Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Sử học: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bảo vệ tài nguyên nước từ năm 2001 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.86 KB, 28 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Nghiên cứu sinh chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh  
đạo bảo vệ tài nguyên nước từ  năm 2001 đến năm 2010” làm luận 
án tiến sĩ vì những lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ vai trò quan trọng của nước và việc bảo  
vệ tài nguyên nước trong quá trình phát triển. Nước là tài nguyên đặc 
biệt quan trọng, là yếu tố cần thiết cho sự sống của con người và  
muôn loài, đồng thời là tư liệu sản xuất không thể thay thế đối với  
nhiều ngành kinh tế quốc dân và là một thành phần cơ bản tạo nên 
môi trường sống. Song, nước là nguồn tài nguyên có hạn và dễ  bị 
tổn thương. Ngày nay, cùng với những thành tựu đạt được trong  
quá trình phát triển của xã hội loài người thì nhân loại đang phải  
đối mặt với vấn đề  thiếu nước, suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm  
nguồn nước. Bởi vậy, BVTNN đã trở thành vấn đề  chung của toàn  
nhân loại, là một trong những nhiệm vụ cấp thiết của mỗi quốc gia  
trong quá trình phát triển, là lĩnh vực ưu tiên cần hợp tác giải quyết 
trên cấp độ toàn cầu. 
Thứ  hai, xuất phát từ  yêu cầu, nhiệm vụ  bảo vệ  tài nguyên  
nước  ở  Việt Nam. Trong quá trình phát triển KT­XH, một mặt,  
ngày càng đòi hỏi khai thác và sử dụng nước nhiều hơn TNN; mặt  
khác, đổ  vào các nguồn nước một lượng chất thải ngày càng lớn.  
Trong 10 năm đầu của thế  kỷ XXI, KT­XH nước ta có sự  chuyển 
biến mạnh mẽ với việc mở mang các đô thị mới và phát triển công 
nghiệp. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây nên những 
tác động tiêu cực đến TNN. Cùng với đó, toàn cầu hóa và BĐKH 
đã và đang tác động trực tiếp, gây  ảnh hưởng nghiêm trọng đến 
TNN Việt Nam. Sự  suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước và 
nguy cơ  thiếu nước trở  thành những vấn đề  cấp bách, mang tính 
thời sự. Bên cạnh đó, giải quyết các vấn đề về TNN còn mang tính 


chính trị, có liên quan chặt chẽ  đến vấn đề  chủ  quyền, an ninh  
quốc gia.
Thứ  ba, xuất phát từ  thực tiễn sự  lãnh đạo, quản lý của  
Đảng, Nhà nước đối với lĩnh vực TNN. Trước những thách thức to 
lớn   về   TNN,   Đảng   và   Nhà   nước   đã   có   nhận   thức   và   các   chủ 
trương,   chính   sách   ngày   càng   đầy   đủ   để   giải   quyết   vấn   đề 
BVTNN, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế. Thực tiễn đặt ra, phải 
có những nghiên cứu mang tính hệ thống, chuyên sâu về Đảng lãnh  
đạo BVTNN. Hơn nữa, cho đến nay, chưa có một công trình nào 


2
nghiên cứu một cách hệ thống và khoa học để  làm rõ sự  lãnh đạo 
của Đảng về BVTNN.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ  sự  lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về 
BVTNN từ  năm 2001 đến năm 2010; trên cơ  sở  đó rút ra một số 
kinh nghiệm có thể tham khảo, vận dụng vào thực tiễn BVTNN ở 
Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận 
án;
Luận giải những yếu tố tác động đến BVTNN  ở  Việt Nam  
trong những năm 2001 ­ 2010;
Phân   tích   làm   rõ   chủ   trương,   chính   sách   của   Đảng   về 
BVTNN và quá trình chỉ  đạo thực hiện BVTNN từ  năm 2001 đến  
năm 2010 qua hai giai đoạn 2001 ­ 2005 và 2006 ­ 2010;
Nhận xét, đánh giá về ưu điểm, hạn chế; làm rõ nguyên nhân 
hạn chế  trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với BVTNN từ 

năm 2001 đến năm 2010;
Đúc kết một số  kinh nghiệm từ  sự  lãnh đạo của  Đảng về 
BVTNN trong những năm 2001 ­ 2010 để vận dụng vào hiện thực.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với 
BVTNN. 
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu làm rõ những yếu tố tác động đến 
BVTNN; sự  lãnh đạo của Đảng về  BVTNN trên hai phương diện 
hoạch định chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện; kết quả việc thực 
hiện chỉ đạo của Đảng; nhận xét về sự lãnh đạo của Đảng và đúc  
kết những kinh nghiệm lịch sử.
Về thời gian: Giới hạn trong 10 năm (2001 ­ 2010). Tuy nhiên, để 
bảo đảm tính hệ thống và đạt được mục đích nghiên cứu, luận án có đề 
cập đến một số vấn đề liên quan đến khoảng thời gian trước và sau 10  
năm trên.
Về không gian: Ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu


3
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ 
nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. 
4.2. Cơ sở thực tiễn
Luận án được thực hiện trên cơ sở thực tiễn những hoạt động 
BVTNN dưới sự  lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ  năm 
2001 đến năm 2010; dựa trên kết quả  nghiên cứu từ các công trình 
khoa học đã công bố có liên quan đến BVTNN  ở  Việt Nam và trên 

thế giới.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp lịch sử, 
phương pháp lôgic và sự  kết hợp của hai phương pháp đó; đồng 
thời, còn sử  dụng một số  phương pháp khác như: Phân tích, tổng 
hợp, thống kê, so sánh … Các phương pháp được sử dụng phù hợp  
với yêu cầu của từng nội dung luận án.
5. Những đóng góp mới của luận án
Hệ thống hóa chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản 
Việt Nam về BVTNN từ năm 2001 đến năm 2010;
Đưa ra những nhận xét, đánh giá tương đối khách quan về sự 
lãnh đạo của Đảng đối với BVTNN trong những năm 2001 ­ 2010;
Đúc kết một số kinh nghiệm từ quá trình hoạt động lãnh đạo 
của Đảng về BVTNN từ năm 2001 đến năm 2010.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài luận án
Luận án được nghiên cứu thành công bước đầu làm sáng tỏ 
những vấn đề lý luận và thực tiễn về BVTNN; góp phần tổng kết 
sự  lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực bảo vệ TN, MT nói chung  
và BVTNN nói riêng.
Những kinh nghiệm được đúc kết trong luận án có giá trị tham 
khảo, vận dụng vào thực tiễn BVTNN cũng như bảo vệ TN, MT nói 
chung hiện nay.
Kết quả  nghiên cứu của luận án có thể  dùng làm tài liệu  
tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập Lịch sử 
Đảng Cộng sản Việt Nam, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng 
sản Việt Nam và các môn học có liên quan đến lĩnh vực TN, MT 
trong các trường cao đẳng, đại học, học viện.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của 
tác giả  đã công bố  có liên quan đến đề  tài luận án, danh mục tài 



4
liệu tham khảo và phụ  lục, luận án được kết cấu gồm 4 chương,  
10 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các công trình của tác giả nước ngoài nghiên cứu có  
liên quan đến đề tài luận án
Nghiên cứu về lĩnh vực TNN đã có nhiều công trình của các  
tác giả nước ngoài đã công bố, trong đó có thể kể đến một số công 
trình dưới đây:
Công trình  nghiên cứu  của nhóm  tác giả  Alcamo,  J.,  Thomas 
Henrichs, Thomas Rösch (2000), World Water in 2025 ­ Global modelling  
scenarios for the World Commission on Water for the 21st Century (tạm 
dịch: Nước thế giới năm 2025 ­ Các viễn cảnh mô hình toàn cầu cho Ủy  
ban Thế  giới về  Nước cho thế  kỷ  21).  Nhóm tác giả  Alcamo, J., M. 
Florke and M. Marker (2007), với bài viết “Future long­term changes in  
global water resources driven by socio­economic and climatic changes” 
(tạm dịch: “Những thay đổi lâu dài trong tương lai về nguồn tài nguyên  
nước toàn cầu do những thay đổi về  kinh tế ­ xã hội và khí hậu thay  
đổi”). Tác giả Odeh Al Jayyousi (2007) với bài viết “Water as a Human  
Right: Towards Civil Society Globalization” (tạm dịch: “Nước như một  
Quyền con người: Hướng tới Toàn cầu hoá Xã hội Dân sự”). Tác giả 
Varis, O. (2007), có bài “Water demands for bioenergy production” (tạm 
dịch: “Nhu cầu nước cho sản xuất năng lượng sinh học”. Tác giả Robyn  
Johnston, Matti Kummu (2012), với bài viết “Water Resource Models in 
the Mekong Basin: A Review” (tạm dịch: “Các mô hình tài nguyên nước ở 

lưu vực Mê Kông: Đánh giá”). Nhóm tác giả  Timo A Räsänen, Jorma  
Koponen, Hannu Lauri, Matti Kummu (2012) với bài viết “Downstream  
Hydrological Impacts of Hydropower Development in the Upper Mekong 
Basin” (tạm dịch: “Các tác động của việc phát triển thủy điện ở thượng  
lưu sông Mê Kông vào thủy văn khu vực hạ lưu”).
Những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế 
giới về TNN đã được công bố nhằm cung cấp những luận cứ khoa 
học quan trọng để  giải quyết “bài toán” về  vấn đề  ô nhiễm, suy  


