Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Triết học: Vấn đề phát triển con người ở tỉnh Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.71 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

HOÀNG THANH SƠN

VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI
Ở TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 9229001

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2019


CÔNG TRÌNH ĐƢỢC HOÀN THÀNH TẠI
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

Người hướng dẫn khoa học:
1: GS.TS. Hồ Sĩ Quý
2: PGS.TS. Lê Thị Thủy

Phản biện 1: .................................................
Phản biện 2: .................................................
Phản biện 3: .................................................

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại


Học viện Báo chí và Tuyên truyền
vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm 2019

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
Thư viện Quốc gia, Hà Nội
Học viện Báo chí và Tuyên truyền


DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Hoàng Thanh Sơn (2017), “Những thành tựu nổi bật trong mở rộng môi
trường giáo dục và nâng cao năng lực lựa chọn cho con người ở tỉnh Vĩnh
Phúc”, Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số đặc biệt tháng 12/2017
2. Hoàng Thanh Sơn (2018), “Phát triển y tế nhằm mục tiêu phát triển bền
vững con người ở tỉnh Vĩnh Phúc”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 265
(tháng 2/2018)
3. Hoàng Thanh Sơn (2018), “Thực hiện quyền con người của Nhà nước Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số đặc
biệt tháng 12/2018


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người trong mọi thời đại luôn là vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong
nghiên cứu của nhiều nhà triết học cũng như của các học giả ngành khoa học xã hội
và nhân văn, đồng thời nó cũng là chủ đề được đặc biệt quan tâm của nhiều tổ chức
quốc tế và của chính phủ các quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, trước sự phát

triển nhanh chóng của cách mạng công nghệ lần thứ 4, nhân tố con người đang ngày
càng giữ vị trí quyết định cho mọi sự tăng trưởng. Vấn đề PTCN vì thế được hầu hết
các quốc gia đặc biệt quan tâm trong chiến lược và các chính sách phát triển của
mình.
Trên thực tế, vấn đề PTCN trong giai đoạn hiện nay đang đối mặt với nhiều
hiện tượng cấp bách mang tính toàn cầu như tình trạng đói nghèo, nạn suy dinh
dưỡng do thiếu lương thực, bệnh dịch bệnh hiểm nghèo và tình trạng yếu kém trong
chăm sóc sức khỏe cộng đồng, nạn ô nhiễm môi trường và nguy cơ cạn kiệt tài
nguyên, giáo dục ở nhiều nước bất cập và có cả khủng hoảng, tệ tham nhũng và suy
thoái đạo đức, văn hóa v.v… Chính phủ nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế đang
từng ngày từng giờ tìm cách giải quyết nhằm hướng đến xây dựng một cộng đồng thế
giới lành mạnh hơn sao cho mỗi người đều có việc làm và thu nhập ổn định, được
sống trong môi trường hòa bình, an toàn và bình đẳng, được chăm sóc sức khỏe, được
học tập và được đảm bảo về đời sống tinh thần.
Ở Việt Nam, vấn đề PTCN từ rất sớm đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta đặt vào vị trí quan trọng của các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng
CNXH. Đặc biệt, trong hơn 30 năm qua, bằng việc thay đổi cơ chế quản lý kinh tế,
thực hiện chính sách mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới, đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh; công cuộc đổi mới toàn diện đã mở rộng không gian phát triển, đời sống
mọi mặt của con người ngày càng được nâng cao.
Mặc dù vậy, sự nghiệp PTCN ở nước ta hiện nay đang còn nhiều khó khăn,
phải đối mặt với nhiều vấn đề về thu nhập, về môi trường sống, về giáo dục, y tế, văn
hóa, đạo đức... Đại hội lần thứ XII của Đảng xác định PTCN toàn diện là một trong
những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước trong giai đoạn 2016 -2020; trong 6
nhiệm vụ trọng tâm thì có 4 nhiệm vụ đề cập đến vấn đề con người. Sau Đại hội, các
Nghị quyết Hội nghị trung ương, đặc biệt Nghị Quyết 6 và 8 khóa XII, trên thực tế,
có liên quan trực tiếp đến những vấn đề về PTCN. Nghĩa là để giải quyết được các
vấn đề kinh tế - xã hội thì PTCN phải được coi là vấn đề cần đặc biệt quan tâm và
được chú trọng giải quyết.

