Tải bản đầy đủ (.pdf) (184 trang)

Luận án tiến sĩ Triết học: Khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 184 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC 
GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

ĐẶNG THÁI BÌNH

KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG THA HÓA VỀ ĐẠO ĐỨC
CỦA MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 92 29 001

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS.Trần Phúc Thăng


2

HÀ NỘI – 2018

2


LỜI CAM ĐOAN

         Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng  
tôi. Luận án này được GS.TS. Trần Phúc Thăng hướng dẫn. Các số 


liệu, kết quả sử dụng trong luận án là trung thực. Các kết luận của 
luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

      Đặng Thái Bình


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy GS.TS Trần Phúc Thăng đã tận tâm, tận lực 
hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận án; cảm ơn các nhà khoa học cùng 
thầy cô giáo Khoa Triết học của Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã tham gia 
đóng góp ý kiến giúp cho luận án của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin gửi lời  
cảm ơn sâu sắc tới Ban Quản lý đào tạo sau Đại học cùng các phòng ban đã tạo 
điều kiện giúp tôi hoàn thiện giấy tờ thủ tục trong suốt 3 năm qua.  
Tôi xin chân thành cảm ơn!
                                                                           Tác giả 

                                                                     Đặng Thái Bình



CHỮ VIẾT TẮT
NCS
ĐCSVN
SL
CNXH
XHCN

: Nghiên cứu sinh
: Đảng Cộng sản Việt Nam

: Sắc lệnh
: Chủ nghĩa xã hội
: Xã hội chủ nghĩa



MỤC LỤC


9

ĐẦU
1.  Lý do chọn đề tài
Hơn 88 năm, từ  khi Đảng ra đời cho đến nay chưa có thời kỳ  nào lại đề 
cập nhiều đến tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của  
một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý như giai đoạn hiện nay. Tình trạng này lan 
rộng  ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực. Thực chất, đây là tình trạng tha hóa về 
đạo đức của một bộ  phận cán bộ  lãnh đạo, quản lý. Đề  cập đến vấn đề  này  
Đảng liên tục đưa ra các chỉ  thị, nghị quyết nhằm khắc phục tình trạng này, cụ 
thể  là: Nghị  quyết Trung  ương 3 (khoá VII) về “Một số  nhiệm vụ  đổi mới và  
chỉnh đốn Đảng”; Nghị  quyết Trung  ương 6 (lần 2 ­ khoá VIII) về “Một số vấn  
đề  cơ  bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay ”; Kết luận Hội 
nghị  Trung  ương 4 (khoá IX) về “Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng,  
chỉnh  đốn Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tệ  tham nhũng, lãng phí”; Nghị  quyết 
Trung  ương 3 (khoá X): “Tăng cường sự  lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu  
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; Tiếp theo là Nghị quyết Trung ương 4 
(Khóa XI) với nội dung cốt lõi là 3 vấn đề  cấp bách và 4 nhóm giải pháp nhằm 
hạn chế tối đa tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo,  
quản lý; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã đưa ra 27 biểu hiện suy thoái về 
tư  tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự  diễn biến”, “tự  chuyển hóa” của cán 

bộ, Đảng viên trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý. Các Nghị quyết trên đều đã  
đi vào cuộc sống và có tác dụng không nhỏ.
Tuy nhiên, việc khắc phục tình trạng tha hóa về  đạo đức cán bộ  vẫn còn 
tồn tại những hạn chế nhất định. Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) “ Một số vấn  
đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay ” thẳng thắn đánh giá về công tác khắc  
phục tình trạng tha hóa về  đạo đức của một bộ  phận cán bộ  chưa đạt yêu cầu 
như mong muốn. “Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn  
không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài  
nhiều nhiệm kỳ  chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối 


10

với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của  
Đảng và sự  tồn vong của chế độ... Một bộ  phận không nhỏ  cán bộ, đảng viên,  
trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao 
cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác  
nhau về  sự  phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ  nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ  hội, thực  
dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, 
tùy tiện, vô nguyên tắc”[34, tr. 21­22];  việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo 
đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa đạt kết quả như mong đợi.  
“Tình trạng suy thoái về chính trị đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ 
cán bộ, đảng viên, chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ  phận còn diễn biến phức tạp  
hơn” [37, tr. 44], thậm chí có mặt nghiêm trọng, có khuyết điểm, yếu kém phải 
sửa chữa cấp bách nhưng vẫn chưa được khắc phục, có mặt còn gây băn khoăn,  
lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ  lãnh đạo, quản lý 
nếu không được khắc phục sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy, có thể làm suy yếu Đảng, 
suy yếu chính quyền, làm mất niềm tin của nhân dân, thậm chí có thể  liên quan  
đến sự tồn vong của đất nước.

Nhận thấy vấn đề  khắc phục tình trạng tha hóa về  đạo đức của một bộ 
phận cán bộ lãnh đạo, quản lý là vấn đề cấp bách cần phải quyết liệt thực hiện,  
tôi chọn vấn đề “Khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận  
cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay”  làm đề tài luận án tiến sĩ triết 
học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về khắc phục tình trạng tha hóa đạo đức và thực trạng 
việc khắc phục tình trạng này, luận án luận giải một số quan điểm và giải pháp  
chủ  yếu nhằm nâng cao hiệu quả khắc phục tình trạng tha hóa về  đạo đức của  
một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.


11

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận tha hóa về đạo đức và khắc phục tình 
trạng tha hóa về đạo đức của một bộ  phận cán bộ  lãnh đạo, quản lý ở  Việt Nam 
hiện nay.
Thứ  hai, khái quát về  thực trạng, nguyên nhân của thực trạng khắc phục 
tình. trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt 
Nam trong thời kỳ đổi mới và nêu một số vấn đề đặt ra từ thực trạng này.
Thứ ba, luận giải một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao 
hiệu quả khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh  
đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khắc phục tình trạng tha hóa về  đạo đức của một bộ  phận cán bộ  lãnh 
đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu việc khắc phục tình trạng tha hóa về  đạo 
đức của một bộ  phận cán bộ  lãnh đạo, quản lý  ở  Việt Nam trong thời kỳ  đổi  
mới, đặc biệt từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ  Chí 
Minh, chủ trương đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về 
đạo đức con người, đạo đức cán bộ, về xây dựng đạo đức đội ngũ cán bộ, đảng 
viên. Ngoài ra, luận án có tham khảo các kết quả  của những công trình nghiên 
cứu đã được công bố có liên quan đến nội dung của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp “duy vật biện chứng” và phương pháp  
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –Lênin.


