Tải bản đầy đủ (.pdf) (230 trang)

Luận án tiến sĩ Văn hóa dân gian: Lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông trong xã hội đương đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.52 MB, 230 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Lê Khắc Ghi

LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI M’NÔNG PREH
HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐĂK NÔNG
TRONG XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA DÂN GIAN

Hà Nội - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Lê Khắc Ghi

LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI M’NÔNG PREH
HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐĂK NÔNG
TRONG XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI
Chuyên ngành: Văn hóa dân gian
Mã ngành: 9229041
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA DÂN GIAN


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

Trần Văn Ánh

Hà Nội - 2018


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án tiến sĩ là công trình của riêng tôi. Các số
liệu được sử dụng trong luận án là trung thực. Nếu có gì sai trái tôi hoàn toàn
chịu trách nhiệm.

Tác giả luận án

Lê Khắc Ghi


ii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................................... i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN ............................................... iii
MỞ ĐẦU.................................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN ......... 11
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài...........................................................11
1.2. Cơ sở lý luận ..................................................................................................26
1.3. Người M’Nông Preh ở huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông .............................41
Tiểu kết ..................................................................................................................53

Chương 2: PHỤC HỒI LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI M’NÔNG PREH
Ở HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐĂK NÔNG ................................................................... 55
2.1. Các lễ hội truyền thống ..................................................................................55
2.2. Chủ thể và khách thể với lễ hội ......................................................................94
2.3. Tình hình tổ chức phục hồi lễ hội truyền thống ở huyện Krông Nô, tỉnh
Đắk Nông ............................................................................................................107
Tiểu kết ................................................................................................................113
Chương 3: NHẬN ĐỊNH VỀ SỰ PHỤC HỒI LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG TRONG
XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI ........................................................................................................ 115
3.1. Những vấn đề xung quanh việc phục hồi lễ hội ...........................................115
3.2. Nguyên nhân của sự thay đổi của lễ hội ......................................................133
3.3. Hệ quả của quá trình thay đổi của lễ hội ......................................................153
3.4. Giá trị văn hóa lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội đương đại ..........157
3.5. Xu hướng phát triển của lễ hội M’Nông Preh trong thời gian tới....................160
3.6. Vấn đề bảo tồn, phát huy lễ hội truyền thống ..............................................166
Tiểu kết ................................................................................................................170
KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 173
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ............................... 177
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 178
PHỤ LỤC............................................................................................................................... 194


iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ


GS.TSKH

Giáo sư, tiến sĩ khoa học

GS.TS

Giáo sư, tiến sĩ

NVHCĐ

Nhà văn hóa cộng đồng

Nxb

Nhà xuất bản

PGS.TS

Phó giáo sư, tiến sĩ

tr

Trang

UBND

Ủy ban nhân dân


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lễ hội truyền thống M’Nông Preh là sinh hoạt cộng đồng tiêu biểu và
quy mô nhất của cư dân tại chỗ. Đây là những hoạt động mang tính tổng hợp
của tín ngưỡng tâm linh, sinh hoạt văn hóa, trao truyền kỹ năng sống, hoạt
động vui chơi, giải trí; đồng thời xây dựng tinh thần cố kết cộng đồng, giữ
cho cộng đồng tồn tại và phát triển qua hàng ngàn đời. Những thành tố văn
hóa trong lễ hội đã biểu hiện rõ sắc thái văn hóa của dân tộc, minh chứng cho
sức sống mãnh liệt của văn hóa cộng đồng làm nên sự khác biệt khó trộn lẫn.
Lễ hội thường tổ chức là: Mừng mùa (Bư brah bă), Sum họp cộng đồng
(R’nglăp bon), Cúng bến nước (Bư brah dơrâm dăk), Cầu mưa (Bư brah qual
mih), Cầu an (Tăm blang m’prang bon). Tuy mỗi lễ hội có sự khác nhau,
nhưng nhìn chung đó là sinh hoạt lớn của cộng đồng gồm nhiều yếu tố như:
các nghi thức tế lễ, lễ vật, trưng bày cây nêu, trồng cây blang, ẩm thực và hoạt
động vui chơi, giải trí. Phải thấy rằng, lễ hội giữ vai trò quan trọng trong đời
sống cộng đồng, là sự tái hiện các hoạt động sáng tạo, nơi biểu diễn, giới
thiệu nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc; là môi trường học hỏi đa diện
các kỹ năng sống, sản xuất và sáng tạo văn hóa nghệ thuật; tôn trọng lẫn nhau,
tôn trọng cuộc sống và biết ơn ông bà, những thế hệ đi trước bằng lối ứng xử
văn hóa giữa con người với con người, con người với môi trường tự nhiên và
con người với thần linh.
Từ góc độ của người quản lý và làm công tác nghiên cứu khoa học
trong quá trình điền dã và thực tế tôi nhận thấy trước sự thay đổi mau chóng
của đời sống xã hội, kinh tế phát triển đã tác động đến cuộc sống sinh hoạt
của người M’Nông Preh. Hoạt động văn hóa truyền thống bản địa nơi đây
ngày một phai nhạt dần, các lễ hội cũng thưa thớt và không còn quy mô, đầy
đủ như trước. Các bài bản nghi thức lễ hội, phương cách trình diễn, môi