5
giảm,  cạn kiệt  nguồn TNN toàn cầu.  Đồng thời,  đưa ra những  
cảnh báo về  nguy cơ ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước trên thế  giới  
và kêu gọi sự  chung tay, hợp tác của tất cả  các quốc gia trên thế 
giới để ngăn chặn và đẩy lùi sự suy giảm, cạn kiệt TNN toàn cầu.
1.1.2. Các công trình của tác giả trong nước nghiên cứu có  
liên quan đến đề tài luận án
* Nhóm công trình nghiên cứu về  bảo vệ  tài nguyên, môi  
trường và phát triển bền vững
Trong những năm gần đây, nhiều công trình nghiên cứu cơ 
bản, nghiên cứu  ứng dụng cung cấp những luận cứ  khoa học về 
TN, MT, bảo vệ TN, MT và PTBV đã được công bố, có thể kể đến  
như: Lưu Đức Hải và Nguyễn Ngọc Sinh (2000), Quản lý môi trường  
cho sự phát triển bền vững. Lê Huy Bá cùng nhóm cộng sự  (2002), 
Tài nguyên Môi trường và Phát triển bền vững . Nguyễn Ngọc Dung 
(2008),  Quản   lý   tài   nguyên   và   môi   trường.   Trương   Quang   Học 
(2012), Việt Nam: Thiên nhiên, Môi trường và Phát triển bền vững . 
Ngô Thắng Lợi, Vũ Thành Hưởng (2015),  Phát triển bền vững  ở  
Việt Nam trong bối cảnh mới của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế  
và biến đổi khí hậu.  Luận án tiến sĩ  của tác giả  Nguyễn Như  An  

(2012), Phát triển năng lực giáo dục bảo vệ môi trường cho sinh viên  
sư phạm ngành giáo dục tiểu học. Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Thị 
Thanh Hà (2012),  Vai trò của Nhà nước đối với việc bảo vệ  môi  
trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,  
nông thôn ở Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn 
Thị  Khương (2014),  Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa  
tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện  
nay. Nguyễn Thị Ngọc (2007), “Quản lý nhà nước về môi trường ở 
Nhật   Bản   và   những   gợi   ý   cho   Việt   Nam”.   Trương   Thu   Trang  
(2009), “Pháp luật bảo vệ môi trường: Kinh nghiệm một số nước  
châu Á và bài học đối với Việt Nam”.   Nguyễn Mậu Dũng (2011), 
“Kinh nghiệm quản lý ô nhiễm môi trường trong phát triển sản xuất  
công nghiệp của Nhật Bản”. Trần Thị Duyên (2014), “Các giải pháp 
chính sách của Đài Loan đối với các vấn đề môi trường”. Lê Quốc 
Lý (2014), “Tiêu chí và giải pháp cơ  bản phát triển bền vững  ở 
nước ta”.
* Nhóm công trình nghiên cứu về bảo vệ tài nguyên nước


6
Nhận thức đúng về  vai trò và tầm quan trọng của TNN đối 
với sự  sống cùng với quá trình phát triển, trong những năm gần  
đây, các nhà khoa học Việt Nam đã dành nhiều thời gian, tâm sức 
để  nghiên cứu về  lĩnh vực TNN, với nhiều công trình được công  
bố, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ, sử dụng TNN ở 
Việt Nam.
Trịnh Xuân Lai (2004), Xử lý nước cấp cho sinh hoạt và công  
nghiệp. Nguyễn Thanh Sơn (2005), Đánh giá tài nguyên nước Việt  
Nam. Trần Đức Hạ và nhóm cộng sự (2009), Bảo vệ và quản lý tài  
nguyên nước. Ngô Trọng Thuận và Vũ Văn Tuấn (2009), Nước và  

con   người.  Trần   Thanh   Xuân,   Trần   Thục,   Hoàng   Minh   Tuyển  
(2011), Tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên nước Việt  
Nam. Trần Hồng Thái (chủ biên) (2014), Ảnh hưởng của biến đổi  
khí hậu đến tài nguyên nước và ngập lụt vùng Đồng bằng Sông  
Cửu   Long.  Trần   Thanh   Xuân   (2016),  Mạng   lưới   và   tài   nguyên  
nước sông Việt Nam ­ Những biến đổi và thách thức. Nguyễn Hà 
Anh (2015), Bảo vệ, sử dụng tiết kiệm tài nguyên nước. Luận án tiến 
sĩ của tác giả  Phạm Thị  Tố Oanh (2009),  Xác lập cơ sở khoa học  
về tài nguyên và môi trường nước phục vụ định hướng phát triển  
bền vững một số làng nghề  tỉnh Bắc Ninh. Luận án tiến sĩ của tác 
giả  Nguyễn Hoàng Sơn (2010), Nghiên cứu, đánh giá tổng hợp tài  
nguyên nước phục vụ  phát triển bền vững lưu vực sông Hương. 
Mai Văn Tùng (2009), “Nguồn tài nguyên nước trong tri thức người 
Mường”. Lê Duy Thắng và Trần Thị Kim Dung (2016), “Bất ổn về 
an ninh nguồn nước sông Mê Kông và tác động của nó đối với khu  
vực”.
1.2. Khái quát kết quả  nghiên cứu của các công trình khoa 
học đã công bố  và những vấn đề  đặt ra luận án tiếp tục giải  
quyết
1.2.1. Khái quát kết quả  chủ  yếu của các công trình đã  
công bố liên quan đến đề tài luận án
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực TN, MT rất  
phong   phú   và   đa   dạng,   được   tiếp   cận   và   nghiên   cứu   từ   nhiều 
phương diện khác nhau nhằm tìm ra hướng giải quyết góp phần 


7
nâng cao chất lượng, hiệu quả bảo vệ TN, MT cũng như  BVTNN  
trong quá trình phát triển đất nước. 
Thứ   hai,   các   công   trình   đã   trình   bày   trong   tổng   quan   đều 

thống nhất khẳng định vai trò, vị  trí, tầm quan trọng của việc bảo  
vệ TN, MT, đặc biệt là BVTNN đối với sự phát triển KT ­ XH. 
Thứ ba, một số công trình khoa học nói trên đã nghiên cứu những 
vấn đề có ý nghĩa cơ sở lý luận và thực tiễn của lĩnh vực TN, MT và 
PTBV như: Vấn đề về ô nhiễm môi trường, suy kiệt tài nguyên thiên 
nhiên và sự   ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đến sức khỏe con  
người; sự phát triển kinh tế và những vấn đề  đặt ra đối với lĩnh vực  
TN, MT, lĩnh vực TNN; mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và 
trách nhiệm của con người đối với việc BVMT và bảo vệ tài nguyên 
thiên   nhiên,   BVTNN;   những   giải   pháp   chủ   yếu   trong   BVMT   và 
BVTNN. 
Thứ  tư, nhiều công trình khoa học nói trên đã nghiên cứu  
những vấn đề  có ý nghĩa cơ  sở  lý luận và thực tiễn của công tác  
quản lý, bảo vệ, phát triển nguồn nước và sử dụng tiết kiệm, hiệu 
quả  TNN như: Vấn đề  về  ô nhiễm nguồn nước và sự   ảnh của ô 
nhiễm nguồn nước đến sức khỏe con người; sự phát triển kinh tế 
và những vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý và BVTNN; sự tác  
động của con người đến TNN và trách nhiệm của con người đối  
với việc bảo vệ  nguồn tài nguyên quý giá này; vấn đề  bảo vệ  và 
sử  dụng nguồn TNN như thế  nào cho hiệu quả và bền vững; vấn  
đề  sử  dụng tiết kiệm TNN và tái sử  dụng nguồn nước thải ­ Con  
người trong quá trình này là các cộng đồng cư  dân, các Chính phủ,  
từng quốc gia và khu vực, toàn cầu và các cơ quan quản lý với các  
chính sách và thiết chế cần thiết. 
Thứ  năm, một số  công trình đã dành một phần nhỏ  đề  cập 
đến chỉ thị, nghị quyết của Đảng về  BVMT, song do giới hạn bởi  
phạm vi và mục đích nghiên cứu của các công trình mà các tác giả 
chưa đi vào nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống để phân tích, luận 
giải quan điểm, chủ trương của Đảng về BVMT ở Việt Nam, nhất  
là BVTNN. 

