BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC
GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
ĐẶNG THÁI BÌNH
KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG THA HÓA VỀ ĐẠO ĐỨC
CỦA MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 92 29 001
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS.Trần Phúc Thăng
2
HÀ NỘI – 2018
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Luận án này được GS.TS. Trần Phúc Thăng hướng dẫn. Các số
liệu, kết quả sử dụng trong luận án là trung thực. Các kết luận của
luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Đặng Thái Bình
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy GS.TS Trần Phúc Thăng đã tận tâm, tận lực
hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận án; cảm ơn các nhà khoa học cùng
thầy cô giáo Khoa Triết học của Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã tham gia
đóng góp ý kiến giúp cho luận án của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin gửi lời
cảm ơn sâu sắc tới Ban Quản lý đào tạo sau Đại học cùng các phòng ban đã tạo
điều kiện giúp tôi hoàn thiện giấy tờ thủ tục trong suốt 3 năm qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Đặng Thái Bình
CHỮ VIẾT TẮT
NCS
ĐCSVN
SL
CNXH
XHCN
: Nghiên cứu sinh
: Đảng Cộng sản Việt Nam
: Sắc lệnh
: Chủ nghĩa xã hội
: Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
9
ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hơn 88 năm, từ khi Đảng ra đời cho đến nay chưa có thời kỳ nào lại đề
cập nhiều đến tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý như giai đoạn hiện nay. Tình trạng này lan
rộng ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực. Thực chất, đây là tình trạng tha hóa về
đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đề cập đến vấn đề này
Đảng liên tục đưa ra các chỉ thị, nghị quyết nhằm khắc phục tình trạng này, cụ
thể là: Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII) về “Một số nhiệm vụ đổi mới và
chỉnh đốn Đảng”; Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2 khoá VIII) về “Một số vấn
đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay ”; Kết luận Hội
nghị Trung ương 4 (khoá IX) về “Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí”; Nghị quyết
Trung ương 3 (khoá X): “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; Tiếp theo là Nghị quyết Trung ương 4
(Khóa XI) với nội dung cốt lõi là 3 vấn đề cấp bách và 4 nhóm giải pháp nhằm
hạn chế tối đa tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo,
quản lý; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã đưa ra 27 biểu hiện suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán
bộ, Đảng viên trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý. Các Nghị quyết trên đều đã
đi vào cuộc sống và có tác dụng không nhỏ.
Tuy nhiên, việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức cán bộ vẫn còn
tồn tại những hạn chế nhất định. Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) “ Một số vấn
đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay ” thẳng thắn đánh giá về công tác khắc
phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ chưa đạt yêu cầu
như mong muốn. “Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn
không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài
nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối
10
với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của
Đảng và sự tồn vong của chế độ... Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao
cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác
nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực
dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí,
tùy tiện, vô nguyên tắc”[34, tr. 2122]; việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo
đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa đạt kết quả như mong đợi.
“Tình trạng suy thoái về chính trị đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên, chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp
hơn” [37, tr. 44], thậm chí có mặt nghiêm trọng, có khuyết điểm, yếu kém phải
sửa chữa cấp bách nhưng vẫn chưa được khắc phục, có mặt còn gây băn khoăn,
lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý
nếu không được khắc phục sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy, có thể làm suy yếu Đảng,
suy yếu chính quyền, làm mất niềm tin của nhân dân, thậm chí có thể liên quan
đến sự tồn vong của đất nước.
Nhận thấy vấn đề khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ
phận cán bộ lãnh đạo, quản lý là vấn đề cấp bách cần phải quyết liệt thực hiện,
tôi chọn vấn đề “Khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận
cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ triết
học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về khắc phục tình trạng tha hóa đạo đức và thực trạng
việc khắc phục tình trạng này, luận án luận giải một số quan điểm và giải pháp
chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của
một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
11
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận tha hóa về đạo đức và khắc phục tình
trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam
hiện nay.
Thứ hai, khái quát về thực trạng, nguyên nhân của thực trạng khắc phục
tình. trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới và nêu một số vấn đề đặt ra từ thực trạng này.
Thứ ba, luận giải một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo
đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới, đặc biệt từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ trương đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về
đạo đức con người, đạo đức cán bộ, về xây dựng đạo đức đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Ngoài ra, luận án có tham khảo các kết quả của những công trình nghiên
cứu đã được công bố có liên quan đến nội dung của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp “duy vật biện chứng” và phương pháp
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –Lênin.
12
Luận án cũng sử dụng một số phương pháp cụ thể, trong đó chủ yếu là
phương pháp lịch sử lôgíc, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Góp phần làm rõ quan niệm tha hóa về đạo đức và khắc phục tình trạng
tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam.
Góp phần làm rõ yêu cầu cấp thiết của việc khắc phục tình trạng tha
hóa về đạo đức ở một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý, đồng thời chỉ ra thực
trạng, nguyên nhân của thực trạng việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức
của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Luận giải một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về lý luận, luận án góp phần làm rõ những biểu hiện của tình trạng tha
hóa đạo đức và quan niệm khắc phục tha hóa đạo đức của một bộ phận cán bộ ở
Việt Nam hiện nay.
Về thực tiễn: Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng đội
ngũ cán bộ của Đảng và vấn đề chống tiêu cực ở Việt Nam giai đoạn hiện nay
và cho việc nghiên cứu, giảng dạy môn: Triết học; Đạo đức học và các môn liên
quan đến giáo dục đạo đức cán bộ, đảng viên trong các trường Chính trị, học
viện, trường Đại học và các trường Cao đẳng.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận án gồm 3 chương, 7 tiết.
