Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Lịch sử: Hoạt động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa từ 1955 đến 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.25 KB, 24 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

KIỀU LÊ CÔNG SƠN

HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG CỦA 
VIỆT NAM CỘNG HÒA TỪ 1955 ĐẾN 1975

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62.22.03.13

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

NGHỆ AN ­ 2018



Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Vinh

Người hướng dẫn khoa học: 

1. PGS.TS Trần Vũ Tài
2. PGS.TS Ngô Minh Oanh 

Phản biện 1:
 
Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại Trường Đại 


học Vinh
Vào hồi ….... giờ …... ngày …… tháng ……. năm……

Có thể tìm hiểu luận án tại:
­ Thư viện Quốc gia Việt Nam
­ Thư viện Trường Đại học Vinh 


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Một trong những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế đó là ngoại thương. Hoạt động  
ngoại thương phục vụ và chi phối nền kinh tế, song nó lại chịu nhiều tác động và chi phối bởi  
các yếu tố chủ quan và khách quan. 
Trong giai đoạn 1955 – 1975, nhìn chung, nền kinh tế  Việt Nam Cộng hòa là một nền  
kinh tế  tư bản chủ nghĩa, năng động, có sự phát triển nhất định nhưng ở mức độ  quy mô nhỏ 
và nhiều hạn chế, vì tình hình bất ổn, chiến tranh và đặc biệt lệ thuộc vào viện trợ của Mỹ. Vì  
thế, nghiên cứu hoạt động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa là để  hiểu thêm về  chế  độ 
Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam và trước hết là về mặt kinh tế.
1.2. Hiện nay,  đã  có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề  hoạt động 
ngoại thương Việt Nam Cộng hòa  của các tác giả  trong nước và  ngoài nước. Các công trình 
nghiên cứu này là một nguồn tư liệu hết sức phong phú, đồng thời, đưa ra những nhận định khoa 
học và những gợi mở quan trọng cho những nhà nghiên cứu về sau để kế thừa và phát huy. Tuy 
nhiên, vẫn còn thiếu một nghiên cứu có tính chất chuyên sâu và có hệ thống về quá trình hoạt 
động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa ở  miền Nam Việt Nam  đặt trong mối tương quan 
với chính sách viện trợ  của Mỹ  đối với chế  độ  Việt Nam Cộng hòa  và bị  chi phối bởi chiến 
tranh.
1.3. Việt Nam đang trên con đường phát triển và hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế 
giới. Những bài học thành công, thất bại và bài học kinh nghiệm rút ra từ thực trạng hoạt động  
ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa, có thể đem lại nhiều hữu ích, giúp các cơ quan hữu quan 
hoạch định những chính sách ngoại thương của Việt Nam hiện nay, thực hiện hiệu quả đường  

lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá, hợp tác kinh tế, phát triển  
ngoại thương của Việt Nam với các nước trên thế  giới, thực hiện mục tiêu của thời đại hòa  
bình, ổn định, hợp tác và phát triển.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề  tài:  “Hoạt động ngoại thương của Việt Nam  
Cộng hòa từ 1955 đến 1975” làm đề tài Luận án tiến sĩ chuyên ngành lịch sử Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng 
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là hoạt động ngoại thương Việt Nam Cộng hòa và 
tác động ảnh hưởng của hoạt động ngoại thương đến kinh tế, xã hội Việt Nam Cộng hòa.
2.2. Phạm vi
Về  không gian: Luận án tập trung nghiên cứu về  hoạt động ngoại thương  ở  miền Nam 
Việt Nam dưới sự quản lý chính quyền Việt Nam Cộng hòa, không bao gồm vùng giải phóng do 
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam làm chủ.
Về thời gian: Từ năm 1955 đến năm 1975, sở dĩ chúng tôi lấy mốc thời gian năm 1955 (cụ 
thể  là  ngày 26/10/1955) làm mốc mở  đầu nghiên cứu hoạt động ngoại thương của Việt Nam  
Cộng hòa, vì đây, là thời  điểm Ngô Đình Diệm thiết lập chế  độ  Việt Nam Cộng hòa  ở  miền 
Nam Việt Nam. Năm 1975 (cụ thể là ngày 30/4/1975) được chọn làm mốc kết thúc, vì đây là thời  
gian mà chính quyền Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Quân giải phóng miền  
Nam Việt Nam, chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam đã hoàn toàn sụp đổ.
Về nội dung : Luận án chủ yếu tập trung làm rõ những vấn đề cơ bản như sau:
­ Những yếu tố tác động đến hoạt động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa từ  năm  
1955 đến năm 1975.
­ Hoạt động xuất khẩu (hàng xuất khẩu và thị trường xuất khẩu), hoạt động nhập khẩu  
(hàng nhập khẩu và thị trường nhập khẩu).
­Tác động của hoạt động ngoại thương đối với kinh tế  và xã hội của Việt Nam Cộng  
hòa ở miền Nam Việt Nam.

4



Những vấn đề  nằm ngoài giới hạn về  không gian, thời gian và nội dung nêu trên sẽ 
không thuộc phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở khảo cứu nguồn tài liệu tin cậy, Luận án tập trung nghiên cứu quan hệ buôn 
bán hàng hóa giữa Việt Nam Cộng hòa với nhiều vùng miền và các nước trên thế giới qua hoạt 
động xuất khẩu, nhập khẩu. Từ  đó, Luận án góp phần làm rõ thêm bản chất của chế  độ  Việt 
Nam Cộng hòa, đánh giá thực chất, rút ra những tác động của hoạt động ngoại thương đối với 
kinh tế, xã hội của Việt Nam Cộng hòa lúc bấy giờ.
3.2. Nhiệm vụ
Thứ  nhất: Làm rõ bối cảnh lịch sử  và những yếu tố  tác động đến quá trình hoạt động 
ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa.
Thứ  hai: Phục dựng lại bức tranh toàn cảnh về  hoạt động ngoại thương của Việt Nam  
Cộng hòa giai đoạn này.
Thứ ba: Làm rõ quá trình hoạt động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa.
Thứ tư: Làm rõ sự lệ thuộc của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đối với Mỹ, ảnh hưởng  
đến sự tồn tại của chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam.
Thứ năm: Làm rõ những tác động của hoạt động ngoại thương đối với kinh tế và xã hội 
của Việt Nam Cộng hòa.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Để hoàn thành Luận án, chúng tôi dựa trên các nguồn tài liệu chủ yếu sau:
­ Tài liệu lưu trữ: Chúng tôi đã tiếp cận và khai thác nguồn tài liệu lưu trữ  bằng tiếng  
tiếng Việt và tiếng Anh hiện có ở Việt Nam, tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia II (TP.HCM) và ở 
Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Phần lớn những tài liệu đó là những tài 
liệu gốc có liên quan trực tiếp đến đề tài.
­ Tài liệu tham khảo: Trong quá trình triển khai Luận án, chúng tôi đã tiếp cận các công 
trình chuyên khảo của các học giả trong và ngoài nước, có nội dung đề  cập trực tiếp đến hoạt 
động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tiếp cận khai thác một 
số công trình nghiên cứu, các bài viết được công bố trên các tạp chí kinh tế thời Việt Nam Cộng  

hòa như: Tạp chí Chấn hưng kinh tế, Tuần san Phòng Thương mại Sài Gòn và các tạp chí nghiên  
cứu chuyên ngành (tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, tạp chí Đông Nam Á, Tạp chí Khoa học của một 
số  Trường Đại học…), các luận án, luận văn, báo chí chính thống, định kỳ  và một số  trang  
website uy tín trong và ngoài nước có nội dung liên quan đến hoạt động ngoại thương của Việt  
Nam Cộng hòa.
Trên cơ sở tham khảo các công trình đi trước, đặc biệt là tài liệu lưu trữ, tác giả đã vận  
dụng vào quá trình nghiên cứu của mình, định hướng nguồn tư liệu, hướng nghiên cứu để  tiếp 
tục làm sáng tỏ những vấn đề mà đề tài đặt ra.
4.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận: Để  giải quyết những vấn đề  do đề  tài đặt ra, chúng tôi 
dựa vào chủ  nghĩa duy vật biện chứng, chủ  nghĩa duy vật lịch sử  và học thuyết 
của chủ  nghĩa Mác ­ Lênin về  kinh tế  ­ chính trị.  Ở  đây, chúng tôi sử  dụng quan  
điểm sử  học Mác xít nhằm đánh giá một cách khách quan về  hoạt động ngoại  
thương của Việt Nam Cộng hòa từ  năm 1955 đến năm 1975. Quan điểm sử  học 
Mác xít cũng là kim chỉ  nam để  chúng tôi xử  lý nguồn tài liệu trên tinh thần khoa 
học và đảm bảo tính lịch sử.
Phương pháp chuyên ngành để  thực hiện Luận án là phương pháp lịch sử, 
nhằm tìm hiểu quá trình hoạt động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa, kết 
5


hợp với phương pháp logic, nhằm giúp ta thấy được mối quan hệ tác động nhau có 
tính   hệ   thống   của   hoạt   động   ngoại   thương   Việt   Nam   Cộng   hòa,   trong   từng  
chương mục nhất định hoặc có sự  kết hợp cả  hai phương pháp trong từng nội 
dung nghiên cứu.
Ngoài ra, Luận án còn sử  dụng các phương pháp liên ngành trong nghiên 
cứu: phương pháp nghiên cứu kinh tế, phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp, khái  
quát, nghiên cứu quan hệ quốc tế… 
5. Đóng góp của Luận án

Luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam phục dựng lại bức tranh toàn cảnh, chi tiết và 
hệ  thống về  quá trình hoạt động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa từ  năm 1955 đến năm 
1975.
Từ  việc nghiên cứu hoạt động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa từ  năm 1955 đến 
năm 1975, Luận án đã đánh giá, rút ra những tác động của ngoại thương đối với kinh tế, xã hội 
Việt Nam Cộng hòa.
Kết quả  nghiên cứu là cơ  sở  có thể  góp phần cho những hoạch định chính sách ngoại 
thương của Việt Nam hiện nay. 
Kết quả của Luận án là nguồn tư  liệu phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu lịch sử,  
đặc biệt là lịch sử kinh tế ngoại thương Việt Nam thời hiện đại.
6. Bố cục của Luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính của Luận án  
gồm 4 chương.
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Hoạt động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa từ năm 1955 đến năm 1964
Chương 3. Hoạt động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa từ năm 1965 đến năm 1975
Chương 4. Tác động của hoạt động ngoại thương đối với kinh tế và xã hội Việt Nam Cộng hòa 
từ năm 1955 đến năm 1975
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Điểm lại các công trình trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài nghiên cứu của Luận 
án mà chúng tôi được tiếp cận và xem xét, có thể nhận thấy rằng, các tác giả, dù ở nhiều góc độ 
và cách tiếp cận khác nhau nhưng đều hướng đến việc nhận diện, đánh giá toàn bộ  hay từng  
lĩnh vực về hoạt động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa từ năm 1955 đến năm 1975. Về cơ 
bản, các nhà khoa học đã triển khai và giải quyết các vấn đề sau: 
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã cung cấp một nguồn tư liệu 
khá phong phú, nhất là về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, là cơ sở quan trọng cho chúng tôi 
thực hiện Luận án.
Thứ  hai, đa số  công trình nghiên cứu vấn  đề  hoạt  động ngoại thương của Việt Nam 
Cộng hòa chủ  yếu là  trên khía cạnh nghiên cứu lịch sử  kinh tế  miền Nam Việt Nam và nhìn 

nhận, đánh giá từ phía góc nhìn ảnh hưởng từ sự viện trợ của Mỹ đối với miền Nam Việt Nam.
Thứ ba, nhiều công trình, bài viết chỉ đề cập đến một hoặc nhiều lĩnh vực, với khía cạnh 
hoạt động kinh tế  miền Nam Việt Nam, trong đó, có ngoại thương, mà chưa có cái nhìn toàn 
diện, hệ thống về hoạt động ngoại thương và thường chỉ đề cập trong một thời kỳ ngắn, không  
trùng với khung thời gian nghiên cứu của Luận án là từ năm 1955 đến năm 1975.
Mặc dù vậy, chúng tôi nhận thấy rằng, nhiều vấn đề về  hoạt động ngoại thương của 
Việt Nam Cộng hòa chưa được làm rõ. Cụ thể như:
Thứ  nhất, những yếu tố  tác động đến hoạt động ngoại thương như: bối cảnh lịch sử,  
điều kiện kinh tế, chính trị…