Qua khảo cứu các công trình đã công bố liên quan đề tài luận án 
cho thấy, mặc dù chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp, hệ thống 


8
và chuyên sâu dưới góc độ  khoa học lịch sử  Đảng về  đề  tài “Đảng 
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bảo vệ tài nguyên nước từ năm 2001 đến 
năm 2010”, nhưng các kết quả nghiên cứu nêu trên là những tài liệu, tư 
liệu tham khảo bổ  ích cho nghiên cứu sinh trong quá trình thực hiện 
luận án tiến sĩ. 
1.2.2. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết 
Một là, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ 
thống về chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng đối với BVTNN. 
Hai là, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu, đánh giá, 
nhận xét về  sự  lãnh đạo của Đảng về  BVTNN và rút ra những 
kinh nghiệm có thể vận dụng vào thực tiễn. 
Ba là, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào mang  
tính toàn diện, sâu sắc, hệ  thống về   Đảng Cộng sản Việt Nam  
lãnh đạo BVTNN cho một giai đoạn nhất định, đặc biệt là những 
năm đầu của thế  kỷ  XXI. Do đó, đây vẫn là “khoảng trống” để tác 
giả luận án đi sâu nghiên cứu và làm rõ Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh  
đạo bảo vệ  tài nguyên nước từ  năm 2001 đến năm 2010   mà không 
trùng lắp với các công trình đã công bố.
Vì vậy, luận án  tập trung nghiên cứu những nội dung chủ 
yếu: 1) Nghiên cứu những yếu tố  tác động đến BVTNN (2001 ­  
2010);  2) Nghiên cứu quá trình nhận thức, hoạch định chủ  trương và 
chỉ đạo tổ chức thực hiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về BVTNN  
(2001 ­ 2010); 3) Đánh giá, nhận xét ưu điểm, hạn chế Đảng Cộng  
sản Việt Nam lãnh đạo BVTNN từ năm 2001 đến năm 2010, chỉ rõ 
nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế đó và rút ra một số kinh  

nghiệm có thể vận dụng vào hiện thực. Qua đó, góp phần tổng kết  
hoạt động lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực bảo vệ TN, MT, trong 
đó có BVTNN. 
Kết luận chương 1
Luận án đã tổng quan có chọn lọc các công trình nghiên cứu  
của các chuyên gia trong lĩnh vực TN, MT, đặc biệt là TNN trên 
thế  giới và Việt Nam.Trên cơ  sở  phân tích nội dung của các công 
trình đã được công bố, tác giả  đã làm rõ kết quả  chủ yếu của các  


9
công trình đó, đồng thời chỉ  ra những  vấn đề  cơ  bản mà luận án 
phải giải quyết, cụ  thể  là: Cần làm rõ những yếu tố tác động đến 
BVTNN (2001 ­ 2010);   làm rõ quá trình nhận thức, hoạch định chủ 
trương và chỉ đạo tổ chức thực hiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về 
BVTNN (2001 ­ 2010); đánh giá, nhận xét  ưu điểm, hạn chế  Đảng 
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo BVTNN từ năm 2001 đến năm 2010, 
chỉ  rõ nguyên nhân của những  ưu điểm, hạn chế  đó và rút ra một  
số kinh nghiệm có thể vận dụng vào giai đoạn mới để BVTNN đạt 
hiệu quả hơn. 
Chương 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ 
BẢO VỆ TÀI NGUYÊN NƯỚC (2001 ­ 2005)
2.1. Những yếu tố tác động đến bảo vệ tài nguyên nước
2.1.1. Vị trí, vai trò của nước và đặc điểm tài nguyên nước Việt  
Nam
* Quan niệm về “Tài nguyên nước” và “Bảo vệ tài nguyên nước”
Tài nguyên nước
Tài nguyên nước là tài nguyên thiên nhiên, bao gồm tất cả  
các nguồn nước mặt, nước dưới   đất,  nước  mưa và nước  biển  

thuộc lãnh thổ  của nước Cộng hòa xã hội chủ  nghĩa Việt Nam,  
được sử  dụng vào những mục đích khác nhau cho phát triển KT ­  
XH, bảo đảm cho sự sống và các hoạt động sinh hoạt khác của con  
người. 
Tuy TNN thuộc loại tài nguyên có khả  năng tái tạo nhưng  
không phải là nguồn tài nguyên vô hạn, thậm chí nếu con người  
không   hành   xử   đúng   với   TNN   thì   nó   sẽ   chuyển   hóa   thành   tài  
nguyên không có khả  năng tái tạo, dần suy thoái và cạn kiệt, đe  
dọa đến sự  sống của mọi sinh vật trên trái đất, trong đó có con 
người.
Bảo vệ tài nguyên nước
Bảo vệ tài nguyên nước là các công việc, các hoạt động, các  
biện pháp phòng, chống suy thoái, cạn kiệt nguồn nước; giữ  cho  
TNN bảo đảm an toàn, trong sạch; phòng ngừa hạn chế  các tác  
động xấu đối với TNN,  ứng phó sự  cố  môi trường,  ứng phó với  


10
BĐKH tác động đến TNN; khắc phục ô nhiễm, suy thoái nguồn  
nước, đồng thời, phục hồi và cải thiện TNN; khai thác, sử  dụng  
hợp lý và tiết kiệm TNN; bảo vệ khả năng phát triển TNN.
Như vậy, BVTNN không phải là giữ nguyên không khai thác 
mà trái lại, mọi công việc, mọi hoạt động BVTNN phải hướng vào  
việc bảo vệ  các nguồn nước không bị  ô nhiễm, khai thác và sử 
dụng hợp lý, hiệu quả  các nguồn nước nhằm tạo điều kiện cần 
thiết cho phục hồi, tái tạo TNN, đáp  ứng nhu cầu phát triển KT ­  
XH. Do đó, BVTNN một mặt, phải tìm ra những hướng phát triển 
KT ­ XH phù hợp, không gây những tác động xấu đến TNN; mặt  
khác, phải tìm cách ngăn chặn những hậu quả  xấu mà quá trình  
phát triển KT ­ XH gây ra cho TNN.

* Vị trí, vai trò của nước 
Nước là nguồn gốc của sự sống. 
Nước bảo đảm cho sự phát triển KT ­ XH, cho sự phát triển  
bền vững. 
Nước phục vụ cho sinh hoạt, sức khoẻ và vệ sinh. 
Nước có vai trò to lớn trong BVMT. 
Có thể  nói, nước đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự 
sống cũng như phát triển KT ­ XH. Nếu thiếu nước, khí hậu sẽ thay  
đổi, cuộc sống của con người cũng thay đổi theo hướng khó khăn 
hơn. Việc quản lý, bảo vệ và sử dụng nước không hợp lý sẽ gây ra  
những thiệt hại to lớn về kinh tế và hủy hoại môi trường sống của 
con người.
* Đặc điểm tài nguyên nước Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia thiếu nước. 
Sự phân bố TNN không đồng đều trên toàn lãnh thổ theo không  
gian và thời gian. 
Tài nguyên nước ở Việt Nam ẩn chứa nhiều yếu tố không bền  
vững. 
Việt Nam có nhiều thiên tai gắn liền với nước. 
2.1.2. Thực trạng bảo vệ tài nguyên nước ở Việt Nam trước  
năm 2001
Từ năm 1986, cùng với công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề bảo 
vệ TNN cũng được Đảng và Nhà nước quan tâm. Nhận thức và chủ 
trương của Đảng về bảo vệ TN, MT từng bước được hình thành, vấn 


