tục hóa” của tác giả 
Đặng Thị Lan giống với Đặng Nghiêm Vạn về cách thức thể hiện.
Tôn giáo, tín ngưỡng các dân tộc ở Việt Nam (2013), (Giáo trình sau đại 
học) của tác giả Nguyễn Văn Minh, Nxb Khoa học Xã hội,  bên cạnh việc trình  
bày một số  vấn đề  chung về  tôn giáo, tín ngưỡng; các hình thức tôn giáo, tín 
ngưỡng truyền thống; các tôn giáo đã được nhà nước công nhận;  Ảnh hưởng 
của tôn giáo, tín ngưỡng đến văn hoá, kinh tế, chính trị, cuốn sách cũng đã bước 
đầu đề  cập đến một số  xu hướng biến đổi của tôn giáo, tín ngưỡng  ở  Việt  

Nam hiện nay. Tuy rằng, chưa bao quát hết đời sống tôn giáo, cũng chưa đi vào 
những biểu hiện cụ thể của các xu hướng biến đổi đó, nhưng đây là một công 
trình khá hữu ích đối với tác giả khi nghiên cứu những xu hướng biến đổi tôn  
giáo hiện nay.
Trung tâm nghiên cứu Tôn giáo (2014), Chủ nghĩa hậu hiện đại và phong  
trào tôn giáo mới trên thế giới và Việt Nam . Đây là tập hợp những bài viết của 
những nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế về HT TGM, về mối quan hệ giữa 
thời kỳ hậu hiện đại và sự xuất hiện, tồn tại của các HT TGM trên thế giới cũng 
như ở Việt Nam. Bỏ qua phần đầu với một số bài nghiên cứu về chủ nghĩa hậu  
hiện đại, các bài viết còn lại tập trung vào 3 nội dung chính khi nói về HT TGM.  
Thứ  nhất, phân tích về  sự  xuất hiện của các HTTGM trên thế  giới và  ở  Việt  
Nam, đặc biệt nhấn mạnh đến yếu tố thời kỳ “hậu hiện ,đại”. Thứ hai, các bài 
nghiên cứu tập trung đi phân tích một số HT TGM cụ thể tồn tại trên thế giới 
cũng như   ở  Việt Nam, ví dụ: Nhân chứng Jehova, Scientology, Dương Văn 


11

Mình, Hà Mòn,...Thứ  ba, đề  cập đến những nghiên cứu về  HT TGM  ở  Việt  
Nam, một số văn bản có liên quan đến việc công nhận, quản lý HTTGM ở Việt 
Nam hiện nay.
Trung tâm nghiên cứu tôn giáo đương đại, Trường Đại học Khoa học 
xã hội Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội với các chủ  điểm như:  Tôn giáo 
và tính hiện đại  (2012),  Tôn giáo trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay  
(2013) hay Tôn giáo và Văn hóa (2014) của Nxb Tôn giáo, bao gồm rất nhiều  
bài viết của các học giả  trong và ngoài nước, đề  cập đến những vấn đề  có 
tính lý luận chung về tôn giáo, như tôn giáo và tính hiện đại như là một sự bổ 
sung cho nhau, là cơ sở để các tôn giáo biến đổi, cũng là tác nhân có tính khách  
quan dẫn đến sự thay đổi trong nội bộ các tôn giáo, làm tôn giáo thích nghi đối 
với đời sống xã hội. Chúng ta có thể kể đến một số bài viết như:  Tôn giáo và  