6


Thứ hai, tổ chức hoạt động, vai trò của bộ máy ngoại thương Việt Nam Cộng hòa trong  
việc quản lý kinh doanh ngoại thương. Đó là Bộ Kinh tế, Bộ Tài chính và Ngân hàng Quốc gia 
Việt Nam, các cơ  quan này có nhiệm vụ  điều tiết và kiểm soát ngoại thương Việt Nam Cộng  
hòa.
Thứ  ba, nội dung cụ  thể  của các biện pháp mà chính quyền Việt Nam Cộng hòa thực  
hiện trong ngoại thương và vai trò của nó góp phần làm chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam 
Cộng hòa nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng. 
Thứ  tư, quá trình hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu mà chủ  yếu trên phương diện hàng  
xuất khẩu, hàng nhập khẩu, thị trường xuất khẩu, thị trường nhập khẩu. 
Thứ năm, do góc nhìn khác nhau nên vẫn tồn tại những quan điểm đánh giá không giống 
nhau, thậm chí trái ngược nhau giữa các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, đòi hỏi phải có một  
cách nhìn nhận vấn đề khoa học và có sức thuyết phục hơn. Với hệ thống tư liệu liên quan đến  
hướng nghiên cứu của Luận án là tương đối phong phú, để từ  đó tác giả có cái nhìn tổng quan,  
trên cơ  sở  đó tiến hành so sánh, đối chiếu, tìm ra những đặc điểm riêng của hoạt động ngoại  
thương Việt Nam Cộng hòa giai đoạn 1955­1975 và tác động của nó đối với kinh tế, xã hội của  
Việt Nam Cộng hòa. 
Từ thực tế trên, chúng tôi khẳng định rằng, việc chọn đề tài “Hoạt động ngoại thương 

Việt Nam Cộng hòa từ  1955 đến 1975” để triển khai Luận án là một việc làm thiết thực, có ý 
nghĩa khoa học và thực tiễn, không trùng lặp với bất cứ công trình nào đã công bố. 
CHƯƠNG 2
HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA 
TỪ NĂM 1955 ĐẾN NĂM 1964
2.1. Bối cảnh lịch sử  và những yếu tố  tác động đến hoạt động ngoại thương của Việt  
Nam Cộng hòa
2.1.1. Tình hình chính trị, kinh tế
Sau hiệp định Giơ­ne­vơ, chính phủ  Việt Nam Dân chủ  Cộng hòa luôn luôn đòi hiệp 
thương đi tới Tổng tuyển cử  để  thống nhất đất nước. Tuy nhiên, Mỹ  và chính phủ  Bảo Đại – 
Ngô Đình Diệm từ chối Tổng tuyển cử, Mỹ muốn có một chính phủ chống Cộng sản tồn tại ở 
miền Nam Việt Nam, bất kể chính phủ đó có tôn trọng nền dân chủ  hay không, do vậy, Mỹ đã  
hậu thuẫn cho Ngô Đình Diệm thành lập một chính thể riêng biệt  ở phía Nam vỹ  tuyến 17, để 
không thực hiện tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam. 
Ngày 29/4/1955, Ngô Đình Diệm cho họp nội các và truất phế  Quốc trưởng Bảo Đại, 
đưa Ngô Đình Diệm trở thành Quốc trưởng. Ngày 23/10/1955, Ngô Đình Diệm tự tổ chức trưng 
cầu dân ý, mà thực chất là tự  cử  mình làm Tổng thống. Ngày 26/10/1955, chế  độ  Việt Nam 
Cộng hòa ra đời ở miền Nam Việt Nam với Hiến ước tạm thời và được chính thức hóa một năm  
sau đó là Hiến pháp ngày 26/10/1956. Việt Nam Cộng hòa với thủ đô là thành phố Sài Gòn. 

Nằm ở trung tâm của Đông Nam Á, miền Nam Việt Nam (từ Vĩ tuyến 17 trở 
vào) thuộc Đông Nam bán đảo Đông Dương, có thời tiết quanh năm thuận lợi cho  
hoạt động kinh tế, với hệ thống sông ngòi dày đặc, đường bờ biển dài, lại là vùng 
chuyển tiếp quan trọng trên biển giữa Đông Nam Á và Đông Á, thuận lợi cho phát 
triển thương nghiệp. Đây là vùng có tiềm năng về kinh tế, đủ khả năng phát triển 
thành một lãnh thổ  giàu có, với tiềm năng rất mạnh về  nông, lâm, ngư  nghiệp,  
khoáng sản, du lịch và công nghiệp. Các ngành kinh tế  của miền Nam trong giai  
đoạn này phát triển khá rõ rệt, tạo điều kiện cho việc sản xuất hàng hóa để  xuất  
khẩu được gia tăng.
2.1.2. Chính sách viện trợ của Mỹ

Thông qua con đường viện trợ, chủ yếu là viện trợ thương mại hóa, tư  bản Mỹ đã từng 
bước hất cẳng thực dân Pháp, nắm độc quyền chi phối các ngành kinh tế quan trọng và cơ  cấu 
7


tổ  chức kinh tế  của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, chi phối toàn bộ  hệ  thống xuất nhập  
khẩu. 
Vì về mặt kinh tế, trong giai đoạn đầu, chính quyền Việt Nam Cộng hòa chưa xây dựng  
được gì đáng kể, hàng viện trợ phần lớn là hàng tiêu dùng trực tiếp. Nhưng số hàng viện trợ này 
khi đem bán ra thị  trường để  lấy tiền cho ngân sách, cũng phục vụ  một phần cho người dân,  
nhất là dân đô thị. Việc đó cũng tạo ra cho xã hội một mặt phồn vinh. Nếu không có viện trợ 
của Mỹ thì cũng không có chính quyền miền Nam. 
Ngoại thương và nội thương đều do Mỹ  nắm độc quyền thông qua viện trợ, cung cấp 
ngoại tệ  cho Việt Nam Cộng hòa, dưới chính sách viện trợ, Mỹ siết chặt nông dân miền Nam 
vào sự kiểm soát chặt chẽ, điều này dẫn đến nguy cơ phá sản, thất nghiệp, nghèo đói diễn ra ở 
nông thôn nghiêm trọng, làm cho nông nghiệp miền Nam Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc 
hậu, suy sụp. Miền Nam trở thành một nguồn làm giàu cho Mỹ, nơi dự trữ nhân lực và vật lực  
để phục vụ chính sách xâm lược của Mỹ. Mặc dù, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng đã có 
những chính sách để đẩy mạnh xuất khẩu như mở mang các hải cảng, thương cảng, trợ cấp và  
kiểm soát nhập khẩu, bảo vệ  mậu dịch, đồng thời thoát khỏi sự  lệ  thuộc vào hàng hóa nhập 
khẩu từ Mỹ.
2.1.3. Bộ máy quản lý hoạt động ngoại thương
Cũng như nhiều nước tư bản khác trên thế giới, ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa, 
được thực hiện trên cơ sở chế độ sở hữu tư bản tư nhân về  tư  liệu sản xuất và phát triển theo 
quy luật cạnh tranh, nhà nước chỉ giữ vai trò hướng dẫn, điều tiết các hoạt động ngoại thương,  
theo các đường lối chính sách chính trị  và kinh tế  chung, không đi sâu vào việc quản lý kinh 
doanh ngoại thương. Để điều tiết và kiểm soát hoạt động ngoại thương, chính quyền Việt Nam  
Cộng hòa đã thành lập các cơ quan cấp chính phủ là Bộ Kinh tế, Bộ Tài chính và và Ngân hàng  
Quốc gia Việt Nam.
Bên cạnh đó, còn có các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu, các cơ quan giám định hàng 

hóa xuất nhập khẩu, trung tâm khuếch trương xuất khẩu, các nhà khai thác hàng hải và bốc dỡ 
hàng hóa, những tổ chức này có vai trò thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, kiểm định quy cách phẩm 
chất hàng hóa sản xuất trong nội địa và hàng xuất khẩu, bốc dỡ hàng hóa, chở hàng ở các tàu và 
đưa vào kho thương cảng.
2.1.4. Chính sách ngoại thương của chính quyền Việt Nam Cộng hòa
Giai đoạn 1955 – 1964, được đánh giá là thời phát triển “vàng son” của nền kinh tế Việt  
Nam Cộng hòa. Trong những năm đầu cầm quyền của mình từ  năm 1955 đến năm 1957, Ngô 
Đình Diệm chưa có những chủ  trương và biện pháp kinh tế, bởi mục tiêu chính là củng cố 
quyền lực, ổn định tổ chức, xã hội. Từ năm 1957 trở đi, Ngô Đình Diệm mới bắt đầu đặt ra vấn 
đề phát triển kinh tế như một nhu cầu thiết yếu và trên hết. Cùng với việc đầu tư xây dựng cơ 
sở hạ tầng, phát triển kinh tế (nổi bật là “kế hoạch Ngũ niên I), chính quyền Ngô Đình Diệm đã  
đưa ra nhiều biện pháp cụ thể trong hoạt động ngoại thương.
Về xuất khẩu
Chủ  yếu là trợ cấp và khuyến khích xuất khẩu,  các nghiệp vụ xuất khẩu, đều đặt dưới 
sự  kiểm soát trên 3 phương diện: Về mặt hành chính do Nha Tổng Giám đốc Thương Vụ  cấp 
giấy phép để kiểm soát hoạt động của nhà xuất khẩu, nhập khẩu, loại hàng hóa cho xuất khẩu  
hay nhập khẩu. Về hối đoái, Viện Hối đoái Quốc gia sẽ  kiểm soát việc thu hồi ngoại tệ  xuất  
khẩu. Về  quan thuế, cơ quan quan thuế thực hiện kiểm soát việc xuất khẩu nhập khẩu để  thu 
thuế. 
Về nhập khẩu
Bảo vệ  mậu dịch  là chính sách nhập khẩu quan trọng nhất trong thời kỳ  1955 – 1964, 
ngoài ra, chính quyền Việt Nam Cộng hòa còn áp dụng “thể thức mậu dịch tương tiêu 100%” cho 
một loại hàng hóa cần thiết khi dân chúng bị thiếu hụt trên thị trường.

8


Hạn chế  nhập khẩu, đây là biện pháp được xem là khá tích cực mà chính quyền Ngô 
Đình Diệm thực hiện trong hoạt động ngoại thương nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế  dần  
nhập khẩu.

2.2. Hoạt động xuất khẩu (1955 – 1964)
2.2.1. Hàng xuất khẩu 
Để tạo cho nền kinh tế ngoại thương có những thay đổi, chính quyền miền Nam đã ban  
hành “nghị  định số  246 – KT ngày 15/8/1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa” thực hiện 
nhiều cố gắng để đẩy mạnh xuất khẩu, ban hành nhiều biện pháp khuyến khích giúp đỡ các nhà  
sản xuất, xuất khẩu như trợ cấp, miễn thuế, cấp tín dụng, hạn chế nhập khẩu, duy trì cân bằng 
cán cân thương mại, điều hòa thị trường hàng hóa ở miền Nam Việt Nam…Để sản phẩm hàng  
hóa của Việt Nam Cộng hòa có thể  cạnh tranh hữu hiệu trên thị  trường quốc tế  và gia tăng số 
ngoại tệ sau khi được thu hồi, hạn chế tình trạng trở  thành thị  trường tiêu thụ  hàng hóa của tư 
bản nước ngoài.
Từ  năm 1955 đến năm 1964, hàng hóa xuất khẩu Việt Nam Cộng hòa chủ  yếu nhất là 
mặt hàng cao su và gạo, hai mặt hàng này luôn dẫn đầu trong kim ngạch xuất khẩu, đồng thời  là 
những mặt hàng xuất khẩu chính của nền ngoại thương miền Nam, giữ vị trí quan trọng trong  
cơ cấu hàng hóa xuất khẩu. 