13
14
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LUẬN ÁN
Trong những năm gần đây xuất hiện nhiều công trình khoa học nghiên cứu
tình trạng tha hóa cả về lý luận và thực tiễn. Các công trình nghiên cứu đặc biệt
tập trung vào vấn đề tha hóa đạo đức. Cụ thể:
1.1. Những công trình liên quan đến vấn đề lý luận về khắc phục tình trạng
tha hóa và tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
Việt Nam hiện nay
1.1.1. Lý luận về đạo đức
Đạo đức là một phạm trù được hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại.
Từ xưa đến nay, có nhiều nhà triết học, nhà tư tưởng bàn về đạo đức. Ở mỗi thời
kỳ lịch sử, mỗi dân tộc khác nhau người ta có những quan niệm về đạo đức khác
nhau. Ở nước ta, vấn đề đạo đức luôn được coi trọng. Đặc biệt từ khi bước vào
thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề lý luận
về đạo đức càng được đề cập nhiều hơn. Đi sâu về vấn đề này có một số công
trình nghiên cứu sau:
Bàn về giá trị đạo đức ở Việt Nam trong thời kỳ kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa, tác giả Phạm Văn Đức (2002) có bài viết: “ Mối quan hệ
giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay”.
Tác giả đánh giá thành tựu của 15 năm đổi mới. Tuy nhiên bên cạnh những
thành công về mặt kinh tế là sự xuống cấp về đạo đức. Điều đó có liên quan đến
mặt trái của cơ chế thị trường. Theo tác giả, mặt trái của cơ chế thị trường tác
động tiêu cực tới các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có đạo đức.
Tác giả chỉ ra hai khuynh hướng với hai quan niệm khác nhau về đạo
đức:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: nguyên nhân dẫn đến “sự xuống cấp về đạo
đức xã hội bắt nguồn từ việc khuyến khích lợi ích cá nhân của người lao động,
rằng lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội là hai yếu tố hoàn toàn không dung hợp
với nhau” [40]. Phê phán quan niệm này, tác giả khẳng định: “Vì, sự sống còn của
bản thân mình, con người có nhu cầu chung phải liên kết với nhau. Bản thân
những nhu cầu chung này là cơ sở nảy sinh những lợi ích chung giữa họ. Song,
ngoài những lợi ích chung đó, mỗi con người lại có những lợi ích riêng nảy sinh
trên cơ sở của các nhu cầu được hình thành từ những hoàn cảnh lịch sử cụ thể”
[40]. Điều này cho thấy giữa lợi ích chung và lợi ích riêng có sự thống nhất với
nhau, từ đó dẫn đến xem xét đạo đức cũng dựa trên mối quan hệ giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích cộng đồng.
15
Quan điểm thứ hai cho rằng: “cơ chế thị trường là môi trường thuận lợi để
phát huy vai trò chủ thể cá nhân, là cơ chế tốt cho nhân cách phát triển trong
điều kiện hiện nay”[40]. Điều này cũng chỉ đúng ở khía cạnh nhất định. Tuy
nhiên, chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận cạnh tranh, từ chỗ cạnh tranh
đánh vào lợi ích của con người mà lợi ích của con người cũng có hai mặt, lợi
ích chính đáng và lợi ích không chính đáng. Khi nào con người biết điều chỉnh
hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng thì con người sẽ điều chỉnh
được lợi ích chính đáng. Khi điều chỉnh được lợi ích chính đáng thì “không
những tạo ra những sản phẩm thoả mãn các nhu cầu cá nhân của mình, góp
phần làm giàu cho bản thân, mà còn góp phần xoá đói, giảm nghèo, làm giàu
cho xã hội” và “đến lượt nó, sự giàu có chính đáng của cá nhân đã làm nảy sinh
ở con người những tấm lòng hào phóng, từ thiện, sự thân ái, lòng vị tha” [40],
khi ấy hành vi đạo đức của con người được xã hội đồng tình. Ngược lại khi
con người tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân thì con người dễ bị tha hóa về đạo đức
và khi ấy xã hội sẽ lên án.
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ lợi ích cá nhân, lợi ích cộng đồng, tác giả
chỉ ra mặt trái của cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay có tác động tiêu cực
tới đạo đức truyền thống:
Một là, xem nhẹ đạo đức truyền thống, không đề cao đạo lý, chạy theo lối
sống gấp, sống vội và sa vào lối sống trụy lạc.
Hai là, sự phản ứng của xã hội đối với các hành vi vô đạo đức, phi đạo
đức cũng giảm đi; sự lên án những thói hư, tật xấu và những hành vi vô đạo
đức, phi đạo đức không được đề cao. Tình trạng số người có quan điểm thờ ơ
với những tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng.
Ba là, thói đạo đức giả ngày càng có chiều hướng gia tăng.
Tất cả những biểu hiện trên là do lối sống thực dụng, chạy theo danh lợi cá
nhân, coi thường lợi ích cộng đồng. Có thể nói vấn đề tuyệt đối hóa lợi ích cá
nhân trong nền kinh tế thị trường là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tha hóa về
đạo đức. Muốn điều chỉnh vấn đề này thì phải xem xét về mặt lợi ích, lợi ích đó
có phù hợp với lợi ích chung của xã hội hay không. Đồng thời, không nên phán
xét một cách tầm thường, sự xuống cấp về đạo đức bắt nguồn từ khuyến khích
lợi ích cá nhân.
Tác giả Lê Duy Chương (2007) “Thấm nhuần tư tưởng cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư của Hồ Chí Minh” [13]. Bài viết đã lý giải sâu sắc tư tưởng
Hồ Chí Minh về cốt lõi của đạo đức cách mạng là “cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư”.