Là tỉnh mới được tái lập, trong hơn 30 năm đổi mới, Vĩnh Phúc đã trở thành
tỉnh tăng trưởng kinh tế nhanh, công nghiệp tương đối phát triển, đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao, chỉ số HDI cũng được cải thiện
rất đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Vĩnh Phúc vẫn còn những hạn chế không nhỏ.
Đó là sự phân hoá giàu nghèo có dấu hiệu ngày càng tăng; giáo dục các cấp, các vùng
miền còn nhiều bất cập; thực trạng y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng còn chưa đạt
tới trình độ kỳ vọng; đạo đức xã hội xuống cấp; những tệ nạn xã hội có dấu hiệu ngày
càng phức tạp hơn trước,... đó là những vấn đề khách quan. Về phía chủ quan, việc
coi PTCN như nhiệm vụ xuyên suốt trong các hoạt động công quyền, thực sự đặt con


2

người vào trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội cũng chưa phải đã được nhận
thức và thực hiện thật tốt. Việc chỉ đạo và giải quyết những vấn đề phát sinh về
PTCN trong thực tiễn nhiều lúc chưa kịp thời, chưa triệt để… Tất cả những hạn chế,
yếu kém, bức xúc đó, trên thực tế tạo thành vấn đề về PTCN ở Vĩnh Phúc - cả về mặt
lý luận và cả về phương diện thực tiễn.
Với tất cả những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh
Phúc giai đoạn hiện nay, thì PTCN, trên thực tế, là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, đóng vai trò là mục tiêu, là động lực của việc giải quyết các vấn đề về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội… Để Vĩnh Phúc đạt được kỳ vọng về sự phát triển nhanh
và bền vững cho phù hợp với yêu cầu của thời kỳ CNH, HĐH trong điều kiện hội
nhập quốc tế hiện nay, thì vấn đề PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc cần phải được nhận diện
chính xác, nghiên cứu đủ sâu, đánh giá đúng thực trạng, phát hiện đúng vấn đề đặt ra
và có giải pháp giải quyết đúng đắn và hợp lý. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Vấn đề phát
triển con người ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay”vơi mong muốn góp phần vào việc nghiên
cứu đó.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích của luận án

Trên cơ sở quan điểm triết học Mác - Lênin về con người và PTCN, luận án
nghiên cứu vấn đề PTCN ở tỉnh Vĩnh phúc hiện nay, đánh giá những thành tựu, phát
hiện những vấn đề đặt ra từ thực trạng PTCN trên địa bàn tỉnh, từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Phân tích và làm rõ quan điểm của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam và của UNDP về PTCN để xác định
khung lý thuyết của luận án. Trong chừng mực mà việc nghiên cứu vấn đề đặt ra,
luận án xác định những tiêu chí cơ bản để đánh giá sự PTCN, chỉ ra và phân tích
những tiền đề khách quan và chủ quan của PTCN.
- Nghiên cứu thực trạng PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc từ khi tái lập tỉnh đến nay,
phân tích và đánh giá những thành tựu đã đạt được và xác định những vấn đề đặt ra
cũng như nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế đó đối với sự PTCN ở tỉnh
Vĩnh Phúc.
- Đề xuất các giải pháp nhằm PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Thực trạng PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Không gian nghiên cứu là toàn bộ địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Thời gian được chọn để nghiên cứu chủ yếu là từ khi Vĩnh Phúc tái lập tỉnh
năm 1997 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
- Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử.
- Luận án được thực hiện trên cơ sở các chỉ dẫn lý luận và phương pháp luận
về con người và PTCN của C.Mác - Ph.Ăngghen; tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí



3

Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam; các văn kiện, Nghị quyết của
Đảng Cộng sản Việt Nam có liên quan trực tiếp đến PTCN.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phù hợp với phương pháp luận biện chứng duy vật, luận án sử dụng các
phương pháp như logic, lịch sử; phân tích, hệ thống hoá, quy nạp, diễn dịch, so sánh,
các phương pháp thống kê,…
- Luận án sử dụng các Báo cáo PTCN toàn cầu của UNDP từ 1990 đến nay;
các Báo cáo PTCN của Việt Nam; các báo cáo kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc có
liên quan đến PTCN… với tính cách là các chỉ dẫn lý thuyết, cũng đồng thời là nguồn
số liệu thực tiễn đủ tin cậy để phân tích lý luận và đánh giá thực tiễn Vĩnh Phúc.
- Luận án chú trọng kế thừa những kết quả của các nghiên cứu lý luận và thực
tiễn có liên quan đến đề tài của các tác giả đi trước.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án xác định và phân tích được thành tựu PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc, chỉ ra
được những nguyên nhân chủ yếu tạo nên những thành tựu đó.
- Luận án xác định được 5 vấn đề đặt ra đối với sự PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc giai
đoạn hiện nay.
- Luận án đề xuất được 6 giải pháp nhằm PTCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về PTCN.
- Luận án xác định được thực trạng con người ở tỉnh Vĩnh Phúc, chỉ ra được 5
vấn đề đặt ra từ thực tiễn đòi hỏi phải được quan tâm giải quyết .
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu trong giảng dạy đại học, cao đẳng và
trong các nghiên cứu chuyên đề có liên quan đến con người, PTCN và PTCN ở tỉnh
Vĩnh Phúc.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tổng quan tình

hình nghiên cứu nội dung của luận án gồm 3 chương, 13 tiết.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến luận án
1.1. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến lý luận chung về PTCN
Vấn đề PTCN đã được nhiều nhà khoa học như Phạm Minh Hạc, Đặng Hữu
Toàn, Nguyễn Văn Huyên, Hồ Sĩ Quý… đề cập trên nhiều phương diện khác nhau.
Xuất phát từ quan điểm PTCN là trung tâm của mọi sự phát triển kinh tế, xã hội. Các
công trình nghiên cứu thường tập trung vào các khía cạnh như: PTCN toàn diện với
tính cách là mục tiêu mà xã hội cần phải xây dựng với những năng lực cần có; PTCN
cần định lượng bằng các thước đo xã hội, PTCN là cơ sở của sự phát triển xã hội…
Ngoài những nội dung trên, luận án còn tổng quan những kiến giải lý luận về PTCN
về phương diện xã hội, về thể lực, về trí lực, bộ công cụ HDI, chỉ số PTCN và vai trò
vấn đề xóa đói, giảm nghèo trong tương quan với trình độ PTCN hiện nay.

1.2. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến thực trạng PTCN ở Việt Nam


4

Các công trình nghiên cứu về thực trạng PTCN ở Việt Nam (chẳng hạn, Con người
và PTCN của Hồ Sĩ Quý, Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá của Phạm Minh Hạc, PTCN ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải
pháp của Phùng Danh Cường, Một số vấn đề cơ bản về PTCN Việt Nam (Đề tài khoa
học do Mai Quỳnh Nam làm chủ nhiệm…) thường tập trung vào đánh giá những thành
tựu và hạn chế trong xây dựng con người toàn diện, với tính cách vừa là chủ thể, vừa là
khách thể của công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta, các công trình nghiên cứu thực
trạng PTCN trên phạm vi quốc gia thường đánh giá định tính về các vấn đề nổi cộm về
các mặt văn hóa, đạo đức, lối sống… trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế. Để nghiên cứu thực trạng PTCN ở cấp địa phương thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, ngoài việc

xem xét những nhân tố khách quan và chủ quan tác động đến PTCN, bên cạnh việc đánh
giá những thành tựu, luận án tổng quan những hạn chế trong PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc,
đây là những vấn đề nổi cộm thể hiện sự phát triển không tương xứng giữa phát triển
kinh tế, xã hội với PTCN, giữa PTCN về thể lực với trí lực, giữa trình độ PTCN ngày
càng cao với vấn đề đói nghèo.