2

trường diễn xướng, lễ vật dâng cúng, ăn uống, vui chơi, ca hát dân gian cũng
dần mai một và lãng quên. Môi trường sống đã bị bó hẹp, xa rừng - nơi hình
thành nên cốt lõi của văn hóa truyền thống. Không gian lễ hội - không gian
thiêng của bon làng với ngôi nhà truyền thống của người M’Nông hầu như
không còn nữa, chỉ còn trong ký ức đã được cộng đồng định vị trong suốt
hàng ngàn đời nay. “Ăn trâu” là một tập tục có từ lâu đời trong lễ hội, nó kéo
theo hàng loạt các nghi lễ: cột trâu, khóc trâu, đâm trâu, bôi máu trâu và cúng
cầu may cho người đâm trâu; tạo nên sự linh thiêng, khí thế hào hùng và bi
tráng đầy chất nhân văn của buổi tế lễ. Hiện nay, có nơi lễ hội đang thay con
trâu bằng con bò, heo đã bỏ đi những nghi lễ và nghi thức đặc biệt đó của lễ
hội, làm giảm đi tính thiêng và sự sôi động của một lễ hội truyền thống. Mặt
khác sự cố kết cộng đồng, một ước nguyện ngàn đời giữ cho họ tồn tại và
phát triển trong môi trường rừng núi còn nhiều khó khăn và thử thách đã
không giữ được cái hồn cốt, mong ước của cộng đồng trong mùa lễ hội. Nguy
cơ hơn là việc cải đạo, giảm sút thực hành tín ngưỡng; sự xúi giục của Tin
lành Đê Gar loại bỏ sinh hoạt lễ hội, nghi lễ trong đời sống cộng đồng, do đó
ảnh hưởng đến việc phục hồi lễ hội truyền thống.
Xuất phát từ thực tiễn qua các lễ hội truyền thống M’Nông Preh được
khái lược như trên, tôi đi đến xác định và lựa chọn đề tài nghiên cứu: Lễ hội
truyền thống của người M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông trong
xã hội đương đại.
Những vấn đề nghiên cứu chính mà luận án muốn giới thiệu, phân tích,
lý giải về lễ hội truyền thống với những nét riêng độc đáo và đa dạng trong
sinh hoạt cộng đồng của người M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk
Nông. Trước sự thay đổi nhanh chóng của đời sống mới, lễ hội truyền thống
đã bị cuốn theo trong sự gắng gượng để chấp nhận tồn tại trong bối cảnh mới.
Cộng đồng, đặc biệt là những nghệ nhân, người giữ hồn cốt cho lễ hội cũng



3

cảm thấy bối rối và tiếc nuối cho di sản cha ông ngày càng mai một. Tại sao
những lễ hội truyền thống tồn tại từ ngàn đời lại nhanh chóng bị mai một,
thay đổi và lãng quên trên chính mảnh đất đã sinh ra loại hình sinh hoạt văn
hóa giàu bản sắc? Những tồn tại của quá trình phục hồi lễ hội các dân tộc tại
chỗ đã tác động tiêu cực đến việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống, đặt ra những thử thách mới trong việc hài hòa giữa bảo tồn và
phát triển. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến phong trào “xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở”, giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp trong cộng đồng, cố kết bằng
sức mạnh truyền thống và ý thức công dân trong thời đại mới; tạo điều kiện
phát triển kinh tế-xã hội. Trong nhiều vấn đề quan tâm ngày nay, những vấn
đề tồn tại kéo dài, tiêu cực, khó kiểm soát của lễ hội các dân tộc bản địa đặt ra
phải có sự nhìn nhận đánh giá thực tế để xây dựng chương trình hành động
trong việc bảo tồn văn hóa truyền thống bằng các hành động thiết thực, bằng
công việc cụ thể như: tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn, tổ chức phục dựng,
tái hiện, giới thiệu, quảng bá hình ảnh các lễ hội đặc sắc này thông qua các đề
án, dự án, chương trình hỗ trợ cộng đồng, trong đó gắn lễ hội với du lịch.
Cộng đồng hưởng lợi trong các hoạt động lễ hội và cộng đồng là người quyết
định giữ gìn loại hình văn hóa độc đáo này. Đó là những vấn đề thực tế đặt ra
cho tác giả luận án quan tâm, nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tổng kết các công trình nghiên cứu về lễ hội truyền thống
của người M’Nông Preh cư trú tại huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông, chúng tôi
giới thiệu, phân tích và đưa ra kiến giải của riêng mình. Luận án có mục đích
cụ thể:
- Thông qua việc giới thiệu tổng quan lễ hội truyền thống người
M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông nhằm chỉ ra tổng thể hình ảnh



4

đời sống văn hóa cộng đồng, nêu được những giá trị văn hóa truyền thống
thông qua sinh hoạt cộng đồng, đặc biệt là lễ hội.
- Nêu ra những nhân tố tác động làm thay đổi lễ hội truyền thống
M’Nông, nói cách khác chỉ ra nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi lễ hội truyền
thống người M’Nông Preh sinh sống tại huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông
trong xã hội đương đại.
- Chỉ ra những tác động của việc phục hồi lễ hội đến đời sống cộng
đồng, trong mối quan hệ ứng xử của cộng đồng, cũng như việc giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống.
- Cách thức triển khai nội dung, chương trình hỗ trợ cộng đồng bảo tồn
lễ hội truyền thống, trong đó cộng đồng đóng vai trò chủ đạo, tích cực tham
gia. Đề xuất những giải pháp cụ thể để phục dựng lễ hội trong sinh hoạt văn
hóa cộng đồng, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, góp phần tích cực vào phát
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội; giữ gìn sự đoàn
kết trong cộng đồng với các dân tộc anh em; đồng thời đảm bảo hài hòa giữa
bảo tồn và phát triển văn hóa ở đại phương.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Lễ hội truyền thống M’Nông Preh
huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông trong bối cảnh chung của lễ hội và sinh hoạt
cộng đồng M’Nông tại tỉnh Đăk Nông. Khi tiếp cận nghiên cứu đối tượng
trên, luận án sẽ nghiên cứu giới thiệu tổng thể và những thành tố của lễ hội
truyền thống M’Nông Preh huyện Krông Nô: Mừng mùa (Bư brah bă), Sum
họp cộng đồng (R’nglăp bon), Cúng bến nước (Bư brah dơrâm dăk), Cầu mưa
(Bư brah qual mih), Cầu an (Tăm blang m’prang bon). Mặt khác, lễ hội
truyền thống M’Nông Preh cũng được đặt trong bối cảnh hiện nay với sự phát
triển của đời sống xã hội.