11
đề BVTNN cũng được nhìn nhận chung trong lĩnh vực TN, MT. Điều 
đó được thể hiện trong Chỉ thị số 36­CT/TW về “Tăng cường công tác 
bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất  

nước” của Bộ Chính trị ban hành tháng 6­1998. 
Thực  hiện  chủ   trương   của  Đảng,  Nhà   nước   đã   ban  hành 
chính  sách,   pháp  luật   về   BVMT,   BVTNN.   Tháng  6/1991,   Chính 
phủ  đã thông qua Kế hoạch Quốc gia về môi trường và phát triển  
bền vững 1991 ­ 2000. Tiếp đó, các văn bản pháp luật về BVMT,  
BVTNN đã được ban hành như  Luật Bảo vệ  môi trường  (1993); 
Luật Tài nguyên nước (1998). Đây là cơ sở pháp lý để tiếp tục xây  
dựng và hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách nhằm thực thi hiệu  
quả công tác quản lý, BVTNN của quốc gia.
Mặc dù, BVTNN đã được đề  cập đến trong Nghị  quyết của  
Đảng, Quốc hội đã ban hành Luật Tài nguyên nước (1998), nhưng trên 
thực tế các công việc, các hoạt động để phòng, chống suy thoái, cạn 
kiệt nguồn nước, bảo đảm an toàn nguồn nước còn mờ nhạt, chưa có  
sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội cùng những hoạt  
động cụ  thể, tích cực để  phòng, chống cạn kiệt và ô nhiễm nguồn 
nước. Chưa có hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về TNN từ trung  
ương đến cơ sở (xã, phường), việc quản lý về TNN còn chồng chéo 
giữa các Bộ, ngành nên chưa có những giải pháp mang tính đồng bộ 
và những hoạt động cụ thể nhằm ngăn chặn những tác động xấu đến 
TNN cũng như khắc phục triệt để sự cố môi trường nước; thiếu chế 
tài để quản lý khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm TNN cũng như 
bảo vệ khả năng phát triển TNN. Đó cũng là những hạn chế của việc 
BVTNN trước năm 2001.
2.2. Chủ trương của Đảng về bảo vệ tài nguyên nước 
Nhận thức đúng đắn về  những vấn đề  nghiêm trọng đặt ra 
và để tiếp tục lãnh đạo phát triển KT ­ XH của đất nước trong thế 
kỷ mới theo hướng bền vững, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
IX của Đảng (4/2001) đã đặt vấn đề  bảo vệ  TN, MT trong quá  
trình phát triển KT ­ XH. Muốn phát triển KT ­ XH theo hướng bền 
vững phải gắn kết chặt chẽ  với nhiệm vụ bảo vệ TN, MT; m ục  

tiêu phát triển KT ­ XH phải được xác định trong mối quan hệ chặt 
chẽ với mục tiêu bảo vệ TN, MT. Đó cũng là xu thế chung mà các 
quốc gia trên thế giới đã lựa chọn và thực hiện.
Theo đó, với vai trò là “cốt lõi” của sự  PTBV, BVTNN phải 
được đặc biệt coi trọng. Mọi hoạt động sản xuất phát triển kinh tế 


12
đều có mối quan hệ  biện chứng với TNN. Các ngành kinh tế  công 
nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải thủy, dịch vụ...  đều cần 
nguồn nước để thực hiện các hoạt động sản xuất. Nhưng cũng chính 
quá trình hoạt động sản xuất ấy lại có những tác động tiêu cực trở lại  
TNN, gây ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước. Bởi vậy, trong mỗi quy  
hoạch, dự án phát triển kinh tế vùng, phát triển các ngành kinh tế, phát 
triển các khu đô thị đều phải đặc biệt chú trọng việc bảo vệ và phát 
triển TNN. Đây phải được coi là một tiêu chí quan trọng đặc biệt khi  
phê duyệt các kế hoạch, dự án phát triển KT ­ XH cho sự PTBV.
Trên cơ sở đó, nhiệm vụ BVTNN cũng được xác định cụ  thể 
trong định hướng bảo vệ và cải thiện môi trường như: Kiểm soát ô 
nhiễm và ứng cứu sự cố môi trường do thiên tai lũ lụt gây ra; có kế 
hoạch cải tạo, khắc phục sự cố ô nhiễm môi trường trên các dòng 
sông, hồ  ao, kênh mương. Đồng thời, các giải pháp về  BVTNN  
cũng   được   xác   định:  Tăng  cường   đầu   tư   ngăn   ngừa   sự   cố   môi 
trường, xử  lý nước thải; tăng cường khả  năng dự  báo sự  cố  thiên 
nhiên, thời tiết, bão lụt... giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra;  
hình thành khung pháp luật BVTNN và huy động sự  tham gia của  
cộng đồng trong việc BVTNN.
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX của Đảng (2001), BVTNN 
tiếp tục được đề  cập đến trong một số Nghị  quyết trong nhiệm kỳ 
đặc biệt là Nghị quyết số 41. Đảng đã nhận thức rõ hơn, cụ thể hơn  

về tầm quan trọng của việc BVTNN; bước đầu hình thành những chủ 
trương cơ  bản để  giải quyết yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với việc  
BVTNN quốc gia. 
Nhìn tổng quát, quan điểm và chủ trương của Đảng về BVTNN  
giai đoạn 2001 ­ 2005 được thể hiện qua những nội dung cơ bản sau:
Thứ   nhất,   Đảng   đã   nhận   thức   được   sự   cần   thiết   phải 
BVTNN trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH để  phát triển đất 
nước theo hướng bền vững. Quan điểm và chủ  trương của Đảng  
về  BVTNN được đặt trong tổng thể  chung của lĩnh vực bảo vệ 
TN, MT. 
Thứ hai, việc BVTNN là trách nhiệm chung của cả hệ thống  
chính trị và của toàn xã hội.
Thứ  ba, BVTNN là bảo vệ  chất lượng các nguồn nước, là  
bảo đảm cho việc khai thác hợp lý, sử dụng hiệu quả TNN và bảo  
đảm khả năng phát triển TNN của đất nước.
Thứ  tư, BVTNN cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ  chủ 
yếu như: Tăng cường kiểm soát ô nhiễm tại nguồn; giải quyết cơ 


13
bản tình trạng ô nhiễm nguồn nước trong các khu dân cư; chấm  
dứt tình trạng xả thải ra các nguồn nước chưa qua xử lý bảo đảm  
tiêu chuẩn chất lượng môi trường và tình trạng khai thác, sử dụng 
bừa bãi gây cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước ngầm; chủ   động tổ 
chức điều tra cơ  bản để  sớm có đánh giá toàn diện và cụ  thể  về 
TNN Việt Nam làm cơ sở cho việc quy hoạch quản lý TNN.
Thứ  năm,để  BVTNN đạt hiệu quả  cần tuyên truyền về  sự 
cần thiết phải BVTNN, nâng cao trách nhiệm của toàn xã hội trong 
BVTNN; xây dựng và củng cố hệ thống cơ quan quản lý nhà nước 
cho lĩnh vực TNN, xây dựng hệ thống văn bản pháp luật  về TNN; 

chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực TNN  có 
năng lực và đạo đức, đáp  ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra; phát triển  
nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực TNN.
2.3. Đảng chỉ đạo bảo vệ tài nguyên nước 
2.3.1. Chỉ  đạo công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao  
nhận thức và trách nhiệm bảo vệ  tài nguyên nước cho toàn xã  
hội
Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng và Chỉnh phủ, Kết quả công 
tác tuyên truyền, giáo dục về BVTNN bước đầu đã được triển khai.  
Ngày Môi trường Thế  giới (5/6),  Ngày Nước thế  giới (22/3) hằng 
năm, Việt Nam đều tổ chức các hoạt động để  kêu gọi sự  quan tâm 
của cộng đồng về tầm quan trọng của môi trường tự nhiên, của TNN  
đối với cuộc sống, tuyên truyền vận động để  nâng cao ý thức, trách 
nhiệm của các tổ chức, cá nhân và cộng đồng về BVMT, bảo vệ, sử 
dụng hiệu quả và quản lý bền vững TNN, đặc biệt là các nguồn nước 
ngọt phục vụ trực tiếp cho cuộc sống và các hoạt động sản xuất. 
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức 
về BVTNN còn hạn chế. Do BVTNN chưa được tách biệt thành một 
lĩnh vực riêng có tầm quan trọng đặc biệt mà vẫn lồng ghép trong  
tuyên truyền, giáo dục chung về  bảo vệ  TN, MT nên trong cán bộ, 
đảng viên, thậm chí cả những cán bộ làm công tác quản lý chưa nhận  
thức đúng về  tầm quan trọng của việc BVTNN trong quá trình phát 
triển KT ­ XH, coi nhẹ BVTNN khi xây dựng kế hoạch và thực hiện 
nhiệm vụ  phát triển KT ­ XH; nhận thức của xã hội về  tầm quan  
trọng của việc BVTNN còn nhiều hạn chế; còn thiếu các chương  
trình giáo dục cộng đồng về sử dụng hợp lý, tiết kiệm và BVTNN;  
chưa   có   chương   trình   thống   nhất   về   giáo   dục   BVMT   cũng   như 