tính hiện đại: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Đỗ Quang Hưng; “Tính  
hiện đại và đời sống tôn giáo theo Max Weber ” của Nguyễn Quang Hưng, hay 
đi vào một tôn giáo cụ  thể  như: Hội nhập văn hóa – xu hướng nổi bật của  
Công giáo Việt Nam của Phạm Huy Thông, hoặc  Sự hội nhập của Ki tô giáo  
vào thế giới hiện đại của Linh mục Thiện Cẩm; hoặc Tôn giáo và tính hiện  
đại: Từ  lý thuyết đến thực tiễn. Trường hợp Công giáo, Tin Lành và Phật  
giáo của Đỗ Quang Hưng,...
Công trình“Những nẻo đường Phúc âm hóa Công giáo  ở  Việt Nam”,  
(2016)   của Nguyễn Hồng Dương đã đưa ra khái niệm về  “đời sống đạo”. 
Theo tác giả, “đời sống đạo” được thể hiện ở 3 khía cạnh, thực hiện các phép  
bí tích, việc phụng tự  và những hình thức tổ  chức thánh lễ  trọng thể. Khái 
niệm “đời sống đạo” được thể hiện cụ thể trong thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ 
XX của dòng Đa Minh đó là: niềm tin tôn giáo và thực hành niềm tin tôn giáo.
Tác giả  Dương Ngọc Dũng (2016), với Tôn giáo nhìn từ  viễn cảnh xã  
hội học, mặc dù cuốn sách thiên về cách tiếp cận xã hội học, nhưng những từ 


12

khóa, những khái niệm của đời sống tôn giáo cũng được biểu đạt khá rõ ràng 
như: “tôn giáo” là gì?, niềm tin tôn giáo, nghi thức tôn giáo, trải nghiệm tôn  
giáo, …. Tác giả cũng đi làm rõ chức năng, vai trò của tôn giáo trong việc tạo  
ra gắn kết hay là sự xung đột xã hội. 
Trong công trình Vai trò của tôn giáo trong xây dựng niềm tin xã hội của 
tác giả Nguyễn Minh Ngọc đã đề cập đến một số khái niệm như: niềm tin tôn 
giáo, lối sống tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo,..Tuy không đưa ra những khái niệm  
cụ  thể, nhưng dựa trên cách đánh giá thực trạng của tôn giáo lên đời sống xã  
hội, các khái niệm thông qua đó được bộc lộ những nội hàm của nó. Theo tác 
giả Nguyễn Minh Ngọc, niềm tin tôn giáo có thể được đo lường bằng các chỉ 
báo về hành vi tôn giáo, như “hành vi tham gia vào các hoạt động tôn giáo như 

tham gia đi lễ tại các cơ sở tôn giáo, tham gia các hoạt động giảng dạy giáo lý, 
mực độ hiểu biết nghi lễ giáo lý tôn giáo,…” [92, 17]. Trong công trình này, với  
lý thuyết về vai trò của tôn giáo đối với xã hội, tác giả đã đưa ra hai lý thuyết 
để áp dụng, làm sáng tỏ vai trò của tôn giáo, đó là  lý thuyết chức năng tôn giáo 
và lý thuyết về  vốn xã hội của tôn giáo. Mặc dù đề tài Luận án của chúng tôi 
triển khai  ở cấp độ  hẹp hơn nhưng với lý thuyết này, giúp chúng tôi đánh giá 
tác động của xu hướng biến đổi tôn giáo tác động lên đời sống tôn giáo giống  
như vai trò của một yếu tố của kiến trúc thượng tầng. 
Olivier B.S.T.ank – Storper (2012), “Xã hội học tôn giáo” cũng là một tài  
liệu có thể    tìm được những khái niệm có tính chất chìa khóa của Luận án 
trong phần 1 của chương 2. Những khái niệm như: “thế  tục”, “thế tục hóa”, 
“nhập thế”, … những biểu hiện của nó được các học giả  Việt Nam như: 
Đặng Nghiêm Vạn, Đỗ Quang Hưng,… cũng đồng tình với hướng nghiên cứu  
cũng như nội hàm các khái niệm về những xu hướng cơ bản của đời sống tôn  
giáo thế giới cũng như ở Việt Nam. 
Nikitin A A.G (1994), với Chính trị hóa tôn giáo trong “ Tôn giáo và Đời  
sống xã hội hiện đại”, tập 1 có đề cập đến Chính trị hóa trong tôn giáo từ cái  