5

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: là không gian lễ hội của cộng đồng M’Nông Preh
thuộc huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông; trong đó tập trung khảo sát kỹ tại một
số bon trên mười tám bon có những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau như
bon KTăh xã Quảng Phú; bon Ol, Giang Trum xã Đăk Rô; bon Ja Răh, R’Cập
xã Nâm Nung; bon Jor Linh, Dru, Brói thị trấn Đăk Mâm. Qua đó so sánh, đối
chiếu để làm rõ những yếu tố thay đổi của lễ hội trong đời sống cộng đồng.
Phạm vi thời gian: tập trung nghiên cứu thực tế tổ chức lễ hội truyền
thống M’Nông Preh huyện Krông Nô từ năm 2004 (sau khi thành lập tỉnh
Đăk Nông), ít nhiều có đề cập đến thời gian trước và sau năm 1975 khi Tây
Nguyên được giải phóng, đất nước thống nhất để nhìn thấy quá trình chuyển
biến trong việc tổ chức lễ hội truyền thống.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Từ những mục đích, nội dung đặt ra như trên luận án sẽ đưa ra các giả
thuyết nghiên cứu như sau:
-Sự cởi mở, đổi thay của điều kiện kinh tế xã hội có sự tác động đến
đời sống cộng đồng. Tuy nhiên với lối sống không còn gắn bó với rừng, từ
canh tác nương rẫy sang canh tác cây công nghiệp, sinh hoạt tôn giáo mới đã
ảnh hưởng tiêu cực đến tín ngưỡng dân gian dẫn đến thay đổi sinh hoạt văn
hóa cộng đồng làm thay đổi lễ hội truyền thống.
- Sự hạn chế của tổ chức lễ hội truyền thống hoặc những thay đổi của lễ
hội đã tác động tiêu cực và ảnh hưởng đến sinh hoạt văn hóa cộng đồng các
dân tộc Tây Nguyên nói chung và người M’Nông Preh nói riêng trong việc
bảo tồn văn hóa truyền thống góp phần phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo
an ninh ở địa phương.
- Lễ hội truyền thống người M’Nông Preh là sinh hoạt cộng đồng hết

sức tích cực nếu như các giá trị truyền thống được giữ vững và các sinh hoạt


6

cộng đồng được bảo tồn là điều kiện tiên quyết trongviệc tuyên truyền, hướng
dẫn tổ chức phục dựng, tái hiện và giới thiệu, quảng bá hình ảnh các lễ hội
đặc sắc. Thông qua các đề án, dự án, chương trình, hỗ trợ cộng đồng, trong đó
gắn lễ hội với du lịch, cộng đồng sẽ được hưởng lợi trong các hoạt động lễ hội
và cộng đồng là người quyết định giữ gìn vốn quý của loại hình văn hóa độc
đáo này.
5. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu chính của luận án là phân tích, lý giải: tại sao lễ hội
truyền thống của người M’Nông Preh ở huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông có sự
thay đổi trong bối cảnh đương đại và những lý do gì mà hiện tượng sinh hoạt
văn hóa cộng đồng lại có nhiều thay đổi và diễn ra mạnh mẽ đến như vậy.
Tại sao xã hội ngày nay cộng đồng có điều kiện hơn và có đời sống
kinh tế khá giá hơn so với trước kia nhưng lễ hội không được tổ chức thường
xuyên theo đúng nguyện vọng của cộng đồng và phát huy giá trị văn hóa
truyền thống mà càng ngày mai một. Sự thay đổi truyền thống diễn ra như thế
nào, nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi này và hệ quả của quá trình thay
đổi này ra sao. Những thay đổi trong việc tổ chức lễ hội truyền thống đã nói
lên điều gì trong điều kiện có sự hỗ trợ của nhà nước, các cấp chính quyền
trong việc bảo tồn văn hóa truyền thống, vận động xây dựng nông thôn mới.
Trong nhiều vấn đề quan tâm ngày nay, sự thay đổi liên tục, tiêu cực
khó kiểm soát về lễ hội đã đặt ra phải có sự nhìn nhận, đánh giá thực tế để xây
dựng chương trình hành động trong việc bảo tồn văn hóa truyền thống.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp quan sát tham dự, phỏng vấn sâu
Trong quá trình quan sát, tham dự chúng tôi tiếp cận với các hoạt động

trong quá trình triển khai tổ chức lễ hội. Từ việc chuẩn bị triển khai lễ hội cho


7

đến các nghi lễ, các sinh hoạt văn hóa, trò chơi dân gian và hoạt động vui
chơi, giải trí của cộng đồng. Trong đó chúng tôi tiến hành gặp gỡ, trao đổi,
phỏng vấn cộng đồng đặc biệt là già làng, trưởng bon, lãnh đạo chính quyền
xã, huyện, tỉnh vì họ là những cán bộ quản lý, tổ chức, người con của bon
làng và thực hành lễ hội. Với việc tham gia lễ hội, tôi là cán bộ công tác lâu
năm trong ngành văn hóa, là người sống và làm việc ở địa phương được quan
sát nhiều lễ hội, chứng kiến quá trình tổ chức chúng tôi đã ghi hình, ghi âm,
ghi chép, cụ thể thời điểm nơi hành lễ và hoạt động lễ hội. Bên cạnh đó, là
những cuộc phỏng vấn sâu với các đối tượng có chủ đích, nhất là cộng đồng.
Tuy nhiên, tôi cũng gặp những khó khăn do phần lớn nghệ nhân cao tuổi,
không nói rành tiếng phổ thông, nghệ nhân giỏi đã mất; thế hệ sau chưa tiếp
nhận hết những tinh túy của văn hóa truyền thống. Với nguồn tư liệu này sẽ là
cơ sở quan trọng để giúp chúng tôi nhận diện rõ hơn về quá trình hình thành,
quá trình tổ chức và thực hành lễ hội với những thay đổi trong bối cảnh phát
triển kinh tế xã hội như hiện nay, đặc biệt là bảo tồn văn hóa truyền thống của
cư dân M’Nông.
6.2. Nghiên cứu tư liệu đã xuất bản
Tư liệu liên quan đến đề tài rất quan trọng, giúp cho việc nghiên cứu
được thuận lợi có hệ thống, có cơ sở, cứ liệu để dẫn chứng, tham khảo. Trước
khi tiến hành nghiên cứu thực tế, các lễ hội được tổ chức tại huyện Krông Nô
với các đối tượng khác nhau với các bon làng trong cộng đồng, chúng tôi đã
tiến hành tìm kiếm các tài liệu, công trình đã công bố, thu thập thông tin, phân
loại, sắp xếp, phân tích các kết quả nghiên cứu, trong đó bao gồm các sách
chuyên khảo, các tài liệu thống kê, các báo cáo, các đề tài khoa học, các dự án
từ trung ương đến địa phương, các tác giả trong và ngoài nước liên quan đến

đề tài. Nguồn tài liệu này có 3 lĩnh vực cơ bản mà chúng tôi đã sắp xếp, chuẩn
bị.