1.3. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến định hướng và giải pháp PTCN ở
Vệt Nam
Các công trình nghiên cứu về PTCN thường đưa ra nhiều giải pháp và nhấn mạnh
các giải pháp căn bản, chủ yếu tác động đến PTCN, vì các công trình nghiên cứu trên
phạm vi quốc gia nên thường đưa ra các chính sách vĩ mô để đầu tư vào mục tiêu PTCN
(Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá do Phạm
Minh Hạc làm chủ biên, Báo cáo Quốc gia về PTCN năm 2011, Báo cáo PTCN năm
2015 của UNDP, PTCN vùng Tây Bắc nước ta của Phạm Thành Nghị…). Luận án
tiếp thu những quan điểm đó và tiếp tục đưa ra những chính sách vi mô, mang tính đặc
thù để xây dựng hệ thống các giải pháp cho PTCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh nhằm mục tiêu cao nhất đem lại đời sống ấm no
hạnh phúc cho nhân dân.

1.4. Những công trình nghiên cứu PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc
Hiện nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc,
tuy nhiên, có một số công trình ít nhiều có nội dung liên quan đến vấn đề này thường tập
trung ở nghiên cứu nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, hoặc
được thể hiện trong các chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Tỉnh ủy và UBND tỉnh
thông qua các bản quy hoạch, các chính sách cụ thể về phát triển công nghiệp, nông
nghiệp, về y tế, giáo dục, dân số…(Địa chí Vĩnh Phúc (dự thảo, 2012) do Nguyễn
Ngọc Thanh và Nguyễn Thế Trường chủ biên; Nghiên cứu, điều tra tình hình đời
sống kinh tế xã hội bộ phận còn nghèo đói vùng dân tộc miền núi trong tỉnh (2004)
(đề tài khoa học Cấp cơ sở của Lê Văn Phòng); Những biến đổi kinh tế - xã hội ở
Vĩnh Phúc từ khi tái lập tỉnh đến nay (1997-2005) của Nguyễn Thế Trường, Cuốn

sách Vĩnh Phúc 10 năm một chặng đường phát triển (1997-2007) do Tỉnh Ủy – Hội
động nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc phát hành, Văn kiện đại hội Đảng
bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XII, XIII, XIV, XV, XVI, Những biến đổi kinh tế - xã hội
ở Vĩnh Phúc từ khi tái lập tỉnh đến nay (1997-2005) của Nguyễn Thế Trường...). Tuy
nhiên, luận án tham khảo những dữ liệu này định lượng đánh giá trình độ PTCN trên địa
bàn tỉnh.
2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu


5

Các công trình nghiên cứu về vấn đề PTCN ở nước ta đã hệ thống hóa, phân
tích, làm rõ ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của những quan điểm của Chủ
nghĩa Mác – Lênin, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam và các
bộ công cụ đánh giá chỉ số PTCN của UNDP vào nghiên cứu thực trạng PTCN ở
nước ta. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào vận dụng các quan niệm này vào
nghiên cứu PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc. Do đó, luận án nghiên cứu và làm rõ những nội
dung cơ bản sau:
Một là, khái niệm PTCN rất rộng, trong khuôn khổ luận án, việc nghiên cứu
quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng
sản Việt Nam và của UNDP là nhằm xây dựng khung lý thuyết và những tiêu chí để
nghiên cứu PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay. Các tiêu chí cơ bản đó là: sự PTCN ở
tỉnh Vĩnh Phúc về mặt thu nhập, về mặt thể lực, về trí lực, về lĩnh vực văn hóa tinh
thần, đánh giá qua chỉ số HDI và trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo.
Hai là, luận án xem xét những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan ảnh
hưởng đến PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc. Dựa vào những tiêu chí xác định, luận án đánh
giá những thành tựu đã đạt được, phát hiện những vấn đề trong phát triển kinh tế, xã
hội nói chung, trong PTCN nói riêng.
Ba là, để thực hiện mục tiêu PTCN cần có một hệ thống giải pháp mang tính
đồng bộ, từ việc kế thừa kết quả nghiên cứu ở các công trình đi trước, luận án tiếp tục

đưa ra những giải pháp vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù trên các
phương diện nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể và
nhân dân và trên các mặt phát triển kinh tế, y tế, văn hoá, giáo dục và trên lĩnh vực
xoá đói, giảm nghèo nhằm mục tiêu xây dựng và PTCN bền vững.
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI VÀ PTCN
1.1. Quan điểm triết học Mác-Lênin về PTCN

1.1.1. Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người

Con người là một thực thể sinh học - xã hội - Con người là “thực thể tự nhiên có tính
chất người"
Hoạt động cơ bản của con người là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất của những cá
nhân nắm quyền làm chủ tư liệu sản xuất nhất định, hoạt động trong khuôn khổ của những
quan hệ sản xuất và giao tiếp nhất định
Con người không chỉ là sản phẩm thuần túy của hoàn cảnh, mà con người là chủ thể
của hoàn cảnh, giữ vai trò quyết định của sự vận động của lịch sử
Bản chất con người không phải là bất biến, mà nó luôn vận động, biến đổi cùng với sự
biến đổi của hoàn cảnh sống, của thời đại, gắn liền với phương thức sản xuất của một chế độ
xã hội nhất định.

1.1.2. Quan điểm triết học Mác – Lênin về phát triển con người
1.1.2.1. Sự PTCN gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội và những hoạt động của
chính bản thân con người
Khi nghiên cứu về con người và PTCN, C.Mác và Ph.Ăngghen luôn xem xét
con người trong tiến trình lịch sử, gắn với những hoạt động lao động sáng tạo của con
người - con người hiện thực, con người gắn với thực tiễn.
Con người vừa là chủ thể quyết định mọi sự biến đổi kinh tế, xã hội, đồng thời



6

cũng là sản phẩm của lịch sử, thông qua hoạt động thực tiễn mà con người ngày càng
hoàn thiện mình hơn, sự PTCN là kết quả tất yếu của chính những hoạt động sống
của con người.
1.1.2.2. Con người phát triển toàn diện
PTCN là con người được tự do và được làm chủ, hoạt động của con người là
hoạt động để vươn tới “vương quốc tự do”
PTCN là sự phát triển đầy đủ cá tính, năng khiếu của cá nhân, từ đó, mỗi người
tự hoàn thiện mình.
PTCN là sự phát triển các giá trị văn hóa người
1.1.2.3. PTCN gắn liền với khắc phục tình trạng tha hoá người
Để PTCN phải tạo ra những điều kiện kinh tế - xã hội để con người thoát khỏi
mọi sự “nô lệ”,đưa con người thực sự làm chủ, trở thành chủ thể của xã hội, đưa con
người thoát khỏi mọi tình trạng tha hóa. Vì vậy, muốn giải phóng và PTCN thì con
người phải tự tạo nên hoàn cảnh, phải xóa bỏ chế độ xã hội cũ xây dựng chế độ xã
hội mới xã hội chủ nghĩa mở ra những điều kiện kinh tế - xã hội là tiền đề cho việc
nâng cao mọi mặt đời sống của con người và cũng chính từ đó con người mới có dần
bước lên trở thành chủ thể thực sự của xã hội, mới làm chủ sự phát triển của chính
bản thân mình. Lúc đó, phát triển kinh tế xã hội mới thực sự là của con người, do con
người và vì con người theo đúng nghĩa của nó là mọi sự phát triển trở về mục đích
cao nhất là phục vụ sự PTCN.
1.1.2.4. Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất
cả mọi người
Sự phát triển của lịch sử gắn liền với sự phát triển của con người, mà động lực
của sự phát triển xã hội xuất phát từ nhu cầu, mục đích của chính con người, tức là
mục đích tự thân con người.
PTCN không chỉ nâng cao đời sống vật chất con người trên cơ sở của phát triển
kinh tế, mà quan trọng hơn phải nâng cao trình độ, năng lực của họ, trong công việc
đó thì giáo dục được coi là yếu tố nền tảng để đưa con người có đủ “năng lực” làm

