Tải bản đầy đủ (.doc) (142 trang)

luận văn thạc sĩ Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.94 KB, 142 trang )

Vi ph¹m ph¸p luËt phßng, chèng b¹o lùc
gia ®×nh ®èi víi phô n÷ ë ViÖt Nam hiÖn nay
hµ néi - 2009
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG
LĨNH VỰC PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI
VỚI PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại vi phạm pháp luật
8
1.2. Khái niệm, nội dung pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
12
1.3. Khái niệm, đặc điểm, hậu quả của vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ (vi phạm
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ)
31
1.4. Các yếu tố bảo đảm, ngăn chặn, hạn chế vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
44
1.5. Kinh nghiệm nước ngoài về phòng, chống vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
49
Chương 2: THỰC TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG
BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM TỪ
NĂM 2000 ĐẾN NAY 64
2.1. Thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
đối với phụ nữ ở Việt Nam từ năm 2000 đến nay
64
2.2. Nguyên nhân của vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ ở Việt Nam


74
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM
PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC PHÒNG, CHỐNG BẠO
LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM 89
3.1. Quan điểm về phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
89
3.2. Giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
99
KẾT LUẬN 126
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 128
PhÇn më ®Çu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong khoa học pháp lý, vấn đề vi phạm pháp luật có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn vô cùng phong phú. Việc nghiên cứu thấu đáo vấn đề vi phạm
pháp luật sẽ giúp nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật, góp phần kiểm soát
xã hội tốt, phát hiện nhanh, nhận diện đúng bản chất và xử lý chính xác các
vi phạm pháp luật, tìm ra phơng cách hữu hiệu điều chỉnh xã hội và định h-
ớng việc thực thi pháp luật đạt hiệu quả.
Sau hơn 20 năm đổi mới, dới sự lãnh đạo sáng tạo, trí tuệ của Đảng
Cộng sản Việt Nam cùng với sự đoàn kết một lòng của cả dân tộc, Việt
Nam đã thu đợc nhiều thắng lợi tốt đẹp, vị thế đợc nâng cao và đời sống của
nhân dân thay đổi. Chúng ta đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
Nhà nớc pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, thực hiện nền kinh tế
thị trờng XHCN, mở rộng dân chủ xã hội, tăng cờng xã hội hoá và đặc biệt,
đang hội nhập đầy đủ trên các lĩnh vực với khu vực, thế giới và toàn cầu.
Trên con đờng đổi mới ấy, bên cạnh những thuận lợi, chúng ta còn gặp
không ít những khó khăn. Một trong những khó khăn làm ảnh hởng đến sự
phát triển của xã hội là tình trạng vi phạm pháp luật hiện nay đặc biệt trong

lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ đang ngày một gia
tăng, làm ảnh hởng đến sự phát triển toàn diện của xã hội và ngay chính bản
thân ngời phụ nữ đó cũng nh sự phát triển bình thờng của con cái họ.
Ngày nay, bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, gây nhức
nhối cho nhân loại, để lai nhiều hậu quả cho con ngời, nhất là đối với phụ
nữ. Mặc dù LHQ và các nớc trên thế giới đã có nhiều cố gắng trong việc
phòng chống bạo lực gia đình và ban hành nhiều văn kiện pháp lý liên quan
đến phòng chống bạo lực gia đình và hiện đã có 89 nớc trên thế giới có các
quy định pháp luật riêng về phòng chống bạo lực gia đình, trong đó có 60
nớc có luật riêng về phòng chống bạo lực gia đình; 7 nớc có luật riêng về
bạo lực chống lại phụ nữ nhng ở khắp nơi trên thế giới, phụ nữ vẫn là nạn
nhân của bạo lực gia đình. Bớc sang thế kỷ XXI, bạo lực gia đình không
giảm mà vẫn tiếp tục lan rộng, trở thành vấn đề nghiêm trọng và phổ biến ở
nhiều nớc trên thế giới. Theo ớc tính, mỗi năm trên thế giới có khoảng trên
3 triệu phụ nữ chết vì bạo lực gia đình; từ 15 đến 71% phụ nữ phải chịu
một hình thức bạo lực nào đó về thể xác và tình dục ngay trong gia đình. Cứ
3 phụ nữ trên thế giới thì có ít nhất một ngời bị đánh đập, ép buộc về tình
dục hoặc bị lạm dụng trong suốt cuộc đời mà những kẻ lạm dụng thờng là
chồng và bạn tình. Bạo lực gia đình đang trở thành vấn đề phổ biến có quy
mô của một đại dịch và là một biểu hiện của các mối quan hệ bất bình đẳng
giữa nam và nữ trên toàn thế giới, là nguyên nhân dẫn đến tử vong và làm
mất khả năng của phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Bạo lực gia đình đã và
đang là một trở ngại lớn đối với sự bình đẳng, là sự vi phạm thô bạo các
quyền con ngời.
Chính tính nguy hiểm và tác hại của bạo lực gia đình mà vấn đề bạo
lực gia đình tại Việt Nam đã đợc Luật hoá, đợc đặt dới sự kiểm soát của
pháp luật. Bạo lực gia đình là vi phạm pháp luật. ở Việt Nam, vấn đề phòng
chống bạo lực gia đình đợc Đảng và Nhà nớc ta đặc biệt quan tâm. Điều
này đợc thể hiện trong các chính sách của Đảng và các quy định của pháp
luật. Điều 63, Hiến pháp 1992 quy định : "Công dân nữ và nam có quyền

ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình,
nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ".
Thể chế hoá quy định của Hiến pháp năm 1992, việc bảo vệ phụ nữ
khỏi các hình thức bạo lực gia đình đợc quy định cụ thể, chi tiết trong nhiều
văn bản pháp luật khác nh Luật Hôn nhân gia đình; Bộ Luật Hình sự; Luật
Bình đẳng giới; Luật Phòng chống bạo lực gia đình Mặc dù Đảng và Nhà
nớc ta đã có nhiều cố gắng trong việc phòng chống bạo lực gia đình, để các
quy định pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đợc thực thi trong đời
sống xã hội nhng trên thực tế, tình trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình vẫn diễn ra thờng xuyên ở nhiều nơi. Thống kê của Bộ Văn
hoá - Thể thao và Du lịch, Tổng cục thống kê và Quỹ nhi đồng LHQ công
bố ngày 26/6/2008 với điều tra của 93 ngàn hộ gia đình trên khắp mọi miền
đất nớc thì có tới 21,2% cặp vợ chồng đã trải qua một hình thức bạo lực gia
đình nh đánh, mắng, nhục mạ, ép quan hệ tình dục và nh vậy cứ 5 cặp vợ
chồng thì đã có một cặp đã có hình thức bạo lực gia đình.
Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đã để lại nhiều hậu
quả xấu cho xã hội, trớc hết là vi phạm đến quyền con ngời, danh dự, nhân
phẩm và tính mạng của mỗi cá nhân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Theo báo
cáo của Bộ Công an, trên toàn quốc cứ 2 đến 3 ngày có một ngời bị giết liên
quan đến bạo lực gia đình. Trong năm 2005, có 14% số vụ giết ngời liên
quan đến bạo lực gia đình. Ba tháng đầu năm 2006, tỷ lệ này đã lên tới
30,5%. Theo thống kê của ngành Toà án, trong 5 năm từ 2000 đến 2005 cả
nớc có 352.000 vụ ly hôn thì có tới 39.730 vụ ly hôn do bạo lực gia đình
(chiếm 53,1%). Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình còn làm
xói mòn đạo đức, mất tính dân chủ xã hội và ảnh hởng xấu đến thế hệ tơng
lai. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở nhiều gia đình, thế hệ con đã lặp lại
hành vi bạo lực gia đình mà khi còn nhỏ chúng đã đợc chứng kiến. Bạo lực
gia đình đang là nguy cơ gây tan vỡ và suy giảm sự bền vững của gia đình
Việt nam. Ngoài hậu quả về xã hội, đạo đức và sự bền vững gia đình, vi
phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình còn gây ra những hậu quả về

kinh tế nh chi phí chăm sóc và phục hồi sức khoẻ nạn nhân, chi phí điều tra,
truy tố, xét xử cùng nhiều chi phí gián tiếp khác liên quan đến tình trạng
bệnh tật, mất khả năng tham gia lao động sản xuất của nạn nhân.
Nhiều vụ án thơng tâm liên quan đến bạo lực gia đình đối với phụ nữ
đã xảy ra và số lợng tăng lên từng ngày, gây hậu qủa nhức nhối cho xã hội.
Điển hình nh vụ bạo lực kéo dài suốt 32 năm xảy ra ở Quảng Bình mà nạn
nhân là bà Xuê. Đã không biết bao lần bà chết đi sống lại với những trận
đòn tàn bạo của chồng. Mới đây, chỉ vì không đào đâu ra tiền cho chồng
uống rợu, bà đã bị chính ngời chồng trói lại, đánh đập tàn nhẫn, gây thơng
tích nghiêm trọng. Nhiều hành vi dã man khác nh khống chế, đổ thuốc diệt
cỏ vào miệng vợ; đổ xăng đốt vợ; hành xử vợ bằng búa Những hành vi đã
mất hết nhân tính đó đã gây bức xúc cho xã hội. Tiếng kêu cứu thảm thơng
của rất nhiều ngời phụ nữ đã vang lên đặt ra cho xã hội một lời giải đáp cần
phải làm gì trớc thực trạng vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình đối với
phụ nữ. Điều này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách, pháp luật và các
nhà thực thi pháp luật cùng các cơ quan có thẩm quyền cần có một cơ chế
và biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho phụ nữ, giúp họ
thoát khỏi bạo lực đồng thời có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các
chủ thể vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình nói chung đặc biệt đối với
phụ nữ nói riêng, tạo ổn định và phát triển cho xã hội. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu tìm ra các giải pháp giúp phụ nữ thoát khỏi bạo lực gia đình,
loại bỏ vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình đối với phụ nữ trong xã hội,
đề tài " Vi phm phỏp lut phũng, chng bo lc gia ỡnh i vi ph n
Vit Nam hin nay " có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách ở nớc ta
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
ở nớc ta, phòng chống bạo lực gia đình không còn là vấn đề mới và
đợc quy định cụ thể ở Hiến pháp và pháp luật. Điều 63, Hiến pháp 92 quy
định: "nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử, xúc phạm nhân phẩm phụ
nữ". Điều 107, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Cấm vợ,

chồng có hành vi ngợc đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy
tín của nhau" và gần đây nhất, Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình đã đợc ban hành.
Trên thực tế, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về bạo lực
gia đình. Nhiều công trình khoa học trong và ngoài nớc nghiên cứu về vấn
đề này đã đợc công bố nh : "Luật phòng chống bạo lực gia đình của một số
nớc trên thế giới" (tài liệu dịch của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc
hội); "Bạo lực trên cơ sở giới tính ở Việt Nam" của Ngân hàng thế giới năm
1999; "Bạo lực trên cơ sở giới" của TS. Vũ Mạnh Lợi, Vũ Tuấn Huy,
Nguyễn Hữu Minh năm 1999; "Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt
Nam" của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam năm 2001; "Phòng, chống bạo
lực gia đình đối với phụ nữ ở nớc ta hiện nay- Thực trạng, vấn đề và giải
pháp" của Viện nghiên cứu quyền con ngời - Học viện chính trị - hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008; "Nhận thức và thái độ của cộng
đồng đối với bạo lực gia đình - đề xuất và giải pháp" do TS. Nguyễn Thế
Hùng, Phó chủ nhiệm Uỷ ban DS - GĐ - TE Hà Nội và PGS. TS. Nguyễn
Trí Dũng, Phó Viện trởng Viện Xã hội học và Tâm lý lãnh đạo, quản lý,
Học viện chính trị - hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh; Báo cáo "Ngăn
chặn bạo hành trong gia đình: Phổ biến tài liệu t vấn chống bạo hành gia
đình cho các cộng sự ở nông thôn" của tác giả Lê Thị Phơng Mai
Các công trình nêu trên chủ yếu là các tài liệu dịch từ tiếng nớc ngoài
nhằm giới thiệu về Luật phòng chống bạo lực gia đình của một số nớc trên
thế giới; nghiên cứu giới thiệu một số khía cạnh nh thực trạng bạo lực gia
đình, một số vấn đề đặt ra về phòng chống bạo lực gia đình trên thế giới
cũng nh ở Việt Nam.
Tuy nhiên nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề phòng, chống bạo
lực gia đình dới góc độ pháp lý - vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực
gia đình đối với phụ nữ ở nớc ta đến nay hầu nh cha có. Trong khi đó, tình
trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
diễn ra ngày càng nhiều với tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng tăng,