8

- Các tài liệu nghiên cứu về lễ hội truyền thống của người M’Nông
Preh ở huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông nói riêng và nghiên cứu lễ hội cộng
đồng M’Nông của Tây Nguyên nói chung.
- Các tư liệu nghiên cứu về sự thay đổi của sinh hoạt tín ngưỡng, tôn
giáo liên quan đến lễ hội và sinh hoạt cộng đồng của người M’Nông Preh ở
huyện Krông Nô. Và đặc biệt là nguồn tài liệu về Tây Nguyên của các học giả
chuyên sâu nói về sự thay đổi của xã hội Tây Nguyên nói chung và cộng đồng
M’Nông Preh nói riêng liên quan đến sinh hoạt cộng đồng, đặc biệt là lễ hội.
- Các tài liệu về lý thuyết có liên quan đến nghiên cứu lễ hội truyền
thống.
6.3. Mô tả
Dựa trên những thông tin thu thập từ nghiên cứu điền dã và xử lý trên
phần mềm máy tính về những tài liệu, các cuộc phỏng vấn, kể cả hình ảnh,
băng hình. Luận án sẽ mô tả chi tiết các địa điểm các bon làng tổ chức lễ hội
và một số sinh hoạt cộng đồng trong việc tổ chức lễ hội, tác giả sẽ bám sát
vào thực tế những hình thức sinh hoạt cộng đồng thực hành nghi lễ trong lễ
hội ở các bon làng với việc mô tả hết sức tỉ mỉ, nơi tổ chức lễ hội, thực hành
nghi lễ và sinh hoạt cộng đồng, vui chơi giải trí và các trò chơi dân gian trong
lễ hội để làm rõ được sự giống và khác nhau về cơ bản của một số lễ hội, giữa
các bon làng; đồng thời, cho người đọc có cái nhìn cận cảnh có hệ thống về
quá trình tổ chức các sinh hoạt cộng đồng, có những sự thay đổi của lễ hội
trong xã hội đương đại.
6.4. Phân tích diễn giải so sánh
Việc lý giải phân tích việc thay đổi hiện nay trong quá trình tổ chức lễ

hội truyền thống của người M’Nông Preh ở huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông
trên nhiều nguồn thông tin khác nhau:


9

Thứ nhất, phân tích các quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoạt động
lễ hội từ năm 1986 đến nay.
Thứ hai, phân tích những quan điểm học thuật của những học giả đi
trước về những vấn đề tổ chức lễ hội, tín ngưỡng và sinh hoạt cộng đồng có
ảnh hưởng đến sinh hoạt lễ hội, đặc biệt là những năm sau giải phóng miền
Nam thống nhất đất nước năm 1975, những năm 2000 thời điểm Tây Nguyên
có những biến chuyển dữ dội như: di dân tự do, hoạt động mạnh của tôn giáo,
mở rộng sản xuất phát triển kinh tế, trồng cây công nghiệp, xung đột về đất
đai.
Thứ ba, phân tích những luận điểm khoa học và lý thuyết đề tài.
Thứ tư, tìm hiểu và phân tích, lý giải của cộng đồng trong việc tổ chức
và bảo tồn văn hóa truyền thống nhất là lễ hội, đặc biệt là vào thời điểm phục
hồi sau những năm dài không tổ chức lễ hội.
Thứ năm, dựa vào các cuộc phỏng vấn, các băng ghi hình, ảnh chụp với
việc kết hợp đa dạng những tài liệu điền dã, những tâm tư, tình cảm của cộng
đồng bon làng, các quan điểm học thuật giúp cho việc phân tích, lý giải những
vấn đề nghiên cứu một cách khoa học để từ đó đưa ra những kết quả nghiên
cứu mới.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Trên cơ sở cái nhìn tổng quát về lễ hội truyền thống của người
M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông và việc phục hồi trong xã hội
đương đại của một loại hình sinh hoạt văn hóa nguyên hợp; nó thể hiện thế
giới quan, nhân sinh quan của cộng đồng M’Nông Preh, luận án góp phần tìm
hiểu tư tưởng, nguyện vọng của cộng đồng trong điều kiện xã hội mới.

- Góp phần vào việc nhận thức của chủ thể văn hóa, của xã hội về nguy
cơ của một loại hình văn hóa đang bị mai một, từ đó thay đổi cách nhìn, ý
thức trong bảo tồn văn hóa truyền thống.


10

- Từ cơ sở lý thuyết của đề tài ứng dụng vào thực tế của địa phương
nhằm phục hồi lễ hội truyền thống theo tâm nguyện của cộng đồng và chính
quyền địa phương.
8. Bố cục luận án
Ngoài Mở đầu (13 trang), Kết luận (4 trang), Tài liệu tham khảo (17
trang), Phụ lục (31 trang), nội dung luận án chia làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận (42 trang)
Chương 2: Phục hồi lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh ở
huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông (69 trang)
Chương 3: Nhận định về sự phục hồi lễ hội truyền thống trong xã hội
đương đại (58 trang)


11

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Trường Sơn - Tây Nguyên là vùng văn hóa đa dạng, phong phú, trong
đó văn hóa M’Nông là một trong những chủ thể nền văn hóa đã cuốn hút
nhiều nhà nghiên cứu. Trước năm 1954, những công trình nghiên cứu liên
quan đến người M’Nông phần lớn là của một số học giả người Pháp. Trước
hết phải nói đến H. Bernard với tác phẩm: Những cư dân mọi ở Đắk Lắk;