12

Luận án cũng sử  dụng một số  phương pháp cụ  thể, trong đó chủ  yếu là 
phương pháp lịch sử  ­ lôgíc, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,  
phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
­ Góp phần làm rõ quan niệm tha hóa về đạo đức và khắc phục tình trạng  
tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam.
­   Góp phần làm rõ yêu cầu cấp thiết của việc khắc phục tình trạng tha 
hóa về  đạo đức  ở  một bộ phận cán bộ  lãnh đạo, quản lý, đồng thời chỉ  ra thực 
trạng, nguyên nhân của thực trạng việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức  
của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
­ Luận giải một số quan điểm và giải pháp chủ  yếu nhằm nâng cao hiệu 
quả việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh 
đạo, quản lý ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về  lý luận, luận án góp phần làm rõ những biểu hiện của tình trạng tha 
hóa đạo đức và quan niệm khắc phục tha hóa đạo đức của một bộ phận cán bộ ở 
Việt Nam hiện nay.
Về thực tiễn: Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng đội 
ngũ cán bộ của Đảng và vấn đề  chống tiêu cực  ở  Việt Nam giai đoạn hiện nay  
và cho việc nghiên cứu, giảng dạy môn: Triết học; Đạo đức học và các môn liên  
quan đến giáo dục đạo đức cán bộ, đảng viên trong các trường Chính trị, học  
viện, trường Đại học và các trường Cao đẳng.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và 
phụ lục, luận án gồm 3 chương, 7 tiết.


13


14

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LUẬN ÁN
Trong những năm gần đây xuất hiện nhiều công trình khoa học nghiên cứu 
tình trạng tha hóa cả về lý luận và thực tiễn. Các công trình nghiên cứu đặc biệt 
tập trung vào vấn đề tha hóa đạo đức. Cụ thể:
1.1. Những công trình liên quan đến vấn đề lý luận về khắc phục tình trạng 
tha hóa và tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở 
Việt Nam hiện nay
1.1.1. Lý luận về đạo đức
Đạo đức là một phạm trù được hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại. 
Từ xưa đến nay, có nhiều nhà triết học, nhà tư tưởng bàn về đạo đức. Ở mỗi thời  
kỳ lịch sử, mỗi dân tộc khác nhau người ta có những quan niệm về đạo đức khác  

nhau. Ở nước ta, vấn đề đạo đức luôn được coi trọng. Đặc biệt từ khi bước vào  
thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề lý luận 
về đạo đức càng được đề  cập nhiều hơn. Đi sâu về  vấn đề  này có một số  công  
trình nghiên cứu sau:
Bàn về  giá trị  đạo đức  ở  Việt Nam trong thời kỳ  kinh tế  thị  trường, định  
hướng xã hội chủ nghĩa, tác giả Phạm Văn Đức (2002) có bài viết: “ Mối quan hệ  
giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường  ở Việt Nam  
hiện nay”.
Tác giả đánh giá thành tựu của 15 năm đổi mới. Tuy nhiên bên cạnh những 
thành công về mặt kinh tế là sự xuống cấp về đạo đức. Điều đó có liên quan đến  
mặt trái của cơ chế thị trường. Theo tác giả, mặt trái của cơ chế thị trường tác 
động tiêu cực tới các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có đạo đức.
Tác giả  chỉ  ra   hai khuynh hướng với hai quan niệm khác nhau về  đạo 
đức:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: nguyên nhân dẫn đến “sự xuống cấp về đạo 
đức xã hội bắt nguồn từ việc khuyến khích lợi ích cá nhân của người lao động,  
rằng lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội là hai yếu tố hoàn toàn không dung hợp  
với nhau” [40]. Phê phán quan niệm này, tác giả khẳng định: “Vì, sự sống còn của 
bản thân mình, con người có nhu cầu chung phải liên kết với nhau. Bản thân  
những nhu cầu chung này là cơ sở nảy sinh những lợi ích chung giữa họ. Song, 
ngoài những lợi ích chung đó, mỗi con người lại có những lợi ích riêng nảy sinh  
trên cơ sở của các nhu cầu được hình thành từ những hoàn cảnh lịch sử ­ cụ thể”  
[40]. Điều này cho thấy giữa lợi ích chung và lợi ích riêng có sự thống nhất với  
nhau, từ đó dẫn đến xem xét đạo đức cũng dựa trên mối quan hệ giữa lợi ích cá 
nhân và lợi ích cộng đồng.


15

Quan điểm thứ hai cho rằng: “cơ chế thị trường là môi trường thuận lợi để 

phát huy vai trò chủ  thể  cá nhân, là cơ  chế  tốt cho nhân cách phát triển trong  
điều kiện hiện nay”[40]. Điều này cũng chỉ  đúng  ở  khía cạnh nhất định. Tuy  
nhiên, chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận cạnh tranh, từ chỗ cạnh tranh 
đánh vào lợi ích của con người mà lợi ích của con người cũng có hai mặt, lợi  
ích chính đáng và lợi ích không chính đáng. Khi nào con người biết điều chỉnh  
hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng thì con người sẽ điều chỉnh  
được lợi ích chính đáng. Khi điều chỉnh được lợi ích chính đáng thì “không 
những tạo ra những sản phẩm thoả  mãn các nhu cầu cá  nhân của mình, góp 
phần làm giàu cho bản thân, mà còn góp phần xoá đói, giảm nghèo, làm giàu 
cho xã hội” và “đến lượt nó, sự giàu có chính đáng của cá nhân đã làm nảy sinh  
ở con người những tấm lòng hào phóng, từ  thiện, sự  thân ái, lòng vị  tha” [40], 
khi  ấy hành vi đạo đức của con người được xã hội đồng tình. Ngược lại khi  
con người tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân thì con người dễ bị tha hóa về đạo đức  
và khi ấy xã hội sẽ lên án. 
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ lợi ích cá nhân, lợi ích cộng đồng, tác giả 
chỉ  ra mặt trái của cơ  chế thị trường  ở Việt Nam hiện nay có tác động tiêu cực  
tới đạo đức truyền thống:
Một là, xem nhẹ đạo đức truyền thống, không đề cao đạo lý, chạy theo lối 
sống gấp, sống vội và sa vào lối sống trụy lạc.
Hai là, sự  phản  ứng của xã hội đối với các hành vi vô đạo đức, phi đạo 
đức cũng giảm đi;  sự  lên án những thói hư, tật xấu và những hành vi vô đạo  
đức, phi đạo đức không được đề  cao. Tình trạng số  người có quan điểm thờ   ơ 
với những tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng.
Ba là, thói đạo đức giả ngày càng có chiều hướng gia tăng.
Tất cả những biểu hiện trên là do lối sống thực dụng, chạy theo danh lợi cá 
nhân, coi thường lợi ích cộng đồng. Có thể nói vấn đề tuyệt đối hóa lợi ích cá 
nhân trong nền kinh tế thị trường là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tha hóa về 
đạo đức. Muốn điều chỉnh vấn đề này thì phải xem xét về mặt lợi ích, lợi ích đó 
có phù hợp với lợi ích chung của xã hội hay không. Đồng thời, không nên phán 
xét một cách tầm thường, sự xuống cấp về đạo đức bắt nguồn từ khuyến khích  