ảnh hởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nớc. Hơn nữa,
nhu cầu của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ khỏi bị bạo
lực gia đình đang đòi hỏi một hệ thống pháp luật đồng bộ với một bộ máy
và con ngời cụ thể trên cơ sở so sánh và tham khảo kinh nghiệm của các n-
ớc trên thế giới là vấn đề cấp thiết ở nớc ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích:
Đề tài có mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cơ
sở lý luận về vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình đối với
phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận văn đề
xuất các giải pháp cơ bản nhằm phòng chống vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở nớc ta.
3.2. Nhiệm vụ
Để đảm bảo mục đích nêu trên trên, luận văn xác định các nhiệm vụ
chính sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật
và vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
Trên cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật, các yêu cầu của hành vi hợp pháp
trong việc phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, luận văn có nhiệm
vụ chỉ ra đợc các đặc điểm của vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo
lực gia đình đối với phụ nữ; nội dung vi phạm pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình đối với phụ nữ trên cơ sở phân tích và đánh giá tình hình vi
phạm pháp luật, làm rõ các hành vi vi phạm pháp luật cơ bản trong phòng,
chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ trong những năm qua để có một bức
tranh về thực trạng vi phạm pháp luật một cách cơ bản nhất trong phòng,
chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Từ đó, phân tích các nguyên nhân
khách quan và chủ quan của thực trạng trên làm cơ sở cho việc đa ra các
giải pháp khắc phục vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này.

- Nghiên cứu đa ra các giải pháp hợp lý, toàn diện, khả thi trong
phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ
nữ góp phần hạn chế tiến tới đẩy lùi hiện tợng vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ trong xã hội.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tợng nghiên cứu:
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nh đã trình bày ở trên, luận
văn xác định đối tợng nghiên cứu là các hành vi trái pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình trong việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các vụ
bạo lực gia đình mà nạn nhân của vụ bạo lực gia đình chỉ là phụ nữ trên cơ
sở lý luận chung về Nhà nớc- pháp luật và pháp luật thực định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống
bạo lực gia đình đối với phụ nữ trong phạm vi cả nớc từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở phơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, t tởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng và Nhà nớc, pháp luật về bình đẳng giới, pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình.
5.2. Phơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phơng pháp biện chứng,
lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp và điều tra xã hội học.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Xây dựng lý luận về vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ.
- Hệ thống hoá, phân tích thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
- Đề xuất những giải pháp nhằm đấu tranh, hạn chế, tiến tới đẩy lùi vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ

ở Việt Nam hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả của luận văn có thể đợc vận dụng làm tài liệu nghiên cứu về
vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ và góp
thêm cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc hoàn thiện pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chơng:
Chơng 1: Cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam
Chơng 2: Thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ ở Việt Nam từ năm 2000 đến nay.
Chơng 3: Quan điểm và giải pháp cơ bản phòng, chống vi phạm pháp
luật về bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1
cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở việt
nam
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại vi phạm pháp luật
1.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật
Trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nớc ta, pháp luật với những thế
mạnh của mình đã điều chỉnh nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, đợc nhà
nớc đảm bảo thực hiện và đợc nhân dân đồng tình ủng hộ, thực hiện khá
nghiêm chỉnh. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong xã hội
vẫn còn một số tổ chức, cá nhân không tuân thủ, chấp hành pháp luật, làm
trái các quy định của pháp luật nh tình trạng vi phạm an toàn giao thông
còn xảy ra nhiều, nhiều vụ án giết ngời, tham nhũng, buôn bán ma tuý với
tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng tăng. Đó là những vi phạm pháp
luật.

Nếu nh hành vi hợp pháp là hành vi phù hợp với pháp luật, có ích cho
xã hội, có mục đích, động cơ tuân thủ pháp luật thì vi phạm pháp luật là
những hành vi của các chủ thể trái với pháp luật, làm ngợc lại những gì
pháp luật đặt ra, yêu cầu. Vi phạm pháp luật xâm hại đến lợi ích vật chất và
tinh thần của Nhà nớc, của xã hội và của nhân dân.
Vi phạm pháp luật là cơ sở duy nhất phát sinh trách nhiệm pháp lý.
Không có vi phạm pháp luật thì không có trách nhiệm pháp lý.
Từ những phân tích trên đây, ta có khái niệm: Vi phạm pháp luật là
hành vi trái pháp luật do ngời có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện,
bởi lỗi cố ý hoặc vô ý, xâm hại tới các quan hệ xã hội đợc pháp luật bảo vệ.
1.1.2. Đặc điểm vi phạm pháp luật.
Đặc điểm của vi phạm pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định về bản chất của vi phạm pháp luật, từ đó góp phần đề ra những biện
pháp hữu hiệu để đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật trong xã hội
ta hiện nay.
Thứ nhất: vi phạm pháp luật luôn là hành vi (hành động hoặc
không hành động) có tính xác định của con ngời.
Nh ta đã biết các quy định của pháp luật đợc đặt ra là để điều chỉnh
các hành vi của con ngời. C.Mác đã viết: Ngoài hành vi của mình ra tôi
hoàn toàn không tồn tại đối với pháp luật, hoàn toàn không phải là đối tợng
của nó. Cho nên vi phạm pháp luật trớc hết phải là hành vi của con ngời
hoặc là hoạt động của các cơ quan nhà nớc, các tổ chức xã hội (các chủ
thể pháp luật). Vi phạm pháp luật phải biểu hiện bằng hành vi cụ thể của
con ngời (hành động có ý thức và ý chí của con ngời). Vì vậy mà một ngời
dù có ý nghĩ xấu nh thế nào đi chăng nữa nếu không biểu hiện bằng hành
động cụ thể thì không phải là vi phạm pháp luật.
Nh vậy, vi phạm pháp luật trớc hết phải đợc thể hiện bằng hành vi cụ
thể của con ngời mà không phải là những t tởng, ý nghĩ, ý niệm. Bởi lẽ, trên
thực tế, chúng ta không thể dùng các quy phạm pháp luật để điều chỉnh,
kiểm tra, đánh giá những ý nghĩ của con ngời.

