1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Trải qua hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực lượng
CAND Việt Nam luôn được Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh
quan tâm giáo dục và rèn luyện; được nhân dân thương yêu đùm bọc, giúp
đỡ. Họ luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, kịp thời phát hiện và kiên quyết
đấu tranh, đập tan mọi âm mưu, hành động phá hoại của các thế lực thù
địch và bọn tội phạm; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của dân tộc.
Các Học viện CAND là nơi đào tạo nguồn nhân lực chủ yếu cho lực
lượng CAND, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng lớp lớp sỹ quan Công an có
phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có lòng dũng cảm, có năng lực chuyên môn
nghiệp vụ, đảm bảo làm lực lượng nòng cốt, tiên phong trong mọi nhiệm vụ
được giao.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, Đảng ủy, Ban Giám đốc
và đội ngũ cán bộ, giảng viên làm công tác giảng dạy luôn quan tâm chỉ đạo
và tổ chức thực hiện việc giáo dục kiến thức chuyên môn cũng như
GDYTCT cho học viên, coi đây là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên.
Việc GDYTCT cho học viên các Học viện CAND là vấn đề quan trọng
trong chiến lược phát triển con người của Đảng, Nhà nước và ngành Công
an thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Giáo dục YTCT cho học viên
nhằm làm cho mỗi học viên có nhận thức sâu sắc và có niềm tin vững chắc
đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan
điểm của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa; nhận rõ bản chất và âm mưu
chống phá của các thế lực thù địch...Từ đó có lập trường, bản lĩnh chính trị,
kiên định vững vàng trước những âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch và trước mọi cám dỗ của cuộc sống.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả, thành tích đạt được, quá trình GDYTCT
trong các Học viện CAND vẫn còn một số mặt hạn chế nhất định: chất
lượng giáo dục chính trị, tư tưởng cho học viên còn bất cập; YTCT của một
số học viên chưa cao; chương trình, kế hoạch giáo dục chính trị bị giản lược
đến mức tối thiểu; nội dung giáo dục chậm đổi mới, thiếu cập nhật những
thông tin mới, nhất là những vấn đề chính trị phức tạp, nhạy cảm; phương
pháp giáo dục còn mang tính hình thức, đơn điệu, cứng nhắc, chưa hấp dẫn,
chưa thuyết phục, chưa tạo ra sự hứng thú đối với người học; công tác cổ
động, tuyên truyền chưa sâu, rộng; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống các
2
quan điểm sai trái, thù địch; hiệu quả GDYTCT chưa cao, chưa thật sự vững
chắc…
Hiện nay cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, đặc biệt cuộc
đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ diễn ra gay gắt và quyết liệt. Mặt trận
chính trị, tư tưởng đang hết sức nóng bỏng. Chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực thù địch ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”, triệt để lợi
dụng sự khủng hoảng của CNXH, điên cuồng chống phá cách mạng nước
ta. Chúng công kích, xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; kích động bạo loạn chính trị;… đồng thời mưu đồ “phi chính
trị hóa lực lượng vũ trang”, nhằm làm cho lực lượng vũ trang mất phương
hướng chính trị dẫn đến vô hiệu hoá và làm thay đổi nhận thức các tầng
lớp nhân dân đặc biệt là thanh niên, sinh viên bởi đây là đối tượng dễ bị dao
động nhất.
Trước những biến động phức tạp của tình hình chính trị kinh tế thế
giới, sự tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường... một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên, trong đó có lực lượng công an, có cả sĩ quan cấp cao thoái
hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng, lãng phí...;
một bộ phận học viên ngại học tập chính trị, xa rời lý tưởng, có lối sống thực
dụng, ích kỷ, mưu cầu danh lợi, một số học viên chưa thật sự tu dưỡng, rèn
luyện nên đã sa vào tệ nạn như lô đề, cá độ, cờ bạc, cầm đồ… Những vi phạm
về phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ chiến sĩ CAND nói trên, tuy
không phải là phổ biến nhưng nó đã làm mất lòng tin của nhân dân, gây ảnh
hưởng đến uy tín và danh dự của lực lượng CAND. Đây là những hành động,
việc làm mà các đơn vị, cán bộ, chiến sĩ công an phải kiên quyết đấu tranh,
khắc phục để xây dựng lực lượng CAND trong sạch, vững mạnh, ngày càng
được nhân dân tin yêu, quý trọng, xứng đáng là lực lượng vũ trang tin cậy của
Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Vì vậy Đại hội XII đã chỉ rõ trong thời gian t ới ph ải: Đổi mới nội
dung, ph ương th ức giáo dục chính trị, tư tưở ng, lý tưở ng, truyền thống,
bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, lòng yêu nướ c, xây dựng đạo đứ c, lối
sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp
và pháp luật cho th ế h ệ trẻ. [30, tr.162].
Với tầm quan tr ọng nêu trên, nghiên cứu sinh ch ọn đề tài: “Giáo
dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện Công an nhân dân ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ ngành Triết học, chuyên
ngành Chủ nghĩa xã hội khoa h ọc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
3
2.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn
về GDYTCT cho học viên các Học viện CAND, luận án đề xuất những
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng GDYTCT cho học viên các
Học viện CAND ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Tông quan các công trình khoa h
̉
ọc nghiên cứu ở Việt Nam và nước
ngoài có liên quan đến đề tài “Giáo dục ý thức chính trị cho học viên các
Học viện Công an nhân dân ở Việt Nam hiện nay”.
Làm rõ một số vấn đề lý luận về GDYTCT cho học viên và đưa ra
các tiêu chí để đánh giá chất lượng GDYTCT cho học viên các Học viện
CAND Việt Nam hiện nay.
Khảo sát, đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và xác định những vấn
đề đặt ra trong GDYTCT cho học viên các Học viện CAND Việt Nam hiện
nay.
Dự báo những yếu tố tác động và đề xuất những giải pháp cơ bản
góp phần nâng cao chất lượng GDYTCT cho học viên các Học viện CAND
Việt Nam hiện nay.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình GDYTCT cho học viên hệ đào
tạo đại học chính quy tập trung trong các Học viện CAND ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Quá trình GDYTCT cho học viên đại học chính
quy các Học viện CAND ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu qua khảo sát, đánh giá quá
trình GDYTCT cho học viên hệ đào tạo đại học chính quy tập trung trong các
Học viện CAND ở Việt Nam hiện nay (Học viện An ninh nhân dân, Học viện
Cảnh sát nhân dân và Học viện Chính trị CAND, riêng Học viện Tình báo của
Bộ Công an do tính chất đặc thù của ngành, nên tác giả không khảo sát).
Ph ạm vi th ời gian: Quá trình GDYTCT cho h ọc viên các Học
việ n CAND đượ c nghiên cứ u từ khi có Ch ỉ th ị s ố 11/CTBCAX11
ngày 13/6/2007 v ề tăng cườ ng công tác chính tr ị tư t ưở ng trong l ực
lượ ng Công an nhân dân đ ến năm 2018.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận
án
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
4
Cơ sở lí luận của luận án là hệ thống quan điểm, nguyên lí cơ bản của
chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam; chính sách, pháp luật của Nhà nước và của ngành Công an
về GDYTCT cho cán bộ, chiến sĩ công an.
Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng của quá trình GDYTCT cho học
viên các Học viện CAND qua các số liệu, tư liệu, báo cáo tổng kết của các học viện
và qua khảo sát, điều tra xã hội học. Ngoài ra, luận án cũng kế thừa kết quả nghiên
cứu của các công trình khoa học khác, cũng như trong hoạt động thực tiễn GDYTCT
cho học viên ở các học viện, trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Lu ận án sử dụng ph ươ ng pháp lu ận củ a chủ nghĩa duy v ật bi ện
ch ứng và chủ nghĩa duy v ật l ịch s ử.