13

nhìn bên trong và cái nhìn bên ngoài, trong đó, khi nói về quá trình chính trị hóa  
tôn giáo tác giả đã khẳng định rằng, các quá trình mà cả chính trị và tôn giáo đã 
trải qua, trong từng thời điểm lịch sử  cụ  thể, bị  quy định bởi tổng hòa các 
hiện tượng xã hội khác. Vào những thời gian khác nhau, xu hướng phi chính trị 
hóa tôn giáo hoặc chính trị hóa tôn giáo được thay đổi tùy vào vị trí đứng đầu.  
Tác giả  cũng khẳng định thêm rằng, xu hướng nổi trội ngày nay đó chính là 
chính trị  hóa tôn giáo, quá trình này đã thu hút được tất cả  các giáo phái tôn  
giáo mà trước kia đã lảng tránh chính trị  một cách tích cực nhất và kín kẽ 
nhất. Như vậy, trong đời sống xã hội hiện đại, các tôn giáo đều tham gia vào  

đời sống thế tục và không ngại ngần tham gia vào lĩnh vực chính trị.
Trác   Tân   Bình   ­   tác   giả   người   Trung   Quốc   với   “ Lý   giải   tôn   giáo” 
(2007), (Trần Nghĩa Phương dịch), cung cấp cho chúng ta cái nhìn khá toàn  
diện về tôn giáo, về bộ môn Tôn giáo học ở Trung Quốc cũng như những đặc 
điểm nổi bật trong đời sống tôn giáo ở Trung Quốc trong những năm gần đây. 
Qua đó, tác giả  cũng muốn đề  cấp đến một trong những xu hướng nổi bật  
trong tôn giáo hiện nay đó là xu hướng đối thoại tôn giáo, khẳng định đối 
thoại tôn giáo như một xu hướng tất yếu cũng như đây chính là cái nhìn mới 
mẻ của các tôn giáo. Chính bản thân các tôn giáo cũng phải có những sự thay 
đổi cho phù hợp với tình hình thực tế. 
1.2. Những công trình nghiên cứu thực trạng tác động của xu hướng biến 
đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam
Một số  công trình nghiên cứu đến chủ  đề  này chúng ta có thể  kể  đến 
như: 
“Đời sống tinh thần của xã hội và xây dựng đời sống tinh thần của xã  
hội Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (1992), Luận án Tiến 
sĩ Triết học của Trần Khắc Việt đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về 
đời sống tinh thần, trả lời cho câu hỏi, đời sống tinh thần là gì? Đời sống tinh 
thần có những yếu tố nào? Tính qui luật của sự vận động đời sống tinh thần  


14

trong xã hội hiện đại; Thực trạng và phương hướng xây dựng đời sống tinh  
thần ở Việt Nam. Có thể nói, đây là tài liệu vô cùng quý giá để tác giả có thể 
tham khảo thực hiện được phần lý luận cơ bản về đời sống tinh thần .
Viện Trung tâm Khoa học xã hội, 1997,  Tôn giáo và đời sống hiện đại, 
là bộ sách gồm 5 tập của Viện Khoa học xã hội gồm các chủ điểm khác nhau, 
song có tập cũng đề  cập đến các xu hướng phát triển, biến đổi đời sống tôn  
giáo Việt Nam và thế  giới hiện đại. Ngay từ  những năm đầu của thập kỷ  90 

thế kỷ XX, các nhà khoa học đã nhận thấy có hai xu hướng biến đổi, phát triển  
của tôn giáo thế giới và Việt Nam, đó là: một mặt đó là xu hướng thế tục hóa  
mà biểu hiện của nó là sự  phai nhạt niềm tin vào Chúa, sự  suy giảm  ảnh  
hưởng vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội, hay đó chính là sự  thu hẹp  
phạm vi của tôn giáo về lĩnh vực đời sống riêng tư (sau này, trong nghiên cứu  
của mình, Đỗ  Quang Hưng cũng đã chỉ  ra đó chính là xu hướng Cá thể  hóa  
niềm tin tôn giáo) nhưng bên cạnh đó là xu hướng phục hưng tôn giáo với sự 
mở rộng ý nghĩa xã hội của tôn giáo, đó chính là lúc bắt đầu của sự xuất hiện 
các Hiện tượng tôn giáo mới. Tuy không trực tiếp đề  cập đến các khái niệm  
nhưng, qua những nghiên cứu về  đời sống tôn giáo của Trung Quốc, Đông  
Nam Á,… thì bức tranh đời sống tôn giáo cũng đã hiện diện, các yếu tố  của  
đời sống tôn giáo đã bắt đầu được trình bày rải rác trong một vài nghiên cứu 
và cũng để lý giải cho chủ đề  của tập sách đó là tuy hình thức tồn tại có thể 
khác, tuy xu thế phát triển có thể đa dạng, đa chiều, trong quá trình phát triển 
có thể  bao hàm những nhân tố, những xu hướng khác nhau, mâu thuẫn nhau, 
nhưng tôn giáo và tổ chức tôn giáo vẫn còn những chức năng xã hội cần thiết  
mà những nhân tố và tổ chức xã hội khác không thể thay thế được,…. Để  có  
thể  xây dựng được một xã hội tiến bộ, hài hòa, bao dung, giàu có cả  về  đời 
sống vật chất lẫn đời sống tinh thần, trong lĩnh vực hình thể lẫn lĩnh vực tâm 
linh…