Hành vi vi phạm pháp luật đợc biểu hiện dới hai hình thức:
+ Hành vi hành động: chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm.
+ Hành vi không hành động: chủ thể không làm một việc mà
pháp luật yêu cầu phải làm.
Thứ hai, vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật.
Tính trái pháp luật thể hiện: sự chống đối những quy định chung của
pháp luật. Pháp luật quy định nh thế này thì chủ thể lại hành động ngợc lại
và trong một trờng hợp cụ thể nào đó, quy phạm pháp luật bắt buộc con ng-
ời phải hành động nhng chủ thể lại không hành động. Hành vi trái pháp luật
bao giờ cũng xâm hại tới các quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ và là
những hành vi gây thiệt hại cho xã hội.
Nh vậy, vi phạm pháp luật phải là những hành vi trái pháp luật, làm
ngợc lại những gì pháp luật đặt ra, yêu cầu. Nhng trong thực tế, có những
hành vi rõ ràng đã xâm hại tới các quy định của pháp luật nhng không bị
coi là vi phạm pháp luật vì chủ thể không có lỗi nh trờng hợp vì phải chở
bệnh nhân đi cấp cứu mà ngời lái xe đã đi vào đờng một chiều, vợt đèn
đỏ.Vì vậy để bị coi là vi phạm pháp luật, hành vi trái pháp luật phải chứa
đựng lỗi của chủ thể hành vi đó.
Thứ ba, vi phạm pháp luật phải là hành vi có lỗi.
Điều này thể hiện ngời thực hiện hành vi vi phạm pháp luật phải thực
sự có lỗi. Khi xem xét vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật thì mới
chỉ dừng lại ở việc xem xét biểu hiện bề ngoài của hành vi, nghĩa là mới chỉ
xem xét tới mặt khách quan của hành vi. Nhng khi nói tới hành vi vi phạm
pháp luật phải thấy rằng, đó là hành vi có ý chí, có nghĩa phải xem xét tới
mặt chủ quan của hành vi. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật chỉ ra ai là
ngời vi phạm, khuynh hớng ý chí của ngời đó và trạng thái tâm lý của ngời
vi phạm tại thời điểm thực hiện hành vi trái pháp luật, cũng nh thái độ của
ngời ấy đối với hậu quả của hành vi. Vì vậy, hành vi trái pháp luật bị coi là
hành vi vi phạm pháp luật chỉ khi có sự biểu hiện ý chí của ngời thực hiện
hành vi đó và chúng ta cần xác định trạng thái tâm lý của chủ thể thực hiện

hành vi trái pháp luật đó - xác định lỗi của họ.
Lỗi là thái độ tâm lý của một ngời đối với hành vi trái pháp luật của
mình và hậu qủa hoặc tác hại của hành vi đó đối với xã hội.
Một ngời bị coi là có lỗi khi hành vi mà họ thực hiện là kết quả của
sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi chủ thể có đủ điều kiện
để lựa chọn và quyết định một xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội
tức là chủ thể hoàn toàn có đủ điều kiện để lựa chọn và quyết định một xử
sự khác phù hợp với yêu cầu của pháp luật nhng chủ thể đã không chọn.
Xét về mặt tâm lý có hai hình thức lỗi là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Trong
đó, lỗi cố ý đợc thể hiện dới hai dạng phổ biến: lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý
gián tiếp.
Lỗi cố ý trực tiếp: là trờng hợp ngời thực hiện hành vi trái pháp luật
đã nhìn thấy trớc tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và thấy đợc hậu
quả của hành vi nhng mong muốn thực hiện và mong muốn đạt đợc hậu quả
của hành vi.
Lỗi cố ý gián tiếp: là trờng hợp ngời thực hiện hành vi trái pháp luật
nhìn thấy trớc tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thấy trớc hậu quả của
hành vi, tuy không mong muốn cho hậu quả xảy ra nhng bỏ mặc cho hậu
quả xảy ra.
Lỗi vô ý chia thành hai dạng: lỗi vô ý do quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu
thả.
Lỗi vô ý do quá tự tin là trờng hợp ngời thực hiện hành vi trái pháp
luật thấy đợc sự tác hại cho xã hội của hành vi và hậu quả của nó, nhng tin
rằng hậu quả không xảy ra hoặc có thể khắc phục đợc.
Lỗi vô ý do cẩu thả: là trờng hợp ngời thực hiện hành vi trái pháp luật
không nhìn thấy sự tác hại cho xã hội của hành vi và hậu quả của nó, mặc
dù ngời đó có thể nhìn thấy đợc hoặc cần phải nhìn thấy đợc.
Nh vậy, chủ thể vi phạm pháp luật phải thực sự có lỗi vì có những ng-
ời không có đủ điều kiện để lựa chọn và quyết định hành vi (do điều kiện
khách quan) tức không có lỗi thì không phải là vi phạm pháp luật.

Thứ t, vi phạm pháp luật phải do chủ thể có năng lực trách nhiệm
pháp lý thực hiện.
Năng lực chịu trách nhiệm pháp lý là khả năng tự mình chịu trách
nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của mình trớc cơ quan nhà nớc có thẩm
quyền. Vì vậy, chủ thể của vi phạm pháp luật chỉ có thể là những ngời đã
đạt tới một độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật, có khả năng lý trí
và có tự do ý chí (có khả năng nhận thức và điều khiển đợc hành vi của
mình). Họ phải đạt một độ tuổi nhất định và không mắc bệnh tâm thần hoặc
một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của
mình.
Tóm lại: Trên đây là bốn yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật. Khi
xem xét hành vi vi phạm pháp luật phải căn cứ vào cả bốn dấu hiệu. Nếu
thiếu một trong bốn dấu hiệu đó thì không thể đánh giá đó là hành vi vi
phạm pháp luật. Vì vậy cần phân biệt hành vi trái pháp luật với hành vi vi
phạm pháp luật bởi có những hành vi trái pháp luật nhng không phải là vi
phạm pháp luật.
1.1.3. Phân loại vi phạm pháp luật.
Vi phạm pháp luật đều là những hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại
cho xã hội. Tuy nhiên các loại hành vi này lại có mức độ nguy hiểm cho xã
hội khác nhau. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm đối với xã hội, vi
phạm pháp luật đợc chia thành: vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm); vi
phạm pháp luật hành chính; vi phạm pháp luật dân sự và vi phạm kỷ luật
nhà nớc.
Vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm): đợc định nghĩa tại điều 8, Bộ
luật Hình sự nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 : "tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đợc quy định trong Bộ luật Hình sự,
do ngời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh,
trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính

mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa".
Nh vậy, tội phạm là những hành vi xâm hại tới những quan hệ xã hội
quan trọng nhất và do những quy phạm luật hình sự quy định. Chủ thể của
vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm) chỉ là những cá nhân cụ thể.
Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nớc nhng không
phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật, phải bị xử phạt
hành chính.
Chủ thể vi phạm hành chính có thể là cá nhân và cũng có thể là tổ
chức.
Vi phạm pháp luật dân sự là những hành vi trái pháp luật, có lỗi, xâm
hại tới những quan hệ tài sản và những quan hệ nhân thân có liên quan tới
tài sản và nhân thân trong lĩnh vực hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng.
Chủ thể vi phạm dân sự có thể là cá nhân và cũng có thể là tổ chức.
Vi phạm kỷ luật nhà nớc là những hành vi có lỗi xâm hại tới chế độ
kỷ luật lao động, kỷ luật công vụ, kỷ luật học tập, kỷ luật quân đội v.v. gây
thiệt hại cho hoạt động bình thờng của các cơ quan nhà nớc, tổ chức kinh
tế, đơn vị sự nghiệp, trờng học và những tổ chức công khác.
Chủ thể vi phạm kỷ luật có thể là cá nhân và cũng có thể là tập thể,
họ chỉ là cán bộ, công nhân, công chức, viên chức, học sinh có quan hệ
ràng buộc (phụ thuộc) với cơ quan, xí nghiệp, trờng học nào đó.
1.2. Khái niệm, nội dung pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình
1.2.1. Khái niệm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
1.2.1.1. Khái niệm bạo lực
Bạo lực là một hiện tợng xã hội. Đã có rất nhiều định nghĩa về "Bạo
lực".Theo Đại từ điển Tiếng việt năm 1998: "Bạo lực là sức mạnh dùng để
trấn áp, chống lại lực lợng đối lập hay lật đổ chính quyền"; hoặc theo từ

điển Tiếng việt 2003 thì "Bạo lực là sức mạnh dùng để trấn áp hoặc lật
đổ"[15], [53].
Trong xã hội có nhiều hình thức bạo lực. Tuy nhiên, không phải hình
thức bạo lực nào cũng hớng vào việc lật đổ các đảng nhóm, phe phái chính
trị và chính quyền.Thực tế xã hội cho thấy, vì nhiều lý do khác nhau, các
chủ thể có thể dùng bạo lực để giải quyết một sự bất hoà trong quan hệ xã
hội; một sự tranh chấp quyền lợi giữa hai ngời; giành lấy quyền và lợi ích
cho mình Bạo lực đã ra đời từ rất lâu trong lịch sử xã hội loài ngời. Trong
những trờng hợp nhất định, bạo lực có thể có vai trò tích cực trong xã hội
song nó sẽ trở thành tiêu cực, ảnh hởng đến sự phát triển của xã hội nếu bạo
lực đợc sử dụng sai mục đích, đặc biệt là trong những trờng hợp cấm đợc sử
dụng bạo lực. Nh vậy, bạo lực chính là một phơng thức hành xử trong các
mối quan hệ xã hội và tồn tại từ rất lâu trong lịch sử xã hội loài ngời.
1.2.1.2. Bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình hay còn đợc gọi là bạo hành gia đình là một trong
những hình thức bạo lực trong xã hội và nó đã làm ảnh hởng đến sự phát
triển bền vững của gia đình cũng nh sự phát triển của xã hội. Nhận thức rõ
và thống nhất về khái niệm bạo lực gia đình sẽ là điều kiện để ngăn chặn và
đẩy lùi bạo lực gia đình trong xã hội.
Có nhiều định nghĩa, nhiều quan điểm khác nhau về "bạo lực gia
đình". Theo quan niệm của Hiệp hội Luật s Hoa kỳ: bạo lực gia đình là
thuật ngữ chỉ những hình thức ngợc đãi mà một thành viên trong gia đình,
một ngời sống chung trong hộ gia đình, hoặc một bạn tình gây ra cho một
thành viên khác trong gia đình, một ngời chung sống khác, hoặc bạn tình
kia.
Theo Luật mẫu về bạo lực gia đình của Uỷ ban nhân quyền của Liên
Hợp Quốc ngày 02/ 02/ 1996 :
"Bạo lực gia đình là tất cả các hành vi lạm dụng thể chất, tinh thần,
tình dục dựa trên cơ sở giới đối với một thành viên, một ngời phụ nữ trong
gia đình, từ hành vi đánh đập giản đơn đến gây thơng tích nặng, bắt cóc, đe

doạ, doạ dẫm, cỡng bức, quấy rối, lăng nhục bằng lời nói, dùng vũ lực để
vào nhà trái pháp luật, phóng hoả, huỷ hoại tài sản, bạo lực tình dục, hiếp
dâm trong hôn nhân, bạo lực liên quan đến thách cới hoặc của hồi môn,
cắt bộ phận sinh dục nữ, bạo lực liên quan đến bóc lột mại dâm, bạo lực
đối với ngời giúp việc trong gia đình "[56].
Luật Phòng ngừa và điều chỉnh bạo lực gia đình B.E của Thái Lan
quy định: "Bạo lực gia đình là bất kỳ hành vi nào đợc thực hiện một cách
cố ý nhằm gây ra những thơng tích về thân thể, sức khoẻ hoặc tinh thần
hoặc các hành vi có khả năng gây nguy hiểm cho thân thể, sức khoẻ hoặc
tinh thần của các thành viên hộ gia đình hoặc cỡng ép lạm dụng quyền lực
để các thành viên hộ gia đình phải thực hiện, không thực hiện hoặc phải
chấp nhận thực hiện những hành vi sai trái, bỏ mặc"[44] .Theo Luật bảo vệ
chống bạo lực gia đình của Bun-ga-ri ngày 29-3-2005: "Bạo lực gia đình là
bất kỳ hành vi bạo lực về thể chất, tinh thần hay tình dục nào, kể cả những
hành vi trên trong giai đoạn cha đạt, cũng nh việc áp đặt hạn chế tự do và
sự riêng t cá nhân, nhằm vào các cá nhân đang hay đã có quan hệ gia đình
hoặc họ hàng sống chung nh vợ chồng hoặc sống chung trong một nhà"
[10].
Theo khoản 2, Điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007
đợc Quốc Hội nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp
thứ 2 thông qua ngày 21 tháng 11 năm 2007 quy định: "Bạo lực gia đình là
hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn
hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong gia
đình".
Nh vậy, dù đợc định nghĩa với nhiều cách khác nhau nhng khi xem
xét bạo lực gia đình, ta có thể thấy các đặc điểm:
+ Thứ nhất, bạo lực gia đình là hành vi bạo lực xảy ra giữa các thành viên
trong gia đình tức là chủ thể có hành vi bạo lực gia đình (ngời gây ra bạo
lực gia đình) phải là thành viên trong gia đình và nạn nhân của bạo lực gia
đình là một trong những thành viên còn lại của gia đình đó.