Phương pháp cụ thể: Thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu,
luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp phân tích tổng hợp: phương pháp này được dùng để
tìm hiểu, nghiên cứu các văn kiện, nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp
luật của Nhà nước; chỉ thị, điều lệnh của ngành; các công trình khoa học
trong và ngoài nước… liên quan đến luận án;
+ Phương pháp lôgíc và lịch sử: phương pháp lôgíc để tìm thấy mối liên hệ
bản chất, tính tất yếu, quy luật các vấn đề liên quan đến nội dung luận án. Luận
án trình bày vấn đề theo trình tự thời gian để thấy được các quan điểm, tư tưởng
về GDYTCT cho học viên qua các thời kỳ;
+ Phương pháp thống kê, so sánh, quan sát: luận án thống kê các số
liệu có liên quan đến quá trình GDYTCT cho học viên, so sánh, đối chiếu và
quan sát thực tế để đảm bảo sự tin cậy của số liệu;
+ Phương pháp tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận: bắt đầu
nghiên cứu từ thực tiễn quá trình GDYTCT làm cơ sở kết hợp nghiên cứu lý
luận chung có liên quan đến đề tài nghiên cứu từ đó xây dựng khung lý
thuyết, đánh giá thực trạng, rồi đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao chất lượng GDYTCT cho học viên;
+ Phương pháp điều tra xã hội học: thông qua bảng hỏi ANKET cho
đối tượng là giảng viên ở 03 học viện (60 phiếu) và học viên (90 phiếu).
Sau khi có kết quả điều tra xã hội học, tác giả tiến hành tổng hợp, phân
loại, phân tích số liệu, vẽ mô hình, đồ thị nhằm so sánh, đối chiếu và đưa
ra các kết luận khách quan làm căn cứ thực tiễn cho luận án.
+ Phương pháp phỏng vấn chuyên gia: phỏng vấn, trao đổi trực tiếp
với những người làm công tác lãnh đạo, quản lý, giáo dục trong và ngoài
5
ngành về các nội dung liên quan đến quá trình GDYTCT cho học viên, qua
đó tìm hiểu những vấn đề có liên quan đến luận án.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án góp phần hệ thống, luận giải, làm sáng rõ các vấn đề lý luận về
YTCT và quá trình GDYTCT cho học viên nước ta nói chung và ở các Học viện
CAND nói riêng.
Luận án góp phần làm rõ thực trạng quá trình GDYTCT cho học viên,
những vấn đề đặt ra và dự báo những yếu tố tác động đến quá trình GDYTCT
cho học viên các Học viện CAND ở Việt Nam hiện nay.
Luận án đề xuất những giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm nâng cao
chất lượng trong quá trình GDYTCT cho sinh viên nói chung cũng như đối với
học viên trong ngành Công an nói riêng.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sâu sắc thêm những
vấn đề lý luận và thực tiễn GDYTCT cho sinh viên nói chung và cho học
viên ở các Học viện CAND nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài
liệu tham khảo việc giảng dạy, nghiên cứu về những vấn đề liên quan;
đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ công tác quản lý nhằm
nâng cao chất lượng GDYTCT cho học viên các Học viện CAND Việt Nam
hiện nay.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần
phụ lục, luận án được kết cấu gồm 4 chương (8 tiết).
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH, ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước có liên
quan đến ý thức chính trị và giáo dục ý thức chính trị
Vấn đề ý thức chính trị, chính trị, tư tưởng nói chung và giáo dục ý thức
chính trị nói riêng đối với thanh niên, sinh viên đã và đang được nhiều nhà khoa
học ở trong và ngoài nước nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau, tùy theo
mục đích, nhiệm vụ và phạm vi của vấn đề nghiên cứu. Tuy nhiên, theo tìm
6
hiểu, nghiên cứu và với sự hiểu biết của bản thân, tôi nhận thấy về cơ bản các
tác giả, tác phẩm của những nhà nghiên cứu thường tập trung chủ yếu phân tích,
làm rõ về khái niệm, vai trò, cấu trúc của ý thức chính trị hoặc nghiên cứu dưới
góc độ chính trị tư tưởng và công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho các đối
tượng khác nhau, nh ư: giai c ấp công nhân, học sinh, sinh viên nói
chung…
1.1.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến ý thức chính trị
và giáo dục ý thức chính trị đối với lực lượng vũ trang
Xác định công tác giáo dục ý thức chính trị trong lực lượng vũ trang là
một công tác quan trọng, vì vậy, trong những năm qua được sự quan tâm của các
cấp ủy Đảng trong và ngoài lực lượng cho nên đã có nhiều nhà khoa học trong và
ngoài ngành nghiên cứu về vấn đề này, tiêu biểu như: Cuốn sách Phát triển ý thức
chính trị xã hội chủ nghĩa trong xã hội và quân đội thời kỳ đổi mới của tác giả Lê
Văn Quang; Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục Chính trị, Nâng cao chất
lượng giáo dục chính trị trong đào tạo Sĩ quan Hải Quân hiện nay ; Quân đội nhân
dân Việt Nam, Tổng cục Chính trị, Nâng cao ý thức chính trị của đội ngũ cán bộ
nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự trong Quân đội hiện nay ;
Cuốn sách Công an nhân dân học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia; Cuốn sách Giá trị đạo đức truyền thống trong việc
giáo dục đạo đức cho sinh viên Công an nhân dân Việt Nam hiện nay của tác giả
Phạm Bá Lượng; Cuốn sách Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người và
vấn đề giáo dục đạo đức người sinh viên Công an, sách chuyên khảo dành cho đào
tạo tiến sĩ của tác giả Phạm Bá Lượng; Đề tài cấp Bộ: BA2007.T31028 do Mai
Quang Hiện (Chủ nhiệm); Đề tài cấp Bộ, Cục Bảo vệ chính trị V: BA.2007–A42
010 do Hoàng Phước Thuận (Chủ nhiệm); Đề tài cấp Bộ, Viện Chiến lược và
Khoa học Công an: CĐ2007V21005 do Nguyễn Quang Thiện (Chủ nhiệm);
Cuốn sách Sơ thảo biên niên sự kiện lịch sử Cục Công tác chính trị (19672012)
của tác giả Đặng Thái Giáp, Phạm Bá Hậu; Luận án tiến sĩ của Lương Ngọc
Vĩnh, Hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong học viên các học viện
quân sự ở nước ta hiện nay, Học viện Báo chí và Tuyên truyền; Bộ Công an, Học
viện Chính trị CAND, “Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong lực lượng Công
an nhân dân hiện nay”, Hội thảo khoa học; Cuốn sách Công an nhân dân học tập,
thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy, Nhà xuất bản Công an nhân dân; Cuốn sách Văn
hóa ứng xử công an nhân dân Việt Nam của tác giả Trần Đại; Cuốn sách Công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng trong lực lượng Công an nhân dân hiện nay của tác
giả Trương Giang Long và Nguyễn Trọng Đạo (đồng chủ biên); Bộ Công an, Hội
đồng Lý luận Trung ương, Học viện Chính trị Công an nhân dân, “Phê phán các
quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị,
những biểu hiện “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” về chính trị trong Đảng”, Hội
thảo khoa học; Cuốn sách Giáo dục lý tưởng cách mạng niềm tin cộng sản, cho
thanh niên Công an nhân dân hiện nay, Nhà xuất bản CAND; Cuốn sách “Tự diễn
biến”, “Tự chuyển hóa” và vấn đề giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối
sống cho thanh niên hiện nay của tác giả Trương Giang Long chủ biên...
7
1.2. GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC TỔNG
QUAN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
TRONG LUẬN ÁN
1.2.1. Những giá trị của các công trình đã được tổng quan
Những công trình khoa học kể trên là nguồn tư liệu tham khảo giá trị cho
luận án. Tuy nhiên, trên cơ sở kế thừa và tiếp thu có chọn lọc các công trình
nghiên cứu đó, tác giả nhận thấy đặc điểm chung của đa số những công trình
trên đã đề cập đến các góc độ khác nhau của ý thức chính trị, đặc biệt góc độ tư
tưởng chính trị. Trên thực tế, ý thức chính trị có nhiều cấp độ biểu hiện với
những phương thức hết sức phong phú, đa dạng với nhiều góc độ tiếp cận. Hiện
nay, vấn đề giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện CAND ở Việt
Nam vẫn chưa được nghiên cứu ở tầm luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa
xã hội khoa học.