16
Tác giả bài viết chỉ ra: Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm
lược đã sản sinh ra những cán bộ, đảng viên không tiếc tuổi xuân, dũng cảm, tiên
phong trong cuộc đấu tranh một mất, một còn vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. “Nhiều người trong số họ đã không được hưởng niềm vui của ngày độc lập,
thống nhất đất nước”[13], nhưng họ xứng đáng là những tấm gương tiêu biểu
nhất về sự “chí công, vô tư”, đặt lợi ích tối cao của đất nước lên trên lợi ích cá
nhân. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay vẫn còn không ít cán bộ, lãnh đạo,
quản lý suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; thiếu tinh thần trách
nhiệm trước nhiệm vụ được giao; không chịu học tập, lười rèn luyện, không
dám đương đầu với khó khăn, gian khổ; quan liêu, tham nhũng, lãng phí…”Chính
họ là một lực cản của tiến bộ xã hội; là một trong những nguyên nhân làm ảnh
hưởng đến uy tín của Đảng, làm giảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, làm vẩn
đục đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, điều mà toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta đang dày công vun đắp”[13]. Những tệ nạn này đã gây bức xúc
cho toàn xã hội.
Từ phân tích thực trạng, tác giả đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm rèn
luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Theo tác giả, người cán bộ
muốn tu dưỡng được đạo đức cách mạng thì cần phải thực hiện những quan
điểm sau:
Thứ nhất, mọi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí
Minh về đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” sâu sắc hơn
nữa .
Thứ hai, muốn việc giáo dục đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư” tốt hơn thì phải khôi phục và đẩy mạnh phong trào thi đua
“Người tốt, việc tốt”, thực hiện nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức trong
cán bộ, đảng viên.
Thứ ba, phương pháp giáo dục đạo đức cách mạng là phải kết hợp chặt chẽ
giữa “xây và chống”. “Xây dựng ý thức và thói quen hành vi đạo đức cho cán bộ,
đảng viên không đơn thuần chỉ là quá trình tuyên truyền, giáo dục về các giá trị,
chuẩn mực đạo đức cách mạng, mà còn là quá trình đấu tranh, khắc phục, loại
bỏ dần thói hư, tật xấu của con người” [13].
Từ những phân tích trên tác giả đi đến kết luận: mỗi cán bộ, đảng viên, cho
đến người dân, ai cũng phải có ý thức tự tu dưỡng đạo đức cách mạng. Việc tu
dưỡng đạo đức cách mạng là việc làm thường xuyên, suốt đời. Trên cơ sở bài
viết, tác giả luận án nhận thấy đây là bài viết có giá trị về mặt lý luận và thực
tiễn sâu sắc, đặc biệt tác giả bài viết chỉ ra không nhất thiết khó khăn, gian khổ
mà con người bị tha hóa về đạo đức và thậm chí ngược lại họ còn hy sinh vì
17
nhau, hy sinh cho nhau. Tuy nhiên giai đọan hiện nay điều kiện kinh tế tốt hơn
con người dễ nảy sinh tình trạng tha hóa về đạo đức. Rõ ràng việc giáo dục đạo
đức có vấn đề, chính điều này tác giả luận án kế thừa trong phần giải pháp của
mình.
Cùng chủ đề này, tác giả Đoàn Quốc Thái (2010) có bài viết “Bàn thêm về
khái niệm “giá trị đạo đức”[132]. Trong bài viết này, tác giả đã khái quát những
quan điểm về đạo đức trong lịch sử triết học và những quan điểm của các nhà
khoa học về đạo đức và giá trị đạo đức; tác giả đi sâu vào phân tích, làm rõ khái
niệm “đạo đức”, khái niệm “giá trị đạo đức”. Từ những phân tích trên, tác giả
xác định những chuẩn mực giá trị đạo đức phải căn cứ vào không gian và thời
gian của nó, nghĩa là giá trị đạo đức có tính lịch sử. Tác giả cũng chỉ ra tính chất
chung, tính đặc thù, tính đơn nhất của đạo đức. Ngoài ra tác giả còn cho thấy tính
tương đối ổn định của chuẩn mực, giá trị đạo đức ở từng giai đoạn lịch sử nhất
định. Ở mỗi một thời đại khác nhau, người ta đưa ra những chuẩn mực đạo đức
khác nhau, giá trị của nó cũng khác nhau. Không chỉ khác nhau về thời gian mà
chuẩn mực giá trị đạo đức cũng khác nhau về không gian. Ở mỗi quốc gia, dân
tộc, tôn giáo đều có những quy định đặc thù về chuẩn mực giá trị của đạo đức.
Không chỉ vậy, tác giả bài viết còn cho thấy: ở mỗi mối liên hệ xã hội khác nhau
thì chuẩn mực giá trị đạo đức cũng khác nhau, thậm chí còn đối lập nhau.
Từ những quan điểm trên tác giả khẳng định: “giá trị đạo đức là sự bộc lộ
thái độ của cá nhân, nhóm xã hội, tập đoàn xã hội về lợi ích”[132] và “giá trị đạo
đức gắn với hoạt động thực tiễn của con người, định hướng cho hành động của
con người”[132]. Theo tác giả: “giá trị đạo đức là toàn bộ những quan niệm về
thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng và các chuẩn
mực, quy tắc ứng xử được con người đánh giá, lựa chọn, cũng như ý nghĩa tích
cực của những quan niệm, chuẩn mực, quy tắc ứng xử đó đối với con người và
đời sống xã hội”[132]. Trên cơ cơ bài viết, tác giả luận án nhận thấy đây là bài
viết rất sâu sắc, đặc biệt việc phân tích giá trị đạo đức có tính lịch sử và sự phân
biệt giá trị đạo đức ở thiện ác, tốt xấu, lương tâm, trách nhiệm, đây cũng là cơ sở
tác giả luận án kế thừa để triển khai phần lý luận của mình.