+ Thứ hai, bạo lực gia đình đợc thực hiện bởi lỗi cố ý chứ không thể là lỗi
vô ý.
+ Thứ ba, bạo lực gia đình là hành vi gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn
hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.
Bạo lực gia đình đang là vấn đề đợc d luận xã hội quan tâm sâu sắc.
Bạo lực gia đình không phải là vấn đề mang tính địa phơng, vùng miền mà
là một vấn đề toàn cầu, ở đâu cũng có, từ các nớc nghèo, nớc đang phát
triển cho đến nớc giàu có, phát triển mạnh về kinh tế và xã hội. Mọi gia
đình thuộc mọi tầng lớp của xã hội đều có thể gặp phải tệ nạn này. Đối tợng
của các hành vi bạo hành gia đình có thể là bất kỳ ai trong đó có cả nam
giới nhng thờng là những thành viên yếu đuối, dễ bị tổn thơng và trong hầu
hết các trờng hợp là phụ nữ, ngời già và trẻ em.
Bạo lực gia đình đều ảnh hởng lâu dài đến sức khoẻ, tâm lý, tình cảm
của mỗi cá nhân. Đặc biệt đối với trẻ em, bạo lực còn ảnh hởng nghiêm
trọng đến sự hình thành nhân cách, hạn chế những cơ hội để trẻ em có một
cuộc sống bình thờng và nhất là tơng lai của các em sau này.
1.2.1.3. Bạo lực chống lại phụ nữ và bạo lực chống lại phụ nữ trong
gia đình
- Bạo lực chống lại phụ nữ : Theo Tuyên ngôn của Đại hội đồng
Liên Hiệp Quốc về việc loại bỏ bạo lực đối với phụ nữ ngày 20/12/1993 :
"Bạo lực đối với phụ nữ là bất kỳ hành động bạo lực dựa trên cơ sở giới
nào dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến những tổn thất về thân thể, tình dục
hay tâm lý, hay những khổ đau của phụ nữ, bao gồm cả sự đe doạ có những
hành động nh vậy, sự cỡng bức hay tớc đoạt một cách tuỳ tiện sự tự do dù
nó có xảy ra trong cuộc sống riêng t hay ở nơi công cộng " [25] .Với cách
định nghĩa nh trên, bạo lực chống lại phụ nữ là các hành vi bạo lực chống
lại ngời phụ nữ trong cuộc sống riêng t (bạo lực gia đình) và các hành vi
bạo lực chống lại phụ nữ ở nơi công cộng (bạo lực ngoài gia đình).
Theo quan điểm của Liên Hợp Quốc, bạo lực chống lại phụ nữ có thể
phân thành 6 lĩnh vực nh sau: 1) Bạo lực trong gia đình; 2) Bạo lực về giới;

3) Những tập tục hủ lậu đối với phụ nữ; 4) Tệ buôn bán phụ nữ và trẻ em
gái; 5) HIV/ AIDS và bạo lực; 6) Những tội ác chống lại phụ nữ trong chiến
tranh lạnh và trong các cuộc xung đột vũ trang.
- Bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình: Quan hệ giới trong gia
đình là một trong những quan hệ cơ bản tạo nên sự tồn tại của một gia đình.
Về thực chất nó là mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới trong gia đình mà
trung tâm là mối quan hệ vợ chồng. Trong mối quan hệ về giới, mặc dù thủ
phạm của hành vi bạo lực gia đình có thể bao gồm cả phụ nữ và nạn nhân
của nó có thể bao gồm cả đàn ông. Tuy nhiên, các nghiên cứu về vấn đề này
cho phép kết luận rằng, bạo lực gia đình về cơ bản là bạo lực chống lại phụ
nữ, và thủ phạm cơ bản là đàn ông. Phần lớn bạo lực chống lại phụ nữ xảy
ra trong gia đình và ngời gây ra bạo lực gần nh luôn luôn là nam giới, thờng
là chồng/ ngời tình, hoặc chồng cũ/ ngời tình cũ, hay những ngời đàn ông
quen biết của phụ nữ
"Bạo lực trên cơ sở giới là bạo lực giữa nam giới và phụ nữ, trong đó
phụ nữ thờng là nạn nhân và điều này bắt nguồn từ các mối quan hệ
quyền lực bất bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ. Bạo lực thờng nhằm
vào phụ nữ vì họ là phụ nữ, hoặc ảnh hởng lớn đến phụ nữ. Bạo lực
trên cơ sở giới bao gồm, những tổn hại về thân thể, tình dục và tâm lý (bao
gồm cả sự đe doạ, gây đau khổ , cỡng bức, và/ hoặc tớc đoạt sự tự do
xảy ra trong gia đình hoặc trong cộg đồng, nhng nó không hạn chế
chỉ ở những dạng này. Bạo lực trên cơ sở giới bao gồm cả bạo lực do
Nhà nớc gây ra hoặc bỏ qua "[40].
Nh vậy, bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình gồm tất cả những
hành động bạo lực nh đe doạ, khống chế, điều khiển, tớc đoạt của nam giới
với phụ nữ trong gia đình gây ra hậu quả hoặc có thể gây ra hậu quả, làm
tổn hại hoặc gây đau khổ cho phụ nữ về thân thể, tâm lý, tình dục hay kinh
tế, kể cả những lời đe doạ hay độc đoán, tớc quyền tự do
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ngoài những đặc điểm của bạo lực
gia đình nói chung còn mang một đặc điểm rất quan trọng để chúng ta nhận