Tóm lại, mặc dù có được những giá trị thông qua các công trình nghiên
cứu như vừa phân tích ở trên và về cơ bản các công trình nghiên cứu đều ít,
nhiều đề cập đến ý thức chính trị, chính trị tư tưởng và coi nó như là một
trong những cơ sở để xây dựng yêu cầu, tiêu chí giáo dục YTCT cho học viên
CAND nhưng qua thu thập tài liệu tổng quan, nghiên cứu và theo hiểu biết của
cá nhân, nhận thấy chưa có đề tài nào nghiên cứu trực tiếp về: Giáo dục ý thức
chính trị cho học viên các Học viện Công an nhân dân ở Việt Nam hiện nay
dưới góc độ của chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học và dưới góc độ một
luận án tiến sĩ. Vì vậy, trên cơ sở tiếp cận từ góc độ lý luận của triết học, chủ
nghĩa xã hội khoa học, chính trị học, văn hoá học, giáo dục học… kế thừa, tiếp
thu có chọn lọc những thành quả của các nhà khoa học nghiên cứu trước và
bám sát yêu cầu thực tiễn của đất nước hiện nay, tác giả luận án muốn làm
sáng tỏ hơn nữa về sự cần thiết phải giáo dục YTCT và chúng ta phải làm gì,
như thế nào để giáo dục YTCT cho thanh niên, sinh viên nói chung và học viên
CAND nói riêng ở Việt Nam hiện nay, góp phần thúc đẩy sớm xây dựng thành
công một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận
án
Bên cạnh những giá trị của các công trình nghiên cứu nêu trên, tác giả
nhận thấy, các công trình vẫn còn có những khoảng trống nhất định do cách
tiếp cận khác nhau. Để thực hiện tốt mục tiêu đề ra, luận án sẽ tập trung vào
nghiên cứu, luận chứng và giải quyết một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, khái quát những vấn đề lý luận và thực tiễn về YTCT và giáo
dục YTCT cho học viên các Học viện C AND Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay;
8
Hai là, làm rõ nội dung, hình thức, phương pháp, đặc điểm và các tiêu
chí để đánh giá chất lượng giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện
Công an nhân dân ở Việt Nam hiện nay;
Ba là, đánh giá khách quan thực trạng giáo dục ý thức chính trị cho học
viên các Học viện CAND thời gian qua và xác định những vấn đề đặt ra đối với
giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện trong ngành Công an ở Việt
Nam hiện nay. Nghiên cứu, làm rõ những hạn chế và nguyên nhân của giáo dục ý
thức chính trị cho học viên trong ngành.
Bốn là, dự báo những yếu tố tác động và đề xuất những giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục YTCT cho học viên trong các Học
viện CAND Việt Nam hiện nay.
Đây là những vấn đề đang đặt ra cả về lý luận và thực tiễn đối với
quá trình giáo dục YTCT cho học viên các Học viện CAND ở nước ta hiện
nay, đòi hỏi cần phải được quan tâm nghiên cứu một cách thấu đáo, sâu sắc
và toàn diện, làm cơ sở lý luận cho việc triển khai giáo dục YTCT cho sinh
viên, học viên trong các học viện, trường đại học trong thực tiễn ở Việt
Nam hiện nay.
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC CHÍNH TRỊ VÀ
GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN CÁC
HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN
2.1. Ý THỨC CHÍNH TRỊ VÀ Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA HỌC
VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN
2.1.1. Quan niệm về ý thức chính trị
2.1.1.1. Ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, ý thức là sự phản ánh
hiện thực khách quan vào trong bộ não con người. Ý thức không phải là
bản sao giản đơn, thụ động hiện thực khách quan.
Xét về cấu trúc và chức năng ý thức bao gồm các thành tố cấu thành
là tri thức, thái độ (tình cảm), ý chí và niềm tin.
2.1.1.2. Chính trị
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, chính trị liên quan đến
quyền lực và vấn đề là ở chỗ quyền lực không được phân phối đồng đều
giữa các tầng lớp xã hội khác nhau.
Xét về mặt cấu trúc, chính trị được định hình bởi các yếu tố cơ bản sau:
Hệ tư tưởng chính trị, đường lối chính trị, hệ thống chính trị, các quan hệ chính
trị xã hội, hoạt động chính trị, phong trào chính trị
2.1.1.3. Ý thức chính trị, ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa
9
Ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện và tồn tại trong
xã hội có sự phân chia giai cấp và nhà nước, nó phản ánh đời sống chính trị của
xã hội, trong đó cốt lõi là mối quan hệ giữa các giai cấp và các quốc gia dân tộc.
Ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa là hệ thống quan điểm, tư tưởng
lý luận, tâm lý, tình cảm, ý chí và niềm tin của giai cấp công nhân về địa
vị, vai trò lịch sử, về mục tiêu và nhiệm vụ chính trị, về đường lối chiến
lược, sách lược của họ trong quá trình đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới theo con đường xã hội chủ nghĩa, được thể hiện trong
cương lĩnh chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản và chính
sách, pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
2.1.2. Ý thức chính trị của học viên các Học viện Công an nhân
dân
2.1.2.1. Khái quát về các Học viện Công an nhân dân
Học viện Chính trị Công an nhân dân
Học viện Chính trị CAND được thành lập theo Quyết định số
315/QĐTTg ngày 01/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ, là cơ sở giáo dục
đại học công lập trực thuộc Bộ Công an. Có chức năng đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ có trình độ đại học, sau đại học và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh
đạo, chỉ huy thuộc lĩnh vực xây dựng lực lượng CAND; đào tạo, bồi dưỡng
lý chính trị cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng CAND; đào tạo, bồi dưỡng
chức danh và quy hoạch chức danh lãnh đạo, chỉ huy trong CAND và thực
hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế, hợp tác với các ngành về giáo dục, đào tạo
theo kế hoạch của Bộ Công an; là trung tâm nghiên cứu khoa học của lực
lượng CAND.
Học viện An ninh nhân dân
Học viện An ninh nhân dân được thành lập ngày 25/6/1946 theo
Nghị định số 215/NĐP2 của Bộ Nội v ụ. Tr ải qua h ơn 70 năm xây dự ng
và phát triển, từ m ột tr ường hu ấn luy ện công an, đào tạo nghề, đến nay
Học viện An ninh nhân dân trở thành một trong nh ững trung tâm đào tạo
đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa học lớn c ủa c ả n ước, là cơ sở
giáo dục đại học trọng điểm của ngành Công an và đang phấn đấu phát
triển thành cơ sở giáo dục đại học trọng điểm của Quốc gia.
Học viện Cảnh sát nhân dân
Học viện Cảnh sát nhân dân được thành lập từ ngày 15/05/1968, trải
qua chặng đường lịch sử gần 50 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển,
Học viện Cảnh sát nhân dân đã tự hào đóng góp nhiều thành tựu quan trọng
trong giáo dục đào tạo và trong xây dựng lực lượng công an của nước nhà.
Từ khi mới thành lập học viện mới chỉ đào tạo sơ học, nhưng cho đến ngày
nay, Học viện đã hoàn chỉnh các cấp học: Đào tạo Đại học, sau đại học,
bồi dưỡng chuyên đề, đào tạo chức danh từ quy hoạch lãnh đạo chỉ huy
10
cấp phòng, cấp trưởng, phó trưởng công an quận, huyện đến bồi dưỡng
phó giám đốc cho công an các tỉnh, thành phố và cấp vụ, cục tương đương.
Không những thế, Học viện còn đào tạo học viên cho các nước bạn Lào,
Campuchia với nhiều loại hình đại học, sau đại học và đặc biệt là cả bồi
dưỡng cả cán bộ cao cấp.
2.1.2.2. Đặc điểm chung của học viên trong các Học viện Công an
nhân dân
Với đặc trưng là khối trường trong lực lượng vũ trang, học viên
trong các Học viện CAND được tuyển chọn rất chặt chẽ, khắt khe theo
những quy định riêng của ngành. Ngoài những quy định chung của Bộ Giáo
dục đào tạo, họ còn phải đáp ứng những điều kiện khác như: có lý lịch
trong sáng, có sức khỏe tốt, có trình độ kiến thức cao, có phẩm chất đạo
đức tốt, có lối sống lành mạnh, có lý tưởng cách mạng tốt; vừa đóng vai trò
là học viên, vừa đóng vai trò là một quân nhân; được thụ hưởng những điều
kiện tốt nhất để học tập, sinh hoạt, rèn luyện và nghề nghiệp sau khi ra
trường; là đối tượng chịu ảnh hưởng rất lớn của những tác động của mặt
trái của cơ chế thị trường thời mở cửa và đặc biệt là đối tượng để các thế
lực thù địch, phản động hướng tới. Những đặc điểm này vừa mang lại
những thuận lợi, thời cơ, nhưng đồng thời cũng gây ra những khó khăn, thử
thách cho các học viện và học viên trong GDYTCT và giáo dục đạo đức
cách mạng cho họ.