15

“Đời sống tín ngưỡng, tôn giáo: Những vấn đề  lý luận và thực tiễn cấp  
bách ở Việt Nam hiện nay” (2013), Luận án Tiến sĩ triết học của Nguyễn Hoài 
Sanh, tác giả Luận án trên cơ sở phân tích khái niệm “Đời sống tín ngưỡng tôn  
giáo” và làm rõ những đặc điểm về lịch sử và thực tiễn của đời sống tín ngưỡng 
tôn giáo ở Việt Nam, đặt ra những vấn đề cấp bách về mặt lý luận: đó là mối 
quan hệ giữa tín ngưỡng tôn giáo với chính trị, tín ngưỡng tôn giáo với văn hóa và 

tín ngưỡng tôn giáo với đạo đức cùng những vấn đề thực tiễn trong đó tác giả 
đặc biệt nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức tôn giáo ở 
Việt Nam hiện nay. Nguyễn Hoài Sanh cho rằng: Đời sống tôn giáo bao gồm 
toàn bộ các quan hệ nội bộ của các tôn giáo và các quan hệ giữa các tôn giáo với  
xã hội.
Lê Văn Lợi (2012) trong “Văn hóa tôn giáo trong đời sống tinh thần xã  
hội Việt Nam”  đã phân tích  ảnh hưởng của văn hoá tôn giáo đối với một số 
lĩnh vực trong đời sống tinh thần xã hội Việt Nam hiện nay. Đề  xuất một số 
nguyên tắc và giải pháp nhằm khai thác, phát huy ảnh hưởng tích cực của văn  
hoá tôn giáo trong quá trình xây dựng đời sống xã hội thời kỳ mới. Tuy công 
trình chỉ đề cập đến ảnh hưởng của văn hóa tôn giáo nói chung đến đời sống 
tinh thần ở Việt Nam hiện nay, chưa đi vào những xu hướng biến đổi, nhưng 
Luận án cũng gợi mở  cho tác giả  những cách tiếp cận, lý giải, phân tích sự 
ảnh hưởng của những xu hướng biến đổi đến đời sống tinh thần của xã hội 
Việt Nam nói chung, của đồng bằng Bắc Bộ nói riêng.
Ảnh   hưởng   tôn   giáo   đối   với   tín   ngưỡng   của   người   Chăm   ở   Việt  
Nam(2002), Luận án Tiến sĩ Dân tộc học của Nguyễn Đức Toàn, đã phân tích 
những ảnh hưởng của tôn giáo đối với tín ngưỡng người Chăm cụ thể là Bà la 
môn giáo và Islam; Sự biến đổi của tín ngưỡng văn hoá Chăm dưới tác động  
của các tôn giáo du nhập; Vai trò của tôn giáo với quá trình tộc người ở Chăm;  
Dự báo hướng phát triển của tôn giáo, tín ngưỡng và đề xuất những giải pháp  
hoạch định chính sách xã hội  ở  vùng dân tộc Chăm. Kết quả  nghiên cứu của 