biết và phân biệt với bạo lực gia đình nói chung, đó là, nạn nhân của bạo
lực gia đình đối với phụ nữ chỉ là nữ giới (nạn nhân của bạo lực gia đình
có thể là tất cả đối tợng: nữ giới, nam giới, trẻ em, ngời già, ngời tàn tật ).
Chủ thể thực hiện hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ thờng là nam giới
và thờng là ngời chồng trong hôn nhân, chồng cũ hay bạn tình.
Với những đặc điểm đó, chúng ta cũng phân biệt đợc bạo lực chống
lại phụ nữ nói chung và bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình. Phạm vi,
đối tợng bạo lực chống lại phụ nữ rộng hơn rất nhiều so với bạo lực chống
lại phụ nữ trong gia đình và điều này xuất phát từ yếu tố rất quan trọng là
yếu tố gia đình.
Bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình đợc biểu hiện dới nhiều hình
thức. ở góc độ khái quát, chúng ta có thể nhận biết bạo lực gia đình đối với
phụ nữ dới các hình thức chính nh sau:
Bạo lực thân thể: thể hiện ở việc đánh đập, hành hạ, gây thơng tích
cho ngời phụ nữ Một số nghiên cứu cho rằng hình thức này còn bao gồm
việc hạn chế các nhu cầu thiết yếu (ăn, uống, ngủ ) của nạn nhân.
Bạo lực tình dục: Thể hiện ở việc cỡng hiếp hay ép buộc nạn nhân
làm tình hay xem phim, ảnh khiêu dâm dù họ không muốn, không có nhu
cầu, hoặc khi đang bị đau ốm, thậm chí, một số phụ nữ còn bị ép quan hệ
tình dục sau khi đã bị đánh đập, cố tình gây đau đớn hoặc tổn hại cho họ
trong qúa trình quan hệ sinh lý, ngời phụ nữ không có quyền từ chối.
Bạo lực về tâm lý: Thể hiện ở việc bắt nạn nhân sống trong bầu
không khí sợ hãi, khủng bố nạn nhân đến hoảng loạn tâm thần, nhục mạ
nạn nhân trớc ngời thân hoặc công chúng điều này đôi khi làm cho ngời
phụ nữ ngộ nhận về bản thân họ, vì vậy, nhiều phụ nữ đã tìm đến cái chết.
Bạo lực về xã hội: Thể hiện ở việc cắt đứt mối quan hệ của nạn nhân
và mối quan hệ của nạn nhân với ngời thân trong gia đình, bạn bè, cô lập
nạn nhân bằng cách nhốt trong nhà, cắt điện thoại, không cho đi đâu hay
không cho giao tiếp với bất cứ ai
Bạo lực về kinh tế: Thể hiện ở việc bao vây kinh tế, kiểm soát tiền

bạc, bắt nạn nhân phụ thuộc về tiền bạc, không cho giữ tiền và đi làm, bắt
phải hỏi xin tiền và chứng minh mọi mua mua sắm, chi tiêu dù lớn hay
nhỏ
Cách phân chia các hình thức bạo lực nh trên chỉ nhằm mục đích
phân loại trên các cơ sở. Còn trên thực tế, khó có sự phân biệt một cách
rạch ròi các kiểu bạo lực nh vậy. Các hành vi bạo lực gia đình đối với phụ
nữ thờng có sự kết hợp của nhiều hành vi bạo lực. Có những hành động bạo
lực thuộc về một loại hình bạo lực, nhng cũng có hành động bạo lực thờng
kết hợp từ hai hay nhiều hình thức bạo lực. Thực tế các trờng hợp bạo lực
trong xã hội cho chúng ta thấy hành động đánh đập (bạo lực thể chất) thờng
đi kèm với hành động chửi mắng, nhiếc móc, nhục mạ (bạo lực tinh thần)
hoặc trờng hợp bạo lực tình dục thờng kết hợp cả hai hình thức bạo lực thể
chất (dùng vũ lực cỡng bức - trờng hợp cỡng dâm, hiếp dâm) và bạo lực tinh
thần, tình cảm (làm nạn nhân xấu hổ, nhục nhã, đau khổ). Các hành vi bạo
lực gia đình đối với phụ nữ đều để lại vết sẹo tâm lý đối với ngời phụ nữ và
tạo ra bầu không khí ảm đạm, buồn đau trong gia đình, làm mất điều kiện
phát triển tốt của trẻ em trong gia đình.
1.2.1.4. Khái niệm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
Lịch sử đã chứng minh vai trò vô cùng quan trọng của ngời phụ nữ
trong xã hội. Hiện nay ở Việt Nam, với sự cố gắng mọi mặt, nhiều ngời phụ
nữ đã đạt đợc những thành công lớn, góp phần quan trọng vào công cuộc
xây dựng đất nớc, đợc Nhà nớc và xã hội tôn vinh, có một gia đình êm ấm,
hạnh phúc. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cũng nh ở nhiều
quốc gia khác, ngời phụ nữ Việt Nam còn phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn nh: bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử liên quan đến giới và đặc biệt
là vấn đề bạo hành về giới. Rất nhiều ngời phụ nữ còn phải chịu bạo lực
trong thời gian dài thậm chí trong suốt cuộc đời của mình với những hành
vi đánh đập, hành hạ dã man, tàn bạo, tạo nên vết thơng khó lành trong trái
tim ngời phụ nữ. Bạo lực gia đình đối với phụ nữ là vi phạm quyền con ng-
ời; vi phạm quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử của con ngời; vi

phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm của ngời
phụ nữ Chính vì vậy, ngời phụ nữ cần đợc bảo vệ khỏi bạo hành để họ đợc
sống, làm việc, cống hiến và phát triển trong xã hội. Việc phòng và chống
bạo lực gia đình đối với ngời phụ nữ là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân,
là trách nhiệm của mỗi gia đình và toàn xã hội.
Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là việc thực hiện các
biện pháp nhằm ngăn chặn và đẩy lùi bạo hành đối với phụ nữ trong gia
đình, giúp cho ngời phụ nữ tránh đợc bạo lực gia đình, bảo đảm các quyền
con ngời và có cuộc sống hạnh phúc.
Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một công việc khó
khăn và lâu dài. Để bảo vệ ngời phụ nữ, bảo vệ quyền và vị trí của ngời phụ
nữ trong xã hội, việc phòng, chống bạo lực gia đình đối với ngời phụ nữ cần
thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Việc phòng, chống bạo lực gia
đình đối với ngời phụ nữ chỉ đạt đợc hiệu quả khi nó đợc đặt dới sự bảo vệ
của pháp luật và phù hợp với pháp luật, phù hợp với truyền thống tốt đẹp
của dân tộc. Ngời phụ nữ cần phải đợc bảo vệ mọi mặt trong hành lang
pháp lý hoàn thiện bởi vì pháp luật chính là đại lợng công bằng và phơng
tiện hữu hiệu nhất trong việc che chắn, bảo vệ ngời phụ nữ trớc nạn bạo
hành gia đình. Chính vì vậy, vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình nói
chung trong đó có phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ đã đợc
Luật hoá, là một trong những vấn đề quan trọng đợc đặt dới sự điều chỉnh
của pháp luật. Cho đến nay, Việt Nam đã xây dựng đợc một hệ thống pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình đặc biệt, lần đâqù tiên, Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình đã ra đời. Đây chính là cơ sở pháp lý để bảo vệ con
ngời trong đó có ngời phụ nữ trớc bạo hành gia đình.
Nghị quyết của Quốc hội về chiến lợc phát triển kinh tế xã hội 5 năm
(2006-2010) đề ra nhiệm vụ " Đấu tranh phòng, chống bạo lực gia đình".
Thủ tớng Chính phủ đã ban hành Chiến lợc xây dựng gia đình Việt Nam
giai đoạn 2005-2010, trong đó có mục tiêu tăng cờng phòng, chống bạo lực
gia đình và giảm tỷ lệ bạo lực gia đình, bình quân hàng năm từ 10-15%.