Viết về lĩnh vực đạo đức, tác giả Mai Xuân Hợi (2014) có bài: “Giá trị đạo
đức và sự biểu hiện của nó trong đời sống xã hội” [55]. Trong bài viết, tác giả
bàn về đạo đức và giá trị của nó trong đời sống xã hội ở những phương diện
sau:.
Thứ nhất, tác giả bàn về giá trị đạo đức: theo tác giả, giá trị đạo đức là cái
mà do nó đã làm cho một khách thể nào đó có ích, có nghĩa, đáng quý đối với chủ
thể, được mọi người thừa nhận. Từ khái niệm tác giả chỉ ra “lợi ích xã hội là
18
tiêu chuẩn khách quan của các giá trị đạo đức” [55]. Giá trị đạo đức được xác
định bởi “lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương” [55].
Như vậy, để xác định hành vi có đạo đức phải dựa vào niềm tin cá nhân và
dư luận xã hội đồng tình. ủng hộ. Để chứng minh cho vấn đề này tác giả trích
câu của Ăngghen: "trong một xã hội mà mọi động cơ đẩy tới trộm cắp đều bị
loại trừ, do đó dần dần hầu như chỉ có những người mắc bệnh tinh thần mới
phạm tội trộm cắp, thì một nhà truyền bá đạo đức nào muốn trịnh trọng tuyên
bố cái chân lý vĩnh cửu: không được trộm cắp, sẽ bị người ta chê cười"[55]
Thứ hai, bàn về tính chất của đạo đức: theo tác giả đạo đức vừa có tính chất
riêng vừa có tính chất chung, tùy vào mối quan hệ để xác định tính chất của đạo
đức.
Thứ ba, bàn về chức năng của đạo đức.Tác giả chỉ ra ba chức năng bao
gồm: chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục, chức năng nhận thức, ba
chức năng này có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau tạo thành
chỉnh thể của đạo đức của xã hội nhất định.
Từ ba phương diện tiếp cận tác giả đi đến kết luận: “giá trị đạo đức được
hình thành ở mỗi cá nhân luôn phụ thuộc vào việc các cá nhân ấy được giáo
dục và tiếp nhận những tư tưởng và các chuẩn mực đạo đức đúng đắn của xã
hội”[55]. Như vậy, vấn đề giáo dục và sự tiếp nhận vấn đề giáo dục là một
trong những cơ sở quan trọng hình thành giá trị đạo đức. Tiếp thu quan điểm
nói trên tác giả luận án kế thừa để bổ sung vào phần lý luận, thực trạng và giải
pháp trong luận án của mình.
Ngô Thành Can (2017): “Đạo đức công chức trong thực thi nhiệm vụ” Nhà
xuất bản Tư pháp
Đề tài đi sâu vào phân tích đạo đức công chức, đặc biệt làm rõ một số quan
điểm sau:
Thứ nhất, những khái niệm liên quan đến đạo đức công chức và chỉ ra tính
tất yếu của việc xây dựng đạo đức công chức trong điều kiện kinh tế thị trường
ở nước ta hiện nay
Thứ hai, đạo đức công chức trong thi hành công vụ, đặc biệt đề tài khảo sát
đạo đức công chức trong thực thi công vụ.
Thứ ba, chỉ ra những chuẩn mực và nguyên tắc xây dựng đạo đức công chức
ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề tài đề xuất một số giải pháp có tính khả thi trong
việc xây dựng đạo đức công chức trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Đây là một đề tài có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn, đáp ứng được
những vấn đề cấp thiết khi một bộ phận công chức đang có những biểu hiện tha
19
hóa về đạo đức. Từ đề tài này, tác giả luận án nhận thấy cán bộ lãnh đạo, quản
lý thường là công chức, viên chức trong hệ thống chính trị. Thực hiện đạo đức
người cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng có nghĩa là thực hiện đạo đức công chức.
Trên cơ sở kế thừa tác giả luận án bổ sung vào phần giải pháp và đưa ra quan
điểm: cần phải có luật về thực hiện đạo đức của người cán bộ lãnh đạo, quản
lý.
Tóm lại, tất cả các tác phẩm nói trên là những công trình nghiên cứu công
phu của các tác giả. Tuy tiếp cận đạo đức ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng các
tác giả đều tập trung vào xây dựng đạo đức cán bộ, công chức nhằm hoàn thiện
đạo đức cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào
đề cập đến việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán
bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay. Đây cũng là mảnh đất mà tác giả
luận án tiếp tục khai thác.
1.1.2. Lý luận về tha hóa
Phạm trù “tha hóa” được hình thành từ rất sớm trong lịch sử triết học cận
đại. Tuy nhiên, phạm trù “tha hóa” được trình bày một cách hệ thống bắt đầu từ
triết học Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, tha hóa đã trở thành một
phạm trù nổi bật nhất, trung tâm nhất và được các nhà triết học nổi tiếng
như Hêghen và Phoiơbắc, sau này là Mác sử dụng. Có một số công trình đã
nghiên cứu về vấn đề này:
Tác giả Vũ Quang Tạo (2008) có bài viết: “C. Mác và sự nghiệp giải phóng
con người trong thời đại ngày nay” [131].