lợi ích cá nhân. 
Tác giả  Lê Duy Chương (2007)  “Thấm nhuần tư  tưởng cần, kiệm, liêm,  
chính, chí công vô tư của Hồ Chí Minh” [13]. Bài viết đã lý giải sâu sắc tư tưởng 
Hồ  Chí Minh về  cốt lõi của đạo đức cách mạng là “cần, kiệm, liêm, chính, chí 
công vô tư”.


16

Tác giả bài viết chỉ ra: Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm 
lược đã sản sinh ra những cán bộ, đảng viên không tiếc tuổi xuân, dũng cảm, tiên 
phong trong cuộc đấu tranh một mất, một còn vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã 
hội. “Nhiều người trong số họ đã không được hưởng niềm vui của ngày độc lập, 
thống nhất đất nước”[13], nhưng họ  xứng đáng là những tấm gương tiêu biểu 
nhất về sự “chí công, vô tư”, đặt lợi ích tối cao của đất nước lên trên lợi ích cá 
nhân. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay vẫn còn không ít cán bộ, lãnh đạo, 
quản lý suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; thiếu tinh thần trách  
nhiệm trước nhiệm vụ  được giao; không chịu học tập, lười rèn luyện, không 
dám đương đầu với khó khăn, gian khổ; quan liêu, tham nhũng, lãng phí…”Chính 
họ  là một lực cản của tiến bộ xã hội; là một trong những nguyên nhân làm  ảnh 
hưởng đến uy tín của Đảng, làm giảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, làm vẩn 
đục đạo đức cách mạng theo tư  tưởng Hồ  Chí Minh, điều mà toàn Đảng, toàn 
dân, toàn quân ta đang dày công vun đắp”[13]. Những tệ nạn này đã gây bức xúc  
cho toàn xã hội.
Từ  phân tích thực trạng, tác giả  đưa ra một số  giải pháp cơ  bản nhằm rèn  
luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Theo tác giả, người cán bộ 
muốn tu dưỡng được đạo đức cách mạng thì cần phải thực hiện những quan  
điểm sau:
Thứ  nhất,  mọi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần tư  tưởng của Hồ  Chí 
Minh về đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” sâu sắc hơn  

nữa  .
Thứ  hai, muốn việc giáo dục đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, 
chí công  vô tư”  tốt hơn  thì phải  khôi phục và đẩy  mạnh phong  trào thi  đua 
“Người tốt, việc tốt”, thực hiện nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức trong 
cán bộ, đảng viên.
Thứ ba, phương pháp giáo dục đạo đức cách mạng là phải kết hợp chặt chẽ 
giữa “xây và chống”. “Xây dựng ý thức và thói quen hành vi đạo đức cho cán bộ, 
đảng viên không đơn thuần chỉ là quá trình tuyên truyền, giáo dục về các giá trị, 
chuẩn mực đạo đức cách mạng, mà còn là quá trình đấu tranh, khắc phục, loại  
bỏ dần thói hư, tật xấu của con người” [13].
Từ những phân tích trên tác giả đi đến kết luận:  mỗi cán bộ, đảng viên, cho 
đến người dân, ai cũng phải có ý thức tự tu dưỡng đạo đức cách mạng. Việc tu  
dưỡng đạo đức cách mạng là việc làm thường xuyên, suốt đời. Trên cơ  sở  bài  
viết, tác giả  luận án nhận thấy đây là bài viết có giá trị  về  mặt lý luận và thực  
tiễn sâu sắc, đặc biệt tác giả bài viết chỉ ra không nhất thiết khó khăn, gian khổ 
mà con người bị  tha hóa về  đạo đức và thậm chí ngược lại họ  còn hy sinh vì  


17

nhau, hy sinh cho nhau. Tuy nhiên giai đọan hiện nay điều kiện kinh tế  tốt hơn  
con người dễ nảy sinh tình trạng tha hóa về đạo đức. Rõ ràng việc  giáo dục đạo  
đức có vấn đề, chính điều này tác giả luận án kế thừa trong phần giải pháp của 
mình.
Cùng chủ đề  này, tác giả  Đoàn Quốc Thái (2010) có bài viết “Bàn thêm về 
khái niệm “giá trị đạo đức”[132]. Trong bài viết này, tác giả đã khái quát những  
quan điểm về  đạo đức trong lịch sử  triết học và những quan điểm của các nhà 
khoa học về đạo đức và giá trị đạo đức; tác giả đi sâu vào phân tích, làm rõ khái  
niệm “đạo đức”, khái niệm “giá trị  đạo đức”. Từ  những phân tích trên, tác giả 
xác định những chuẩn mực giá trị  đạo đức phải căn cứ  vào không gian và thời 