2.1.2.3. Biểu hiện ý thức chính trị của học viên các Học viện Công
an nhân dân
Ý thức chính trị của học viên các Học viện CAND là ý thức chính trị
xã hội chủ nghĩa ; là tổng hòa nhận thức, tình cảm (thái độ), ý chí và niềm
tin chính trị của họ; phản ánh hiện thực đời sống chính trị xã hội, thực
tiễn hoạt động của lực lượng CAND, của học viện và của học viên; được
hình thành chủ yếu trong quá trình học tập, rèn luyện, công tác tại học
viện; là yếu tố quan trọng định hướng cho hành động của học viên phấn
đấu theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo của học viện và công tác sau này.
Nội hàm ý thức chính trị của học viên các Học viện CAND bao gồm:
Một là, nhận thức về chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mục tiêu, nhiệm vụ của cách
mạng và lực lượng công an, lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của
dân tộc, đặc biệt là truyền thống đấu tranh anh dũng của lực lượng công an
và nhân dân trong các cuộc kháng chiến;
Hai là, những tình cảm tốt đẹp đối với Đảng, Bác Hồ, quê hương,
đất nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; lòng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã
hội, yêu thương đồng chí, đồng đội, yêu thương nhân dân, yêu thương con
11
người, tấm lòng nhân ái, bao dung; thái độ phân biệt rõ đối tượng, đối tác;
phải – trái, đúng – sai, không mơ hồ mất cảnh giác về bản chất, âm mưu,
thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; tuyệt đối trung thành với
Đảng, Tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa và nhân dân; kiên quyết phê phán,
đấu tranh với các quan điểm sai trái và mọi hành vi tiêu cực;
Ba là, động cơ, thái độ học tập, rèn luyện đúng đắn và ý chí quyết
tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu lý tưởng của Đảng, nhiệm vụ
cách mạng, nhiệm vụ của lực lượng công an và nhiệm vụ của bản thân.
Bốn là, có niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, quản lý của Nhà nước, sự chỉ đạo của cấp trên, của nhà trường,
vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, vào sức mạnh đoàn kết của dân tộc, của lực lượng công
an, của tập thể và của chính mình trong thực hiện và hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ.
2.2. GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN CÁC HỌC
VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN – QUAN NIỆM VÀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ
2.2.1. Quan niệm về giáo dục ý thức chính trị và giáo dục ý thức
chính trị cho học viên các Học viện Công an nhân dân
2.2.1.1. Quan niệm về giáo dục và giáo dục ý thức chính trị
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là quá trình tác động có mục đích, có
kế hoạch, ảnh hưởng tự giác, chủ động đến con người đưa đến sự hình thành
và phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách.
Giáo dục YTCT là hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước trong quần chúng; định hướng giá trị, lý tưởng cách mạng, cung cấp thông tin
về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong quần chúng nhằm nâng cao nhận thức
chính trị, hình thành tri thức và văn hóa chính trị, củng cố niềm tin và bản lĩnh chính
trị, thúc đẩy tính tích cực tự giác, sáng tạo của quần chúng vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Đảng và dân tộc.
2.2.1.2. Quan niệm giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học
viện Công an nhân dân
Giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện C AND là tổng hòa
các hoạt động chủ động, tự giác, có kế hoạch của chủ thể với những nội
dung, hình thức, phương pháp phù hợp, để tác động đến đối tượng học viên,
tạo nên sự chuyển biến tích cực, nâng cao nhận thức, tình cảm, ý chí và niềm
tin chính trị, góp phần hoàn thiện nhân cách người sĩ quan CAND Việt Nam,
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và đảm bảo trật tự, an
toàn xã hội.
12
Trong đó mục đích của việc giáo dục ý thức chính trị cho học viên trong các
Học viện Công an nhân dân là dạy cho họ thành những sĩ quan có đạo đức cách
mạng, có bản lĩnh, nghiệp vụ và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc...
Nội dung giáo dục
Một là, nâng cao sự hiểu biết toàn diện, sâu sắc chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, thế giới quan phương pháp luận biện
chứng, nhân sinh quan cách mạng; luôn kiên định và tuyệt đối tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng, con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai là, giáo dục tình cảm cách mạng, mà cốt lõi là lòng yêu nước gắn liền
với yêu CNXH, tình yêu thương nhân dân, đồng chí, đồng đội cho học viên
CAND.
Ba là, giáo dục phẩm chất, lối sống cho học viên CAND: cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư, thực hành triết lý “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”.
Bốn là, giáo dục những vấn đề về cảnh giác, nhận diện những âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, về những diễn biến của tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội ở trong nước cũng như trên thế giới.
Hình thức giáo dục ý thức chính trị cho học viên: Giáo dục chính
khóa, giáo dục ngoại khóa, tự giáo dục…
Phương pháp giáo dục ý thức chính trị cho học viên: Phương pháp
thuyết trình, phương pháp đối thoại, phương pháp thực tiễn, phương pháp
trực quan, phương pháp nêu gương…
Đặc điểm của giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện
CAND
Một là, giáo dục ý thức chính trị cho một đối tượng đặc thù: học viên
trong các H ọc viện CAND là nhữ ng đối tượ ng đã đượ c tuyể n ch ọn v ới
nh ững yêu c ầu cao c ả v ề lý lị ch, sức khỏe và trình độ hơn các trườ ng
khác, là yêu c ầu b ắt bu ộc, hàng đ ầu, chu ẩn đầu vào trườ ng v ới yêu
c ầu cao; trong quá trình h ọc h ọc viên ph ải đượ c giáo dụ c v ề lý luận
chính tr ị, giáo dụ c v ề nhân sinh quan và thế giới quan đúng đắn, giáo
dụ c lòng trung thành v ới Đảng Cộng s ản và Nhà nướ c Cộng hòa xã hộ i
ch ủ nghĩa Việt Nam; h ọc viên ph ải đượ c rèn luyệ n theo tiêu chuẩn
chiến sĩ công an kh ỏe, có tác phong nhanh nh ẹn, có ý chí và sứ c b ền bỉ
để thích ứ ng với môi trườ ng và điề u kiện công tác, chiến đấ u; có bả n
lĩnh, dũng c ảm đ ấu tranh, t ấn công tội ph ạm ; có đạo đ ức trong sáng,
nghiêm ch ỉnh ch ấp hành pháp lu ật của Nhà nướ c, nghị quy ết, ch ỉ th ị
củ a ngành, điề u lệ nh CAND; có đ ộng cơ ph ấn đấu tố t trong học t ập,
rèn luyện, công tác và trong quan h ệ v ới đ ồng độ i và nhân dân, đượ c
kế t n ạp Đảng trướ c khi thi t ốt nghi ệp; quá trình đào tạo ph ải giúp cho
13
h ọc viên khi ra trườ ng đượ c trang b ị các kiế n thứ c nghiệp v ụ và kỹ
năng thực hiện các biệ n pháp nghiệp vụ t ươ ng ứng cần thiết để đảm
bảo hoàn thành các công việc được giao.
Hai là, giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện CAND là
quá trình giáo dục có tổ chức chặt chẽ, tính kỷ luật cao, ngoài những quy định
của Bộ Giáo dục và đào tạo thì do tính đặc thù của ngành nên quá trình giáo
dục ý thức chính trị cho học viên trong các Học viện CAND còn quy định chặt
chẽ bởi Cục Đào tạo Bộ Công an và những quy định của Bộ Công an;
Ba là, ngày nay, trước tình hình diễn biến ngày càng phức tạp trên mặt
trận tư tưởng chính trị nên quá trình giáo dục ý thức chính trị cho học viên trong các
Học viện CAND luôn luôn gắn với quá trình đấu tranh trên mặt trận tư tưởng chính
trị.
2.2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục ý thức chính trị
cho học viên các Học viện Công an nhân dân
Một là, chất lượng hoạt động của chủ thể giáo dục ý thức chính trị (tổ
chức Đảng, lãnh đạo đơn vị, các đoàn thể quần chúng, cán bộ quản lý, phòng
khảo thí và kiểm định chất lượng đào tạo và đội ngũ giảng viên...). Thật vậy,
chất lượng GDYTCT cho học viên phụ thuộc rất lớn vào số lượng phải đủ và
chất lượng phải cao của đội ngũ những người trực tiếp GDYTCT cho học viên.
Hai là, chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp, phương
tiện, môi trường GDYTCT cho học viên. Đây là tiêu chí có vai trò định
hướng cho hoạt động, nó đòi hỏi khả năng tham gia của các lực lượng
đồng thời còn là cơ sở để xác định tiêu chí làm căn cứ để đánh giá chất
lượng.