Tác giả đi sâu vào phân tích quan điểm của Mác về lao động bị tha hóa trong
“Bản thảo kinh tế triết học 1844” đồng thời chỉ ra những biến đổi của chủ
nghĩa tư bản hiện nay, tác giả khẳng định, sự biến đổi đó vẫn không xóa bỏ
được tình trạng tha hóa như Mác đã từng đề cập trong “Bản thảo kinh tế triết
học 1844”. Theo tác giả sự biến đổi của chủ nghĩa tư bản diễn ra do mâu thuẫn
gay gắt giữa nhà tư bản và người công nhân, trong quá trình mâu thuẫn ấy, chủ
nghĩa tư bản bắt buộc phải tìm cách giải quyết, cách thức giải quyết ấy diễn ra
như sau:
Thứ nhất, những thay đổi và điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản vẫn không
làm thay đổi bản chất của chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Sự thay
đổi đó, chẳng qua chỉ là những biện pháp xả van an toàn, tháo ngòi nổ của những
mâu thuẫn giữa tư bản và lao động làm thuê, giữa giai cấp tư sản và toàn thể
nhân dân lao động vốn đang tồn tại trong xã hội tư bản hiện đại. Theo tác giả
chủ nghĩa tư bản xoa dịu đấu tranh của người công nhân “bằng cách bán những
cổ phần nhỏ nhoi cho người công nhân, làm cho họ lầm tưởng như được dự
20
phần ăn chia lợi nhuận, tham gia vào tổ chức, quản lý doanh nghiệp tư bản,
nhưng trong thực tế, các biện pháp này không giúp những người công nhân và đa
số cổ đông bé nhỏ có đủ tiếng nói quyết định trong các công ty tư bản, càng
không đủ sức thay đổi sở hữu tư bản chủ nghĩa”[131]. Như vậy, trong chủ nghĩa
tư bản, mặc dù đã có điều chỉnh nhưng vẫn không xoa dịu được mâu thuẫn vốn
có của nó.
Thứ hai, tác giả chỉ ra rằng: những tiến bộ của khoa học, công nghệ hiện
đại không thể giúp con người nói chung, giai cấp công nhân nói riêng bớt đau khổ
và thoát khỏi tình trạng tha hóa.
Thứ ba, tác giả cho thấy sự khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản
diễn ra ngày càng thường xuyên và không kém phần trầm trọng, tốc độ
tha hóa con người ngày càng tăng, thói ích kỷ, vụ lợi, tính cách lạnh lùng, tàn
nhẫn và chủ nghĩa cá nhân cực đoan trong mọi tầng lớp xã hội ngày càng trở nên
phổ biến, khiến đa số công nhân lâm vào cảnh khốn khổ, bần cùng hóa, sự phản
kháng của người công nhân trong xã hội tư bản ngày càng diễn ra mạnh mẽ, từ
đó dẫn tới các cuộc chiến tranh giữa người và người trong xã hội tư bản ngày
một trở nên tàn khốc hơn.
Thứ tư, trong phạm vi toàn cầu, chủ nghĩa tư bản vẫn lộ nguyên hình là thủ
phạm gây chiến tranh giết hại con người, nhân tố cơ bản gây ô nhiễm môi
trường sống, giam hãm hàng tỉ con người trong cảnh nghèo đói, khốn khổ.
Thực tế ngày nay ở những điểm nóng trên thế gới, những mâu thuẫn tôn
giáo, dân tộc, nhưng cuộc chiến tranh cục bộ, chi ến tranh ủy nhi ệm đều có bàn
tay của chủ nghĩa tư bản. Vấn đề Liên Xô và Đông Âu sụp đổ cũng có bàn tay
trực tiếp hoặc gián tiếp của CNTB. Mặc dù CNTB còn mạnh nhưng không làm
suy giảm vai trò của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản với tư cách một chế
độ xã hội giải phóng con người, mang lại tự do, hạnh phúc cho con người.
Từ những phân tích trên, tác giả chỉ ra những vấn đề cơ bản để giải phóng
con người trong giai đoạn hiện nay. Theo tác giả muốn giải phóng con người thì
phải thực hiện những vấn đề sau:
Một là, “xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu là giải phóng những người
công nhân khỏi ách thống trị của chế độ tư hữu và trả lại cho con người một đời
sống đích thực thay vì một”[131] “đời sống bị tha hóa”.
Hai là, “xóa bỏ chế độ tư hữu là hình thức chính trị giải phóng công nhân”
[131]. Vì vậy, “giải phóng công nhân, không chỉ là sự giải phóng của họ, mà còn
bao hàm sự giải phóng toàn thể loài người”[131].
Ba là, theo tác giả, “chủ nghĩa cộng sản tuyệt nhiên không muốn xóa bỏ sự
chiếm hữu cá nhân của người công nhân đối với những sản phẩm lao động của
21
anh ta, vì sự chiếm hữu ấy không đẻ ra một khoản dư nào có thể đem lại một
quyền lực chi phối lao động của người khác, cũng không tước bỏ của ai cái khả
năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội”[131].
Bốn là, “xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu với tính cách là sự khẳng
định sinh hoạt của con người, là sự xóa bỏ một cách tích cực mọi tha hóa, con
người từ tôn giáo, gia đình, nhà nước quay trở về tồn tại con người, tồn tại xã
hội của mình” [131]. “Xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu”, xây dựng thành
công chủ nghĩa cộng sản, hoàn thành sự nghiệp giải phóng con người, khắc phục
tình trạng tha hóa lao động phải cần thủ tiêu một cách tích cực tình trạng “lao
động bị tha hóa”. Từ bài viết, tác giả luận án nhận thấy vấn đề tha hóa trong xã
hội có nguồn gốc tự lợi ích, mâu thuẫn lợi ích làm nảy sinh sự tha hóa trong xã
hội tư bản. Khi triển khai vấn đề lý luận của luận án, tác giả luận án cũng chỉ ra
nguồn gốc của tình trạng tha hóa đạo đức ở một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản
lý có nhiều nguồn gốc khác nhau những nguồn gốc trực tiếp nhất làm nảy sinh
sự tha hóa của đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý là lợi ích.