gian của nó, nghĩa là giá trị đạo đức có tính lịch sử. Tác giả cũng chỉ ra tính chất  
chung, tính đặc thù, tính đơn nhất của đạo đức. Ngoài ra tác giả còn cho thấy tính  
tương đối ổn định của chuẩn mực, giá trị đạo đức ở từng giai đoạn lịch sử nhất  
định. Ở mỗi một thời đại khác nhau, người ta đưa ra những chuẩn mực đạo đức 
khác nhau, giá trị  của nó cũng khác nhau. Không chỉ  khác nhau về  thời gian mà  
chuẩn mực giá trị  đạo đức cũng khác nhau về  không gian.  Ở  mỗi quốc gia, dân 
tộc, tôn giáo đều có những quy định đặc thù về  chuẩn mực giá trị  của đạo đức. 
Không chỉ vậy, tác giả bài viết còn cho thấy: ở mỗi mối liên hệ xã hội khác nhau 
thì chuẩn mực giá trị đạo đức cũng khác nhau, thậm chí còn đối lập nhau.
Từ  những quan điểm trên tác giả  khẳng định: “giá trị  đạo đức là sự  bộc lộ 
thái độ của cá nhân, nhóm xã hội, tập đoàn xã hội về lợi ích”[132] và  “giá trị đạo 
đức gắn với hoạt động thực tiễn của con người, định hướng cho hành động của  
con người”[132]. Theo tác giả: “giá trị  đạo đức là toàn bộ  những quan niệm về 
thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng và các chuẩn  
mực, quy tắc  ứng xử  được con người đánh giá, lựa chọn, cũng như  ý nghĩa tích 
cực của những quan niệm, chuẩn mực, quy tắc  ứng xử đó đối với con người và 
đời sống xã hội”[132]. Trên cơ  cơ  bài viết, tác giả  luận án nhận thấy đây là bài 
viết rất sâu sắc, đặc biệt việc phân tích giá trị  đạo đức có tính lịch sử và sự phân 
biệt giá trị đạo đức ở thiện ác, tốt xấu, lương tâm, trách nhiệm, đây cũng là cơ sở 
tác giả luận án kế thừa để triển khai phần lý luận của mình.
Viết về lĩnh vực đạo đức, tác giả Mai Xuân Hợi (2014) có bài: “Giá trị đạo  
đức và sự  biểu hiện của nó trong đời sống xã hội” [55]. Trong bài viết, tác giả 
bàn về  đạo đức và giá trị  của nó trong đời sống xã hội  ở  những phương diện 
sau:.
Thứ nhất, tác giả bàn về giá trị đạo đức: theo tác giả, giá trị  đạo đức là cái  
mà do nó đã làm cho một khách thể nào đó có ích, có nghĩa, đáng quý đối với chủ 
thể, được mọi người thừa nhận. Từ  khái niệm tác giả  chỉ  ra “lợi ích xã hội là  


18


tiêu chuẩn khách quan của các giá trị  đạo đức” [55]. Giá trị  đạo đức được xác  
định bởi “lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương” [55].
Như vậy, để xác định hành vi có đạo đức phải dựa vào niềm tin cá nhân và  
dư  luận xã hội đồng tình. ủng hộ. Để  chứng minh cho vấn đề  này tác giả  trích  
câu của Ăngghen: "trong một xã hội mà mọi động cơ đẩy tới trộm cắp đều bị 
loại trừ, do đó dần dần hầu như chỉ có những người mắc bệnh tinh thần mới  
phạm tội trộm cắp, thì một nhà truyền bá đạo đức nào muốn trịnh trọng tuyên 
bố cái chân lý vĩnh cửu: không được trộm cắp, sẽ bị người ta chê cười"[55]
Thứ hai, bàn về tính chất của đạo đức: theo tác giả đạo đức vừa có tính chất 
riêng vừa có tính chất chung, tùy vào mối quan hệ  để  xác định tính chất của đạo  
đức.
Thứ  ba, bàn về  chức năng của đạo đức.Tác giả  chỉ  ra ba chức năng bao 
gồm: chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục, chức năng nhận thức, ba  
chức năng này có mối quan hệ  biện chứng, tác động qua lại với nhau tạo thành  
chỉnh thể của đạo đức của  xã hội nhất định.
Từ ba phương diện tiếp cận tác giả đi đến kết luận: “giá trị đạo đức được 
hình thành  ở  mỗi cá nhân luôn phụ  thuộc vào việc các cá nhân  ấy được giáo 
dục và tiếp nhận những tư tưởng và các chuẩn mực đạo đức đúng đắn của xã 
hội”[55]. Như  vậy, vấn đề  giáo dục và sự  tiếp nhận vấn đề  giáo dục là một 
trong những cơ  sở  quan trọng hình thành giá trị  đạo đức. Tiếp thu quan điểm 
nói trên tác giả luận án kế thừa để bổ sung vào phần lý luận, thực trạng và giải  
pháp trong luận án của mình.
Ngô Thành Can (2017): “Đạo đức công chức trong thực thi nhiệm vụ” Nhà 
xuất bản Tư pháp
Đề tài đi sâu vào phân tích đạo đức công chức, đặc biệt làm rõ một số quan  
điểm sau:
Thứ  nhất, những khái niệm liên quan đến đạo đức công chức và chỉ ra tính 
tất yếu của việc xây dựng đạo đức công chức trong điều kiện kinh tế thị trường  
ở nước ta hiện nay

Thứ hai, đạo đức công chức trong thi hành công vụ, đặc biệt đề tài khảo sát  
đạo đức công chức trong thực thi công vụ.
Thứ ba, chỉ ra những chuẩn mực và nguyên tắc xây dựng đạo đức công chức 
ở Việt Nam, trên cơ  sở đó đề tài đề xuất một số  giải pháp có tính khả  thi trong  
việc xây dựng đạo đức công chức trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng  
xã hội chủ nghĩa.
Đây là một đề  tài có giá trị  cả  về  mặt lý luận và thực tiễn, đáp  ứng được 
những vấn đề cấp thiết khi một bộ phận công chức đang có những biểu hiện tha  


19

hóa về đạo đức. Từ đề tài này, tác giả luận án nhận thấy cán bộ lãnh đạo, quản 
lý thường là công chức, viên chức trong hệ  thống chính trị. Thực hiện đạo đức  
người cán bộ  lãnh đạo, quản lý cũng có nghĩa là thực hiện đạo đức công chức. 
Trên cơ  sở  kế  thừa tác giả  luận án bổ  sung vào phần giải pháp và đưa ra quan  
điểm: cần phải có luật về thực hiện đạo đức của người cán bộ  lãnh đạo, quản  
lý.
Tóm lại, tất cả  các tác phẩm nói trên là những công trình nghiên cứu công 
phu của các tác giả. Tuy tiếp cận đạo đức ở nhiều góc độ  khác nhau, nhưng các 
tác giả đều tập trung vào xây dựng đạo đức cán bộ, công chức nhằm hoàn thiện  
đạo đức cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào 
đề cập đến việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán  
bộ  lãnh đạo, quản lý  ở  Việt Nam hiện nay. Đây cũng là mảnh đất mà tác giả 
luận án tiếp tục khai thác.
1.1.2. Lý luận về tha hóa
Phạm trù “tha hóa” được hình thành từ  rất sớm trong lịch sử  triết học cận 
đại. Tuy nhiên, phạm trù “tha hóa” được trình bày một cách hệ thống bắt đầu từ 
triết học Đức cuối thế  kỷ  XVIII ­ đầu thế  kỷ  XIX, tha hóa đã trở  thành  một 
phạm   trù   nổi   bật   nhất,   trung   tâm   nhất   và   được   các   nhà   triết   học   nổi   tiếng 