16

Luận   án     giúp  tác   giả   biết   cách   khai   thác   tài   liệu   cũng   như   sử   dụng   các  
phương pháp điền dã dân tộc, phỏng vấn chuyên sâu, điều tra xã hội học trong  
việc phân tích sự   ảnh hưởng của xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống 
tinh thần xã hội  ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, qua đó có được những gợi ý  

mang tính giải pháp nhằm phát huy những giá trị  tích cực trong những xu  
hướng biến đổi tôn giáo đó.
Hoàng Thị Lan (2009), Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần  
nhân dân Đồng Bằng Bắc Bộ, tuy không phân tích xu hướng biến đổi của Phật  
giáo hay của tôn giáo nói chung, nhưng cách tiếp cận về đời sống tinh thần cũng  
khá toàn diện khi tác giả nhấn mạnh đến những khía cạnh mà Phật giáo đã ảnh 
hưởng đến đời sống tinh thần của nhân dân đồng bằng Bắc Bộ: đời sống chính 
trị ­ tư tưởng; Lối sống đạo đức; phong tục, tập quán của nhân dân. Qua đó, tác  
giả  cũng đánh giá những  ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo đối với đời sống 
tinh thần của nhân dân đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. 
Đỗ  Quang Hưng (2010), Đời sống tôn giáo tín ngưỡng Thăng Long Hà  
Nội, Nxb Hà Nội, đã tái hiện lại bức tranh đời sống tín ngưỡng Thăng Long Hà 
Nội theo dòng lịch sử và những chuyển biến trong đời sống tín ngưỡng tôn giáo 
của Thăng Long thời hiện tại. Trong công trình này, mặc dù không đưa ra một 
định nghĩa về  “đời sống tín ngưỡng, tôn giáo” nhưng đã chỉ  ra những yếu tố 
của đời sống tín ngưỡng, ngoài những vấn đề như đức tin, về tổ chức, về lịch  
sử, đặc biệt tác giả  còn đưa ra một lý thuyết mới về  đời sống tôn giáo nói 
chung, đó là lý thuyết về “không gian thiêng”, trong đó, không gian thiêng là một 
phần – là địa bàn trên đó diễn ra các hoạt động của các tôn giáo. 
Nguyễn Phú Lợi (chủ  nhiệm, 2010),    Sự   biến đổi đời sống tôn giáo  ở  
Việt Nam trước tác động của toàn cầu hóa, Đề tài cấp Bộ, Học viện Chính trị ­  
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Sau khi trình bày một số xu hướng  
phát triển tôn giáo trên thế giới cũng như ở Việt Nam, các tác giả đã đề cập đến 
những biến đổi trong đời sống tôn giáo Việt Nam dưới tác động của xu hướng 


17

toàn cầu hóa tôn giáo. Đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay được tác giả làm rõ 
ở các khía cạnh biến đổi nổi bật đó là, sự trở lại của niềm tin tôn giáo, sự phục  