14

BVTNN cho các bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chính vì  
vậy, cấp  ủy và chính quyền nhiều nơi chưa thấy hết được vai trò, 
trách nhiệm, chưa lãnh đạo thường xuyên, đầy đủ  và toàn diện đối 
với BVTNN. Người dân chưa có ý thức BVTNN nên hành vi xả thải  
gây ô nhiễm nguồn nước và khai thác trái phép nguồn nước vẫn diễn 
ra phổ biến.
2.3.2. Chỉ  đạo xây dựng hệ  thống tổ  chức quản lý nhà  
nước và hệ   thống văn bản,  pháp luật  về  bảo  vệ  tài  nguyên  
nước
Thực hiện  chủ   trương  của  Đảng,   kết quả  xây dựng, hoàn 
thiện hệ thống cơ quan quan lý nhà nước và văn bản quy phạm pháp  
luật về  TNN đạt được những kết quả  nhất định. Trong những năm 
2001 ­ 2005, Nhà nước đã nỗ lực chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện  
thiết lập và kiện toàn hệ thống các cơ quan chức năng để quản lý TN, 
MT, trong đó có bộ phận thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong 
lĩnh vực TNN. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về TN, MT từ trung 
ương đến địa phương từng bước được kiện toàn và đi vào hoạt động 
ổn định. Các văn bản quy phạm pháp luật về TNN đã được ban hành  
đến năm 2005, bước đầu tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện chức 
năng quản lý nhà nước về  TNN trên phạm vi cả  nước. Trên cơ  sở 
khung thể chế, chính sách đã ban hành, một số dự án, quy hoạch hệ 
thống lưu vực sông, hồ được triển khai xây dựng và thực thi. Công tác  
thanh tra, kiểm tra, giám sát tình hình khai thác, sử  dụng và BVTNN  
bước đầu cũng đã được tiến hành.
Tuy nhiên, tổ  chức bộ  máy quản lý nhà nước về  TNN hoạt  
động còn hạn chế, nhiều cán bộ  chưa được đào tạo đúng chuyên 
môn, cấp xã, phường chưa có cán bộ  chuyên trách. Hệ  thống văn 
bản quy phạm pháp luật về TNN chưa đồng bộ, việc ban hành văn 
bản về  BVTNN, văn bản hướng dẫn dưới Luật vẫn còn bất cập,  
thực hiện chưa hiệu quả. Công tác tuyên truyền, phổ  biến pháp 

luật về  TNN chưa được thực hiện thường xuyên và sâu rộng, nên 
nhận thức của xã hội về  tầm quan trọng của việc BVTNN còn 
nhiều hạn chế…
2.3.3. Chỉ  đạo xã hội hoá hoạt động bảo vệ  tài nguyên  
nước 
Các tổ  chức chính trị  ­ xã hội đã tích cực thực hiện sự  chỉ 
đạo của Đảng và Chính phủ trong việc xã hội hóa bảo vệ TN, MT  


15
cũng như BVTNN. Ngay sau khi các Nghị quyết liên tịch được ban 
hành, các tổ  chức, Hội đã chủ  động triển khai ký kết  ở  cấp tỉnh,  
đồng thời, xây dựng các chương trình, kế  hoạch hành động đến 
cấp cơ sở.
Đây là cơ sở cho sự khởi đầu thực hiện xã hội hóa BVTNN. Từ 
đây mở  ra các hoạt động tuyên truyền sâu rộng trong các tổ  chức 
chính trị ­ xã hội, trong các Hội, cộng đồng dân cư, tạo ra sự  thống 
nhất cao về nhận thức và hành động, nhanh chóng đưa các chủ trương  
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về BVTNN vào thực  
tiễn cuộc sống, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế ­  
xã hội ­ môi trường mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Tuy nhiên, các 
hoạt động chưa phát huy hiệu quả, chưa thu hút được nhiều tổ 
chức, cá nhân trong xã hội tham gia. Đặc biệt, nhận thức của cộng  
đồng xã hội về TNN còn hạn chế, các hoạt động riêng cho lĩnh vực 
TNN còn ít, chưa gắn kết các hoạt động kinh tế của các xí nghiệp,  
doanh nghiệp, làng nghề, của các cá nhân với hoạt động BVTNN.
2.3.4.  Chỉ đạo hoạt động nghiên cứu khoa học và hợp tác  
quốc tế về tài nguyên nước
* Hoạt động nghiên cứu khoa học về tài nguyên nước
Các hoạt động nghiên cứu khoa học về  lĩnh vực TNN đã  

được tiến hành  và  có  những đóng góp nhất  định.  Các  hội  thảo  
được tổ chức, các đề tài nghiên cứu được triển khai, các đề án, dự 
án được đề xuất đã thu hút các nhà khoa học, các chuyên gia nghiên 
cứu, thực hiện. Qua đó, các nhà khoa học, các chuyên gia đã đóng  
góp ý kiến xây dựng các chính sách, luật pháp, quy chuẩn về  bảo 
vệ  TNN,  nhiều điều kiến nghị  của các chuyên gia, của các nhà 
khoa học đã được các cơ  quan có thẩm quyền xem xét và chấp 
nhận. Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực 
TNN mới chỉ  dừng  ở  mức khái quát, chưa có nghiên cứu chuyên  
sâu về số lượng và chất lượng nước.
* Hợp tác quốc tế trong bảo vệ tài nguyên nước 
Thực hiện chủ trương của Đảng, sự  triển khai thực hiện của  
Chính phủ, giai đoạn 2001 ­ 2005, Việt Nam đã chủ  động, tích cực  
tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế về TNN. Kết quả Việt Nam  
đã cam kết, tham gia các tổ chức, nghị định quốc tế về bảo vệ, phát  
triển TNN. Mặc dù đã chủ động tham gia các hoạt động hợp tác quốc  
tế, song việc triển khai thực hiện chưa hiệu quả, một số mục tiêu, 


16
cam kết chưa đạt; hoạt động hợp tác lĩnh vực TNN chưa đi vào chiều 
sâu, chưa tranh thủ được những chuyên gia giỏi cũng như  chưa tiếp  
cận những công nghệ tiến tiến để phục vụ công tác BVTNN ở Việt 
Nam.
Kết luận chương 2
Như vậy, giai đoạn 2001 ­ 2005, vấn đề BVTNN chưa được 
đặt ra một cách tương đối độc lập mà được nhìn nhận và giải quyết 
trong   quan   hệ   chung   với   bảo   vệ   TN,   MT.   Nếu   nhìn   từ   góc   độ 
BVTNN thì đây là một thiếu sót, Đảng chậm nhận thức và giải quyết 
vấn   đề   thực  tiễn  đặt   ra,   chưa  có   một   nghị   quyết   chuyên   đề   về 

BVTNN.
Trong khi đặt vấn đề bảo vệ TN, MT thì vấn đề BVTNN là 
một bộ phận trong tổng thể của lĩnh vực TN, MT vì chính TN, MT nói 
chung cũng liên quan trực tiếp đến TNN. Vì vậy, việc bảo vệ TN, MT 
trong quá trình phát triển KT ­ XH một cách có ý thức, có kế  hoạch 
cũng chính là BVTNN. Việc Đảng quan tâm đến bảo vệ TN, MT cũng 
là điều rất cần thiết và quý giá đối với việc BVTNN, nó tạo điều 
kiện và tiền đề để đi đến trực tiếp BVTNN.
Tuy nhiên, sự  lãnh đạo của Đảng về  BVTNN chưa thật sự 
được coi trọng và quan tâm đúng mức, chưa có những văn bản, nghị 
quyết chuyên đề chỉ  đạo BVTNN. Thực tế đòi hỏi trong giai đoạn 
tiếp theo, trước mắt là giai đoạn 2006 ­ 2010, Đảng cần phải có  
các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề về BVTNN; đồng thời cần có sự 
chỉ đạo quyết liệt của Đảng đối với BVTNN.
Chương 3
ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH BẢO VỆ TÀI NGUYÊN NƯỚC 
(2006 ­ 2010)
3.1. Những yếu tố mới tác động đến đẩy mạnh bảo vệ tài 
nguyên nước 
Một là, tác động tiêu cực của toàn cầu hóa, của nền kinh tế  
thị trường và quá trình CNH, HĐH đất nước đến TNN.
Hai là, nhận thức và ý thức BVTNN của cán bộ  lãnh đạo,  
quản lý các cấp, ngành và chính quyền địa phương còn nhiều hạn  
chế.