như Hêghen và Phoiơbắc,   sau   này   là   Mác   sử   dụng.   Có   một   số   công   trình   đã 
nghiên cứu về vấn đề này:
Tác giả Vũ Quang Tạo (2008) có bài viết: “C. Mác và sự nghiệp giải phóng  
con người trong thời đại ngày nay” [131].
Tác giả đi sâu vào phân tích quan điểm của Mác về lao động bị tha hóa trong  
“Bản thảo kinh tế­ triết học 1844” đồng thời chỉ  ra những biến  đổi của chủ 
nghĩa tư  bản hiện nay, tác giả  khẳng định, sự  biến đổi đó vẫn không xóa bỏ 
được tình trạng tha hóa như  Mác đã từng đề  cập trong “Bản thảo kinh tế­ triết  
học 1844”. Theo tác giả sự biến đổi của chủ nghĩa tư bản diễn ra do mâu thuẫn  
gay gắt giữa nhà tư  bản và người công nhân, trong quá trình mâu thuẫn  ấy, chủ 
nghĩa tư bản bắt buộc phải tìm cách giải quyết, cách thức giải quyết ấy diễn ra 
như sau:
Thứ  nhất, những thay đổi và điều chỉnh của chủ  nghĩa tư  bản vẫn không 
làm thay đổi bản chất của chế độ  sở  hữu tư  nhân về  tư  liệu sản xuất. Sự thay  
đổi đó, chẳng qua chỉ là những biện pháp xả van an toàn, tháo ngòi nổ của những 
mâu thuẫn giữa tư  bản và lao động làm thuê, giữa giai cấp tư  sản và toàn thể 
nhân dân lao động vốn đang tồn tại trong xã hội tư  bản hiện đại. Theo tác giả 
chủ  nghĩa tư bản xoa dịu đấu tranh của người công nhân “bằng cách bán những 
cổ  phần nhỏ  nhoi cho người công nhân, làm cho họ  lầm tưởng như  được dự 


20

phần ăn chia lợi nhuận, tham gia vào tổ  chức, quản lý doanh nghiệp tư  bản,  
nhưng trong thực tế, các biện pháp này không giúp những người công nhân và đa 
số  cổ  đông bé nhỏ  có đủ  tiếng nói quyết định trong các công ty tư  bản, càng  
không đủ sức thay đổi sở hữu tư bản chủ nghĩa”[131]. Như vậy, trong chủ nghĩa 
tư bản, mặc dù đã có điều chỉnh nhưng vẫn không xoa dịu được mâu thuẫn vốn  
có của nó.
Thứ  hai, tác giả  chỉ  ra rằng: những tiến bộ của khoa học, công nghệ  hiện  

đại không thể giúp con người nói chung, giai cấp  công nhân nói riêng bớt đau khổ 
và thoát khỏi tình trạng tha hóa.
Thứ  ba, tác giả  cho thấy sự  khủng hoảng kinh tế  trong chủ  nghĩa tư  bản  
diễn   ra   ngày   càng   thường   xuyên   và   không   kém   phần   trầm   trọng,   tốc   độ 
tha hóa con người ngày càng tăng, thói ích kỷ, vụ  lợi, tính cách lạnh lùng, tàn  
nhẫn và chủ nghĩa cá nhân cực đoan trong mọi tầng lớp xã hội ngày càng trở nên 
phổ biến, khiến đa số công nhân lâm vào cảnh khốn khổ, bần cùng hóa, sự phản 
kháng của người công nhân trong xã hội tư  bản ngày càng diễn ra mạnh mẽ, từ 
đó dẫn tới các cuộc chiến tranh giữa người và người trong xã hội tư  bản ngày 
một trở nên tàn khốc hơn.
Thứ tư, trong phạm vi toàn cầu, chủ nghĩa tư bản vẫn lộ nguyên hình là thủ 
phạm gây chiến tranh giết hại con người, nhân tố  cơ  bản gây ô nhiễm môi  
trường sống, giam hãm hàng tỉ con người trong cảnh nghèo đói, khốn khổ.
Thực tế  ngày nay  ở  những điểm nóng trên thế  gới, những mâu thuẫn tôn 
giáo, dân tộc, nhưng cuộc chiến tranh cục bộ, chi ến tranh  ủy nhi ệm đều có bàn 
tay của chủ  nghĩa tư  bản. Vấn đề  Liên Xô và Đông Âu sụp đổ  cũng có bàn tay 
trực tiếp hoặc gián tiếp của CNTB. Mặc dù CNTB còn mạnh nhưng không làm  
suy giảm vai trò của chủ nghĩa xã hội, chủ  nghĩa cộng sản với tư cách một chế 
độ xã hội giải phóng con người, mang lại tự do, hạnh phúc cho con người. 
Từ những phân tích trên, tác giả chỉ ra những vấn đề  cơ bản để giải phóng 
con người trong giai đoạn hiện nay. Theo tác giả muốn giải phóng con người thì  
phải thực hiện những vấn đề sau:
Một là, “xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu là giải phóng những người  
công nhân khỏi ách thống trị của chế độ tư hữu và trả lại cho con người một đời  
sống đích thực thay vì một”[131] “đời sống bị tha hóa”.
Hai là, “xóa bỏ chế  độ  tư  hữu là hình thức chính trị  giải phóng công nhân” 
[131]. Vì vậy, “giải phóng công nhân, không chỉ là sự giải phóng của họ, mà còn  
bao hàm sự giải phóng toàn thể loài người”[131].
Ba là, theo tác giả, “chủ nghĩa cộng sản tuyệt nhiên không muốn xóa bỏ sự 
chiếm hữu cá nhân của người công nhân đối với những sản phẩm lao động của 