Ba là, chất lượng ý thức và hành vi chính trị của học viên. Chất lượng
GDYTCT của học viên được đánh giá bằng kết quả tiếp thu nội dung giáo dục
chính trị và sự chuyển biến tích cực, toàn diện về ý thức chính trị (nhận thức,
tình cảm, ý chí, niềm tin) và được thể hiện bằng hành vi, hành động chính trị của
họ trong học tập, rèn luyện, sinh hoạt; bằng kết quả học tập, rèn luyện hàng
tháng, kỳ, năm, trong quá trình học tập tại các học viện và trong quá trình công
tác sau này.
Kết luận chương 2
Giáo dục YTCT cho học viên các Học viện CAND Việt Nam hiện nay là
một nội dung hoạt động của công tác tư tưởng văn hoá của Đảng trong lực
lượng vũ trang nói chung và đối với lực lượng công an nói riêng nhằm phổ biến
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng giúp cho họ hình thành, củng cố phát triển thế
giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, từ đó nhằm nâng cao bản lĩnh
14
chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống và năng lực hoàn thành nhiệm
vụ được giao.
Tiến hành GDYTCT cho học viên, xuất phát từ quan điểm của chủ
nghĩa Mác Lênin về xây dựng nhân tố chính trị của lực lượng công an,
cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại, xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí
Minh “lấy chính trị làm gốc”, xuất phát từ đặc điểm, nhiệm vụ từng
trường, đặc điểm của từng học viên để xây dựng mô hình người chiến sĩ
CAND trong thời bình. Bồi dưỡng cho họ lòng trung thành vô hạn với
Đảng, với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, thường xuyên nâng cao trình độ mọi
mặt, nâng cao tính chủ động sáng tạo sẵn sàng thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ được giao.
Trên cơ sở phân tích về mặt lý luận, thực tiễn những vấn đề cơ bản về
bản chất, vai trò, nội dung, hình thức, phương pháp GDYTCT cho học viên,
đồng thời kế thừa, vận dụng những thành tựu GDYTCT của đất nước trong
những năm qua để xem xét vấn đề nâng cao chất lượng GDYTCT trong giai
đoạn hiện nay.
Từ quan niệm chất lượng GDYTCT cho học viên tổng hợp các mặt hoạt
động, các yếu tố của nó được phản ánh ở phẩm chất, năng lực của cả chủ thể và
đối tượng trong việc đáp ứng mục tiêu, yêu cầu GDYTCT để xác định tiêu chí
đánh giá chất lượng GDYTCT cho học viên các Học viện CAND. Những
tiêu chí này bao gồm: những chỉ số đánh giá năng lực lãnh đạo, tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ giáo dục chính trị, hiệu quả các hình thức, biện pháp, phương
tiện giáo dục chính trị và chất lượng chính trị, tư tưởng của học viên với tư cách là
kết quả của giáo dục so với mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ giáo dục đã xác định. Đó là
căn cứ để đánh giá thực trạng GDYTCT và những vấn đề đặt ra đối với việc
GDYTCT cho học viên các Học viện CAND ở nước ta hiện nay.
Chương 3
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG
GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN CÁC
HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
3.1. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN
CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.1. Thực trạng chất lượng giáo dục ý thức chính trị cho học
viên các Học viện Công an nhân dân ở Việt Nam hiện nay
3.1.1.1. Chất lượng của chủ thể giáo dục ý thức chính trị
15
Với vai trò là chủ thể trực tiếp trong quá trình giảng dạy, giảng viên
lý luận chính trị có vai trò quan trọng quyết định đến chất lượng và hiệu
quả của quá trình giảng dạy lý luận chính trị và góp phần hình thành nhân
cách người chiến sĩ công an. Xuất phát từ vị trí, vai trò của chủ thể trong
GDYTCT cho học viên, trong những năm vừa qua các học viện trong ngành
đã không ngừng nỗ lực về mọi mặt, khắc phục những khó khăn trước mắt,
từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác giáo dục, đào tạo; đặc
biệt là đội ngũ giảng viên và những cán bộ làm công tác quản lý, rèn luyện học
viên. Từ đó, chất lượng của chủ thể GDYTCT nói chung cũng từng bước được
cải thiện, bước đầu đã đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn.
Thế nhưng so với yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục ý thức
chính trị cho học viên thì phẩm chất, năng lực của đội ngũ những người
trực tiếp giáo dục ý thức chính trị cho học viên còn tồn tại những hạn chế
nhất định: Trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn, một bộ phận cán bộ, giảng
viên còn chưa thật sự hiểu sâu sắc về nhiều mặt nên tỏ ra chưa thực sự
vững vàng về quan điểm lập trường chính trị, chưa lý giải cho mình, cho
học viên tình hình phức tạp, sự phát triển phong phú của thực tiễn thế
giới, trong nước cũng như của lực lượng vũ trang. Vì thế hiệu lực chỉ
huy, quản lý học viên, quản lý giáo dục của một bộ phận cán bộ, giảng
viên chưa đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn đặt ra, nhất là với
các tình huống phức tạp, các điểm nóng và nhất là trong cuộc đấu tranh
chống các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.
3.1.1.2. Về chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp,
phương tiện và môi trường giáo dục ý thức chính trị
Trong những năm gần đây, trước tình hình phức tạp trên lĩnh vực tư
tưởng và nhận thức được tầm quan trọng, vai trò đặc biệt của GDYTCT
nói chung và từ nội dung, chương trình GDYTCT cho học viên trong các
Học viện CAND nói riêng, Bộ Công an, Cục Đào tạo, đến Đảng ủy, Ban
Giám đốc học viện đều quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, sâu sát đến
việc lựa chọn, thiết kế nội dung, chương trình, tạo mọi điều kiện tốt nhất
để các chủ thể trực tiếp thiết kế nội dung, chương trình sau đó còn mời các
chuyên gia trong và ngoài nước đóng góp ý kiến để nội dung, chương trình
trước khi đưa vào sử dụng phải khoa học, phù hợp với từng đối tượng và
phù hợp với mục tiêu yêu cầu đào tạo. Đặc biệt, đối với nội dung, chương
trình các môn học thuộc ngành khoa học xã hội nhân văn được Cục Đào tạo
của Bộ Công an chỉ đạo xây dựng và được kiểm tra giám sát chặt chẽ việc
xây dựng. Chính vì thế mà tính khoa học, tính hợp lý của nội dung các chương
trình ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được ở trên thì nội dung,
chương trình, hình thức, phương pháp, phương tiện và môi trường
GDYTCT cho học viên các Học viên CAND trong những năm qua cũng còn
16
bộc lộ một số những bất cập ảnh hưởng đến kết quả GDYTCT cho học
viên như:
Một là, mâu thuẫn giữa thời lượng giảng dạy trên lớp ngày càng giảm,
đặc biệt là các môn khoa học Mác – Lênin với số lượng và nội dung môn học
ngày càng tăng đã tạo ra sự quá tải của chương trình giáo dục.
Hai là, ngoài hình thức giáo dục thông qua những bài giảng chính khóa thì
các hình thức giáo dục khác chưa được khai thác, vận dụng một cách triệt để,
hay chưa được quan tâm đầu tư một cách đúng mức.
Ba là, ngày nay, các Học viện trong ngành đã tích cực đổi mới
phương pháp dạy học, đặc biệt là áp dụng các phương pháp dạy học tiên
tiến nhưng phát triển chưa thực sự mạnh mẽ.
3.1.1.3. Chất lượng ý thức chính trị và hành vi chính trị của học
viên
Trong những năm vừa qua, với sự biến động của tình kinh tế, chính trị, xã hội ở
trong nước, khu vực và trên thế giới, quá trình GDYTCT cho học viên các Học viện
CAND đã vượt qua những khó khăn, trở ngại, GDYTCT cho học viên đã góp phần
trực tiếp củng cố xây dựng nền tảng chính trị vững chắc làm cơ sở nâng cao chất
lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của lực lượng công an trong tình hình mới.
Nhận định đó được minh chứng bằng các điểm chủ yếu sau: Ý thức
chính trị của học viên từng bước được nâng cao ; về phẩm chất chính trị,
đạo đức, năng lực hoạt động công tác đảng, công tác chính trị của học viên:
phẩm chất, năng lực toàn diện của các sĩ quan trong các Học viện CAND
trong những năm gần đây khi ra trường đã được nâng lên, phản ánh chất
lượng GDYTCT cho học viên trong các trường công an nói chung và trong
học viện công an nói riêng. Chất lượng đó đã đáp ứng được nhu cầu cán bộ
của thực tiễn các đơn vị trong những năm qua và phản ánh sự đúng đắn,
khoa học của phương châm giáo dục trong các trường của ngành Công an.