17
Ba là, nhận thức và trách nhiệm của nhân dân về  BVTNN còn  
thấp, chưa có thói quen tự giác trong bảo vệ, sử dụng tiết kiệm, hiệu  
quả TNN.

Bốn là, cơ  sở  hạ  tầng kỹ  thuật, tiềm lực khoa học ­ công  
nghệ, nhân lực trong BVTNN còn hạn chế và lạc hậu.
Năm là, cơ  chế, chính sách, pháp luật trong BVMT và hoạt  
động khai thác TNN còn thiếu và bất cập.
3.2. Chủ trương của Đảng  về đẩy mạnh bảo vệ tài nguyên  
nước
Chủ  trương của Đảng về  BVTNN giai đoạn 2006 ­ 2010 là  
sự  phát triển nhận thức của Đảng đối với lĩnh vực TN, MT trong  
giai đoạn mới; bước đầu khắc phục những hạn chế  trong nhận  
thức cũng như  hoạch định chủ  trương trước đó là chú trọng phát  
triển KT ­ XH, coi nhẹ  công tác bảo vệ  TN, MT, chưa chú trọng 
đến BVTNN. Đó là cơ  sở  để  phát triển thành những định hướng 
lớn về  bảo vệ  TN, MT, BVTNN, vừa giải quyết  được yêu cầu 
thực tiễn ở Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế của thời đại hướng  
đến sự  PTBV. Đó còn được coi là sự  đổi mới trong lãnh đạo, chỉ 
đạo, điều hành và đặc biệt trong tổ chức, triển khai thực hiện công 
tác bảo vệ TN, MT và ứng phó với BĐKH của Đảng và Nhà nước 
ta; là cơ sở để Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển và hoàn thiện chủ 
trương BVTNN trong giai đoạn tiếp theo nhằm ngăn chặn và đẩy  
lùi tình trạng ô nhiễm và suy kiệt TNN  ở  Việt Nam; là cơ  sở  để 
Chính phủ  ban hành Chiến lược về  TNN, gắn phát triển KT ­ XH  
với BVTNN.
Mặc dù không có nghị  quyết riêng về  BVTNN nhưng thông 
qua những chi thị, nghị quyết của Đảng giai đoạn 2006 ­ 2010, có  
thể  khái quát những mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ  và giải pháp 
đẩy mạnh BVTNN qua các nội dung chính sau:
Thứ  nhất, mục tiêu BVTNN được gắn với mục tiêu Thiên 
niên kỷ, mục tiêu phát triển KT ­ XH của đất nước theo hướng bền 
vững. Các mục tiêu đó đã được cụ thể hóa thành các chỉ tiêu cụ thể 
được đưa vào Nghị quyết của Đại hội và được định hướng cụ thể 

trong Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ phát triển KT ­ XH 5 năm 
2006 ­ 2010.
Thứ  hai, quan điểm chỉ  đạo đấy mạnh BVTNN được thể 
hiện trong sự  chỉ  đạo chung cho lĩnh vực TN, MT là phải tạo sự 


18
chuyển biến mạnh mẽ  trong lĩnh vực bảo vệ  TN, MT. Theo đó,  
BVTNN cũng phải tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ.
Thứ  ba, Nhiệm vụ  và giải pháp về  BVTNN được thể  hiện  
rõ ràng hơn, được chú trọng và đẩy mạnh hơn, cụ thể:
1) Tăng cường quản lý nhà nước đi đôi với nâng cao ý thức, 
trách nhiệm của toàn xã hội về BVTNN;
2) Áp dụng các biện pháp mạnh nhằm giải quyết dứt điểm ô  
nhiễm nguồn nước;
3) Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ  thiên tai do 
nước gây ra;
4) Tăng đầu tư cho lĩnh vực TNN như đầu tư cơ sở vật chất 
kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại, đầu tư 
nâng cấp cơ sở hạ tầng thủy lợi, đầu tư xây dựng cơ sở hệ thống  
cấp nước sạch, cơ sở hạ tầng cấp, thoát nước;
5) Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế  về 
TNN nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác và sử dụng TNN.
3.3. Đảng chỉ đạo đẩy mạnh bảo vệ tài nguyên nước
3.3.1. Chỉ  đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục  
nâng   cao   nhận   thức   bảo   vệ   môi   trường,   bảo   vệ   tài   nguyên  
nước cho toàn xã hội
Hiện thực hóa chủ  trương của Đảng về  đẩy mạnh công tác 
tuyên truyền, giáo dục BVTNN, trong những năm 2006 ­ 2010, Nhà 
nước và các cơ quan chức năng, các tổ chức chính trị ­ xã hội đã có 

sự  phối hợp tổ  chức thực hiện các hoạt động đẩy mạnh công tác 
tuyền truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cá  
nhân, tổ  chức, doanh nghiệp về  BVTNN  đạt được kết quả  nhất 
định,   góp  phần   thúc  đẩy   tiến  trình   xã   hội   hóa   bảo   vệ   BVTNN.  
Nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Các hoạt động  
truyền thông, các phong trào còn mang tính hình thức, “thời vụ”, 
chưa được thực hiện thường xuyên, chưa phổ  biến sâu rộng đến 
người dân và các doanh nghiệp, vì vậy, ý thức chấp hành pháp luật  
trong lĩnh vực TNN còn thấp, nhận thức của xã hội về  tầm quan  
trọng của việc bảo vệ, giữ gìn các nguồn nước, sử dụng nước tiết  
kiệm còn hạn chế.
3.3.2. Chỉ  đạo tăng cường công tác quản lý nhà nước về  
bảo vệ tài nguyên nước


19
Thực  hiện  chủ   trương   của  Đảng,   giai   đoạn  2006  ­   2010, 
Chính phủ  và các cơ  quan chức năng đã tăng cường bổ  sung, hoàn 
thiện và thể chế hóa các văn bản quy phạm pháp luật về BVTNN; 
tăng cường hoàn thiện hệ  thống cơ  quan quản lý nhà nước  về 
TNN; tăng cường công tác thanh kiểm tra, kiểm soát và điều tra, 
quy hoạch TNN.
Tuy   nhiên,   công   tác   quản   lý   nhà   nước   về   TNN   vẫn   còn  
những hạn chế, bất cập. Chưa thống nhất trong phân công trách  
nhiệm quản lý nhà nước về  TNN; các tổ chức, cơ quan chức năng 
về TNN chưa phát huy được vai trò quản lý, tổ chức các hoạt động 
về  quản lý, bảo vệ, khai thác, sử  dụng hiệu quả  TNN. Hệ  thống  
văn bản quy phạm pháp luật về TNN còn thiếu, chưa đồng bộ, tính 
khả thi của một số văn bản còn thấp, triển khai văn bản pháp luật  
còn chậm. Công tác thanh tra, kiểm tra và xử  lý vi phạm về  TNN 

chưa thường xuyên, chưa đáp  ứng yêu cầu.   Công tác quy hoạch, 
điều tra TNN còn hạn chế  gây khó khăn trong quản lý và BVTNN  
quốc gia. Công tác dự  báo, khảo sát và quản lý TNN chưa tương 
xứng với yêu cầu, đặc biệt là khi cơ chế thị trường và lợi nhuận tấn  
công vào nguồn nước.
3.3.3.  Chỉ  đạo đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ  tài  
nguyên nước và tăng cường đầu tư  cho lĩnh vực tài nguyên, môi  
trường
Các hoạt động tham gia giám sát của cộng đồng về  BVMT  
bước đầu đã được phát huy. Nhiều gương người tốt việc tốt trong  
lĩnh vực hoạt động BVMT, BVTNN đã xuất hiện. Để  động viên,  
khuyến khích các tổ chức, cá nhân có nhiều thành tích trong hoạt động  
BVMT, trong những năm 2006 ­2010, Bộ  Tài nguyên và Môi trường  
đã trao tặng “Giải thưởng Môi trường” cho các tập thể và cá nhân tiêu 
biểu, xuất sắc. Nhiều mô hình tốt, nhiều gương người tốt việc tốt 
trong lĩnh vực hoạt động BVMT đã xuất hiện, thật sự đúng nghĩa với 
cách   tiếp   cận   xã   hội   hóa   công   tác   BVMT,   trong   đó   bao   hàm   cả 
BVTNN. 
Trước năm 2006, ngành TN, MT chưa được xác lập trong hệ 
thống phân ngành kinh tế  quốc dân, chưa có ngân sách riêng, vì vậy,  
việc theo dõi, tổng hợp thu chi ngân sách nhà nước cho toàn ngành chưa 
thực hiện được. Quán triệt quan điểm “Đầu tư bảo vệ môi trường là 


20
đầu tư phát triển”, trong những năm 2006 ­ 2010, đầu tư  cho BVMT  
bước đầu đã có những chuyển biến tích cực. Từ năm 2006, ngân sách 
cho lĩnh vực TN, MT đã được bố  trí thành một nguồn riêng (chi sự 
nghiệp môi trường) với qui mô không thấp hơn 1% tổng chi ngân sách 
nhà nước.