Henri Maitre với khảo cứu đồ sộ Rừng người Thượng: Vùng rừng núi cao
nguyên miền Trung Việt Nam. Có thể nhận thấy các công trình này chủ yếu
phác thảo và giới thiệu khái quát về người M’Nông trong cộng đồng các dân
tộc thiểu số cao nguyên miền Trung Việt Nam; chủ thể văn hóa của những
vùng cao nguyên rộng lớn này.
Sau năm 1954, có một số công trình nổi bật như Minority group in the
Republic of Viet Nam (Các nhóm thiểu số ở Việt Nam cộng hòa) (Shrock II
and others) hay Son of the mountains; Ethnohistory of the Vietnamese Central
Highlands to 1954 (Những người con của núi rừng: lịch sử tộc người ở Cao
Nguyên Việt Nam đến năm 1954). Đáng chú ý là công trình của G. C. Hickey
Free in the forest: Ethnohistory of the Vietnamese Central Highlands 1954 1976 (Tự do trong rừng: lịch sử tộc người ở Cao Nguyên Việt Nam 19541976)... Đặc biệt là công trình nghiên cứu về người M’Nông Gar của Georges
Condominas Nous avons mangé la forêt xuất bản năm 1974 lần đầu tiên ở
Pháp. Vào năm 2003 và năm 2008 Ở Việt Nam, công trình được Nhà xuất bản
Thế giới ấn hành với tựa đề Chúng tôi ăn rừng đá - Thần Gôo và tiểu tựa (Hii
saa Brii Mau-Yaang Gôo), Biên niên sử về làng Sar Luk của người M’Nông
Gar (Bộ tộc tiền Đông Dương trên cao nguyên miền Trung Việt Nam). Bên
cạnh đó, với cách tiếp cận liên ngành xã hội học, dân tộc học và ngôn ngữ học


12

Georges Condominas đã rất thành công trong các bài biên khảo ở Việt Nam
và Đông Nam Á từ năm 1953 đến năm 1976 được ấn hành năm 1978 với tên
gọi L’Espace social. A propos de l’Asie du Sud-Est, cho đến năm 1997 công
trình này được dịch ra bản tiếng Việt với tựa đề Không gian xã hội vùng Đông
Nam Á được đánh giá khá cao, là tư liệu khảo cứu có giá trị.
Trước năm 1975, những học giả, nhà khoa học ở miền Nam Việt Nam
cũng có một số công trình nghiên cứu về người M’Nông như Đồng bào các
sắc tộc thiểu số Việt Nam; nguồn gốc và phong tục (1970) của Nguyễn Trắc
Dĩ; một số bài báo của Nghiêm Thẩm in trên Nguyệt san Quê Hương năm

1961 như: “Tìm hiểu đồng bào Thượng”,“Nền kinh tế của đồng bào Thượng
Trung nguyên Trung phần”; hay một số bài “Phong quang tỉnh Đắk Lắk” (Hồ
Xuân Đàm, 1969); “Đồng bào sơn cước tại Việt Nam cộng hòa” (Lê Đình
Chi, 1972); “Việt Nam chí lược: Cao nguyên miền Thượng” (1974) của Cửu
Long Giang- Toan Ánh… Những công trình nghiên cứu văn hóa tộc người
M’Nông vào thời điểm trước năm 1975 đã có sự chú ý đầu tư, nhưng người
M’Nông được đề cập chỉ mang tính khái lược và giới thiệu chưa có tính
chuyên sâu và hàm lượng khoa học còn hạn chế.
Sau năm 1975, với sự quan tâm và tập trung của các nhà khoa học, cơ
quan nghiên cứu, đặc biệt là Viện Dân tộc học, người M’Nông đã được đề cập
chuyên sâu trong các công trình khoa học. Tiêu biểu là công trình: Các dân
tộc ít người ở Việt Nam - các tỉnh phía Nam (1984) của Viện Dân tộc học;
Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam (1999) của nhóm tác giả Hoàng
Văn Trụ, Đặng Văn Lung, Sông Thao; Lưu Hùng với Văn hóa cổ truyền Tây
Nguyên (1996); Văn hóa các dân tộc Tây Nguyên, thực trạng và những vấn đề
đặt ra (2004) do Trần Văn Bính chủ biên; Công trình Những khía cạnh của
văn hóa dân gian M’Nông Noong (2001) của Đỗ Hồng Kỳ; Văn hóa, xã hội
và con người Tây Nguyên (2007) Nguyễn Tấn Đắc; Những mảng màu văn


13

hóa Tây Nguyên (2007) của Ngô Đức Thịnh… Đây là những công trình
nghiên cứu có đầu tư với hàm lượng khoa học cao về người M’Nông, khái
quát về tộc người với những đặc điểm chung về dân số, địa bàn cư trú, đời
sống vật chất, tinh thần; trong đó đã khảo tả tương đối cụ thể về văn hóa của
tộc người M’Nông đề cập đến lễ hội của cư dân bản địa. Ngoài ra còn có
nhiều bài báo trên các tạp chí chuyên ngành nghiên cứu một vài khía cạnh cụ
thể trong đời sống văn hóa xã hội và lễ hội của cộng đồng M’Nông.
Với những nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa dân gian M’Nông và có

nội dung liên quan đến luận án, chúng tôi phân thành hai nhóm vấn đề sau:
* Những công trình nghiên cứu về văn hóa M’Nông
Việc nghiên cứu lễ hội truyền thống người M’Nông Preh tỉnh Đắk
Nông, kể cả những công trình nghiên cứu chuyên sâu về người M’Nông còn
hạn chế. Những công trình bài viết của các tác giả, nhà nghiên cứu chủ yếu đề
cập đến đời sống tinh thần của cư dân M’Nông, trong đó có tộc người
M’Nông Preh được tập hợp trong nhóm này để có cái nhìn chung, nhằm đánh
giá toàn diện về sinh hoạt văn hóa tinh thần của người M’Nông.
Địa phương chí tỉnh Quảng Đức do Tòa hành chính tỉnh Quảng Đức
phát hành năm 1960 sau khi đơn vị hành chính tỉnh Quảng Đức được thành
lập theo Sắc lệnh số 24 NV ngày 23/01/1959 của Tổng thống Việt Nam Cộng
hòa Ngô Đình Diệm ký; toàn tỉnh có 03 quận gồm: Khiêm Đức, Kiến Đức và
Đức Lập với 215 buôn Thượng của các sắc dân M’Nông, Mạ, Ê Đê, K’ho,
dân tộc Thượng ở tỉnh Quảng Đức chiếm gần 2/3 dân số toàn tỉnh, khoảng
20.000/30.792 người, trong đó Bộ lạc M’Nông chiếm đa số. Tuy nhiên, về
phía Bắc quận Đức Lập có một số người M’Nông Preh tiến bộ hơn. Về việc
sản xuất, đồng bào Thượng chuyên sống về nông nghiệp họ không biết cày
cấy như đồng bào Kinh mà chỉ biết chuyên làm rẫy trên các ngọn đồi.