Tuy nhiên, bên cạnh những gì đã đạt được ở trên, chất lượng của
sản phẩm đào tạo cũng đã phản ánh những hạn chế nhất định của chất
lượng GDYTCT cho học viên các Học viện CAND: Vẫn còn một số học
viên còn yếu kém, nhất là trong nhận thức; do còn hạn chế nhận thức về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta, nên một bộ phận học viên
chưa nắm vững một số vấn đề về nhiệm vụ an ninh xã hội trong tình hình
mới, cho nên khi xác định đâu là “đối tượng”, đâu là “đối tác” của cách mạng
Việt Nam chưa được rõ ràng; từ hạn chế về nhận thức chính trị, dẫn tới một
bộ phận học viên không vững vàng về bản lĩnh chính trị, nhất là trước khó
khăn thử thách họ tỏ ra dao động về lập trường tư tưởng chính trị, không làm
chủ được bản thân.
3.1.2. Nguyên nhân của thành công và hạn chế trong giáo dục ý thức
chính trị cho học viên các Học viện Công an nhân dân Việt Nam hiện nay
17
3.1.2.1. Nguyên nhân của những thành công
Nguyên nhân khách quan
Một là, có vai trò quyết định đến chất lượng, kết quả GDYTCT cho học
viên các Học viện CAND là Đảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn, phù hợp.
Hai là, trong nh ững năm g ần đây, các c ấp ủ y Đảng trong Công
an nhân dân, Cụ c Đào tạo , Ban Đ ảng ủy H ọc vi ện đã nhận th ứ c khá
toàn diện, không ng ừng đề cao trách nhiệm đố i với việ c GDYTCT cho
h ọc viên các H ọc vi ện CAND.
Ba là, s ự tác động củ a tình hình chính trị trên th ế giới đến việc
giáo dục ý th ức chính tr ị cho h ọc viên các Học viện Công an nhân dân.
Bốn là, giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện CAND
được tiến hành trong điều kiện đất nước hoà bình, đổi mới, mọi hoạt động
học tập, rèn luyện và xây dựng lực lượng Công an theo đ ịnh hướ ng chính
quy, tinh nhu ệ, t ừng b ướ c hi ện đạ i.
Nguyên nhân chủ quan
Một là, s ự c ố g ắng n ỗ l ực, v ượ t qua m ọi khó khăn củ a các lự c
lượ ng trong h ọc vi ện, t ừng b ướ c nâng cao ch ất l ượ ng giáo dục ý thứ c
chính tr ị cho h ọc viên .
Hai là, được sự quan tâm của Đảng ủy, Ban Giám đốc học viện mà
điều kiện đảm bảo về vật chất, phương tiện kỹ thuật ngày càng hiện đại,
từng bước đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng GDYTCT cho học viên.
Ba là, được sự quan tâm, tạo điều kiện, giúp đỡ của Đảng uỷ chính
quyền, quận, phường và nhân dân địa phương nơi học viện cũng là một trong
những nhân tố quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng GDYTCT cho học
viên.
3.1.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, trong những năm gần đây tình hình thế giới, khu vực và trong
nước diễn biến phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường, nó đã và đang
tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến nhiều mặt học viên CAND.
Thứ hai, với sự phát triển của đất nước trong tiến trình đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế thì mặt trái của quá trình hội
nhập quốc tế và cơ chế thị trường đã làm xuất hiện những tiêu cực mới tác động
không nhỏ đến lực lượng Công an nói chung và đối với học viên Công an nói riêng.
Thứ ba, sự tác động của cuộc đấu tranh tư tưởng, ý thức hệ đến
việc GDYTCT cho học viên các Học viện CAND.
Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, công tác giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm, bồi dưỡng
trình độ, năng lực lý luận và thực tiễn cho mọi thành phần chủ thể giáo dục
có lúc, có nơi, có bộ phận chưa được chú trọng.
18
Thứ hai, giữa các thành phần chủ thể trong giáo dục chưa có sự phối
hợp chặt chẽ, có hiệu quả với nhau đối với những hoạt động nhằm nâng
cao chất lượng nội dung, chương trình, hình thức, biện pháp GDYTCT.
Thứ ba, sự phân bổ thời lượng và tự ý thức của học viên còn nhiều bất
cập.
Thứ tư, việc đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật cho giáo dục
ý thức chính trị vẫn còn hạn chế.
3.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG GIÁO DỤC Ý THỨC
CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN
DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
3.2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao về chất lượng giáo
dục ý thức chính trị với những hạn chế, bất cập của c hủ thể tiến
hành giáo dục ý thức chính trị cho học viên
3.2.1.1. Vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lý, giảng
viên nhận thức chưa đúng đắn, đầy đủ về giáo dục ý thức chính trị cho
học viên
Sự quan tâm chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Giám đốc , đội ngũ giảng
viên, cán bộ quản lý giáo dục trong các Học viện CAND chưa tương xứng
với yêu cầu công tác GDYTCT mà ngành đặt ra, mặc dù hiện nay đã có nhiều
đổi mới nhưng vẫn nặng về hình thức; quá trình GDYTCT cho học viên
trong các học viện thường là các hình thức giáo dục lồng ghép thông qua các
môn Khoa học Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam... Mặt khác nhiều giảng viên, báo cáo viên
giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn, giảng nghị quyết, nói
chuyện chuyên đề thời sự cho học viên nhưng không để ý đến việc họ có
muốn nghe hay không. Giảng viên chủ yếu tập trung vào nội dung chuyên
môn mà không chú trọng nhiều đến GDYTCT cho học viên; một bộ phận cán
bộ quản lý học viên còn có tư tưởng xem trọng chuyên môn, chuyên ngành,
xem nhẹ các môn giáo dục tư tưởng, chính trị, do đó việc bố trí thời gian,
chất lượng, giáo án, bài giảng cho các môn học này chưa khoa học... điều này
gây ảnh hưởng không tốt trong nh ận thức, thái độ của học viên đối với
quá trình giáo dục.
3.2.1.2. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận nhỏ giảng viên,
cán bộ quản lý chưa đáp ứng yêu cầu giáo dục ý thức chính trị cho học
viên
Đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý học viên trong các học viện phần lớn
còn trẻ, ở các lĩnh vực, chuyên ngành khác nhau nên có những hạn chế nhất định
về năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm, kiến thức thực tiễn; trình độ tin học,
ngoại ngữ còn nhiều hạn chế dẫn đến kỹ năng áp dụng các phương pháp dạy
19
học tích cực, phương pháp hiện đại chưa đạt được hiệu quả; nhiều khoa, bộ
môn chưa đủ về số lượng giảng viên song số đông l ại là bộ phận trợ giảng, dẫn
đến đội ngũ giảng viên chính phải đảm nhận nhiều công việc khác nhau. Điều
đó đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng GDYTCT cho học viên; bên cạnh đó trước
tác động của nền kinh tế thị trường, họ cũng bị tác động của thực tiễn đời sống
xã hội, còn có những biểu hiện tiêu cực về phẩm chất đạo đức nhà giáo, về
phẩm chất chính trị... nên đã ảnh hưởng nhất định tới việc GDYTCT cho học
viên; còn một số giảng viên giảng dạy lý luận chính trị nhưng vẫn còn tình trạng
tiêu cực về các vấn đề của xã hội, những tồn tại của hệ thống chính trị một cách
thái quá, điều này sẽ trở thành một vấn đề nguy hiểm đối với những học viên
còn hạn chế trong nhận thức.
3.2.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu cần phải phát huy vai trò chủ thể
giáo dục của học viên với sự thiếu ý thức, tự giáo dục của học viên
3.2.2.1. Năng lực tự giáo dục của một bộ phận học viên chưa
ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ của quá trình giáo dục ý thức chính
trị
Tự giáo dục là một yếu tố gắn liền với quá trình giáo dục. Tự giáo
dục bao gồm khả năng tự học, tự rèn luyện, tự đánh giá, tự kiểm tra, tự
điều tiết, điều chỉnh hành vi của mình sau quá trình tác động có mục đích
của chủ thể.Tự giáo dục biểu hiện ở chỗ mỗi chủ thể tự giáo dục để
hướng toàn bộ năng lực, hành động của mình vào sự hình thành thế giới nội
tâm bắt đầu từ tự ý thức cho đến quá trình tham gia tích cực, tự giác vào
việc tạo ra cho bản thân những điều kiện, hoàn cảnh, môi trường để họ
tồn tại và phát triển.