Chính phủ Việt Nam đã tham gia rất mạnh mẽ phong trào quốc tế
trong việc bảo vệ ngời phụ nữ và đẩy lùi bạo lực gia đình. Việt Nam đã phê
chuẩn Công ớc về Xoá bỏ mọi Hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ
(CEDAW) năm 1981 và cam kết với kế hoạch hành động của Hội nghị
quốc tế về Dân số và Phát triển tại Cai-rô năm 1994 và Cơng lĩnh hành
động của Hội nghị quốc tế về phụ nữ tại Bắc Kinh năm 1995. Với t cách là
quốc gia thành viên của công ớc CEDAW, Việt Nam đã có những tiếp cận
theo đúng cách tiếp cận của công ớc đối với bình đẳng và bình đẳng giới.
Điều này đợc thể hiện trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, từ đạo luật
gốc là Hiến pháp đến các đạo luật và các văn bản pháp luật khác đều khẳng
định một nguyên tắc bình đẳng nam nữ và không có bất kỳ sự phân biệt nào
trên cơ sở giới trên mọi lĩnh vực.
Phòng, chống bạo lực gia đình trong đó có phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ đã đợc đề cập trong một số văn bản pháp luật của nớc ta
nh: Hiến pháp 1992, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Bộ luật Dân sự
năm 2005, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố
tụng Hình sự 2003, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Pháp lệnh xử
lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh ngời cao tuổi
Những văn bản pháp luật trên đã có rất nhiều quy định về phòng,
chống bạo lực gia đình, góp phần quan trọng trong bảo vệ ngời phụ nữ khỏi
bạo lực gia đình. Để công tác phòng, chống bạo lực gia đình có hiệu quả
hơn nữa, ngày 21 tháng 11 năm 2007, Quốc hội khoá XII của nớc Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình. Luật phòng, chống bạo lực gia đình ra đời là một bớc tiến tích cực, có
ý nghĩa rất lớn để chúng ta tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình, bảo vệ quyền con ngời, bảo vệ ngời phụ nữ, tiếp tục
sự nghiệp giải phóng ngời phụ nữ, xây dựng nhà nớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình lần đầu tiên ra đời nh tiếng chuông lớn cảnh tỉnh những ai đang
có hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ, gửi đến tất cả các chủ thể trong

xã hội một thông điệp rõ ràng rằng bạo lực gia đình nói chung và bạo lực
gia đình đối với phụ nữ là trái với đạo đức, đi ngợc lại truyền thống đạo đức
tốt đẹp của dân tộc, trái với ý chí chung của xã hội, là vi phạm pháp luật, vi
phạm những chuẩn mực chung của xã hội và phải chịu sự trừng phạt của xã
hội, của pháp luật.
Toàn bộ các quy định liên quan đến bạo lực gia đình trong các văn
bản pháp luật kể trên hợp thành một hệ thống pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình trong đó ngời phụ nữ là một trong những đối tợng đợc bảo
vệ khỏi sự tấn công của bạo hành gia đình. Nh vậy, chúng ta không có một
hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ riêng mà
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình cũng nh các văn bản pháp luật khác
trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình quy định và áp dụng, bảo vệ
đối với tất cả các chủ thể trong gia đình : nam giới, phụ nữ, trẻ em, ngời
già khi họ là nạn nhân của bạo lực gia đình. Vì vậy, phụ nữ là một trong
các đối tợng đợc bảo vệ trong hành lang pháp lý phòng, chống bạo lực gia
đình chung.
Pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình không chỉ ghi nhận quyền
con ngời nói chung trong đó có ngời phụ nữ mà còn quy định rõ các hành vi
nào là bạo lực gia đình, hành vi nào bị cấm trong lĩnh vực phòng, chống bạo
lực gia đình; trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc phòng,
chống bạo lực gia đình; quy định những thiết chế bảo đảm việc phòng,
chống bạo lực gia đình đối với ngời phụ nữ đạt đợc hiệu quả.
Từ những phân tích trên, có thể khái niệm pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình nh sau:
Pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình là hệ thống các quy định
pháp luật do nhà nớc ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội về phòng, chống bạo lực gia đình và các lĩnh vực khác có
liên quan.
1.2.2. Nội dung của pháp luật phòng chống bạo lực gia đình
Nhìn vào hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, ta thấy,

không có nhiều quy phạm pháp luật quy định riêng, trực tiếp về việc phòng,
chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ mà những quy định chung đó áp
dụng với tất cả các đối tợng.
Trong hệ thống pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, Hiến
pháp là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất. Điều 63, Hiến pháp
1992 quy định: "nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc
phạm nhân phẩm phụ nữ "; "vợ chồng phải thơng yêu nhau, bình đẳng và
không phân biệt đối xử".
Cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp 1992, nội dung phòng, chống
bạo lực gia đình đối với phụ nữ đợc quy định trong nhiều văn bản pháp luật
khác. Tiêu biểu là những quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 là một
trong những văn bản đó. Bộ luật Hình sự là căn cứ để xác định hành vi
bạo lực gia đình nào là hành vi phạm tội. Điều 130, Bộ luật Hình sự năm
1999 quy định tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ: "ngời nào dùng
vũ lực hoặc có hành vi nghiêm trọng khác cản trở phụ nữ tham gia hoạt
động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội, thì bị phạt cảnh cáo, cải
tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm".
Ngoài ra, Bộ luật hình sự Việt Nam đã hình sự hoá nhiều hành vi bạo lực
gia đình, quy định thành nhiều tội phạm liên quan đến bạo lực gia đình. Tuy
nhiên, những điều luật đó mới chỉ quy định gián tiếp về hành vi bạo lực gia
đình, cha có nhiều quy định trực tiếp về phòng, chống bạo lực gia đình
trong đó có bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
Cùng với Bộ luật Hình sự, Luật Tổ chức Chính phủ cũng quy định
nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ: "thực hiện chính sách và biện pháp
bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ về mọi mặt chính trị, kinh tế,văn hoá, xã
hội và gia đình; bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và thực hiện quyền trẻ em; giúp đỡ
ngời già, ngời khuyết tật và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt; có biện

×