Ngoài ra, trong gian đoạn này, miền Nam Việt Nam còn xuất khẩu được các 
loại chế  phẩm, đồ  tiểu công nghệ, sản phẩm về động vật (cá tươi, hột vịt, mực  
khô, gân bò, gân heo, chất nhờn của súc vật, lông vịt, da rắn, da cá sấu, xương bò, 
xương trâu, sừng trâu, sừng bò, vỏ  ốc, xa cừ, ngà voi…), sản phẩm về  thảo mộc  
(ngũ cốc, cao su, tre, gỗ, than cây Cà Mau, trái cây, thuốc nam, trà, quế, mũ thông,  
bánh dầu, dầu dừa Trung Việt…) đồ uống (rượu bia, rượu rôm, rượu mía), khoáng 
sản (muối biển, cát trắng) sản phẩm công nghệ  và kỹ  nghệ  (thuốc điếu, thuốc xì 
gà, diêm, xà bông, chiếu cói, chén, dĩa…), linh tinh (tác phẩm mỹ thuật (tranh ảnh  
sơn dầu, sơn mài, sắt vụn…).
Đặc biệt, trong những năm 1960 đến năm 1963 tình hình xuất khẩu hàng hóa  
tương đối phong phú hơn, bên cạnh những mặt hàng nông phẩm chủ yếu, thì trong  
giai đoạn này xuất hiện những mặt hàng thuộc về sản phẩm chăn nuôi, lâm sản và 
sản phẩm ngư sản khác. 
2.2.2. Thị trường xuất khẩu
Ngày 15/8/1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ban hành nghị  định số  246­ KT về   ấn  

định thể lệ xuất nhập cảng các sản phẩm và hàng hóa tại Việt Nam Cộng hòa. 
Thị  trường xuất khẩu của Việt Nam Cộng hòa được mở  rộng với nhiều nước trên thế 
giới như: Pháp, Anh, Đức, Hoa Kỳ, Hong Kong, Nhựt Bổn, Cambodge, Ý ­ Đại ­ Lợi, Bỉ, Hòa 
Lan, Tân Gia Ba, Thụy Điển, Đan Mạch, Ai Lao, Thái Lan, nhiều nước khác. Với nhiều loại  
hàng xuất khẩu: “Cao su, gạo, trà đen, lông vịt, cát trắng, tôm ướp lạnh, muối cana, đậu phụng 
hột, trà xanh, hột dưa sống, mía ăn, cá tươi,  bánh tráng, bông sứ, chốn mướp… trong những th ị 
trường xuất khẩu chính của Việt Nam Cộng hòa từ năm 1957 đến năm 1964, dẫn đầu là Pháp, 
rồi đến Tây Đức, Anh và các nước khác. 
2.3. Hoạt động nhập khẩu (1955 – 1964)
2.3.1. Hàng nhập khẩu
Trong hoạt động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa, nhập khẩu là nguồn sống chủ 
yếu của nền kinh tế, cung cấp phần lớn điều kiện cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp,  
nhiên liệu, cho toàn bộ các hoạt động sản xuất, phần lớn hàng tiêu dùng kể cả những mặt hàng 
truyền thống như lúa gạo. 

9


Trong giai đoạn 1955­1964, các mặt hàng nhập khẩu quan trọng nhất là dầu hỏa, dược 
phẩm, sắt thép, máy móc, phân bón, đường sữa… Giai đoạn này chính quyền Việt Nam Cộng  
hòa thúc đẩy phát triển sản xuất cả  công nghiệp và nông nghiệp (các mặt hàng máy móc, kim 
loại, phân bón được chú ý).
Mặc khác, các mặt hàng nhập khẩu quan trọng khác trong giai đoạn 1955 – 1964 là dầu 
hỏa, dược phẩm, sắt thép, máy móc, phân bón. Điều này phản ánh thực tế  là Việt Nam Cộng  
hòa đang trong quá trình công nghiệp hóa. Trong khi đó, các mặt hàng nhập khẩu quan trọng của 
thời kỳ sau 1964 là gạo, hàng tiêu dùng, nhiên liệu và vật tư.
Ngoài ra, trong hoạt động nhập khẩu của Việt Nam Cộng hòa, còn có “nhập khẩu vô  
hình. Từ năm 1960 ngoại tệ gia tăng hàng năm nhất là trong mục chi tiêu của chính phủ, chuyên  
chở, học bổng, du lịch, bảo hiểm, lợi tức tư bản…
2.3.2. Thị trường nhập khẩu

Cơ  cấu thị  trường nhập khẩu của Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn này, nhìn chung 
cũng giống như  trên lĩnh vực xuất khẩu. Xem xét các mặt hàng theo từng nước, thì Mỹ  vẫn 
chiếm quan trọng nhất trong nhập khẩu. Đứng vị  trí thứ  hai là Pháp. Sau đó, là các nước thuộc 
phe Mỹ và một số nước như Đài Loan, Nam Triều Tiên, Tây Đức, Úc, Philippin…cũng tìm cách 
nhảy vào thị trường Việt Nam Cộng hòa để tìm lợi nhuận trong xuất nhập khẩu cũng như trong  
các hoạt động đầu tư khác. 
Ngoài ra, Việt Nam Cộng hòa còn tiến hành nhập khẩu hàng hóa của các nước Áo, Bỉ, 
Canađa, Đan Mạch, Tân Tây Lan, Ý, Mônacô, Hà Lan, Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Anh, Hồng  
Kông, Nam Phi… Qua đó, Việt Nam Cộng hòa đã nhập được nhiều thiết bị quan trọng, thay thế 
cho các xí nghiệp đã được thành lập từ trước, hoặc mới lập sau này do các nước này đầu tư tại 
miền Nam Việt Nam, theo luật cho nước ngoài đầu tư của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Có thể nói, từ năm 1955 đến năm 1964,  đây là giai đoạn phát triển tốt đẹp nhất của ngành  
xuất khẩu Việt Nam Cộng hòa, chủ yếu xuất khẩu là mặt hàng gạo và cao su, phát triển tương 
đối nhanh (giai đoạn 1955­1960) và phát triển vừa phải (1960­1964), song vẫn giữ được mức độ 
gia tăng vừa phải, nhưng nếu xét giá trị  xuất khẩu theo hàng năm, thì có sự  lên xuống bất  
thường, không ổn định. Nhập khẩu trong giai đoạn này luôn cao hơn so với xuất khẩu, làm cho  
chính quyền Việt Nam Cộng hòa sử dụng phương thức hàng đổi hàng, đây là biện pháp mà các 
nước chậm phát triển sử  dụng một cách phổ  biến, để  đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang các  
nước tư bản phát triển. 
Ngoài ra, từ giữa năm 1961, Mỹ đã tiến hành cuộc “chiến tranh đặc biệt”, toàn miền Nam  
Việt Nam bước vào thời kỳ càn quét, chế độ cai trị thời chiến lược đã được áp dụng, dân bị dồn  
về  đô thị, ven đường quốc lộ  và nhất là các  ấp chiến lược. Do tác động của chiến tranh, tình 
hình ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa từ  năm 1962 bắt đầu sa sút, ngân sách của chính 
quyền Việt Nam Cộng hòa ngày càng thiếu hụt, tình trạng lạm phát ngày càng gia tăng, hoạt 
động xuất khẩu giảm sút đặc biệt là hai mặt hàng gạo và cao su, sản phẩm tiêu biểu chủ  yếu  
đặc trưng nền kinh tế  Việt Nam Cộng hòa là gạo thì đến năm 1964 là năm cuối cùng mà mặt  
hàng này xuất khẩu. 
Nông nghiệp miền Nam Việt Nam bị tàn phá trầm trọng, nhất là từ năm 1963, ảnh hưởng  
nhiều nhất là trong lĩnh vực trồng lúa, mức sản xuất giảm, diện tích canh tác bị  thu hẹp, cao su  
cũng trong tình trạng như vậy, diện tích canh tác cũng như sản xuất đều bị thiệt hại nặng nề.

Bên cạnh đó, do tác động chiến tranh, các mặt hàng nhập khẩu như sữa, dầu hỏa, dược  
phẩm… và hàng những mặt hàng tiêu dùng, phương tiện khác để phục vụ sinh hoạt trong chiến 
tranh gia tăng từ năm 1962. 

10


CHƯƠNG 3
HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA 
TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975
3.1. Bối cảnh lịch sử mới và những yếu tố tác động đến hoạt động ngoại thương
3.1.1. Tình hình chính trị, kinh tế
Sau khi Ngô Đình Diệm bị  lật đổ, tình hình chính trị   ở  miền Nam Việt Nam rơi vào 
khủng hoảng, nhiều cuộc đảo chính liên tiếp diễn ra. Ngày 30/4/1975, trong cương vị  Tổng  
thống Việt Nam Cộng hòa, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Quân giải phóng  
miền Nam Việt Nam. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa chính thức sụp đổ.
Từ  cuối năm 1964, quân đội Mỹ  trực tiếp tham chiến  ở  Việt Nam và từ  sau năm 1965, 
bắt đầu  ồ   ạt vào miền Nam Việt Nam. Điều này, đã làm cho tài chính, ngân sách của chính 
quyền Việt Nam Cộng hòa bị  thâm hụt nghiêm trọng, giá cả  hàng hóa sinh hoạt trong đời sống  
thường ngày của người dân miền Nam Việt Nam không ổn định. 

11


Năm 1969, quân đội Mỹ lần lượt rút khỏi miền Nam Việt Nam. Việc rút đi hơn nữa triệu  
quân Mỹ, đã để  lại một khoảng trống khổng lồ  trong đời sống kinh tế  miền Nam Việt Nam, 
đồng thời, một số lượng lớn những người lao động làm việc cho Mỹ, cũng không còn việc làm.  
Điều này, dẫn đến là đời sống nhân dân ở miền Nam Việt Nam gặp khó khăn. 
Bên cạnh đó, hoạt động của nhiều ngành kinh tế ở miền Nam Việt Nam trong giai đoạn  
này giảm sút liên tục, góp phần dẫn đến tình trạng thiếu hụt hàng hóa, nhập khẩu tăng cao.