14

Về phong tục tập quán, cũng như đồng bào Thượng thuộc các Bộ lạc
khác, Bộ lạc M’Nông và Mạ trong tỉnh có phong tục, tập quán rất phức tạp
nặng tính chất mê tín dị đoan. Về tín ngưỡng, đồng bào Thượng tại tỉnh
Quảng Đức không theo tôn giáo nào mà trái lại thờ nhiều thần: thần trời, thần
đất, thần nông, thần núi, thần lửa. Tuy nhiên, họ tín ngưỡng trên các vị thần
ấy có một vị thần nhân là Đấng tối cao như thượng đế vậy, do tin tưởng nhiều
thần nên đồng bào Thượng thường cúng tế quanh năm. Địa phương chí tỉnh
Quảng Đức là một tài liệu có giá trị, tuy mang tính khái lược giới thiệu về

mảnh đất và con người nơi đây nhưng cho thấy bức tranh tương đối toàn diện
về đời sống của cộng đồng các dân tộc tại chỗ với những số liệu cơ bản làm
cơ sở để đối chiếu nghiên cứu, đóng góp một phần tư liệu trong tài liệu
nghiên cứu về Đăk Nông.
Năm 1966, Bộ Quân lực Hoa Kỳ đã công bố công trình Minoroty group
inder Rubulist of Viet Nam - các nhóm thiểu số ở Việt Nam Cộng hòa. Công
trình này nằm trong chương trình nghiên cứu về các dân tộc ở Việt Nam được
miêu tả qua hơn 50 trang và chia thành 12 phần, bên cạnh việc giới thiệu về
các tộc người thiểu số ở Việt Nam, đặc biệt là ở Tây Nguyên thì công trình
này còn giới thiệu tương đối toàn diện về người M’Nông từ đặc điểm nhân
chủng đến ngôn ngữ, nguồn gốc tộc người; đặc biệt là văn hóa, tập quán,
những cấm kị trong sinh hoạt tín ngưỡng. Trên cơ sở giới thiệu về đời sống
văn hóa cộng đồng có đề cập đến sinh hoạt tín ngưỡng và lễ hội, trong đó giới
thiệu một số nghi lễ quan trọng gắn liền với đời sống cư dân bản địa. Mặc dù
giới thiệu hết sức khái quát nhưng tư liệu đã giúp cho người nghiên cứu có
thêm những cơ sở để nhận định và đánh giá cơ bản về người M’Nông.
Đại cương về các dân tộc Ê Đê, M’Nông ở Đắk Lắk, năm 1982, Sở Văn
hóa, Thông tin Đắk Lắk xuất bản do Bế Viết Đẳng chủ biên. Cũng như các
công trình nghiên cứu khác, các tác giả đề cập vấn đề phân bố dân cư, thành


15

phần dân tộc, đặc điểm nhân chủng của hai dân tộc bản địa M’Nông và Ê Đê.
Trong phần thứ 3 của công trình này đã tập trung trình bày những phong tục
tập quán và nghi lễ của hai tộc người M’Nông và Ê Đê. Tuy nhiên, những
giới thiệu này chỉ mang tính khái quát; tác giả Vũ Đình Lợi chỉ mong muốn
giới thiệu một vài hình ảnh cơ bản về sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người
M’Nông và Ê Đê mang tính gợi mở, cho những định hướng nghiên cứu sâu
hơn để sau này các tác giả tiếp tục nghiên cứu về hai tộc người nói trên.

Năm 2007, tác giả Trương Bi cho ra mắt công trình Văn hóa mẫu hệ
M’Nông, đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu về một lĩnh vực của cư dân
M’Nông. Tuy nhiên, việc nhận định, đánh giá và phân tích về văn hóa mẫu hệ
M’Nông từ gia đình, dòng họ cho đến cộng đồng trong các mối quan hệ xã
hội phức tạp. Bên cạnh đó, các hoạt động xã hội, các hoạt động cộng đồng
như tín ngưỡng, lễ hội của người M’Nông là cơ sở để chi phối về loại hình
văn hóa đặc biệt này. Tác giả Trương Bi đã nhấn mạnh dấu ấn thiết chế mẫu
hệ trong đời sống cộng đồng M’Nông xưa và nay, như một mặt để khẳng định
những giá trị văn hóa đó đã làm nên nền tảng đời sống cộng đồng và duy trì
cho đến ngày nay; mặt khác tác giả đã cung cấp cho bạn đọc, những người
nghiên cứu những kiến thức bổ ích.
Công trình Phong tục tập quán cổ truyền của một số dân tộc thiểu số
Tây Nguyên (2007) nhà xuất bản Văn hóa dân tộc của tác giả Ngô Đức Thịnh,
Lê Văn Kỳ. Tuy chỉ tập trung nghiên cứu phong tục tập quán của tộc người Ê
Đê và M’Nông nhưng cho thấy sự đóng góp mới của lĩnh vực nghiên cứu đã
có một số tác giả đề cập với sự thuận lợi của Viện Văn hóa lúc bấy giờ, hai
tác giả đã có dịp tiếp cận và nghiên cứu sâu về hai tộc người có một nền di
sản văn hóa hết sức độc đáo và phong phú. Qua công trình nghiên cứu đã cho
thấy các hoạt động sinh hoạt văn hóa cộng đồng, trong đó có các phong tục,
tập quán và sinh hoạt lễ hội, nghi lễ có những lý giải sâu sắc và nhiều kết luận