Đi sâu bàn về lý luận tha hóa, tác giả Ngô Đình Xây (2010) với bài viết: “G.
V. Ph. Heghen về "tha hóa" qua sự đánh giá của C. Mác” [155]. Đây là bài viết
mang tính lý luận, khái quát cao. Tác giả bài viết đã phân tích sâu sắc quan điểm
của Hêghen về tha hóa, đồng thời chỉ ra những nhận xét của Mác về tha hóa
mà Hêghen đã trình bày trong các tác phẩm của mình.
Theo tác giả, phạm trù “tha hóa” trong triết học Hêghen “đã trở thành phạm
trù triết học theo nghĩa đầy đủ, rõ ràng và điển hình nhất của nó ở triết học cổ
điển Đức. Hêghen đã xây dựng một lý luận khá hoàn chỉnh”[155] về “tha hoá” và
nâng “tha hóa” lên thành phạm trù trung tâm, xuyên suốt trong hệ thống triết học
của ông. Trong triết học của mình, Hêghen đã trình bày khái niệm tha hóa một
cách hệ thống.
Tác giả bài viết đã chỉ ra sự đánh giá của Mác dưới các quan điểm sau:
Thứ nhất, “Hêghen đã chỉ ra biện chứng của lao động và tha hoá, của thống
trị và bị nô dịch, của nguyên nhân và giả định mục đích, của cơ học và hữu cơ
luận” [155]. Phạm trù “tha hoá” “của Hêghen mang cả tính chất bản thể luận (sự
chuyển hoá của tinh thần thành tự nhiên và sự tạo ra thế giới đối tượng, tức là
thế giới xã hội, khách quan, thông qua hoạt động mang tính đối tượng hoá của
con người) lẫn tính chất nhận thức luận (biến tri thức thành mặt đối lập của nó,
tức là thành sai lầm)” [155].
Thứ hai, tính độc đáo và biện chứng trong cách tiếp cận của Hêghen về “tha
hoá”. Ở phần này, tác giả chỉ ra 2 giai đoạn.
22
Giai đoạn 1: ở giai đoạn này Hêghen xây dựng và làm rõ phạm trù “tha hoá”
của mình: theo ông: “tha hoá chính là quá trình biến thành (trở thành) cái khác, cái
tha hoá chính là cái ban đầu được biểu hiện là cái khác” [155].
Giai đoạn 2: Hêghen đã tiến thêm một bước để tiến dần đến hoàn thiện
phạm trù tha hoá. Ở giai đoạn này “ông hiểu tha hoá là trở thành cái khác hoàn
thiện hơn và các hình thức khác nhau của sự tha hoá (giới tự nhiên, con người và
xã hội loài người, tự ý thức của con người) đều có xu hướng, có tham vọng trở
về với cái xuất phát, cái căn nguyên, cái chủ thể tối thượng ý niệm tuyệt đối
tinh thần tuyệt đối” [155].
Thứ ba, từ phạm trù tha hoá, Hêghen đã phát triển biện chứng, là quá trình
tước bỏ và bảo tồn, là quá trình phủ định của phủ định.
Thứ tư, theo Hêghen “tha hoá” là “thuộc tính phổ biến, là quá trình phổ biến
của tự nhiên, của xã hội và của tư duy” [155].
Thứ năm, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng triết học, Hêghen đã bàn đến
sự tha hoá của bản chất con người. Tác giả đã trích dẫn quan điểm của Mác
rằng: “Đối với Hêghen bản chất người đồng nghĩa với tự ý thức. Cho nên đối
với con người, mọi sự tha hoá của bản chất con người chẳng qua là sự tha hoá
của tự ý thức” [155]. Cũng ở vấn đề này Hêghen đã bàn đến lao động và sự tha
hoá lao động của con người. Nhận xét về cách phân tích của Hêghen, Mác đã chỉ
ra “thực tế tha hoá hiện thực của sản phẩm lao động khỏi người lao động được
nhà triết học thể hiện dưới hình thức thần bí, bao gồm các trạng thái ý thức bị
trói buộc của chủ thể mà cá tính phải chịu những hậu quả tai hại do tác động qua
lại với môi trường xã hội” [155].
Thứ sáu, Hêghen bàn đến việc “giải” tha hoá. Theo Hêghen, muốn “giải” tha
hoá thì con người phải trở về với nguồn gốc ban đầu của nó ý niệm tuyệt đối.
Từ những phân tích trên, tác giả đi đến kết luận: “Tha hoá là một hiện thực
có thật, một hiện trạng thực tế trong xã hội và có cơ sở kinh tế của nó. Và, cũng
từ đây, C.Mác đã đi đến kết luận về một nội dung quan trọng nhất trong lý luận
về tha hóa của mình, đó là việc tìm ra lực lượng và biện pháp vật chất để “giải”
tha hóa trong hiện thực”[155]. Xuất phát từ bài viết, tác giả luận án nhận thấy
đây là bài viết có giá trị lý luận sâu sắc, tác giả luận án đã kế thừa một số quan
điểm, đặc biệt quan điểm “tha hoá hiện thực của sản phẩm lao động khỏi người
lao động” để làm phần cơ sở lý luận của mình.