3.3.4. Chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học  
và tăng cường mở  rộng hợp tác quốc tế  về  bảo vệ  tài nguyên  
nước
Thực hiện sự  chỉ  đạo của Đảng và Nhà nước, các hoạt động 
nghiên cứu khoa học công nghệ trong lĩnh vực TNN trong những năm 
2006 ­ 2010 đã được triển khai mạnh mẽ, tập trung vào các nội dung: 
Xây dựng cơ chế, chính sách và công cụ kinh tế, hệ thống quản lý trong  
BVMT, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học; cung 
cấp luận cứ khoa học xây dựng, quy hoạch quản lý, BVTNN; nghiên 
cứu về các mô hình, công nghệ giảm thiểu, tái sử dụng nước thải và 
xử lý ô nhiễm môi trường nước.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế  với các nước trong  Ủy hội sông 
Mê Kông quốc tế  thuộc khuôn khổ  Hiệp định Hợp tác sông Mê  
Kông (1995);  tham gia nhóm các nước tiểu vùng sông Mê Kông, 
tích cực xây dựng các chương trình, kế  hoạch nhằm quản lý và 
bảo vệ nguồn nước lưu vực sông Mê Kông. Việt Nam đã chủ động 
đề xuất việc hợp tác đối với lưu vực sông Hồng và các con sông khác 
có chung nguồn nước với các nước láng giềng, và từng bước xây 
dựng các hiệp định, quy chế quản lý, khai thác và BVTNN đối với các  
sông liên quốc gia. 
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cùng với Chính phủ tăng  
cường hợp tác với các tổ  chức quốc tế, các tổ  chức chính phủ, phi  
chính phủ nhằm tranh thủ tối đa sự  hỗ  trợ  cho lĩnh vực TNN và cử 
nhiều đoàn đại biểu tham gia tích cực vào các diễn đàn khu vực, thế 
giới về TNN. 
Kết luận chương 3
Trong  những năm 2006 ­ 2010,  những yếu tố  tác động đến 
lĩnh   vực   TNN   có   diễn   biến   phức   tạp   đòi   hỏi   phải   đẩy   mạnh 
BVTNN. Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhận thức đúng đắn về 



21
tầm quan trọng của việc BVTNN đối với sự  PTBV đất nước. Từ 
đó, Đảng đã đề  ra những chủ  trương và sự  chỉ   đạo đẩy mạnh  
BVTNN. 
Thực hiện chủ  trương của  Đảng, Nhà nước đã nâng tầm  
BVTNN thành chiến lược quốc gia. Chiến lược quốc gia về TNN  
lần đầu tiên được phê duyệt năm 2006 với đầy đủ quan điểm, mục  
tiêu, nhiệm vụ  và giải pháp BVTNN. Thực hiện chủ  trương chỉ 
đạo của Đảng và Nhà nước, các hoạt động BVTNN đã được đẩy  
mạnh. Những thành tựu và hạn chế trong quá trình thực hiện sự lãnh 
đạo của Đảng về BVTNN giai đoạn 2006 ­ 2010 là cơ sở quan trọng  
cho giai đoạn tiếp theo. Trong bối cảnh mới đòi hỏi cần có sự  tổng 
kết, rút kinh nghiệm để Đảng tiếp tục chỉ đạo kịp thời, quyết liệt đối 
với công tác quản lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng hiệu quả TNN cho  
sự PTBV. 
Chương 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1.   Nhận   xét   về   Đảng   lãnh   đạo   bảo   vệ   tài   nguyên 
nước (2001 ­ 2010)
4.1.1. Ưu điểm
Một là, nhận thức của Đảng về  bảo vệ tài nguyên nước đã  
có chuyển biến tích cực.
Hai là, chủ  trương của Đảng về  bảo vệ  tài nguyên nước  
ngày càng rõ hơn.
Ba là, sự  chỉ  đạo bảo vệ  tài nguyên nước được thực hiện  
chặt chẽ  thông qua hệ  thống tổ  chức của  Đảng, bộ  máy chính  
quyền nhà nước và các tổ chức chính trị ­ xã hội các cấp. 
Bốn là, việc bảo vệ tài nguyên nước đã đạt được những thành  
tựu nhất định, góp phần bảo vệ môi trường, đưa đất nước phát triển  

theo hướng bền vững. 
Nguyên nhân  của những  ưu điểm trên là do Đảng và Nhà 
nước đã có sự đánh giá, xác định đúng vai trò, vị trí, tầm quan trọng  
của việc BVTNN trong quá trình phát triển KT ­ XH theo hướng  
bền vững. Trên cơ  sở  đó, Đảng và Nhà nước đã đề  ra những chủ 
trương,   quyết   sách   đúng   đắn   về   bảo   vệ   TN,   MT   trong   đó   có  
BVTNN,  tập trung vào những vấn  đề  cơ  bản nhằm giải quyết  
những bức xúc trong lĩnh vực TN, MT. Đồng thời, sự chỉ đạo thực  


22
tiễn của Đảng đã phát huy được vai trò của Nhà nước và các tổ 
chức chính trị ­ xã hội để giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề bức 
xúc trong lĩnh vực TNN. Bên cạnh đó, Chính phủ đã nỗ lực chỉ đạo  
và tích cực, chủ động mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực TN,  
MT, cam kết thực hiện các công ước quốc tế về BVMT cũng như 
BVTNN. Vì vậy, công tác BVMT nói chung, BVTNN nói riêng đã 
tranh thủ được nhiều hơn sự hỗ trợ, tài trợ của nước ngoài, các tổ 
chức quốc tế về kinh phí, về kinh nghiệm quản lý, về chuyển giao  
khoa học ­ kỹ thuật.
4.1.2. Hạn chế 
Một là, Đảng  chưa có nghị  quyết chuyên đề  về  bảo vệ  tài  
nguyên nước làm cơ sở xây dựng chiến lược phát triển kinh tế  ­ xã  
hội gắn với bảo vệ tài nguyên nước cho sự phát triển bền vững đất  
nước.
Hai là, sự  chỉ  đạo thực hiện bảo vệ  tài nguyên nước hiệu  
lực, hiệu quả còn thấp.
Ba là, kết quả bảo vệ tài nguyên nước còn hạn chế
Nguyên nhân của hạn chế:
Về khách quan: Thứ nhất, TN, MT nói chung, TNN nói riêng 

là lĩnh vực phức tạp, giàu tính tự phát, khó kiểm soát. Do đó, những 
hoạt động dự báo, dự đoán, đánh giá TNN gặp nhiều khó khăn, chỉ 
mang tính tương đối. Thứ  hai, quá trình toàn cầu hóa cùng với quá 
trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và tốc độ tăng trưởng kinh tế 
nhanh đã tác động xấu đến môi trường trên diện rộng, nhất là lĩnh 
vực TNN. Mặt khác, do cơ  chế  thị  trường có những tác động tiêu 
cực đến VBTNN.  Thứ  ba, BĐKH là một thách thức rất lớn mang 
tính toàn cầu mà Việt Nam là một trong những quốc gia bị tác động  
mạnh nhất và TNN là lĩnh vực bị   ảnh hưởng nghiêm trọng nhất. 
Thứ   tư,   nguồn   nước   mặt   của  Việt   Nam   có   hơn   60%   tổng   lưu 
lượng xuất phát từ nước ngoài. 
Về  chủ  quan:  Thứ  nhất, nhận thức của Đảng về  BVTNN 
chưa được đặt đúng tầm nên sự quan tâm chỉ đạo BVTNN còn thiếu  
toàn diện, thiếu thường xuyên và thiếu quyết tâm.  Thứ  hai, do vẫn 
trong giai đoạn kiện toàn tổ chức, nhiều đơn vị ở cả cấp trung ương  
và địa phương tổ chức bộ  máy, nhân lực làm công tác quản lý TNN  
còn yếu cả về chất và lượng. Thứ ba, một số văn bản quy phạm pháp 