16

xác đáng với những đóng góp mới cho vấn đề nghiên cứu về tộc người và đặc
biệt là vùng đất Nam Tây Nguyên.
Nhạc cụ dân gian Ê Đê, M’Nông do Nhà Xuất bản Văn hóa Dân tộc,
xuất bản năm 2010 của Vũ Lân và Trương Bi. Đây là một công trình văn hóa
tập trung nghiên cứu chuyên sâu về nhạc cụ dân gian của người M’Nông và Ê
Đê. Trên cơ sở đời sống xã hội, những phong tục tập quán, tín ngưỡng, nhạc

cụ dân gian của người M’Nông, Ê Đê gắn bó mật thiết đến sinh hoạt cộng
đồng và đời sống xã hội, cho thấy tính đa dạng và đa diện trong việc sử dụng
các nhạc cụ dân gian trong sinh hoạt cộng đồng. Nhạc cụ dân gian M’Nông, Ê
Đê đã góp phần tạo nên các giá trị văn hóa, là mối quan hệ khăng khít giữa
nhạc cụ với đời sống cộng đồng, giữa nhạc cụ với tín ngưỡng, nghi lễ và lễ
hội .
Sau năm 2004, tỉnh Đắk Nông được tái lập, Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch đã thực hiện đề tài khoa học Văn hóa M’Nông và vấn đề bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa dân tộc M’Nông ở tỉnh Đắk Nông, do Viện Khoa học xã
hội vùng Nam bộ thực hiện do Nguyễn Thế Nghĩa làm chủ nhiệm. Văn hóa
M’Nông và vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc M’Nông ở tỉnh
Đắk Nông là một công trình có ý nghĩa, bởi vì lần đầu tiên được nghiên cứu
chuyên biệt về tộc người M’Nông, về văn hóa truyền thống; đồng thời đề xuất
giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc M’Nông trên địa bàn
tỉnh Đắk Nông.
Trong báo cáo khoa học này, với hai chương quan trọng là chương IV:
“Tín ngưỡng và tôn giáo của tộc người M’Nông” và chương IX: “Lễ hội dân
gian M’Nông”, tập trung về giới thiệu tín ngưỡng M’Nông dân gian và các lễ
hội, nghi lễ của người M’Nông; đã cho thấy những nét chung nhất về các hoạt
động sinh hoạt văn hóa của cộng đồng M’Nông, nhấn mạnh công tác bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, ít tập trung lý giải về một số vấn


17

đề quan trọng như những thay đổi của văn hóa tín ngưỡng và lễ hội truyền
thống của người M’Nông. Tuy nhiên, công trình cũng đã cung cấp những dữ
liệu quan trọng để làm cơ sở nghiên cứu tiếp theo.
Công trình Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các tộc người Ê Đê,
M’Nông 2009 - Nhà Xuất bản Văn hóa Dân tộc của Trương Bi - Bùi Minh

Vũ. Công trình nghiên cứu mang tính chất tổng họp những vấn đề liên quan
đến đời sống cộng đồng và di sản văn hóa truyền thống cũng như những thực
trạng của nó trong việc bảo tồn và phát huy. Công trình cũng đã tập trung
nghiên cứu và giới thiệu một số nghi lễ về nông nghiệp, vòng đời người được
phân tích và giới thiệu kỹ, cung cấp nhiều thông tin bổ ích về vấn đề đặc
trưng của vùng đất và con người M’Nông, Ê Đê, với sự quan tâm của độc giả
và những người nghiên cứu. Nhìn chung, công trình chỉ hướng đến định
hướng về bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của người
M’Nông và Ê Đê. Bên cạnh đó, cũng cung cấp một số dữ liệu quan trọng để
làm cơ sở nghiên cứu.
Năm 2011, tác giả Vũ Ngọc Khánh đã công bố công trình Người
M’Nông ở Việt Nam, do Nhà xuất bản Thông tấn ấn hành. Đây là công trình
nghiên cứu của tập thể do Vũ Ngọc Khánh chủ biên, là tập sách ảnh nghiên
cứu tổng quan về người M’Nông, trên cơ sở khái quát vấn đề tổ chức xã hội,
đời sống cộng đồng, trong đó đề cập đến sản xuất và sinh hoạt văn hóa truyền
thống của người M’Nông, đặc biệt là các nghi lễ và lễ hội được giới thiệu và
đưa ra một số nhận xét cơ bản về tín ngưỡng dân gian cũng như nghi lễ và lễ
hội của người M’Nông. Đây là công trình song ngữ Việt - Anh, do đó tập sách
mang nhiều ý nghĩa nhằm giới thiệu những kiến thức nhất định về người
M’Nông ở Việt Nam với đầy đủ những hình ảnh minh họa hết sức độc đáo và
mới lạ.


18

Công trình Địa chí Đắk Nông do Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân tỉnh Đắk Nông chỉ đạo biên soạn, được Nhà xuất bản Từ điển
Bách khoa xuất bản năm 2011, đây là công trình nghiên cứu tổng hợp có tính
quy mô lớn nhất của tỉnh Đắk Nông từ trước đến nay, là một bộ sách tổng hợp
mang tính bách khoa thư của địa phương được ghi chép một cách toàn diện,

các mặt, đặc điểm tự nhiên dân cư, cũng như kinh tế văn hóa xã hội của địa
phương; đây là dữ liệu quý báu với độ tin cậy cao góp phần đắc lực vào việc
xây dựng các luận cứ khoa học cho nhiều chuyên đề nghiên cứu sau này.
Với vùng đất hiện có 40 dân tộc anh em sinh sống, nhưng đặc biệt các
dân tộc bản địa M’Nông, Mạ và Ê Đê đã có vai trò, vị trí quan trọng trong đời
sống xã hội với nhiều loại hình văn hóa độc đáo, phong phú như: lễ hội, cồng
chiêng, sử thi và các loại hình văn hóa dân gian khác; đó là những nét đặc
trưng, độc đáo, phong phú đã làm nên hình ảnh, văn hóa và con người độc
đáo ở vùng đất Tây Nguyên.
Trong chương Về văn hóa tinh thần của Địa chí Đắk Nông tập trung
phản ảnh phong tục tập quán, các nghi lễ và lễ hội truyền thống của các dân
tộc bản địa M’Nông, Mạ và Ê Đê bên cạnh các tộc người đến sinh sống tại
Đắk Nông với những lễ hội và nghi lễ phong phú. Với một công trình đồ sộ
để nghiên cứu về vùng đất, con người cũng đã giành phần lớn để giới thiệu về
văn hóa truyền thống của các cư dân bản địa chủ yếu là người Mạ, M’Nông
và Ê Đê; trong đó đặc biệt quan tâm đến các hoạt động sinh hoạt văn hóa
cộng đồng, nghi lễ và lễ hội của người M’Nông. Tuy nhiên, đó là những kiến
thức chung nhất mang tính khái quát và làm cơ sở để tham khảo và vận dụng
cho các nghiên cứu sau này.
*Các công trình nghiên cứu liên quan đến lễ hội M’Nông, lễ hội
M’Nông Preh, huyện Krông Nô
Để có góc nhìn tương đối cụ thể về một đối tượng nghiên cứu của luận
án về lễ hội truyền thống người M’Nông Preh tỉnh Đắk Nông, chúng tôi giới