21

anh ta, vì sự  chiếm hữu  ấy không đẻ  ra một khoản dư  nào có thể  đem lại một  
quyền lực chi phối lao động của người khác, cũng không tước bỏ của ai cái khả 
năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội”[131].
Bốn là, “xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu với tính cách là sự khẳng 
định sinh hoạt của con người, là sự  xóa bỏ  một cách tích cực mọi tha hóa, con 
người từ  tôn giáo, gia đình, nhà nước quay trở  về  tồn tại con người, tồn tại xã  
hội của mình” [131]. “Xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu”, xây dựng thành  
công chủ nghĩa cộng sản, hoàn thành sự nghiệp giải phóng con người, khắc phục 
tình trạng tha hóa lao động phải cần thủ  tiêu một cách tích cực tình trạng  “lao 
động bị tha hóa”. Từ bài viết, tác giả luận án nhận thấy vấn đề  tha hóa trong xã  
hội có nguồn gốc tự lợi ích, mâu thuẫn lợi ích làm nảy sinh sự  tha hóa trong xã  
hội tư bản. Khi triển khai vấn đề lý luận của luận án, tác giả luận án cũng chỉ ra  
nguồn gốc của tình trạng tha hóa đạo đức ở một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản  
lý có nhiều nguồn gốc khác nhau những nguồn gốc trực tiếp nhất làm nảy sinh 
sự tha hóa của đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý là lợi ích.
Đi sâu bàn về lý luận tha hóa, tác giả Ngô Đình Xây (2010) với bài viết: “G. 
V. Ph. Heghen về "tha hóa" qua sự  đánh giá của C. Mác” [155]. Đây là bài viết 
mang tính lý luận, khái quát cao. Tác giả bài viết đã phân tích sâu sắc quan điểm  
của Hêghen về  tha hóa, đồng thời chỉ  ra những nhận xét của Mác về tha hóa 
mà Hêghen đã trình bày trong các tác phẩm của mình.
Theo tác giả, phạm trù “tha hóa” trong triết học Hêghen “đã trở thành phạm 
trù triết học theo nghĩa đầy đủ, rõ ràng và điển hình nhất của nó  ở  triết học cổ 
điển Đức. Hêghen đã xây dựng một lý luận khá hoàn chỉnh”[155] về “tha hoá” và 
nâng “tha hóa” lên thành phạm trù trung tâm, xuyên suốt trong hệ thống triết học  
của ông. Trong triết học của mình, Hêghen đã trình bày khái niệm tha hóa một 
cách hệ thống.

Tác giả bài viết đã chỉ ra sự đánh giá của Mác dưới các quan điểm sau:
Thứ nhất, “Hêghen đã chỉ ra biện chứng của lao động và tha hoá, của thống  
trị  và bị  nô dịch, của nguyên nhân và giả  định mục đích, của cơ  học và hữu cơ 
luận” [155]. Phạm trù “tha hoá” “của Hêghen mang cả tính chất bản thể luận (sự 
chuyển hoá của tinh thần thành tự  nhiên và sự  tạo ra thế  giới đối tượng, tức là  
thế  giới xã hội, khách quan, thông qua hoạt động mang tính đối tượng hoá của 
con người) lẫn tính chất nhận thức luận (biến tri thức thành mặt đối lập của nó,  
tức là thành sai lầm)” [155].
Thứ hai, tính độc đáo và biện chứng trong cách tiếp cận của Hêghen về “tha 
hoá”. Ở phần này, tác giả chỉ ra 2 giai đoạn.


22

Giai đoạn 1: ở giai đoạn này Hêghen xây dựng và làm rõ phạm trù “tha hoá” 
của mình: theo ông: “tha hoá chính là quá trình biến thành (trở thành) cái khác, cái 
tha hoá chính là cái ban đầu được biểu hiện là cái khác” [155].
Giai đoạn 2: Hêghen đã tiến thêm một bước để  tiến dần đến hoàn thiện 
phạm trù tha hoá.  Ở  giai đoạn này “ông hiểu tha hoá là trở  thành cái khác hoàn 
thiện hơn và các hình thức khác nhau của sự tha hoá (giới tự nhiên, con người và  
xã hội loài người, tự ý thức của con người) đều có xu hướng, có tham vọng trở 
về với cái xuất phát, cái căn nguyên, cái chủ thể tối thượng ­ ý niệm tuyệt đối ­ 
tinh thần tuyệt đối” [155].
Thứ  ba, từ  phạm trù tha hoá, Hêghen đã phát triển biện chứng, là quá trình 
tước bỏ và bảo tồn, là quá trình phủ định của phủ định.
Thứ tư, theo Hêghen “tha hoá” là “thuộc tính phổ biến, là quá trình phổ biến  
của tự nhiên, của xã hội và của tư duy” [155].
Thứ  năm, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng triết học, Hêghen đã bàn đến 
sự  tha hoá của bản chất con người. Tác giả  đã trích dẫn quan điểm của Mác  
rằng: “Đối với Hêghen  bản chất người đồng nghĩa với tự  ý thức. Cho nên đối 

với con người, mọi sự tha hoá của bản chất con người chẳng qua là sự  tha hoá  
của tự ý thức” [155]. Cũng  ở vấn đề  này Hêghen đã bàn đến lao động và sự tha  
hoá lao động của con người. Nhận xét về cách phân tích của Hêghen, Mác đã chỉ 
ra “thực tế tha hoá hiện thực của sản phẩm lao động khỏi người lao động được  
nhà triết học thể hiện dưới hình thức thần bí, bao gồm các trạng thái ý thức bị 
trói buộc của chủ thể mà cá tính phải chịu những hậu quả tai hại do tác động qua  
lại với môi trường xã hội” [155].
Thứ sáu, Hêghen bàn đến việc “giải” tha hoá. Theo Hêghen, muốn “giải” tha 
hoá thì con người phải trở về với nguồn gốc ban đầu của nó ­ ý niệm tuyệt đối.
Từ những phân tích trên, tác giả đi đến kết luận: “Tha hoá là một hiện thực 
có thật, một hiện trạng thực tế trong xã hội và có cơ sở kinh tế của nó. Và, cũng 
từ đây, C.Mác đã đi đến kết luận về một nội dung quan trọng nhất trong lý luận 
về tha hóa của mình, đó là việc tìm ra lực lượng và biện pháp vật chất để “giải” 
tha hóa trong hiện thực”[155]. Xuất phát từ  bài viết, tác giả  luận án nhận thấy  
đây là bài viết có giá trị  lý luận sâu sắc, tác giả  luận án đã kế thừa một số quan  
điểm, đặc biệt quan điểm “tha hoá hiện thực của sản phẩm lao động khỏi người 
lao động” để làm phần cơ sở lý luận của mình. 
Phân tích quan điểm của C.Mác về  tha hóa có luận án tiến sĩ triết học của 
Nguyễn Thị  Thanh Huyền (2010) với đề  tài: “Quan niệm của Các Mác về  tha  
hóa và ý nghĩa của quan niệm đó đối với phát triển con người Việt Nam” [59]. Luận 
án đã đi sâu vào phân tích quan điểm tha hóa của C.Mác trong Bản thảo kinh tế  ­  