23
luật về TNN do yêu cầu về tiến độ soạn thảo đã bỏ qua bước khảo 
sát thực tế, làm cho văn bản giảm tính thực tiễn cũng như không gắn  
sát với tình hình thức tế, gây khó khăn khi triển khai thực hiện; một số 
các tiêu chuẩn, quy chuẩn đã ban hành chưa bảo đảm tính khoa học 
cao, không phù hợp với điều kiện hiện tại, dẫn đến những khó khăn 
trong hoạt động quản lý nhà nước về TNN. Thứ tư, bộ máy và cán bộ 
còn yếu kém, thậm chí khó đứng vững, dễ  thỏa hiệp trước những  
nhóm lợi ích khi tham gia vào những quyết định phát triển KT ­ XH có 
liên quan đến ngành, lĩnh vực phụ trách. Công tác thanh tra, kiểm tra  
chưa được quan tâm đúng mức, chưa kịp thời phát hiện các vụ việc và 

chưa thực hiện xử lý triệt để các vi phạm. Mặt khác, công tác thanh 
tra, kiểm tra chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục trên phạm vi  
cả nước mà chỉ tập trung chủ yếu ở thành thị và các khu công nghiệp;  
chưa có sự phối hợp chặt chẽ với cấp ủy địa phương trong hoạt động  
thanh tra, kiểm tra. Thứ năm, tiếng nói chưa đủ mạnh của nhân dân, 
của báo chí ­ truyền thông và dư  luận xã hội... cũng là một nguyên 
nhân quan trọng để vấn đề TN, MT nói chung cũng như các vấn đề 
về TNN chưa được nhận thức, ngăn ngừa và xử lý kịp thời, triệt để. 
  4.2. Một số  kinh nghiệm từ  quá trình Đảng lãnh đạo 
bảo vệ tài nguyên nước (2001 ­ 2010)
4.2.1. Nhận thức đúng vị  trí, vai trò của tài nguyên nước  
đối với sự phát triển kinh tế ­ xã hội 
Trong phát triển KT ­ XH phải gắn với mục tiêu, nhiệm vụ 
BVTNN, lấy mục tiêu cao nhất là vì con người, vì sự  PTBV. Chủ 
trương của Đảng xác định sự thống nhất giữa phát triển KT ­ XH với  
BVMT, trong đó có BVTNN thể  hiện rõ trong nhiệm vụ  cụ  thể  về 
BVTNN, mỗi ngành kinh tế trong quá trình sản xuất, phát triển phải 
gắn với nhiệm vụ cụ thể về BVTNN, để  thực hiện tiến bộ xã hội  
cũng phải gắn với nhiệm vụ  cụ  thể  về  BVTNN. Trong sản nông  
nghiệp, nuôi trồng thủy sản phải hạn chế sử dụng hóa chất, đồng thời  
thu gom, xử lý hợp vệ  sinh đối với những bao bì sử  dụng hóa chất  
nhằm bảo đảm vệ  sinh, an toàn các nguồn nước; trong công nghiệp 
phải xử  lý triệt để  nước thải, chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường  
trước khi xả thải nhằm bảo đảm sự trong sạch cho các dòng sông, ao,  
hồ… và các nguồn nước ngầm; trong giải quyết các vấn đề  xã hội, 
thực hiện tiến bộ xã hội phải gắn với thực hiện tốt nhiệm vụ BVTNN  


24
bởi đó là nguồn gốc của sự sống…  Như vậy, quá trình phát triển KT ­ 

XH   phải   luôn   thống   nhất   với   việc   BVTNN,   giải   quyết   vấn   đề 
BVTNN đúng đắn, hợp lý sẽ thúc đẩy sự phát triển KT ­ XH, trong quá  
trình phát triển KT ­ XH thực hiện tốt các nhiệm vụ BVTNN sẽ góp 
phần cải thiện và nâng cao chất lượng các nguồn nước, nâng cao chất  
lượng cuộc sống. Quán triệt quan điểm thống nhất giữa phát triển KT ­ 
XH với bảo vệ TN, MT, BVTNN là nhằm bảo đảm sự phát triển của  
ngày hôm nay, không phương hại đến sự  phát triển của các thế  hệ 
tương lai.
4.2.2. Nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng  
về bảo vệ tài nguyên nước
Năng lực và hiệu quả  lãnh đạo của Đảng về  BVTNN được 
phản ánh trên các phương diện sau: Một là, giải quyết vấn đề  về 
TNN được thể  hiện thông qua việc nắm bắt chính xác, kịp thời  
tình hình trên thế giới và những vấn đề đặt ra đối với TNN ở Việt  
Nam, để  đề  ra chủ trương đúng đắn về  BVTNN và hiện thực hóa 
chủ  trương đó; Hai là, phát huy hiệu quả  vai trò quản lý của Nhà 
nước về  BVTNN thể  hiện qua việc kịp thời hiện thực hóa chủ 
trương của Đảng thành chiến lược, chính sách, pháp luật về  TNN  
để quản lý xã hội và xây dựng được đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất 
và năng lực để  hoàn thiện hệ  thống tổ chức quản lý nhà nước về 
TNN thống nhất từ  Trung  ương đến cơ sở; Ba là, phát huy quyền 
làm chủ của nhân dân thể hiện qua việc nắm bắt kịp thời nhu cầu,  
lợi ích chính đáng của nhân dân, phát hiện những sáng tạo, kinh 
nghiệm, giải pháp hay từ nhân dân để  khái quát nâng lên tầm quan 
điểm,  chủ  trương,   đồng thời,   phát   huy sáng kiến của  nhân dân 
nhằm tổ chức hoạt động hấp dẫn, lôi cuốn nhân dân tích cực tham  
gia BVTNN có hiệu quả.
Để giải quyết hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra đối với  
lĩnh vực TNN, việc thường xuyên nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh  
đạo của Đảng về giải quyết các vấn đề TN, MT nói chung, BVTNN 

nói riêng cần chú trọng một số nội dung cơ bản sau: 1) Nâng cao năng 
lực nhận thức, phát hiện kịp thời các vấn đề đặt ra đối với TNN; 2) 
Xây dựng hệ  thống quan điểm, chủ  trương về  TNN, sớm ban hành 
nghị quyết chuyên đề về BVTNN; 3) Nâng cao hiệu quả phát huy vai  


25
trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là vai trò quản 
lý của Nhà nước về BVTNN.
4.2.3. Phát huy vai trò của Nhà nước trong tổ  chức thực  
hiện kết hợp phát triển kinh tế ­ xã hội với bảo vệ  tài nguyên  
nước
Thực tiễn quá trình chỉ đạo thực hiện cho thấy, Đảng đã phát 
huy vai trò của Nhà nước, thông qua Nhà nước từng bước kiện  
toàn bộ  máy quản lý nhà nước và đội ngũ cán bộ  làm nhiệm vụ 
quản   lý   TN,   MT   nói   chung,   TNN   nói   riêng.   Với   chức   năng   và 
nhiệm vụ  của mình, Nhà nước thực hiện quy hoạch gắn với đào 
tạo, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ cao để thường 
xuyên có được lực lượng cán bộ  có chuyên môn vững vàng nhằm 
bảo đảm tính kế  cận liên tục về  con người, phù hợp với yêu cầu 
thực tiễn, với đặc thù quản lý nhà nước về phát triển KT ­ XH kết 
hợp   với   BVTNN.   Bên   cạnh   đó,   các   chủ   trương   của   Đảng   về 
BVTNN đã được Nhà nước cụ thể hóa thành các chính sách, chiến  
lược, kế  hoạch phát triển KT ­ XH gắn với BVTNN và xây dựng 
hệ  thống văn bản pháp luật nhằm giải quyết đúng đắn mối quan 
hệ giữa phát triển KT ­ XH với BVTNN hướng đến sự PTBV.
4.2.4. Tạo sự đồng thuận xã hội, nâng cao trách nhiệm của  
cá nhân, các tổ chức, doanh nghiệp thực hiện bảo vệ tài nguyên  
nước
Với tư cách là những hệ giá trị cơ bản của xã hội, đồng thuận 

xã hội sẽ tạo ra nền tảng trong việc BVTNN, tạo nên sức mạnh của  
sự liên kết và hợp tác giữa các cá nhân, các tổ chức và cả cộng đồng, 
từ  đó có những đóng góp thiết thực vào bảo vệ  TN, MT. Bảo vệ 
TNN sẽ đem lại lợi ích cho toàn thể xã hội và chỉ khi nào có sự tham 
gia, đồng sức, đồng lòng của toàn xã hội vào BVTNN thì những vấn  
đề  về TNN mới được giải quyết triệt để  và được bảo vệ  an toàn.  
Ngược lại, nếu không tạo được sự  đồng thuận xã hội trong việc  
thực hiện BVTNN sẽ dẫn đến tình trạng mất ổn định, rối loạn, đình 
đốn trong các hoạt động sản xuất ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng 
kinh tế, đến ổn định xã hội và bảo vệ TN, MT, BVTNN.


×