19

thiệu những công trình liên quan trực tiếp đến tín ngưỡng các sinh hoạt văn
hóa cộng đồng trong đó có lễ hội truyền thống M’Nông nói chung, M’Nông
Preh nói riêng.

Chúng tôi ăn Rừng Đá - Thần Gôo của Georges Condoninas nhà dân
tộc học người Pháp trong hai năm 1948, 1949 đã cùng ăn, cùng ở, cùng sinh
hoạt với cộng đồng M’Nông Gar ở bon Sar Luk. Biên niên sử về bon Sa Luk
đã phản ảnh chân thật và sinh động về sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, nghi lễ
cũng như lễ hội của cộng đồng M’Nông Gar hết sức cụ thể. Trong lời dẫn
nhập ông đã chỉ ra:
Cuốn sách về một cộng đồng M’Nông Gar này chủ yếu là một sưu
tập thô thu nhặt được rút ra từ các sổ tay ghi chép của chúng tôi
trong thời gian sống tại Sar Luk huyện Lăk. Trước khi dựng lên một
mô hình về cấu trúc xã hội M’Nông, chúng tôi thấy cần trình bày
những khía cạnh khác nhau trong đời sống của nhóm người này
bằng những thí dụ cụ thể rút ra từ thực tế hàng ngày. Chẳng hạn, ở
đây chúng tôi không đưa ra một Lễ Tăm Bôh M’Nông Gar lý thuyết
mà trình bày một lễ trao đổi hiến sinh trâu cụ thể, có ngày tháng và
được đặt trong bối cảnh cuộc sống thường ngày [40, tr.12].
Condominas đã mô tả một lễ cúng rất lớn của người M’Nông Gar gọi
là Niditdong của Bon Sala cách Bon Salut 04km về phía thượng nguồn. Lễ
hội này tục cúng tế cực kỳ “xa hoa”(chữ dùng của Condominas). Họ giết tới
11 con trâu; riêng khách mời đã đến 120 người gồm 9 bon làng lân cận mà
cộng đồng làng chỉ có 80 người. Chúng tôi ăn Rừng Đá - Thần Gôo đã có
tiếng vang lớn trong giới học thuật Phương Tây, là nguồn tư liệu quý giá cho
các nhà nghiên cứu văn hóa người M’Nông Gar, đặc biệt là văn hóa các tộc
người Tây Nguyên. Đối với văn hóa M’Nông nó đã đánh dấu một khởi đầu
với nhiều giá trị về nghiên cứu tộc người M’Nông trước năm 1954. Cuốn sách


20

là cơ sở, nguồn tài liệu viện dẫn, so sánh, đối chiếu cho các nhà nghiên cứu về
văn hóa M’Nông sau này.

Văn hóa dân gian M’Nông do Ngô Đức Thịnh chủ biên (1993) và Đỗ
Hồng Kỳ, Tô Đông Hải đã đề cập đến những thành tố văn hóa dân gian của
tộc người này. Phần lễ hội chỉ được đề cập đến như những nét phác thảo có
tính chung nhất. Đây là công trình nghiên cứu văn hóa M’Nông sau năm 1975
có hệ thống với sự nhìn nhận, quan sát, khảo tả khái quát. Công trình này là
nguồn tư liệu tham khảo quan trọng cho các thế hệ kế tiếp nghiên cứu về
người M’Nông, về văn hóa truyền thống M’Nông.
Kế thừa kết quả nghiên cứu kể trên Tô Đông Hải đã tập trung tìm hiểu:
nghi lễ và âm nhạc nghi lễ trong công trình Nghi lễ và âm nhạc trong nghi lễ
của người M’Nông (Bu Noong). Ở đây, tác giả cũng giới thiệu hầu hết các
nghi lễ của người M’Nông, trong đó trình bày cụ thể các nghi lễ, phần thực
hành nghi lễ có liên quan trong quá trình tổ chức lễ hội. Tuy nhiên, nghi lễ
được chỉ ra ở đây cũng chỉ mang tính khái quát và trình tự những nghi lễ và
âm nhạc sử dụng trong lễ hội, chứ chưa trình bày đầy đủ, chi tiết của lễ hội
M’Nông. Dù sao đây cũng là nguồn tư liệu cần thiết cho những người nghiên
cứu và tìm hiểu về văn hóa M’Nông tham khảo, đối chiếu với thực tế điền dã.
Đỗ Hồng Kỳ với công trình Những khía cạnh của văn hóa dân gian
M’Nông Noong (2001) đã khảo tả tương đối cụ thể về văn hóa dân gian tộc
người M’Nông; trong đó, đề cập đến lễ hội của cư dân này. Từ đặc điểm lịch
sử tộc người, địa bàn cư trú, phong tục tập quán cũng như những sinh hoạt
văn hóa dân gian của tộc người này. Tác giả đã chỉ ra được những đặc điểm
của các thành tố văn hóa của người M’Nông. Đỗ Hồng Kỳ là người nghiên
cứu chuyên sâu về văn hóa M’Nông; ông là người đầu tiên phát hiện ra Ot
n’drong - sử thi M’Nông. Công trình này được sự đón nhận và quý trọng của
độc giả và những nhà nghiên cứu văn hóa. Đây là dữ liệu quan trọng để bạn


×