Thế nhưng, việc tự học, tự rèn luyện của học viên các Học viện
CAND Việt Nam hiện nay, nói chung còn hạn chế. Phần lớn học viên
không có kế hoạch sử dụng thời gian tự học cho các môn khoa học Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các môn Khoa học xã hội và nhân văn một
cách hợp lý
3.2.2.2. Mặt trái của toàn cầu hóa và kinh tế thị trường làm xuất
hiện tâm lý ngại học, lười học dẫn đến vi phạm, thờ ơ về chính trị
trong một bộ phận không nhỏ học viên
Hiện nay, do mặt trái của cơ chế thị trường cùng với sự thiếu ý thức
trong tự giáo dục, tự rèn luyện, nên một bộ phận học viên sinh ra lười học,
ngại học, học đối phó, ý thức chấp hành nội quy, quy chế, điều lệnh chưa
cao, thậm chí có hành vi vi phạm điều lệnh CAND, vi phạm pháp luật.
3.2.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao về đổi mới căn bản
và toàn diện giáo dục với những bất cập về chương trình, nội dung,
20
hình thức, phương pháp, môi trường giáo dục ý thức chính trị cho học
viên
3.2.3.1. Những bất cập trong đổi mới chương trình, nội dung giáo dục
Chươ ng trình giáo dục chính trị còn thiếu tính hệ thống, lôgic, liên
thông, trùng lặp, ch ưa tương xứng v ới m ục tiêu, yêu cầu đào tạo. N ội
dung GDYTCT ở các Học viện CAND thườ ng dừng lại ở những quan
điểm, lý luận chung, chưa đi sâu phân tích làm rõ những căn cứ lý luận,
gắn với thực tiễn công tác, chiến đấu trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc
gia và đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Tính chiến đấu, tính thuyết ph ục
của công tác GDYTCT chưa cao, thiếu s ắc bén trong đấu tranh chống
các luận điệu sai trái, thù địch của các thế lực phản động.
3.2.3.2. Hình thức, phương pháp và môi trường giáo dục ý thức chính trị
chưa theo kịp với sự phát triển của thời đại kinh tế tri thức và công nghệ thông
tin
Hiện nay, ở hầu hết các trường cao đẳng, đại học ở nước ta thì những
hình thức truyền thống trong dạy học với công thức “thầy – giáo án, phấn
bảng trò, thầy đọc – trò chép” vẫn đang tồn tại khá phổ biến. Trong đó việc
ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông
tin trong quá trình dạy học đang đòi hỏi và đang tạo ra xu thế làm thay đổi sâu
sắc hình thức, phương pháp, môi trường giáo dục, đào tạo. Các phương pháp
giáo dục cần có sự hỗ trợ của phương tiện dạy học hiện đại và các phần
mềm dạy học cho phép thay đổi vị trí vai trò của các yếu tố truyền thống và
đang hướng đến quá trình dạy học “lấy người học làm trung tâm” với những
phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của người học. Xu hướng đó đang
đặt ra một thách thức lớn đối với các nhà trường và đối với mọi thành phần
chủ thể trong quá trình dạy học trong thời kỳ cách mạng khoa học công nghệ
thông tin.
3.2.4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu phải tăng cường giáo dục ý thức
chính trị trong tình hình mới với sự hạn chế của các nguồn lực phục
vụ cho quá trình giáo dục
3.2.4.1. Thời gian dành cho hoạt động giáo dục ý thức chính trị
cho học viên còn hạn chế
Trên thực tế ở các học viện hoạt động GDYTCT cho học viên chỉ được
thực hiện thông qua các nội dung lồng ghép, hình thức giáo dục gián tiếp thông
qua các môn khoa học lý luận chính trị, thông qua các hoạt động đoàn thanh
niên... mà chưa dành nhiều thời gian cho việc xây dựng kế hoạch, chương
trình, nội dung có tính chất chính khóa. Trong các Học viện CAND những môn
lý luận chính trị chỉ là những môn đại cương, số đơn vị học trình, thời gian học
21
ít. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng GDYTCT cho học viên trong
các Học viện Công an nhân dân hiện nay.
3.2.4.2. Vấn đề khuyến khích về lợi ích vật chất, tinh thần cho
giảng viên trong các học viện còn nhiều bất cập
Hiện nay, đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ giảng viên đã
được nâng lên một bước, chính sách đã được đãi ngộ nhiều hơn. Tuy vậy,
nhiều giảng viên còn gặp nhiều khó khăn; chế độ chính sách đối với giảng
viên chậm được đổi mới so với tình hình thực tế; điều kiện giảng dạy của
giảng viên chưa đáp ứng được yêu cầu của việc nâng cao chất lượng giáo dục
…
3.2.4.3. Cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục ý thức chính trị cho
học viên còn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra
Trên thực tế, cơ sở vật chất phục , phương tiện dạy học phục vụ
cho nhiệm vụ giáo dục đào tạo nói chung và phục vụ cho nhiệm vụ chính
trị, văn hóa của các học viện vẫn chưa đáp ứng một cách đầy đủ. Nhiều
cơ sở vật chất phục vụ cho nhiệm vụ GDYTCT như: thư viện điện tử,
phòng truyền thống, khu sinh hoạt tập thể... còn cũ kỹ, lạc hậu, chưa phát
huy được sự thích thú, ý thức tự giác của học viên. Trong khi đó đổi mới
hình thức, phương pháp giáo dục chính trị, tư tưởng cần áp dụng công nghệ
hiện đại, phương tiện kỹ thuật tiên tiến mới phát huy và lôi cuốn được
người học.
3.2.4.4. Giáo dục ý thức chính trị cho học viên trong các Học viện
Công an nhân dân hiện nay c ần đáp ứ ng các yêu cầ u cao, nhi ệm v ụ
trong tình hình mới
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong giai đoạn hiện nay
đang đứng trước thời cơ, thuận lợi và cả những khó khăn, thách thức không
hề nhỏ. Như Đại hội XII đã khẳng định: Trong những năm tới tình hình sẽ còn
nhiều diễn biến rất phức tạp, nhưng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác
và phát triển vẫn là xu thế lớn... Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, đặc
biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển
nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc
gia.
Kết luận chương 3
Trong những năm qua, quá trình giáo dục ý thức chính trị cho học viên luôn
được Bộ Công an, Đảng ủy, Ban Giám đốc và lãnh đạo các phòng ban, đơn vị, các
đoàn thể trong các Học viện Công an nhân dân quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện nhằm góp phần đào tạo ra những thế hệ sĩ quan Công an không chỉ giỏi về
chuyên môn, nghiệp vụ mà còn kiên định về lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị
22
vững vàng, có lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo đức, lối sống văn hóa , sẵn sàng
hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Để thực hiện tốt nội dung giáo dục ý thức chính trị cho học viên, hiện
nay, ở các Học viện Công an nhân dân đã và đang triển khai đồng bộ những
nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục khác nhau. Nhờ triển khai đồng
bộ và thực hiện có hiệu quả các hình thức học tập và đổi mới nội dung nên ý
thức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, tính tích cực chính trị xã hội của học
viên được củng cố và nâng cao. Tuy vậy, so với yêu cầu nhiệm vụ cách
mạng trong giai đoạn hiện nay, thực trạng ý thức chính trị, chất lượng giáo
dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện Công an nhân dân hiện nay
vẫn còn những mặt tồn tại, hạn chế, bất cập nhất định. Thực trạng đó có
nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Quá trình giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện Công an nhân
dân hiện nay đang nổi lên một số mâu thuẫn chủ yếu. Bởi vậy, để quá trình giáo
dục ý thức chính trị cho học viên mang lại kết quả cao, các Học viện cần tận
dụng tối đa điều kiện thuận lợi khách quan, phát huy tốt những tiềm năng sẵn có
và cần có những giải pháp thích hợp để sớm khắc phục những mặt còn tồn tại,
hạn chế trên.