23

triết học 1844. Trên cơ sở đó, luận án đã lý giải về khái niệm tha hóa, nguồn gốc, 
nguyên nhân của tình trạng lao động bị tha hóa. Từ những phân tích trên, luận án đã 
chỉ  rõ tính chất tiêu cực của tình trạng tha hóa trong lao  động của người công 
nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa, cả tình trạng tha hóa của bản chất con người  
trong xã hội  ấy. Tác giả  luận án đã phác thảo bức tranh về  con người Việt Nam  

trước những tác động của mặt trái kinh tế  thị  trường. Qua đó tác giả  cũng chỉ ra 
sự tác động của quá trình toàn cầu hóa đến tình trạng tha hóa của bản chất con 
người. Trên cơ  sở  những suy ngẫm về vấn đề  tha hóa và sự  nhìn nhận, tổng kết 
thực tiễn, tác giả đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục và đi đến  
xóa bỏ  tình trạng tha hóa để  phát triển con người Việt Nam toàn diện trong điều  
kiện hiện nay. Rõ ràng khái niệm tha hóa hoàn toàn có thể vận dụng vào điều kiện 
Việt Nam tùy từng cách vận dụng và lĩnh vực vận dụng. Trên cơ  sở  kế  thừa bài  
viết, tác giả  luận án vận dụng khái niệm tha hóa ở  một nghĩa hẹp hơn để  nhằm  
khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức ở một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở 
Việt Nam hiện nay.
Vận dụng vào thực tiễn  ở  Việt Nam, tác giả  Nguyễn Thị  Thanh Huyền  
(2014)  có bài viết: “Tha hóa đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường  ở  Việt  
Nam ” . Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam số 11.
Đề  tài này, tác giả  khái quát một số  quan điểm của Mác về  tha hóa , đặc 
biệt là tha hóa đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở xã hội tư bản. Từ khái quát 
mặt trái của kinh tế thị trường tác giả làm rõ vấn đề cạnh tranh về lợi ích đã dẫn 
đến làm tha hóa đạo đức con người.
Từ cơ cở lý luận, tác giả đã chỉ ra những vấn đề tha hóa đạo đức trong nền  
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Theo tác giả, quan hệ con người bị thao  
túng bới đồng tiền, hay nói cách khác đạo đức của con người bị tha hóa bởi kinh 
tế, từ  kinh tế  sinh ra chủ  nghĩa cá nhân, vị  kỉ. Con người nếu không kiểm soát  
được kinh tế thị trường thì chính con người sẽ bị kinh tế thị trường làm tha hóa 
đạo đức. Trước bài viết của tác giả Nguyễn Thị Huyền , tác giả luận án đã hoàn  
thành đề  tài thạc sĩ về  “tha hóa và khắc phục hiện tượng tha hóa của một bộ 
phận cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay” trong luận văn này tác giả luận án  
cũng đã trình bày quan điểm của mình về vấn đề  tha hóa về  đạo đức. Đây cũng  
là sự trùng hợp tư tưởng và cũng từ vấn đề này tác giả luận án càng có  niềm tin  
để tiếp tục nghiên cứu và triển khai luận án tiến sĩ của mình.
Tóm lại, từ những công trình trên cho thấy, các nhà lý luận bàn về tha hóa ở 
nhiều góc độ  khác nhau, cách vận dụng khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng, lĩnh 

vực vận dụng. Từ đó cho thấy, khái niệm tha hóa được vận dụng rất linh hoạt ở tất 
cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Trên cơ sở kế thừa tư tưởng của các nhà khoa 


24

học. Tác giả luận án vận dụng khái niệm tha hóa vào vấn đề đạo đức, với mục đích 
nhằm khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo,  
quản lý  ở  Việt Nam, khi mà tình trạng này đang trở  thành vấn đề  nhức nhối của 
toàn xã hội.
1.2. Những công trình liên quan đến thực trạng và nguyên nhân việc khắc  

phục tình trạng tha hóa về  đạo đức của một bộ  phận cán bộ  lãnh đạo, 
quản lý ở Việt Nam hiện nay 
Tác giả Nguyễn Tiến Nghĩa /2013) có bài viết: “Tham nhũng­nguyên nhân 
và biện pháp phòng ngừa”. Tác giả bài viết đã phân tích sâu sắc khái niệm tham  
nhũng, đồng thời tác giả cũng chỉ ra thực trạng và một số nguyên nhân. Theo tác 
giả, tham nhũng do một số nguyên nhân sau:
Một là, cơ  chế, chính sách và pháp luật còn nhiều kẽ hở,  lương công chức 
còn thấp.  Theo tác giả   ở  đâu “hệ  thống pháp luật còn lỏng lẻo, các quy trình ra 
quyết định và hoạch định chính sách còn thiếu minh bạch, thủ tục hành chính còn 
rườm rà, lương công chức còn thấp,…thì ở đó tình trạng tham nhũng có xu hướng  
gia tăng”[100].
Hai là, tác giả chỉ ra những hạn chế như: chưa phát huy được tính tích cực 
của người dân trong đấu tranh chống tham nhũng. Việc đấu tranh chống tham  
nhũng chưa được phát động thường xuyên.
Ba là, vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật, như công an, viện kiểm sát,  
tòa án chưa được phát huy đầy đủ.
Từ những phân tích trên tác giả đưa ra một số biện pháp ngăn ngừa trong đó  
có giải pháp giáo dục đạo đức cho cán bộ  lãnh đạo, quản lý; xét xử  công khai,  