3.1.2. Chính sách viện trợ của Mỹ
Đến năm 1965, do tình hình chiến tranh phức tạp, Mỹ đã đề ra và giúp chính quyền Việt 
Nam Cộng hòa thực hiện hàng loạt dự án, xây dựng các công trình phục vụ cho chiến tranh, đặc  
biệt là phục vụ quân đội, như  mở  mang các nhà máy điện, hệ  thống cung cấp nước, xây dựng  
đường xá, bến cảng, sân bay, nhà máy dệt, giầy vải, đồ hộp… 
Với việc Mỹ tăng viện trợ thương mại, đã tạo một điều kiện rất lớn để  cung cấp hàng 
hóa nhập khẩu vào miền Nam Việt Nam. 
Đến năm 1969, viện trợ của Mỹ ở Việt Nam Cộng hòa không thể kéo dài, do tốn kém quá 
nhiều tiền của, thương vong nhiều binh lính, thiệt hại nhiều vũ khí, phương tiện, phong trào  
phản đối chiến tranh trên thế  giới, giới cầm quyền Mỹ nghĩ đến việc rút khỏi miền Nam Việt 
Nam, xét về mọi phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội. 
Đặc biệt, với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, Mỹ  đã rút dần quân và trao gánh  
nặng chiến tranh cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa, tăng viện trợ để Việt Nam Cộng hòa tận 
lực tăng quân số, chống đỡ khó khăn về kinh tế. 
3.1.3. Bộ máy quản lý hoạt động ngoại thương
Trong giai đoạn 1965 – 1975, bộ máy chính quyền quản lý hoạt động ngoại thương của  
Việt Nam Cộng hòa, đã có những thay đổi nhất định, để phù hợp với tình hình mới, nhưng nhìn  
chung, chức năng quản lý ngoại thương không có sự thay đổi đáng kể, mà chủ yếu là cơ cấu lại  
tổ chức của bộ máy ngoại thương.
Mặc dù, Bộ Kinh tế đã qua nhiều lần cải tổ nhưng về cơ bản chức năng, nhiệm vụ của  
Nha Ngoại thương hầu như  không bị  xáo trộn. Bộ  Tài chính thay đổi trong cơ  cấu tổ  chức để 
thích hợp với nhu cầu công việc và tình hình mới. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cũng thay đổi 
để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và cũng nhằm củng cố tổ chức ngày càng hoàn thiện hơn.  
Ngoài ra, còn có sự thay đổi chức năng trong một số tổ chức vận động thương nhân.
3.1.4. Chính sách ngoại thương của chính quyền Việt Nam Cộng hòa
Việc Mỹ  trực tiếp can thiệp vào nội tình  ở  miền Nam Việt Nam và đặc biệt là từ  sau  
năm 1965, với sự hiện diện trên nửa triệu quân đội Mỹ và đồng minh ở miền Nam Việt Nam, đã  
đem lại hậu quả nghiêm trọng, là hoạt động kinh tế của Việt Nam Cộng hòa bị đảo lộn, tiền tệ 
bị ảnh hưởng lạm phát, nhu cầu chi tiêu của quân đội Mỹ và đồng minh, đã làm gia tăng số thu  
về  ngoại tệ  cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Do đó, chính sách ngoại thương của chính 

quyền Việt Nam Cộng hòa cũng đã thay đổi.
Xuất khẩu
Kiểm soát xuất khẩu, từ  năm 1965, do hàng hóa nội địa không đủ  cung cấp cho nhu cầu  
tiêu thụ ở miền Nam Việt Nam, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã ra lệnh cấm xuất khẩu một 
vài sản phẩm
Trợ  cấp xuất khẩu,  nhằm  khuyến khích  xuất khẩu,  chính quyền Việt Nam Cộng hòa 
giảm thuế  xuất khẩu. Đối với các nhà xuất khẩu, chính quyền Việt Nam Cộng hòa thành lập 
Trung tâm Khuếch trương xuất cảng vào ngày 26/11/1964, nhằm giúp đỡ các nhà xuất cảng. 
Nhập khẩu
Trong giai đoạn này, chính quyền Việt Nam Cộng hòa chủ  trương nhập khẩu  ồ ạt,  nhờ 
vào ngoại viện và số ngoại tệ dồi dào do quân đội Mỹ mang lại, một phần để chế ngự lạm phát 
lấy tiền tăng quân số  và làm giảm bớt các chống đối chính trị, chợ  đen, đồng thời,  nhằm thỏa 
mãn nhu cầu tiêu thụ. 

12


Khác với giai đoạn trước, chính quyền Việt Nam Cộng hòa không còn ưu đãi việc nhập  
khẩu hàng hóa trực dụng và bảo vệ  kỹ  nghệ  nội địa. Một số  kỹ  nghệ  nội địa gần như  bị  phá  
sản, vì không cạnh tranh với hàng ngoại hóa, giá rẻ, phẩm chất tốt. Mặc dù, khi quân đội Mỹ rút  
dần từ năm 1969, đường lối nhập cảng của chính quyền Việt Nam Cộng hòa có điều chỉnh, hạn 
chế  tiêu thụ, yểm trợ sản xuất nhưng sau đó, với cuộc cải cách kinh tế  tài chính mùa thu 1971, 
chính quyền lại cho nhập cảng tự do, với sự kiểm soát gần như không còn. 
Tóm lại, chính quyền Việt Nam Cộng hòa chưa có chính sách nhập khẩu hợp lý, chủ yếu  
vẫn là đẩy mạnh nhập khẩu, không phân biệt hàng hóa, không có những chính sách nhập khẩu  
cần thiết cấp thời kết hợp với lợi ích lâu dài về sau.
3.2. Hoạt động xuất khẩu (1965 – 1975)
3.2.1. Hàng xuất khẩu
Từ  sau năm 1965, khi Mỹ  đưa quân  ồ   ạt vào miền Nam Việt Nam để  đẩy mạnh chiến  
tranh xâm lược, thì kinh tế  của Việt Nam Cộng hòa rơi vào tình trạng mất  ổn định, trong hoạt 

động ngoại thương, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam Cộng hòa liên tục giảm sút, trong khi  
đó, nhập khẩu lại tăng lên nhanh chóng, điều này làm cho cán cân ngoại thương chênh lệch ngày 
càng to lớn. 
Nếu giai đoạn 1955 – 1964, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam Cộng hòa có sự  phát  
triển nhất định với khối lượng và cơ cấu hàng hóa bán ra trên thị trường thế giới tương đối khả 
quan, thì giai đoạn 1965 – 1975, tình hình xuất khẩu giảm sút nghiêm trọng, mặc dù, các chính 
phủ của Việt Nam Cộng hòa nối tiếp nhau cũng đã có những cố gắng đề ra nhiều biện pháp để 
đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, do tình hình chiến tranh ngày càng diễn ra ác liệt, đồng thời,  
dưới áp lực của viện trợ Mỹ để giải quyết nhu cầu cho Qũy đối giá, đã đặt ra cho chính quyền 
Việt Nam Cộng hòa vào tình thế bất khả kháng buộc phải cho xuất khẩu ngày càng thu hẹp, đẩy 
mạnh nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam Cộng hòa.
Trong đó, nhiều mặt hàng có sự giảm sút nghiêm trọng và thậm chí không còn xuất khẩu  
được nữa như gạo, cát trắng, trứng vịt, dầu thực vật, bia, cà phê, đậu phộng, đồng vụn, quế, Oil 
cake, sản phẩm cao su, trà, lông vịt đã giảm sút so với giai đoạn trước, các sản phẩm khác chủ 
yếu là vật liệu phế thải trong chiến tranh gia tăng nhanh chóng.
Cũng trong những năm này, Việt Nam Cộng hòa còn xuất khẩu được các loại nông 
phẩm, chế phẩm, đồ tiểu công nghệ, phế liệu, sắt vụn. 
Tình trạng xuất khẩu được xem là khá bi đát, nhất là từ năm 1965, riêng ngành xuất khẩu  
vô hình lại gia tăng, bù đắp một phần lớn cán cân thương mại thiếu hụt, ngành này gia tăng nhờ 
đổi đô la chi tiêu của quân đội Mỹ các dịch vụ bán cho ngoại quốc như chuyên chở, nghiệp vụ 
bảo hiểm, du lịch, học bổng…
3.2.2. Thị trường xuất khẩu
Trong giai đoạn này, thị trường xuất khẩu của Việt Nam Cộng hòa ngày càng theo chiều  
hướng thu hẹp dần theo thời gian, bên cạnh đó, là kim ngạch xuất khẩu cũng giảm mạnh trên  
tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam Cộng hòa.
Thị trường xuất khẩu của Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn này, chủ yếu vẫn là Pháp,  
Tây Đức, Nhật, Anh, Mỹ, các nước tư  bản Tây Âu, tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu của Việt  
Nam sang các thị trường này giảm sút liên tục, đặc biệt, từ năm 1969 một số thị trường đã không 
còn trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam Cộng hòa. 
3.3. Hoạt động nhập khẩu (1965 – 1975)

3.3.1. Hàng nhập khẩu
Đặc điểm nổi bật nhất trong lĩnh vực nhập khẩu  ở giai đoạn này, là số lượng hàng hóa  
nhập khẩu gia tăng mãnh liệt, đặc biệt nhất, là từ  năm 1966, ngoài những sản phẩm cần thiết  
cho nhu cầu thiết yếu, mà tình hình sản xuất ở miền Nam Việt Nam không cung ứng đủ, vì lý do  
chiến tranh thì sản phẩm nhập khẩu lại có những sản phẩm xa xỉ, phô trương. 
Nếu như giai đoạn trước, Việt Nam Cộng hòa chủ  yếu nhập khẩu các mặt nguyên liệu 
sản xuất, đặc biệt là nguyên liệu dệt ở vị trí hàng đầu, thì trong giai đoạn 1965­1975, thức ăn, đồ 
13


uống và thuốc lá đứng đầu, trong đó, mặt hàng gạo lại là mặt hàng nhập khẩu nhiều nhất chủ 
yếu phục vụ cho nhu cầu người dân miền Nam, đặc biệt là nhu cầu sinh hoạt cho hơn nửa triệu  
quân Mỹ và đồng minh  ồ  ạt vào miền Nam Việt Nam. Kế đến là mặt hàng máy móc và xe cộ,  
nhưng phần lớn máy móc và phụ  tùng thay thế  không phải phục vụ  cho sản xuất công nghiệp,  
mà là cho sinh hoạt, đó là xe gắn máy, xe hơi, máy phát điện, những phụ tùng thay thế cho các xe  
cộ đã nhập khẩu từ trước. 
Nhìn chung, các mặt hàng nhập khẩu trong giai đoạn này không có nhiều mặt hàng mới,  
hầu như đã nhập khẩu trong giai đoạn trước, chỉ có sự  khác biệt rõ ràng so với giai đoạn trước 
là số lượng và trị giá nhập khẩu tăng rất nhanh, cụ thể tăng nhiều nhất là mặt hàng về thức ăn,  
đồ  uống, thuốc lá, do phục vụ thêm cho quân đội Mỹ, kế đến là sản phầm hóa học quan trọng  
nhất là dược phẩm và phân bón, tiếp theo là xe cộ  và máy móc, riêng các mặt hàng khác phần 
lớn là hàng tiêu thụ, những hàng hóa được xếp loại vì tính cách đặc biệt như: vũ khí đạn dược,  
hột lổ, mìn và chất nổ, thuốc súng, những mặt hàng này chủ kho hàng phải giữ  sổ  xuất, nhập, 
cập nhật hóa số hàng xuất nhập kho và trình nhà chức trách mỗi khi bị xét hỏi.
Về nhập khẩu vô hình, từ năm 1965 số ngoại tệ gia tăng hàng năm, nhất là trong mục chỉ 
tiêu của chính phủ, mục chuyên chở, học bổng… Từ năm 1967 các khoản bảo hiểm và lợi tức tư 
bản được tính chung vào phần các thứ  khác, tuy nhiên, số ngoại tệ mà Việt Nam Cộng hòa thu  
được từ  nhập cảng vô hình chiếm tỷ  lệ  không đáng kể  trong nguồn sở hữu ngoại tệ của Việt  
Nam Cộng hòa.
3.3.2. Thị trường nhập khẩu