Chương 4
DỰ BÁO NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ
BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ý THỨC
CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN
NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. DỰ BÁO NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁO DỤC Ý
THỨC CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN
NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.1. Các yếu tố quốc tế
Một là, toàn cầu hóa, cách mạng công nghiệp lần thứ 4
Cách m ạng khoa h ọc – công ngh ệ và quá trình toàn cầu hóa đã
tạo ra đ ộng lự c to l ớn thúc đ ẩy n ền kinh t ế tri th ức ra đờ i và phát
triển. Trong đó kinh t ế tri th ức là kinh t ế đ ượ c xây dựng trên cơ sở sản
xu ất, phân phối, sử d ụng tri th ức và công nghệ thông tin. Đố i vớ i nhân
lo ại thì kinh t ế tri th ức có vai trò quan tr ọng, là động lực chủ y ếu
chuy ển xã hội loài ngườ i từ văn minh công nghiệ p sang n ền văn minh
h ậu công nghi ệp, chuy ển t ừ kinh t ế ch ỉ d ựa vào tài nguyên thiên nhiên
là chính sang kinh t ế d ựa vào hàm lượ ng tri th ức c ủa con ng ườ i. Bên
c ạnh những m ặt thu ận l ợi thì cách m ạng khoa h ọc – công ngh ệ và quá
trình toàn c ầu hóa cũng đem lại những thách th ức không h ề nh ỏ.
Hai là, sự điều chỉnh, phát triển của chủ nghĩa tư bản
23
Trải qua quá trình tồn tại, phát triển CNTB ngày nay đã có những
bướ c phát triển mới. Ph ương thức s ản xu ất TBCN t ỏ ra v ẫn còn sức
sống nhất định, mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản hiện không
quyết liệt đến mức dẫn tới tình thế cách mạng. Hơn nữa thời gian qua,
cùng với sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ,
xã hội loài ngườ i đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Lợi dụng vấn đề này, một số phần tử cơ hội đã cho rằng: CNTB đã thay
đổi về chất nhờ việc ứng dụng nh ững thành tựu của khoa học công
nghệ vào trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhờ đó, trong phươ ng
thức sản xuất tư bản ngày nay không còn hiện tượng ngườ i bóc lột
ngườ i, xã hội tư bản là xã hội tiến bộ nhất trong l ịch s ự nhân loại mà
loài ngườ i cần hướng đến. Điều này đã dẫn đến sự hoài nghi của học
viên về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, về sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, v ề s ức m ạnh c ủa CNTB, ảnh h ưởng r ất
lớn đến quá trình GDYTCT cho h ọc viên các Học viện CAND Việt Nam
hiện nay. Tuy nhiên, cho dù CNTB có điều chỉnh như thế nào đi nữa, cho
dù có khoác trên mình những “tấm áo choàng lộng lẫy” nh ư th ế nào đi
nữa thì bản chất của CNTB v ẫn không hề thay đổi, đúng như nhận định
của Đảng ta “v ề b ản ch ất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất
công”.
Ba là, chủ nghĩa xã hội hiện thực và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế
Từ sau thắng lợi cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, CNXH từ lý
luận, học thuyết trở thành một chế độ xã hội hiện thực và hình thành hệ
thống các nước XHCN ở thế kỷ XX với những thành tựu to lớn. Trong quá
trình hình thành và phát triển, CNXH hiện thực theo “mô hình Xô Viết” đã
trải qua con đường không bằng phẳng, bên cạnh những thành tựu và sáng
tạo cũng có những vấp váp và mắc phải không ít những sai lầm. Những sai
lầm ấy chậm được phát hiện và khắc phục triệt để đã làm cho các nước
XHCN lâm vào khủng hoảng và sụp đổ. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ
đến tâm tư, suy nghĩ của học viên về con đường phát triển của dân tộc
Việt Nam. Từ sau sự đổ vỡ của mô hình XHCN ở Liên Xô và Đông âu, các
nước XHCN còn lại và các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế vẫn kiên
trì đấu tranh vì mục tiêu CNXH, đồng thời nỗ lực cải cách, đổi mới nhằm
tìm kiếm những mô hình phát triển năng động, sáng tạo hơn và phù hợp với
điều kiện của nước mình để có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
4.1.2. Yếu tố trong nước
Một là, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
24
Dự báo về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thì Văn kiện Hội nghị
lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII khẳng định: “Cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư chuẩn bị bước vào giai đoạn phát triển bước ngoặt;
nội hàm và tính chất được định hình rõ nét; quy mô, tốc độ, tính phức tạp và phạm
vi ảnh hưởng sâu rộng tới mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa...”
Hai là, định hướng giáo dục của Đảng và của Bộ Công an
Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của GDYTCT cho học viên
các Học viện CAND, những năm qua, Đảng ủy Công an trung ương, lãnh
đạo Bộ Công an mà trực tiếp là Cục Đào tạo và Đảng ủy, Ban Giám đốc
các học viện đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
GDYTCT; đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục
chính trị nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng cho
học viên. Nhờ thế mà những năm qua quá trình GDYTCT cho học viên các
Học viện CAND đã đạt những thành tựu quan trọng, góp phần vào xây
dựng lực lượng CAND nói chung có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối
trung thành với Tổ quốc, với Đảng và với nhân dân.
Ba là, sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động, nhất là
hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng
Ngày nay, các thế lực thù địch thường lợi dụng chiêu bài “diễn biến
hòa bình”, "bạo loạn lật đổ" đối với nướ c ta, trong đó chúng tập trung
thâm nhập phá hoại nội bộ, tác động chuyển hóa là một trọng điểm. Chúng
tăng cường hoạt động chống phá ta trên mặt trận tư tưởng hòng thực hiện ý
đồ gây ra sự hoang mang trong dư luận và trong xã hội, dao động trong cán
bộ, đảng viên, cán bộ chiến sĩ công an nói chung và đối với thế hệ trẻ trong
đó có học viên của các trường công an nói riêng. Đặc biệt, trong lực lượng vũ
trang, chúng tuyên truyền, xuyên tạc, kích động gây ra mâu thuẫn, chia rẽ
trong lực lượng Công an và Quân đội; chúng đòi “phi chính trị hóa lực lượng
vũ trang”; xóa bỏ nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt,
chúng cho rằng: “Quân đội và Công an là của Nhà nước, nên chỉ phục tùng
Nhà nước, không phải phục tùng và chịu sự lãnh đạo của bất cứ chính đảng
nào”, hoặc “ hoạt động của lực lượng vũ trang chỉ bảo vệ sự toàn vẹn lãnh
thổ của quốc gia và phục vụ nhân dân, nên chỉ phải trung thành với Tổ quốc
và Nhân dân, chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào”…Điều này
thật là nguy hiểm, khi chúng đã thực hiện thành công ở Liên Xô những năm
đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, làm cho lực lượng vũ trang của Xô viết hùng
mạnh như thế mà mất phương hướng chính trị, mất sức chiến đấu, không
thể bảo vệ được Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, yêu cầu mới đối với các Học viện Công an nhân dân
25
Trước tình hình mới đặt ra cho ngành Công an nhiệm vụ: bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ Xã hội chủ nghĩa; giữ vững hòa
bình, ổn định chính trị, bảo vệ an ninh qu ốc gia và bảo đảm trật tự, an
toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta... Nhiệm vụ trên đây của ngành Công an đặt ra cho các Học viện
CAND nhiệm vụ giáo dục và đào tạo vô cùng to lớn.
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN CÁC
HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chỉ huy
các cấp và phát huy vai trò các đoàn thể trong các Học viện nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục ý thức chính trị cho học viên.
4.2.2. Bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, năng lực chủ thể trực
tiếp tiến hành giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện
Công an nhân dân.
4.2.3. Hoàn thiện chương trình, đổi mới nội dung, hình thức,
phương pháp giảng dạy và học tập các môn khoa học chính trị, giáo
dục ý thức chính trị cho học viên.
4.2.4. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tự giáo dục, tự rèn
luyện của học viên trong việc nâng cao ý thức chính trị.
4.2.5. Cần kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục ý thức chính trị cho
học viên với việc đấu tranh chống quan điểm, tư tưởng sai trái, thù
địch và mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.
Kết luận chương 4
Giáo dục ý thức chính trị cho học viên CAND luôn là yêu cầu, nhiệm vụ
và là một trong những nội dung cơ bản của sự nghiệp xây dựng lực lượng
CAND Việt Nam hiện nay. Hiện nay và những năm tới GDYTCT cho học viên
diễn ra trong bối cảnh thế giới và trong nước đang có những biến đổi phức
tạp, tác động trực tiếp đến GDYTCT. Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và
bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của lực lượng Công an đang đặt ra những thách
thức mới, bản thân học viên và cán bộ chiến sĩ cũng có những bước phát triển
khác trước. Trong bối cảnh đó GDYTCT cho học viên đang đặt ra những yêu
cầu rất cao về nâng cao chất lượng giáo dục ý thức chính trị.