hồi của các tôn giáo, sự chuyển đạo, cải đạo, tái cấu trúc tôn giáo, thậm chí là 
thêm các thành tố mới trong trong khái niệm “tôn giáo”. Đồng thời, các tác giả 
cũng đề cập đến sự xuất hiện của các HT TGM. Theo đó, sự xuất hiện của các  
HT TGM làm cho hệ  thống tôn giáo hiện nay trở  nên đa dạng hơn, phức tạp  
hơn, nó khác với các không gian sống không phải tôn giáo. 
Hoai Huong Aubert – Nguyen et Michel Espagne (Sous la direction de), 
2010, Le VietNam – Une Histoire de Transferts Culturels, Demopolis là một cuốn 
sách xuất bản tại Pháp đã khái quát bức tranh về đời sống tôn giáo Việt Nam với 
sự phân tích sắc sảo những đặc trưng sống động về tôn giáo của Việt Nam.
Tác giả  Đoàn Đức Phương (2015) với nghiên cứu Những biến chuyển  
trong đời sống tôn giáo của người Mông Tin Lành di cư   ở Đăk Lăk,  có nhấn 
mạnh những chuyển biến mạnh mẽ của cộng đồng người HMông Tin Lành ở 
Đăk Lăk trên các phương diện như: những chuyển biến mạnh mẽ trong niềm  
tin tôn giáo; Những chuyển biến trong các nghi lễ tôn giáo của người HMông 
Tin Lành ở tỉnh Đăk Lăk; Những chuyển biến về mặt cộng đồng tôn giáo của 
người HMông Tin Lành  ở  Đăk Lăk. Tuy không chỉ  ra những xu hướng biến 
đổi tôn giáo  ở  Việt Nam cũng như  trên thế  giới hiện nay dẫn  đến những 
chuyển biến đó nhưng trong phạm vi của bài viết này, tác giả cho thấy được 
khung lý thuyết về đời sống tôn giáo cũng như những chuyển biến mạnh mẽ 
trong đời sống tôn giáo của công đồng người HMông Tin Lành ở Đăk Lăk. 
Nguyễn Thanh Xuân, 2016 (Chủ biên), Tôn giáo và Chính sách tôn giáo  
ở Việt Nam là công trình Kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Ban tôn giáo Chính 
phủ và Ngày truyền thống ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo (1955 ­ 2015),  
đã trình bày những biến đổi lớn trong đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay đó  
là những biến đổi trong: sinh hoạt của tín đồ ­ có sự gia tăng mạnh; việc công 
nhận các tổ  chức tôn giáo; biến đổi trong việc mở  trường đào tạo chức sắc 


18


tôn giáo (có nhiều cơ  sở  đào tạo được mở  và công nhận của cả  Phật giáo, 
Công giáo và Tin Lành); Về  việc xây dựng cơ  sở  thờ  tự; Về  việc in  ấn  ấn  
phẩm tôn giáo; Về  hoạt động đối ngoại của các tổ  chức, cá nhân tôn giáo,… 
Tuy nhiên, đây mới chỉ dừng lại ở những mô tả có tính chất sơ lược trong một  
công trình tổng kết. Hơn nữa, cách phân chia biểu hiện của sự biến đổi chịu  
ảnh hưởng nhiều bởi phương pháp Tôn giáo học. Trên cở  sở kết quả  nghiên  
cứu của Nguyễn Thanh Xuân, tác giả  Luận án nhìn nhận xu hướng biến đổi 
của tôn giáo như là một một phần của đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay, 
đánh giá lại một cách đúng đắn về tôn giáo trong mối quan hệ với xã hội với  
những biểu hiện tích cực của sự biến đổi – vừa là nhu cầu của sự  biến đổi 
nhưng cũng là sự “thích ứng” với hoàn cảnh mới, điều kiện mới của thế giới 
cũng như Việt Nam. 
Nguyễn Hồng Dương, (2017), Công giáo Việt Nam đối với phát triển  
bền vững đất nước, đã đề cập đến những biến đổi của đời sống tôn giáo liên  
quan đến người Công giáo. Thông qua việc phân tích vai trò của Công giáo đối  
với hội nhập văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống trong phát triển bền 
vững đất nước, tác giả  đã làm nổi bật được sự  biến đổi trong đời sống tôn  
giáo của người Công giáo thể hiện qua phạm vi gia đình, cộng đồng tôn giáo  
cũng như liên tôn giáo – việc thực hiện bổn phận kép giữa Đạo với Đời và vai  
trò của nó trong các hoạt động an sinh xã hội, thể hiện như một xu hướng mới  
trong đời sống đạo của người có tôn giáo. Những chi tiết được mô tả để thấy 
được sự thay đổi từ quan niệm đến cách hành đạo của người Công giáo trong 
niềm tin và các nghi thức thực hành là một tài liệu vô cùng quý giá để tác giả 
có một cái nhìn khái quát về đời sống Công giáo hôm nay.
Cao Huy Thuần, (2006) “Tôn giáo và xã hội hiện đại: biến chuyển lòng  
tin   ở Phương tây”  đã phân tích vai trò,  ảnh hưởng của các tôn giáo phương  
Đông, nhất là Phật giáo với xã hội phương Tây, đặc biệt là đối với nước Pháp  
– nơi ông sinh sống và công tác. Tác giả  cũng đi sâu vào việc phân tích cái 



×