Giống như  như  giai đoạn 1955 – 1964, thị  trường nhập khẩu của Việt Nam Cộng hòa 
trong giai đoạn này chủ  yếu là các nước thuộc hai khu vực châu Á và Tây Âu, trong giai đoạn  
này Việt Nam Cộng hòa còn nhập khẩu hàng của Úc, chủ yếu là hàng nông phẩm. 
Ngoài ra, còn có sự  xuất hiện một số  thị  trường nhập khẩu khác như: Canada viện trợ 
xây dựng trung tâm chữa bệnh cho binh lính Việt Nam Cộng hòa ở Quy Nhơn và một số phương  
tiện khác, để  trang bị  bệnh viện cấp cứu; Hà Lan xây dựng phòng khám bệnh lao và viện trợ 
hợp tác khoa học, kĩ thuật; thị trường châu Á xuất hiện thêm Đài Loan, Nam Triều Tiên, chủ yếu  
nhập khẩu vào Việt Nam Cộng hòa hàng tiêu dùng gia đình, đồ  điện, dụng cụ  gia đình; Ấn Độ 
nhập khẩu mặt hàng nông sản và hàng tiêu dùng thông thường: bông sợi đay…
Tóm lại, từ  năm 1965 đến năm 1975, hoạt động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa  
chủ  yếu là hoạt động nhập khẩu, hoạt động xuất khẩu ngày càng giảm sút nghiêm trọng, chủ 
yếu do tình hình chiến sự, nhu cầu hàng hóa phục vụ cho quân đội Mỹ và người dân miền Nam  
Việt Nam gia tăng nhanh chóng, đặc biệt là chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã có sự thay đổi 
rất nhiều trong chính sách ngoại thương, nổi bật trên hết là biện pháp nhập khẩu tự  do không 
hạn chế, góp phần đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu.
Hoạt động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa từ năm 1955 đến năm 1975, chủ yếu là 
nhập khẩu, tỷ lệ xuất khẩu so với nhập khẩu là 1/24.
Như  vậy, có thể nói rằng, đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa là nhập khẩu  
tiêu thụ, người dân miền Nam Việt Nam đã sống trên sức sản xuất của mình quá xa, sống trong 
thịnh vượng nhưng dưới sự  viện trợ  của Mỹ. Ngành nhập khẩu là một trong những lĩnh vực  
hoạt động ngoại thương chủ  yếu của Việt Nam Cộng hòa. Nguồn trang trải nhập khẩu phần  
lớn phải dựa vào các chương trình viện trợ. Ngoài ra, miền Nam cũng có sử  dụng ngoại tệ  sở 
hữu, mà phần lớn cũng dựa vào việc đổi tiền miền Nam lấy đôla. Trong nhập khẩu cũng có một 
số khoản viện trợ khác của Nhật, Pháp nhưng không đáng kể. 
* Tác động của chiến tranh đối với hoạt động ngoại thương
Đầu năm 1965, trước nguy cơ  chiến lược "chiến tranh đặc biệt" bị  phá sản hoàn toàn, 
Mỹ  đã  ồ   ạt đưa quân và quân đồng minh cùng với vũ khí, phương tiện chiến tranh vào miền  
Nam Việt Nam nhằm đẩy mạnh chiến tranh xâm lược, chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục 
bộ"  ở  miền Nam Việt Nam và mở  rộng "chiến tranh phá hoại" miền Bắc. Mặt khác, Mỹ  cũng 


14


đề  ra và giúp chính quyền Việt Nam Cộng hòa thực hiện hàng loạt dự  án, xây dựng các công  
trình phục vụ cho chiến tranh như đã trình bày ở trên.
Sau thất bại của chiến lược “chiến tranh cục bộ”, việc xuống thang chiến tranh là điều 
bắt buộc, Mỹ thực hiện thí điểm ở các nước Đông Dương chiến lược toàn cầu mới, đề ra chiến  
lược "Việt Nam hóa chiến tranh” từ năm 1969, quân Mỹ và quân đồng minh rút dần khỏi chiến 
tranh đồng thời tăng cường quân đội tay sai là chủ yếu.
Tác động của chiến tranh đã góp phần làm cho hoạt động ngoại thương của Việt Nam  
Cộng hòa giảm sút nghiêm trọng. Vì thế, chiến tranh tàn phá là một trong những nguyên nhân đã 
làm sản lượng gạo giảm sút. Tuy nhiên, ở các đô thị, hơn một triệu quân đội với nhiều tiền bạc,  
những nguồn hàng quân nhu, đặc biệt là đồ  phế thải chiến tranh là một sản phẩm dồi dào như 
sắt thép từ những chiến xa, xe nhà binh, đại bác… bị phá hủy là một nguồn cung cấp rất lớn cho  
ngành luyện kim. Vào những năm chiến tranh ác liệt, hàng loạt các khu căn cứ  quân sự  bị  đánh  
tan, thì số lượng hàng phế thải rất lớn, đến nỗi các xí nghiệp sắt thép và cán đồng không dùng  
hết, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã đem xuất khẩu để lấy ngoại tệ.
Hoạt động nhập khẩu gia tăng nhanh chóng, các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là phục vụ 
cho quân đội Mỹ như ti vi, xe máy, tủ lạnh, radio, giường, tủ, bàn ghế, đồng hồ, máy ảnh, máy  
quay phim, phim  ảnh, sữa, đường, các loại rượu, giầy dép, quần áo, len dạ, xà phòng, bia, hoa,  
quả… Với nhiều mặt hàng này, có thể nói, nó đã cung cấp cho miền Nam Việt Nam một khối  
lượng lớn hàng hóa ngoại quốc, chất lượng tốt, giá rẻ.
Khi quân đội Mỹ và quân đồng minh rút dần thì nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa cũng trở 
nên khó khăn do việc tổng cầu giảm sút đột ngột. Ngân sách luôn trong tình trạng thâm hụt, bất 
chấp việc chính quyền Việt Nam Cộng hòa thu ngân sách nội địa, bên cạnh đó, viện trợ kinh tế 
của Mỹ  cho Việt Nam Cộng hòa cũng nhiều hơn mà lý do là chính quyền Việt Nam Cộng hòa  
phải tự đảm đương nhiều hoạt động quân sự hơn. Mặt khác, thị trường tiêu thụ  các hàng công  
nghiệp dân dụng ở miền Nam Việt Nam cũng bị thu hẹp, mặc dù, Việt Nam Cộng hòa còn khả 
năng để  nhập khẩu các nguyên vật liệu, nhưng thị  trường tiêu thụ  không còn rộng lớn như 
trước, vì thế, sản xuất công nghiệp lâm vào cảnh bế tắc.


CHƯƠNG 4
TÁC ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG ĐỐI VỚI KINH TẾ VÀ 
XàHỘI VIỆT NAM CỘNG HÒA TỪ NĂM 1955 ĐẾN NĂM 1975
4.1. Tác động của hoạt động ngoại thương đến nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa
4.1.1. Tác động tích cực
* Về nông nghiệp
Cơ  sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp được tăng cường, quá trình cơ  khí hóa nông  
nghiệp miền Nam Việt Nam đến cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970 đã có những  
bước phát triển đáng kể. 
Do nguồn viện trợ dồi dào, Việt Nam Cộng hòa đã nhập khẩu nhiều máy móc các loại và  
phân bón sử dụng cho nông thôn. Mức độ sử dụng phân bón trên mỗi héc ta ruộng đất của miền  
Nam Việt Nam gia tăng liên tục trong việc thâm canh, đã tác động mạnh đến quá trình sản xuất 
nông nghiệp và năng suất ruộng lúa ở miền Nam Việt Nam. Điều này cũng chứng tỏ, ngành sản 
xuất lúa gạo của Việt Nam Cộng hòa đã có một số bước tiến đáng kể về mặt kỹ thuật. 
Trong thực tế, người nông dân miền Nam Việt Nam cũng thấy rằng sử  dụng máy móc 
trong nông nghiệp tiết kiệm hơn dùng sức người, bên cạnh đó, để  tìm hiểu điều kiện tự nhiên, 
15


nhu cầu thực tế và sở trường của người nông dân miền Nam Việt Nam, nhiều hãng nhập khẩu  
và hội đoàn khuyến nông đã thường xuyên xuống tận nông thôn, tạo điều kiện cho họ có thể lựa  
chọn và đặt hàng với các hãng ngoại quốc để cung cấp những loại máy móc mà phù hợp với khả 
năng tài chính, kỹ năng sử dụng của nông dân và thích hợp với điều kiện địa hình của miền Nam  
Việt Nam.
Có thể  nói, đây là con đường đơn giản nhất để  các nhà cung cấp tìm đến nhu cầu của 
người nông dân và ngược lại, đó cũng là biện pháp để đưa kỹ thuật mới vào trong nông nghiệp 
theo cơ chế thị trường. Và không quá để nói rằng, khắp nông thôn miền Nam Việt Nam đã diễn  
ra qúa trình cơ giới hóa theo kiểu tiểu nông khoảng giữa thập kỷ 60.
* Về công nghiệp 

Bên cạnh sự phát triển tuần tự từ thủ công lên nửa cơ khí, cơ khí, ở miền Nam Việt Nam  
trong thời kỳ 1958­1973, dưới  ảnh hưởng của viện trợ Mỹ và ảnh hưởng của cuộc cách mạng 
khoa học kỹ  thuật trên thế  giới, quá trình tiến bộ  kỹ  thuật trong công nghiệp có những bước  
phát triển nhảy vọt, từ thủ công lên cơ khí hóa và tự động hóa.
Máy móc thường nhập cảng từ các quốc gia tư bản phát triển như Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, 
Đài Loan… Những máy móc này thuộc vào loại máy móc thế hệ những năm 1960. Trong nhiều  
ngành công nghiệp đã bắt đầu xuất hiện các dây chuyền chuyên môn hóa sản xuất với công suất  
lớn, những quy trình công nghệ hiện đại như quy trình ép dầu, làm bột ngọt, sản xuất đồ  hộp,  
dệt vải, lắp ráp và chế tạo nông ngư cơ… Mà điển hình nhất là nhà máy lắp ráp chế  tạo nông 
ngư  cơ  Vinappro, Vikyno, cơ  cấu sản xuất của Vinappro  được tổ  chức theo lối dây chuyền 
chuyên môn hóa cao và hai công ty này còn nhận sự  giúp đỡ  kỹ  thuật của hai công ty lớn của  
Nhật (Yanmar và Nichimen).
Trong cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam Cộng hòa, tỷ trọng nhập khẩu thiết bị, máy móc  
và dụng cụ phụ tùng do đó được nâng cao. Việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ  cho các công trình  
lớn có ý nghĩa chiến lược, như việc thành lập nhà máy thủy điện, vì hầu hết nguồn năng lượng 
là dựa vào dầu nhập khẩu, mỗi năm Việt Nam Cộng hòa phải nhập khoảng gần 2 triệu tấn dầu 
các loại, vừa để chạy xe và các máy thủy, còn khoảng một nửa để chạy các nhà máy điện.
* Về thương mại
Nổi bật trên hết là ở các thành thị đặc biệt là ở những thành phố lớn như Sài Gòn ­ Chợ 
Lớn, Cần Thơ, Đà Nẵng đã hình thành thêm các cơ sở thương mại như chợ, hiệu buôn… các cơ 
sở cũ đều được sửa sang
Ở  Sài Gòn đa số  các con đường của thành phố  đều có hoạt động thương mại dịch vụ 
nhộn nhịp, số hiệu buôn, tiệm quán trong các khu thương mại chuyên nghiệp đã tăng lên nhiều  
lần từ năm 1962 đến 1972, nhiều cơ sở thương nghiệp có 18 đến 20 lao động phụ việc, ngoài ra 
ở các thành phố còn xuất hiện nhiều hình thức cơ sở thương nghiệp hiện đại giống như Âu, Mỹ 
đó là những thương xá, siêu thị các gian hàng trưng bày sản phẩm, ở những cơ sở này việc buôn 
bán được tổ chức rất chu đáo và chia thành nhiều gian hàng khác nhau, đồng thời có một số trung  
tâm thương mại tiêu biểu với giá trị  thương vụ  rất cao như  Charner, Passage Eden, SaiGon 
Departo, Crystal Palace… 
Nếu trước năm 1954, Sài Gòn chỉ  là một trung tâm thương mại tài chính, tính chất trung  

tâm công nghiệp chưa rõ ràng, tuy nhiên, thời kỳ  1955 – 1975, nó đã nhanh chóng trở  thành một  
trung tâm công nghiệp lớn nhất miền Nam  Việt Nam, song song với vai trò là trung tâm thương 
mại và tài chính, tính chất này vốn đã có từ trước. 
Mặt khác, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam Cộng hòa cũng đã tạo điều kiện cho 
giới kinh doanh xuất nhập khẩu thể hiện được tính năng động, tiếp cận với những thị  trường  
rất đa dạng của khu vực và trên thế  giới như: Campuchia, Ai Lao, Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Hồng 
Kông, Nhật, Bỉ, Hà Lan, Tân Gia Ba, Thụy Điển, Đan Mạch, Thái Lan… Sự  am hiều về  thị 
trường tài chính tiền tệ, về mẫu mã chủng loại, các tri thức cần thiết trong các quan hệ kinh tế 
đối ngoại… là một trong những yếu tố  góp phần làm cho Việt Nam Cộng hòa có những bước 
đột phá sáng tạo trong nền kinh tế.
16