Phân tích quan điểm của C.Mác về tha hóa có luận án tiến sĩ triết học của
Nguyễn Thị Thanh Huyền (2010) với đề tài: “Quan niệm của Các Mác về tha
hóa và ý nghĩa của quan niệm đó đối với phát triển con người Việt Nam” [59]. Luận
án đã đi sâu vào phân tích quan điểm tha hóa của C.Mác trong Bản thảo kinh tế
23
triết học 1844. Trên cơ sở đó, luận án đã lý giải về khái niệm tha hóa, nguồn gốc,
nguyên nhân của tình trạng lao động bị tha hóa. Từ những phân tích trên, luận án đã
chỉ rõ tính chất tiêu cực của tình trạng tha hóa trong lao động của người công
nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa, cả tình trạng tha hóa của bản chất con người
trong xã hội ấy. Tác giả luận án đã phác thảo bức tranh về con người Việt Nam
trước những tác động của mặt trái kinh tế thị trường. Qua đó tác giả cũng chỉ ra
sự tác động của quá trình toàn cầu hóa đến tình trạng tha hóa của bản chất con
người. Trên cơ sở những suy ngẫm về vấn đề tha hóa và sự nhìn nhận, tổng kết
thực tiễn, tác giả đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục và đi đến
xóa bỏ tình trạng tha hóa để phát triển con người Việt Nam toàn diện trong điều
kiện hiện nay. Rõ ràng khái niệm tha hóa hoàn toàn có thể vận dụng vào điều kiện
Việt Nam tùy từng cách vận dụng và lĩnh vực vận dụng. Trên cơ sở kế thừa bài
viết, tác giả luận án vận dụng khái niệm tha hóa ở một nghĩa hẹp hơn để nhằm
khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức ở một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
Việt Nam hiện nay.
Vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền
(2014) có bài viết: “Tha hóa đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt
Nam ” . Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam số 11.
Đề tài này, tác giả khái quát một số quan điểm của Mác về tha hóa , đặc
biệt là tha hóa đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở xã hội tư bản. Từ khái quát
mặt trái của kinh tế thị trường tác giả làm rõ vấn đề cạnh tranh về lợi ích đã dẫn
đến làm tha hóa đạo đức con người.
Từ cơ cở lý luận, tác giả đã chỉ ra những vấn đề tha hóa đạo đức trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Theo tác giả, quan hệ con người bị thao
túng bới đồng tiền, hay nói cách khác đạo đức của con người bị tha hóa bởi kinh
tế, từ kinh tế sinh ra chủ nghĩa cá nhân, vị kỉ. Con người nếu không kiểm soát
được kinh tế thị trường thì chính con người sẽ bị kinh tế thị trường làm tha hóa
đạo đức. Trước bài viết của tác giả Nguyễn Thị Huyền , tác giả luận án đã hoàn
thành đề tài thạc sĩ về “tha hóa và khắc phục hiện tượng tha hóa của một bộ
phận cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay” trong luận văn này tác giả luận án
cũng đã trình bày quan điểm của mình về vấn đề tha hóa về đạo đức. Đây cũng
là sự trùng hợp tư tưởng và cũng từ vấn đề này tác giả luận án càng có niềm tin
để tiếp tục nghiên cứu và triển khai luận án tiến sĩ của mình.
Tóm lại, từ những công trình trên cho thấy, các nhà lý luận bàn về tha hóa ở
nhiều góc độ khác nhau, cách vận dụng khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng, lĩnh
vực vận dụng. Từ đó cho thấy, khái niệm tha hóa được vận dụng rất linh hoạt ở tất
cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Trên cơ sở kế thừa tư tưởng của các nhà khoa
24
học. Tác giả luận án vận dụng khái niệm tha hóa vào vấn đề đạo đức, với mục đích
nhằm khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở Việt Nam, khi mà tình trạng này đang trở thành vấn đề nhức nhối của
toàn xã hội.
1.2. Những công trình liên quan đến thực trạng và nguyên nhân việc khắc
phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở Việt Nam hiện nay
Tác giả Nguyễn Tiến Nghĩa /2013) có bài viết: “Tham nhũngnguyên nhân
và biện pháp phòng ngừa”. Tác giả bài viết đã phân tích sâu sắc khái niệm tham
nhũng, đồng thời tác giả cũng chỉ ra thực trạng và một số nguyên nhân. Theo tác
giả, tham nhũng do một số nguyên nhân sau:
Một là, cơ chế, chính sách và pháp luật còn nhiều kẽ hở, lương công chức
còn thấp. Theo tác giả ở đâu “hệ thống pháp luật còn lỏng lẻo, các quy trình ra
quyết định và hoạch định chính sách còn thiếu minh bạch, thủ tục hành chính còn
rườm rà, lương công chức còn thấp,…thì ở đó tình trạng tham nhũng có xu hướng
gia tăng”[100].
Hai là, tác giả chỉ ra những hạn chế như: chưa phát huy được tính tích cực
của người dân trong đấu tranh chống tham nhũng. Việc đấu tranh chống tham
nhũng chưa được phát động thường xuyên.
Ba là, vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật, như công an, viện kiểm sát,
tòa án chưa được phát huy đầy đủ.
Từ những phân tích trên tác giả đưa ra một số biện pháp ngăn ngừa trong đó
có giải pháp giáo dục đạo đức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý; xét xử công khai,
nghiêm minh những cán bộ tha hóa về đạo đức, thành lập tòa án đặc biệt để xét
xử cán bộ lãnh đạo cấp cao; phát , minh bạch. Nếu không bị phản ánh, thì mọi việc cứ mãi là điều bí ẩn, và
những sai phạm vẫn diễn ra, không phải ở một chỗ mà nhiều chỗ. Việc tạo lòng
tin trong nhân dân là phải công khai, minh bạch, phải làm thật, không vo tròn che
dấu khuyết điểm. Xử lý cán bộ phải nghiêm túc, khách quan, nếu sai phạm thì
xử lý kỷ luật. Phải là minh bạch, không có vùng cấm. Khi tiến hành kỷ luật một
cán bộ nào đó phải có đầy đủ chứng cứ, đồng thời phải minh bạch về thông tin
trước đảng bộ, chi bộ.