nghiêm minh những cán bộ tha hóa về đạo đức, thành lập tòa án đặc biệt để  xét  
xử  cán bộ  lãnh đạo cấp cao;  phát , minh bạch. Nếu không bị  phản ánh, thì mọi việc cứ  mãi là điều bí  ẩn, và  
những sai phạm vẫn diễn ra, không phải ở một chỗ mà nhiều chỗ. Việc tạo lòng  
tin trong nhân dân là phải công khai, minh bạch, phải làm thật, không vo tròn che 
dấu khuyết điểm. Xử  lý cán bộ  phải nghiêm túc, khách quan, nếu sai phạm thì  
xử lý kỷ luật. Phải là minh bạch, không có vùng cấm. Khi tiến hành kỷ luật một  
cán bộ nào đó phải có đầy đủ chứng cứ, đồng thời phải minh bạch về thông tin 
trước đảng bộ, chi bộ.
Cán bộ  là người đứng đầu phải xử  nặng hơn, Vì, quyền lực cao phải đi  
kèm với trách nhiệm cao. Cùng một sai phạm, xử lý với cấp dưới có thể sẽ nhẹ 
hơn còn cấp trên xử lý nặng hơn vì cán bộ lãnh đạo, quản lý phải làm gương cho  
cấp dưới. Cấp dưới khen nhiều hơn, kỷ luật nhẹ hơn. Cấp trên khen ít hơn, kỷ 
luật phải nặng hơn. Như thế thể hiện sự nghiêm minh và gương mẫu của Đảng.
3.2.4.2. Xây dựng quy trình tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ chặt chẽ, khoa học
Xây dựng quy trình tuyển dụng cán bộ chặt chẽ: phải xây dựng quy chế, có 
những tiêu chí rõ ràng về trình học vấn, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, năng 
lực công tác; phải  ưu tiên những người đỗ  đạt cao  ở  các trường đại học danh  
tiếng trong và ngoài nước (trong nước và ở nước ngoài hiện nay vẫn còn tồn tại  
những trường kém chất lượng); ưu tiên những sinh viên tốt nghiệp đại học, thạc 
sĩ ở nước ngoài thuộc diện xuất sắc nhà nước cử đi học (những sinh viên du học  
tự túc thì không được ưu tiên). Thực tế cho thấy những người học giỏi, đa số là  
những người tận tâm, tận lực đối với việc học tập và nghiên cứu, khi được  
tuyển dụng họ  cũng là người tận tụy với công việc được giao. Những người 
lười học, lười nghiên cứu, thường là những người “nhàn cư  vi bất thiện”. Cần  
xem xét lại việc thi công chức, viên chức. Bởi, kỳ  thi này là nơi dễ xảy ra tiêu 
cực nhất.
Xây dựng quy trình bổ nhiệm cán bộ chặt chẽ, khách quan: trong bổ nhiệm 
cán bộ phải căn cứ  vào trình độ  chuyên môn, phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm,  
năng lực công tác. Người được bổ  nhiệm phải là người có trình độ  chuyên môn  
cao, trình độ  quản lý giỏi, có kinh nghiệm về  lĩnh vực được bổ  nhiệm. Trước 

thời gian bổ nhiệm không vi phạm kỷ luật ở lĩnh vực Đảng và chính quyền. Việc  
bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý cần được thực hiện qua hình thức thi  
tuyển một cách công khai, minh bạch với những tiêu chuẩn, yêu cầu rõ ràng và  


161

phải có hội đồng thi tuyển khách quan, nghiêm minh. Việc thành lập hội đồng thi  
tuyển phải thông qua hình thức bỏ phiếu kín. Phải thành lập hội đồng thanh tra,  
thực hiện nhiệm vụ thanh tra đột xuất đối với công tác thi tuyển. Mỗi chức danh  
thi tuyển nên có nhiều ứng viên tham gia dự thi để chọn lọc, chọn trúng người có  
năng lực. Sau khi trúng tuyển phải có quá trình theo dõi và kiểm nghiệm, đánh giá  
thực tiễn, nếu cán bộ mới bổ nhiệm không đảm đương được công việc, thì cho 
thôi việc. Việc đánh giá cán bộ không chỉ trong nội bộ cơ quan mà phải có cộng  
đồng giám sát, đánh giá nhằm đảm bảo khách quan, công bằng.
Đối với chức danh người đứng đầu nên xây dựng quy chế tranh cử (những  
người trúng cử  phải thực hiện đúng lời hứa trong đề  án tranh cử  của mình, nếu  
không thực hiện đúng lời hứa sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật). Từng vị  trí, 
chức danh đều phải có tiêu chuẩn cụ thể. Cần rà soát lại tất cả các quy định, xây  
dựng chế  độ  công chức, công vụ  chuyên nghiệp, công khai, minh bạch thì sẽ 
khắc phục được những lỗ hổng của công tác nhân sự, có như  vậy chúng ta mới  
thực sự  lựa chọn đúng người tài, người có đức, có đủ  trình độ  năng lực, phẩm 
chất cho một vị trí lãnh đạo, quản lý.
Khắc phục tình trạng lách luật, lách quy trình, bổ nhiệm người nhà, người thân  
và tình trạng “mua quan, bán chức” trong các cơ quan công quyền. Chống tình trạng,  
“quân xanh, quân đỏ” trong thi tuyển cán bộ, hay nói cách khác là chống tình trạng 
cài cắm người nhà, người thân trong việc thi tuyển các chức danh lãnh đạo, quản lý.
Hàng năm cần tổ chức các buổi hội thảo khoa học trong nước và quốc tế để 
lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học về  giải pháp khắc phục  
tình trạng tha hóa về đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý; Nhà nước cần tham  

khảo ý kiến của các nhà khoa học trong và ngoài nước, rà soát lại quy trình bổ 
nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý, xem xét lại các cơ  chế, chính sách và ban hành 
văn bản quy phạm pháp luật có sơ  hở  hay không, đồng thời bổ  sung kịp thời  
những khiếm khuyết trong các văn bản pháp luật.
3.2.4.3.  Nâng cao hiệu quả  công tác kiểm tra, giám sát đối với đội ngũ cán bộ  
lãnh đạo, quản lý
Để  làm tốt công tác kiểm tra, giám sát Lênin từng nhắc nhở chúng ta rằng: 
“cần phải dùng nhiều hình thức và phương pháp kiểm tra từ  dưới lên trên…để 
nhổ đi, nhổ lại cho sạch hết những cỏ rác bệnh quan liêu”[66, tr. 220­221]. Theo  
tinh thần của Lênin vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, chúng ta cần phải nhổ 
sạch những cán bộ lãnh đạo, quản lý tha hóa về đạo đức từ  trên xuống dưới, từ 
dưới lên trên, từ  cấp này liên quan đến cấp khác, từ  ngành này liên quan đến  
ngành khác. Muốn làm được điều này thì phải thực hiện tốt những vấn đề sau:
Một là,  nâng cao nhận thức cho các cấp  ủy đảng, chính quyền  trong việc  


×