* Về tài chính ngân hàng 
Nếu như năm 1955 đến năm 1964 tổng số ngân hàng ở  miền Nam Việt Nam có 13 ngân 
hàng và 17 chi nhánh, thì giai đoạn 1965 ­ 1970, hệ thống ngân hàng ở miền Nam Việt Nam nhất 
là các ngân hàng thương mại đã phát triển nhảy vọt nhờ vào sự gia tăng đột biến của hoạt động  
nhập khẩu. 
Hệ thống ngân hàng thu lời chủ yếu bằng cách tìm kiếm sai biệt giữa lãi suất ký thác và  
lãi suất tín dụng cung cấp. Ngân hàng nào có nhiều chi nhánh thu được nhiều tiền ký thác nhất, 
là loại ký thác hoạt kỳ, thì sẽ  kiếm lời nhiều hơn. Ngoài ra, ngân hàng còn có thể  thu lợi qua 
dịch vụ cũng như thu huê hồng các nghiệp vụ, như nghiệp vụ ngân quỹ (chương mục, thâu ngân, 
xác nhận chi phiếu, chuyển ngân...), nghiệp vụ  hối đoái (mua bán ngoại tệ, chuyển ngân tài 
chính...), nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ nhập  cảng và xuất cảng (mở tín dụng thư, bảo lãnh thu  
hồi ngoại tệ...). 
Trong các hoạt động của ngân hàng,  thì hoạt động cung cấp tín dụng  cho ngành nhập 
khẩu và các nghiệp vụ xoay quanh nhập khẩu là có thể thu cao nhất. 
Ngoài ra, các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu còn có những tổ chức chân rết ở khắp 
các vùng nông thôn, nhất là ở vùng giàu tài nguyên là các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Đó là các hợp 
tác xã nông nghiệp, ngư nghiệp, hiệp hội nông dân chịu trách nhiệm thu mua nông sản và phân 

phối các vật tư kỹ thuật cần thiết cho việc canh tác. Nhiều nơi, các tổ  chức này còn làm trung  
gian trong việc cho vay tiền của các ngân hàng ở Sài Gòn, các tổ chức này đều được chính quyền 
Sài Gòn nâng đỡ khuyến khích và kiểm soát. 
* Về giao thông vận tải
Dưới sự phát triển của hệ thống giao thông vận tải, hoạt động lưu thông hàng hóa ở Việt 
Nam Cộng hòa tương đối thuận lợi. Đó là cơ sở hạ tầng quan trọng để đẩy mạnh, phục vụ cho 
hoạt động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa, giải quyết đại bộ  phận nhu cầu vận chuyển  
hàng hóa xuất nhập khẩu.
Có thể nói hệ thống đường bộ ở Việt Nam Cộng hòa đã được xây dựng với chất lượng 
tốt, nổi bật là hệ thống đường trải nhựa đã nối liền nhiều thành phố, trung tâm chính trị, kinh tế.  
Một mạng lưới sông rạch chằng chịt khắp đồng bằng sông Cửu Long đã giúp cho việc vận tải, 
chuyên chở  hàng hóa bằng đường thủy tới thành phố  Sài Gòn – Chợ  Lớn cũng như  giữa các  
trung tâm kinh tế trong vùng trở nên thuận lợi. 
Do ảnh hưởng của chiến tranh, không đảm bảo an toàn, nên đường sắt Việt Nam Cộng  
hòa không phát triển được. Mặc dù vậy, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng đã có những 
chính sách cải tiến và phục hồi các quãng đường, đặc biệt là các nhánh đường sắt, đồng thời xây 
dựng một số  đường nhánh mới cải tiến lại các đường hầm và cầu, đã thúc đẩy vận chuyển  
hàng hóa, phục vụ  chủ  yếu các khu công nghiệp và hải cảng miền duyên hải miền Trung. Về 
vận chuyển bằng đường hàng không, từ năm 1958 đến năm 1969 số hành khách và hàng hóa vận 
chuyển bằng đường này có gia tăng. 
Số lượng hàng hóa vận chuyển qua cảng hàng không quốc tế  cao gấp nhiều lần so với 
hàng không quốc nội, ngược lại, vận chuyển hành khách qua hàng không quốc nội lại tăng cao  
so với hàng không quốc tế. Trong hàng không nội địa, hàng hóa được di chuyển nhiều nơi như:  
Ban Mê Thuột, Đà Lạt, Đà Nẵng, Huế, Kontum, Nha Trang, Pleiku, Qui Nhơn, Sài Gòn…Về 
hàng không quốc tế, hàng hóa được đưa đi trao đổi buôn bán với nhiều nước Cam Bốt, Ai Lao,  
Hà Nội, Mỹ, Hương Cảng, Pháp, Tân Gia Ba, Thái Lan, Tokyo…Tuy nhiên, từ  năm 1971 trở  đi,  
vận chuyển hàng không đã bắt đầu có khuynh hướng giảm dần do tình hình chiến sự, cơ sở hạ 
tầng ngày càng xuống cấp, hư hại nhanh chóng.
* Góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, các chính phủ kế tiếp nhau luôn khuyến khích đầu tư vào  

miền Nam, tư nhân ngoại quốc và cả  đầu tư  của các chính phủ ngoại quốc vào các ngành kinh  
tế. Trong bản Tuyên ngôn ngày 5/3/1957 của Ngô Đình Diệm, nội dung chính là kêu gọi đầu tư 
của tư  bản trong và ngoài nước bằng sự  cam kết đảm bảo những quyền lợi và mọi khuyến  
17


khích cần thiết. Ngày 14/2/1963, Ngô Đình Diệm ký sắc luật 2/63 mà nội dung chủ  yếu là 
khuyến khích tư nhân Việt Nam Cộng hòa, đầu tư nới lỏng một số quy chế đối với tư bản nước  
ngoài. 
Đến năm 1967, Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu ban hành một số sắc luật mới, gọi là luật  
đầu tư mới, với sắc luật 06/67 trên cơ sở sửa đổi sắc luật cũ. Theo đó, tất cả các sắc thuế được 
miễn đều có kì hạn là 5 năm đầu, kể từ khi xí nghiệp đầu tư bắt đầu đi vào hoạt động thay cho 
định mức 1 năm, 2 năm, 3 năm của sắc luật cũ. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa còn đảm bảo, sau 
khi duyệt xong dự án đầu tư sẽ cấp đầy đủ và mau lẹ số ngoại tệ cần thiết để nhập cảng máy  
móc và nguyên liệu cho các chương trình đầu tư. 
Phần đầu tư lớn nhất là đầu tư của tư nhân miền Nam, về đội ngũ những nhà kinh doanh  
miền Nam trước tiên phải kể đến đó là gia đình họ Ngô, họ có một vị trí đáng kể trong nền kinh 
tế  của miền Nam, nhất là trong các lĩnh vực kinh doanh đồn điền, khai thác gỗ, khai thác mõ,  
chế biến…sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, một lực lượng doanh nhân khác đã xuất hiện,  
nhờ  tìm thấy  ở viện trợ  Mỹ một nguồn thu nhập và một nguồn tích lũy bằng nhiều cách khác  
nhau. 
Ngoài những xí nghiệp do nước ngoài hoàn toàn đầu tư  cũng phải kể  đến những xí  
nghiệp của Việt Nam có phần lớn vốn đầu tư  nước ngoài tuy nhiên chiếm tỉ  trọng rất ít, do 
chiến tranh liên tiếp diễn ra, tư  bản nước ngoài muốn hùn vốn với người Việt Nam để  tránh 
hoặc giảm bớt rủi ro do chiến cuộc, chủ yếu tập trung vào xí nghiệp hỗn hợp nhiều hơn. 
* Vai trò của người Hoa trong nền kinh tế ngoại thương Việt Nam Cộng hòa
Thời Việt Nam Cộng hòa, một số những nhà kinh doanh đã cố gắng đứng ngoài chính trị, 
họ chỉ tập trung chủ yếu vào việc kinh doanh buôn bán, đóng vai trò quan trọng và góp phần thúc  
đẩy sự  phát triển của nền kinh tế  Việt Nam Cộng hòa nói chung, hoạt động ngoại thương nói  
riêng, phải kể đến đó là người Hoa. 

Từ khi quân đội Mỹ tham chiến ồ ạt, người Hoa tranh thủ cơ hội mới, họ mở rộng kinh  
doanh trên nhiều lĩnh vực: thầu những hàng quân nhu, đồ phế thải chiến tranh…tiêu biểu một số 
doanh nhân như: Lý Long Thân đứng đầu ngành kinh doanh luyện kim ở miền Nam, Mã Hỷ kinh 
doanh lúa gạo, bột mì, Trần Kiên Trí và Thái Tính Hà nắm hầu hết ngành chế  biến thực phẩm,  
sản xuất vận chuyển, lưu thông các sản phẩm thịt heo, vịt khô…trên thị  trường miền Nam và 
xuất khẩu. 
Người Hoa giữ vai trò chi phối lớn trong ngoại thương. Nếu như ở miền Bắc, người Hoa  
không giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, thì ở miền Nam Việt Nam, họ kiểm soát hầu hết 
các vị trí quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt là trong sản xuất hàng hóa, phân phối hàng hóa  
và tín dụng.
Dù sao, trong thực tế, cũng không thể phủ nhận sự đóng góp của người Hoa ở miền Nam  
Việt Nam, họ là cầu nối quan trọng cho các mối quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư  giữa các  
quốc gia gần với Việt Nam Cộng hòa, những nước có người Hoa sinh sống như: Trung Quốc,  
Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Thái Lan, nơi mà người gốc Hoa chiếm tỷ lệ không nhỏ trong  
tổng dân số của từng quốc gia này.
4.1.2. Tác động tiêu cực
Các nhà nhập khẩu tiến hành kinh doanh với nhiều độc quyền lớn nên chắc chắn thu lời 
rất cao, độc quyền nhập khẩu, độc quyền vay tiền ngân hàng và độc quyền về  giá cả  nhập  
khẩu, nhất là những khi thị trường khan hiếm hàng hóa. Đó là chưa kể đến việc hối suất thực tế 
trên thị trường, nên nhà nhập khẩu có thể thu thêm những khoản lời khác từ sự chênh lệch đó. 
Việc nhập khẩu hàng hóa ồ ạt đã giết chết nhiều mặt hàng đang xuất khẩu và nhiều mặt 
hàng có tiềm lực xuất khẩu, kìm hãm sản xuất  ở  miền Nam Việt Nam, tác động tiêu cực đến  
hoạt động xuất khẩu.
Nhập khẩu đã trở thành biện pháp chủ yếu để  thực hiện được các khoản thu ngân sách, 
đồng thời, ngăn chặn nạn lạm phát. Nhập khẩu đã giết chết nhiều ngành sản xuất tiểu công  
nghệ đã có thời kỳ đem lại cho miền Nam những khoản thu nhập đáng kể trong kim ngạch xuất  
18


khẩu. Nhập khẩu cũng đã làm cho ngành cá, ngành chăn nuôi và sản xuất các loại hoa quả  có 

nhiều tiềm lực xuất khẩu bị ảnh hưởng tai hại. 
4.2. Tác động của hoạt động ngoại thương đối với xã hội của Việt Nam Cộng hòa
4.2.1. Tác động tích cực
* Về giải quyết việc làm
Thực tế cho thấy, do hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam Cộng hòa cũng có sự mở 
rộng, đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, mở rộng 
phân công lao động ở miền Nam Việt Nam, cũng như phân công lao động quốc tế. 
Cùng với sự  xuất hiện của nhiều ngành nghề  mới phục vụ  cho xuất khẩu, hàng vạn  
người lao động đó có việc làm, cải thiện đời sống, tăng thu nhập.
Nhiều xí nghiệp có cả chương trình thường xuyên huấn luyện công nhân, cấp học bổng  
đào tạo chuyên viên cần thiết cho xí nghiệp, lực lượng lao động không có nghề  nghiệp chuyên  
môn, rất khó được thu dụng vào các ngành kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng. 
* Về thu nhập
Mức lương tối thiểu của dân cư  miền Nam Việt Nam tăng đáng kể  .Tuy nhiên, ở  miền  
Nam Việt Nam tổng GDP lại tăng không đáng kể thậm chí còn giảm.
* Gia tăng khả năng cạnh tranh
Giai cấp tư sản mại bản thời kỳ 1955 – 1975, khác với giai cấp tư sản mại bản thời Pháp 
thuộc không chỉ ở số lượng đông hơn, quy mô lớn hơn, các hình thức, phương thức hoạt động đa  
dạng hơn, mà còn  ở  chỗ  ngoài việc kinh doanh trong ngành thương nghiệp, họ  còn độc quyền 
trong nhiều ngành kinh tế khác. 
Ngoài ra, trong hoạt động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa, tư  bản nước ngoài có 
vị trí quan trọng. Mặc dù, tỷ  lệ của cơ sở thương mại ngoại quốc rất thấp nhưng họ chiếm tỷ 
lệ vốn khá lớn và độc quyền trong một vài ngành hàng.
Tư  sản miền Nam Việt Nam vẫn giữ địa vị  yếu kém hơn so với tư  sản nước ngoài về 
vốn   liếng,   quan   hệ   đối   ngoại   và   nghiệp   vụ   kinh   doanh,   tạp   chí   chấn   hưng   kinh   tế   ngày 
24/2/1964 đã nêu lên tình trạng đa số các nhà xuất cảng và kinh doanh của ta đều thiếu khả năng 
phát triển, các loại hàng xuất cảng hiện nay đều do một số  công ty xuất cảng lớn của ngoại  
quốc, với tư bản dồi dào họ nắm trong tay những cơ sở sản xuất lớn. 
4.2.2. Tác động tiêu cực
* Góp phần làm gia tăng thêm tệ nạn xã hội