Cán bộ là người đứng đầu phải xử nặng hơn, Vì, quyền lực cao phải đi
kèm với trách nhiệm cao. Cùng một sai phạm, xử lý với cấp dưới có thể sẽ nhẹ
hơn còn cấp trên xử lý nặng hơn vì cán bộ lãnh đạo, quản lý phải làm gương cho
cấp dưới. Cấp dưới khen nhiều hơn, kỷ luật nhẹ hơn. Cấp trên khen ít hơn, kỷ
luật phải nặng hơn. Như thế thể hiện sự nghiêm minh và gương mẫu của Đảng.
3.2.4.2. Xây dựng quy trình tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ chặt chẽ, khoa học
Xây dựng quy trình tuyển dụng cán bộ chặt chẽ: phải xây dựng quy chế, có
những tiêu chí rõ ràng về trình học vấn, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, năng
lực công tác; phải ưu tiên những người đỗ đạt cao ở các trường đại học danh
tiếng trong và ngoài nước (trong nước và ở nước ngoài hiện nay vẫn còn tồn tại
những trường kém chất lượng); ưu tiên những sinh viên tốt nghiệp đại học, thạc
sĩ ở nước ngoài thuộc diện xuất sắc nhà nước cử đi học (những sinh viên du học
tự túc thì không được ưu tiên). Thực tế cho thấy những người học giỏi, đa số là
những người tận tâm, tận lực đối với việc học tập và nghiên cứu, khi được
tuyển dụng họ cũng là người tận tụy với công việc được giao. Những người
lười học, lười nghiên cứu, thường là những người “nhàn cư vi bất thiện”. Cần
xem xét lại việc thi công chức, viên chức. Bởi, kỳ thi này là nơi dễ xảy ra tiêu
cực nhất.
Xây dựng quy trình bổ nhiệm cán bộ chặt chẽ, khách quan: trong bổ nhiệm
cán bộ phải căn cứ vào trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm,
năng lực công tác. Người được bổ nhiệm phải là người có trình độ chuyên môn
cao, trình độ quản lý giỏi, có kinh nghiệm về lĩnh vực được bổ nhiệm. Trước
thời gian bổ nhiệm không vi phạm kỷ luật ở lĩnh vực Đảng và chính quyền. Việc
bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý cần được thực hiện qua hình thức thi
tuyển một cách công khai, minh bạch với những tiêu chuẩn, yêu cầu rõ ràng và
161
phải có hội đồng thi tuyển khách quan, nghiêm minh. Việc thành lập hội đồng thi
tuyển phải thông qua hình thức bỏ phiếu kín. Phải thành lập hội đồng thanh tra,
thực hiện nhiệm vụ thanh tra đột xuất đối với công tác thi tuyển. Mỗi chức danh
thi tuyển nên có nhiều ứng viên tham gia dự thi để chọn lọc, chọn trúng người có
năng lực. Sau khi trúng tuyển phải có quá trình theo dõi và kiểm nghiệm, đánh giá
thực tiễn, nếu cán bộ mới bổ nhiệm không đảm đương được công việc, thì cho
thôi việc. Việc đánh giá cán bộ không chỉ trong nội bộ cơ quan mà phải có cộng
đồng giám sát, đánh giá nhằm đảm bảo khách quan, công bằng.
Đối với chức danh người đứng đầu nên xây dựng quy chế tranh cử (những
người trúng cử phải thực hiện đúng lời hứa trong đề án tranh cử của mình, nếu
không thực hiện đúng lời hứa sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật). Từng vị trí,
chức danh đều phải có tiêu chuẩn cụ thể. Cần rà soát lại tất cả các quy định, xây
dựng chế độ công chức, công vụ chuyên nghiệp, công khai, minh bạch thì sẽ
khắc phục được những lỗ hổng của công tác nhân sự, có như vậy chúng ta mới
thực sự lựa chọn đúng người tài, người có đức, có đủ trình độ năng lực, phẩm
chất cho một vị trí lãnh đạo, quản lý.
Khắc phục tình trạng lách luật, lách quy trình, bổ nhiệm người nhà, người thân
và tình trạng “mua quan, bán chức” trong các cơ quan công quyền. Chống tình trạng,
“quân xanh, quân đỏ” trong thi tuyển cán bộ, hay nói cách khác là chống tình trạng
cài cắm người nhà, người thân trong việc thi tuyển các chức danh lãnh đạo, quản lý.
Hàng năm cần tổ chức các buổi hội thảo khoa học trong nước và quốc tế để
lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học về giải pháp khắc phục
tình trạng tha hóa về đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý; Nhà nước cần tham
khảo ý kiến của các nhà khoa học trong và ngoài nước, rà soát lại quy trình bổ
nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý, xem xét lại các cơ chế, chính sách và ban hành
văn bản quy phạm pháp luật có sơ hở hay không, đồng thời bổ sung kịp thời
những khiếm khuyết trong các văn bản pháp luật.
3.2.4.3. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát đối với đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý
Để làm tốt công tác kiểm tra, giám sát Lênin từng nhắc nhở chúng ta rằng:
“cần phải dùng nhiều hình thức và phương pháp kiểm tra từ dưới lên trên…để
nhổ đi, nhổ lại cho sạch hết những cỏ rác bệnh quan liêu”[66, tr. 220221]. Theo
tinh thần của Lênin vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, chúng ta cần phải nhổ
sạch những cán bộ lãnh đạo, quản lý tha hóa về đạo đức từ trên xuống dưới, từ
dưới lên trên, từ cấp này liên quan đến cấp khác, từ ngành này liên quan đến
ngành khác. Muốn làm được điều này thì phải thực hiện tốt những vấn đề sau:
Một là, nâng cao nhận thức cho các cấp ủy đảng, chính quyền trong việc