Việc nhập khẩu ồ ạt và những biện pháp, chính sách ngoại thương của chính quyền Việt  
Nam Cộng hòa trong thời kỳ 1965 – 1975, đặc biệt là khi chiến tranh lan rộng, đã tác động đến 
làm cho hoạt động sản xuất nội địa bị đình trệ, nhiều ngành nghề phải dẹp bỏ và lâm vào cảnh 
phải phá sản.
Hàng hóa tồn kho thì ứ đọng nhiều, một số nhà nhập khẩu phải bỏ cả hàng hóa tại kho  
hàng năm và chịu bị tịch thu để  trừ  tiền lưu kho, lưu bãi. Nạn trộm cắp tại các kho hàng hóa ở 
các cảng đối với hàng hóa nhập khẩu hoành hoành ác liệt, chính quyền Việt Nam Cộng hòa thừa 
cơ hội này đưa ra biện pháp tịch thu, tịch biên… hàng hóa của những nhà nhập khẩu với những  
lý do không thỏa đáng, mà còn dung túng chứa chấp lực lượng cảnh sát, thuế  quan, chiếm lấy 
công khai hàng hóa ứ đọng tại các kho, các cảng, làm cho nhiều nhà trung sản, tiểu sản, thậm chí 
có một số  đại sản cũng bị  lỗ  lã phá sản và tạo nên sự  mâu thuẫn giữa những nhà xuất nhập 
khẩu với chính quyền quản lý ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa ngày càng thêm sâu sắc.
Bên cạnh đó, một bộ phận thanh thiếu niên ăn chơi, trụy lạc, hưởng thụ, uống rượu, tập  
trung tại các nhà hàng, khách sạn, động mại dâm, tiệm hút chích, sàn nhảy  ở  khu vực Sài Gòn  
ngày càng nhiều.
* Độc quyền ngoại thương
Dưới thời Ngô Đình Diệm, khi mà hoạt động xuất khẩu đang có đà phát triển, những 
người lãnh đạo miền Nam Việt Nam và gia đình Ngô Đình Diệm đã khống chế chặt chẽ ngành 
này
19


Sau thời Ngô Đình Diệm, việc nắm giữ hoạt động xuất khẩu của chính quyền Việt Nam 
Cộng hòa ngày càng được khống chế và siết chặt hơn, họ đã dùng những thủ  đoạn phi kinh tế 
để vơ vét hàng xuất khẩu như: Nguyễn Văn Toàn tư lệnh quân đoàn 2 là “vua Quế” của Quảng  
Nam, Quảng Ngãi, Nguyễn Văn Thiệu là trùm quân dụng phế  thải, hải quân thì khống chế các 
ngành ngư sản…
Một bộ  phận thương nhân ngành xuất nhập khẩu đã thao túng thị  trường, mua bán đầu  
cơ hàng hóa và ngoại tệ chạy theo lợi nhuận trước mắt, làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động 
sản xuất ở miền Nam Việt Nam, về cung cấp nguyên vật liệu và giá cả, đồng thời, họ còn thao  

túng trong xuất khẩu bắt chẹt người sản xuất, hạ giá nông phẩm để xuất khẩu, với giá hời, do  
đó, đã ảnh hưởng đến các mặt sản xuất công nghiệp, nông nghiệp rất lớn.
* Tạo ra thêm những mâu thuẫn trong xã hội miền Nam Việt Nam
Do nhập khẩu  ồ   ạt, đội ngũ giai cấp tư  sản thương nghiệp tăng nhanh chóng không  
những làm cho họ  thêm lục đục mâu thuẫn với nhau mà còn tạo ra mâu thuẫn giữa tư  sản  
thương nghiệp miền Nam Việt Nam với tư sản ngoại quốc. Những mâu thuẫn đó là về  quyền  
lợi trong xuất nhập khẩu, tranh giành thị  trường để  kiếm lợi nhuận cho bản thân, dẫn tới sự 
thanh trừng nhau, điều này đã góp phần tạo nên những mâu thuẫn trong xã hội.
Sự  mâu thuẫn giữa các tầng lớp, giai cấp  ở  miền Nam Việt Nam sâu sắc hơn bao giờ 
hết, những mâu thuẫn gay gắt giữa tư sản mại bản quan liêu đang cầm quyền với tư sản công 
thương nghiệp dân tộc, giữa tư  sản tài chính dựa vào vốn Mỹ  đang thao túng tài chính và ngân  
hàng ngoại thương với tư  sản thương nghiệp xuất nhập cảng sống nhờ vào nhập cảng, hàng 
viện trợ  Mỹ… làm cho đội ngũ này thêm phân hóa, xáo trộn khốc liệt, trong đó, kể  cả  những  
mâu thuẫn vốn gay gắt day dẳng từ lâu, nay bộc phát quyết liệt giữa tư sản dân tộc với tư bản 
nước ngoài, trong việc tranh giành thế  đứng trên lĩnh vực kinh tế  tư  bản chủ  nghĩa đang có xu 
hướng đi lên ở miền Nam Việt Nam.
* Xã hội miền Nam Việt Nam phồn thịnh nhưng mang tính chất giả tạo
Xã hội miền Nam Việt Nam phồn thịnh, hào nhoáng và hấp dẫn với người dân do hàng  
hóa nhập khẩu tràn ngập thị trường miền Nam Việt Nam, thậm chí, giá hàng hóa ở  chợ  trời rẻ 
hơn giá hàng bán  ở  các hiệu, tiệm bán giá chính thức. Hàng ngoại rẻ  hơn hàng nội hóa truyền  
thống. Sự phồn vinh này, mang tính chất giả  tạo, đời sống của người dân miền Nam Việt Nam  
hoàn toàn lệ  thuộc vào hàng viện trợ  của Mỹ, chứ  không phải do bản thân nội tại miền Nam  
Việt Nam sản xuất hàng hóa ra được. 
Hàng công nghiệp bản xứ dù là những cơ sở kinh doanh của tư bản Pháp, Hoa kiều trước  
kia như bia, nước ngọt BGI, Phương Tòa và thuốc lá MIC, MITAC… bị bia, nước ngọt Cocacola, 
Wisky, thuốc lá Salem, Pall Mall… của Mỹ cạnh tranh gay gắt làm cho các cơ  sở  này phải thu  
hẹp lại hoặc giảm sản xuất, cảnh sập tiệm, vỡ nợ, khánh tận, khắc nghiệt, nghèo đói, lại diễn 
ra và tăng lên. Một cảnh hoang phí, xa xỉ, ăn chơi trụy lạc, xa hoa, phế phẩm lại được sinh ra và 
cũng phát triển hết sức nhanh chóng.
* Chất lượng cuộc sống của người dân miền Nam Việt Nam vẫn thấp kém.

Mặc dù, mức sống của người dân miền Nam Việt Nam có tăng lên, đời sống vật chất có 
khấm khá hơn, tuy nhiên, chất lượng cuộc sống của họ, nói chung vẫn rất kém. Cuộc sống của  
người dân miền Nam Việt Nam không có sự an toàn. Nhờ vào viện trợ từ Mỹ, xã hội miền Nam  
Việt Nam mới có thể  chịu đựng được những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh và không 
quá để nói rằng, nếu không có được sự viện trợ này, chắc chắn xã hội miền Nam Việt Nam đã 
sụp đổ ngay từ đầu thập kỷ 60. 
Mặt khác, người dân miền Nam Việt Nam quen việc tiêu dùng và hưởng thụ là chủ yếu, 
nên có thể nói, một trong những nét điển hình của xã hội miền Nam Việt Nam là “tính chất xã  
hội tiêu dùng”, xã hội này lại tồn tại song song với một “xã hội thời chiến”, đặc biệt, khi mà  
tình hình chiến tranh ngày càng lên cao, với sự hiện diện đông đảo của quân đội nước ngoài vào 
miền Nam Việt Nam, và bên cạnh đó là nhiều tệ  nạn xã hội diễn ra và ngày càng gia tăng như 

20


trộm cắp, mại dâm, ăn chơi trụy lạc… làm cho cuộc sống của người dân miền Nam Việt Nam 
trong tình trạng bất an, lo lắng.
Một vấn đề  khác dễ  dàng nhận thấy, là bên cạnh sự  phồn vinh mang tính chất giả  tạo 
của xã hội miền Nam Việt Nam, thì tình trạng tương phản giữa người giàu và người nghèo, giữa 
thành thị và nông thôn, hiện lên rất rõ ràng. Ngay cả những người giàu có với mức sống vật chất  
khá cao nhưng chất lượng cuộc sống của họ chưa hẳn đã cao, sự  giàu sang này không ổn định,  
có nhiều hiểm họa không an toàn, vững chắc, mà đỉnh điểm nhất là sự sụp đổ  của chế độ Việt  
Nam Cộng hòa đó là hiểm họa lớn nhất.
Bên cạnh đó, mức thuế gia tăng, giá tiêu thụ gia tăng thì tiền lương không thay đổi hoặc  
có thay đổi thì cũng không tương xứng với việc giá cả tăng cao.
Đời sống của các giai cấp và từng tầng lớp (công nhân, nông dân, tiểu thương, trí thức, 
tư sản) ở miền Nam Việt Nam chịu nhiều khó khăn, khốn khổ…
4.3. Một số  nhận xét về  hoạt động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa từ  năm 1955  
đến năm 1975


Thời kỳ miền Nam Việt Nam dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa do Ngô Đình 
Diệm đứng đầu, chính quyền đã xây dựng vùng lãnh thổ  này, với tiềm năng kinh  
tế  phong phú và dựa trên sự  hậu thuẫn, viện trợ  của Mỹ, những điều kiện này, 
ảnh hưởng không nhỏ  đến việc sản xuất hàng hóa, thúc đẩy sự  phát triển của 
hoạt động ngoại thương của miền Nam trong giai đoạn 1955 đến năm 1964.
Tuy nhiên, từ năm 1964, tình hình chính trị của Việt Nam Cộng hòa rối loạn, nội bộ của 
chính quyền Việt Nam Cộng hòa diễn ra những mâu thuẫn, tranh giành quyền lực lẫn nhau, bên 
cạnh đó, nền kinh tế của Việt Nam Cộng hòa trong tình trạng bấp bênh, mức sản xuất ở  miền  
Nam Việt Nam bị đình trệ, sự giảm sút của hoạt động sản xuất đương nhiên tạo ra hậu quả  là  
xuất khẩu bị giảm sút theo. 
Có thể nói rằng, Mỹ đã biến miền Nam Việt Nam trở thành một nơi nhằm tiêu thụ  hàng 
hóa của Mỹ, từ  đó đã phá hoại kìm hãm sản xuất  ở  miền Nam Việt Nam, tận dụng vật tư để 
xuất khẩu kiếm lời, bóc lột người tiêu dùng, đài thọ  cho bộ  máy chiến tranh. Mặt khác, thông  
qua chính quyền Việt Nam Cộng hòa, Mỹ  dùng hàng rào thuế  quan rất chặt chẽ  để  ngăn cản 
hàng hóa các nước khác xuất khẩu vào miền Nam Việt Nam. 
Bộ máy quản lý ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa nhìn chung, là sản phẩm của một  
quan hệ sản xuất từ thời Pháp thuộc, mang xu hướng hiện đại dưới sự bảo trợ  của Mỹ, được  
chuyên môn hóa ở trình độ  cao, tương đối thành thạo về mặt nghiệp vụ, góp phần đắc lực vào  
việc thực hiện các đường lối chính sách thể lệ và thủ tục ngoại thương Việt Nam Cộng hòa.
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã thực hiện nhiều chính sách và biện pháp nhằm “giải  
tỏa ngoại thương”, thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, đi đôi với giản dị hóa một số thủ 
tục, thay thế chế độ  cấp giấy phép bằng chính sách tỷ  giá hối đoái… Tuy nhiên, trong thực tế, 
những biện pháp này chưa đạt hiệu quả cao.
Chính sách ngoại thương của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã có sự  thay đổi rất  
nhiều qua giai đoạn 1965 – 1975, nổi bật trên hết là biện pháp nhập khẩu tự do không hạn chế,  
bên cạnh đó, chính sách xuất khẩu nhìn chung vẫn là kiểm soát và trợ cấp để khuyến khích xuất 
khẩu, để thu hồi ngoại tệ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa, nhưng mang tính không liên tục 
và tùy theo từng giai đoạn.
Hoạt động xuất khẩu trong giai đoạn 1955 – 1964 nhìn chung, có sự  phát triển đáng kể,  
tuy nhiên, nó đã gần như hoàn toàn bị tê liệt kể từ năm 1965, năm mà nghiệp vụ xuất khẩu mặt  

hàng gạo đã chấm dứt. Hàng xuất khẩu của Việt Nam Cộng hòa phần lớn là nông phẩm ở dạng 
nguyên liệu, những hàng này thường là đối tượng của chính sách phân biệt đối xử về nhập khẩu  
của các nước tư  bản phát triển. Nhập khẩu của Việt Nam Cộng hòa luôn trong tình trạng tăng 
gấp nhiều lần so với xuất khẩu, trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam Cộng lại  
chiếm tỷ  trọng quá nhỏ  bé trong tổng kim ngạch nhập khẩu, nên cũng không có tác động đáng  
21


kể đến nhập khẩu của các nước và do đó khó ổn định thị xuất khẩu. Sự chênh lệch giữa nhập  
khẩu và xuất khẩu với một số nước rất lớn, mà trong ngoại thương việc thăng bằng xuất nhập  
là điều kiện rất quan trọng trong quan hệ buôn bán giữa các nước. 

KẾT LUẬN
1. Chính sách ngoại thương của chính quyền Việt Nam Cộng hòa nhìn chung nhằm vào  
mục tiêu  ổn định ngắn hạn mà không chú trọng đến các mục tiêu phát triển dài hạn, cần phải  
chuyển từ một nền kinh tế tiêu thụ sang  một nền kinh tế sản xuất, các chính sách kinh tế ngắn 
hạn phải được thay thế  bằng các chính sách nhằm vào mục tiêu phát triển trường kỳ. Thực  
trạng nền kinh tế của Việt Nam Cộng hòa có một nền nông nghiệp quá sơ  khai, mà lại bị  tàn  
phá do chiến sự diễn ra, kỹ nghệ quá lệ thuộc viện trợ của Mỹ và rất khó có triển vọng tự  túc, 
tự lực. 
2. Ngoại thương Việt Nam Cộng hòa chủ  yếu nhập khẩu hàng viện trợ  Mỹ, kim ngạch  
nhập khẩu luôn tăng lên qua các năm với cấp số  nhân so với xuất khẩu, tình trạng nhập siêu  
ngày càng trở nên trầm trọng và chỉ  có tăng chứ không hề giảm sút, dù rằng, chính quyền Việt  
Nam Cộng hòa đã có những cố gắng nhất định để  đẩy mạnh xuất khẩu trong một vài năm với  
nhiều mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao, nhưng cũng không sao bù được nổi chênh lệch 
ngày càng lớn lao đó. 
Nhập khẩu hàng hóa tiêu thụ  là một đặc điểm của nền kinh tế  Việt Nam Cộng hòa. 
Ngành nhập khẩu là một trong những lĩnh vực hoạt động ngoại thương chủ yếu của Việt Nam 
Cộng hòa. Ta thấy rằng, nhập khẩu gia tăng do viện trợ  thương mại tăng, đặc biệt khi chiến  
tranh leo thang và do nhu cầu hàng nhập khẩu tăng vọt cùng với sự hiện diện của quân đội Mỹ 

và đồng minh. 
3. Ngành xuất khẩu phát triển trong giai đoạn đầu. Nhưng từ năm 1965, ngành xuất khẩu  
suy giảm do chiến tranh liên tục diễn ra. Các sản phẩm xuất khẩu là nông sản, khoáng sản, sản 
phẩm tiểu công nghệ  và một ít chế  hóa phẩm.  Qua nhiều biến động sâu sắc về  mặt số lượng  
sản phẩm nông lâm ngư  nghiệp vẫn luôn luôn giữ  vị  trí chủ  yếu trong cơ  cấu hàng xuất khẩu  
của Việt Nam Cộng hòa. 
Đặc điểm này do tình hình sản xuất quyết định, tuy nhiên, cơ  cấu hàng xuất khẩu của  
Việt Nam Cộng hòa không phản ánh đầy đủ nền sản xuất nông nghiệp rất phong phú của miền  
Nam Việt Nam, trong xu thế giảm sút nói chung, tỷ  trọng từ  mặt hàng trong cơ  cấu hàng xuất  
khẩu miền Nam thay đổi rõ rệt qua từng thời kỳ từ năm 1955 đến năm 1964, cơ cấu hàng xuất 
khẩu của Việt Nam Cộng hòa chủ yếu là mặt hàng nông lâm sản ở miền Nam Việt Nam tương  
đối phong phú và có nhiều mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu khá cao. 
Tuy nhiên, giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1975 trở đi, cao su đã nhảy lên địa vị hàng đầu.  
Nhiều loại nông sản đã biến mất trên danh mục hàng hóa xuất khẩu và đã trở  thành hàng nhập  
khẩu với kim ngạch lớn như gạo và một số thực phẩm.
4. Từ năm 1955 đến năm 1975, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam Cộng hòa luôn 
luôn không  ổn định. Trong những năm đầu kim ngạch xuất khẩu khi tăng lên, khi giảm xuống,  
tùy thuộc vào sự biến động của hai mặt hàng chính là gạo và cao su. Nhưng kể  từ  khi Mỹ đưa 
quân  ồ  ạt sang miền Nam, đẩy mạnh chiến tranh xâm lược thì kim ngạch xuất khẩu của miền  
Nam Việt Nam liên tục bị  giảm sút, trong khi đó, nhập khẩu lại tăng lên nhanh chóng làm cho 
chênh lệch cán cân ngoại thương ngày càng to lớn. 
Bên cạnh đó, tình hình bất  ổn về chính trị, chiến tranh đã làm cho nền kinh tế của Việt  
Nam Cộng hòa nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng, trong tình trạng mất  ổn định,  
cũng chính vì điều này mà các chính sách, biện pháp của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đối 
với hoạt động ngoại thương đã có những thay đổi nhưng lại thiếu mất tính liên tục cần thiết, để 
duy trì sự phát triển cho nền ngoại thương. 
22


5. Từ thực trạng hoạt động ngoại thương của Việt Nam Cộng hòa từ năm 1955 đến năm 

1975. Luận án rút ra được một số bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào ngoại thương Việt 
Nam hiện nay: 
Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những nhà xuất nhập khẩu Việt Nam được tự do kinh  
doanh trên thị trường trong nước và quốc tế, theo định hướng chiến lược mà nhà nước đã vạch 
ra, đặc biệt, các doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm xuất  
khẩu, cũng như tự xúc tiến và quảng bá cho những sản phẩm của riêng mình; Xây dựng đào tạo  
đội ngũ kinh doanh ngoại thương giỏi về nghiệp vụ, am hiểu nền kinh tế thị trường trong nước  
và ngoài nước, có trách nhiệm tìm hiểu và cung cấp thông tin, đầu mối để  kết nối với các thị 
trường thế giới, giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ đưa hàng ra nước ngoài, trong khi đó, các doanh  
nghiệp lớn có thêm những nhà cung cấp mới.
Chính sách nhập khẩu cần được điều hướng để hỗ trợ sản xuất nội địa, đồng thời, thúc  
đẩy sản xuất hàng hóa trong nước, hướng nhập khẩu vào những mặt hàng cần thiết nhằm phát  
triển đất nước theo định hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, hạn chế  nhập khẩu hàng tiêu  
dùng xa xỉ; Đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, khai thác và tận dụng triệt để những tiềm năng sẵn có 
ở trong nước để biến thành những sản phẩm xuất khẩu; Đa dạng hóa xuất khẩu tránh tình trạng 
lệ  thuộc vào một vài sản phẩm chính; Chính sách xuất khẩu phải cố  gắng đạt đến mức tăng  
dần số xuất khẩu và hạ dần số nhập khẩu nhằm quân bình xuất nhập khẩu; Tiếp tục đẩy mạnh 
hợp tác với các nước trên thế  giới nhằm mở  rộng thị  trường xuất khẩu, thúc đẩy các quan hệ 
kinh tế  đối ngoại của Việt Nam, trong đó, đẩy mạnh xúc tiến thương mại vào thị  trường các 
nước lân cận, chính phủ cần có một số chương trình hỗ trợ  doanh nghiệp nhỏ và vừa nâng cao 
năng lực, đẩy mạnh xuất khẩu và tất nhiên phải có sự  tự  thân vận động của chính các doanh  
nghiệp Việt Nam.
Những bài học kinh nghiệm trên có thể góp phần vào việc tiếp tục đẩy mạnh hoạt động 
ngoại thương của Việt Nam hiện nay, đạt được thêm những thành tựu về xuất khẩu, nhập khẩu 
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tăng cường hội nhập quốc tế 
hiện nay. Từ đó, đặt ra những yêu cầu cấp bách phải nghiên cứu, kế thừa những bài học kinh 
nghiệm nhất định về vấn đề  ngoại thương ở  miền Nam Việt Nam trong lịch sử Việt Nam giai  
đoạn 1955 – 1975 và tiếp tục vận dụng, phát triển linh hoạt, sáng tạo hơn nữa trong các chính 
sách ngoại thương của Việt Nam hiện nay, góp phần thúc  đẩy hoạt động ngoại thương nói 
riêng, hoạt động kinh tế  Việt Nam nói chung ngày càng được mở  rộng và phát triển, phục vụ 

cho việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

23


CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐàCÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Ngô Minh Oanh – Kiều Lê Công Sơn (2015), Hoạt động kinh tế ở vùng giải phóng miền Nam  
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước , Hội thảo khoa học “40 năm Đại thắng Mùa xuân 
(30/4/1975) ­ nhìn từ  góc độ  lịch sử, văn hóa”, do Trường Đại học Sài Gòn tổ  chức vào tháng  
4/2015.
2. Kiều Lê Công Sơn (2016), Vai trò của giao thông vận tải đối với việc lưu thông hàng hóa ở  
miền Nam Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng hòa (1955­1975) , Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 
11 năm 2016.
3. Kiều Lê Công Sơn (2017), Chính sách ngoại thương của chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở  
miền Nam Việt Nam từ năm 1955 đến năm 1963, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 4 năm 2017.



×