chủ của mình và tất nhiên, để xây dựng con người phát triển toàn diện thì phải giáo
dục toàn diện.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, mục đích của sự phát triển kinh tế, xã hội hay mọi sự
phát triển, tiến bộ xã hội phải lấy sự PTCN làm thước đo vì suy cho đến cùng mọi sự
tiến bộ đó suy cho đến cùng là nhằm PTCN, “vì “sự phát triển phong phú bản chất con
người”. Chỉ có con người mới có mục đích tự thân vì sự tiến bộ của con người”(1)
1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về con
người và PTCN

1.2.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về con
người
Vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và PTCN,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định con người, cụ thể là quần chúng nhân dân
luôn là mục tiêu, là động lực của cách mạng, của sự phát triển kinh tế - xã hội. “Mục
tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người”; “lợi ích của
mỗi người, của từng tập thể và của toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi
1

Hồ Sĩ Quý (2007), Con người và PTCN, Nxb Giáo dục, tr.101


7

ích cá nhân là động lực trực tiếp”(2).
Trong mọi thời kỳ cách mạng và đặc biệt trong thời kỳ đổi mới đất nước hiện
nay, Đảng ta luôn coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế, xã hội phải đảm bảo mục tiêu vì hạnh phúc của
nhân dân và do chính nhân dân xây dựng lên. Nhân dân lao động vừa là chủ thể, vừa
là khách thể của xã hội, do đó, phải đặt “Con người và sự PTCN được đặt vào vị trí
trung tâm của chiến lược kinh tế - xã hội, mở rộng cơ hội, nâng cao điều kiện cho con

người phát triển”(3).

1.2.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về PTCN
1.2.2.1. PTCN về mặt thể lực
PTCN trước tiên là việc nâng cao thể lực cho cá nhân và của cả cộng đồng, vì
sức khỏe của con người là nguồn nước đầu tiên của lao động sản xuất, thể lực là yếu
tố vật chất tác động trực tiếp đến tuổi thọ, đến việc nâng cao trí tuệ, tinh thần để con
người có khả năng tham gia vào xã hội.
Để nâng cao thể lực cho người dân, phải nâng cao đời sống vật chất, nâng cao
mức thu nhập của nhân dân bằng các chính sách phát triển kinh tế, xã hội tạo điều
kiện đảm bảo sự bình đẳng, người dân được làm giàu bằng chính sức lực của mình.
Đẩy mạnh các hoạt động và huy động các nguồn lực về y tế, thể thao nhằm nâng
cao sức khỏe cho nhân dân và giáo dục ý thức về chăm sóc sức khỏe cộng đồng cho
nhân dân.
1.2.2.2. PTCN về mặt trí lực
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn quan tâm đến phát triển giáo dục và đào
tạo nhằm xây dựng dựng con người phát triển toàn diện cả về thể lực và trí lực. Phát
triển giáo dục và đào tạo nhằm xây dựng con người có đủ tri thức, năng lực chuyên
môn để mỗi người làm chủ cuộc sống, trở thành chủ thể thực sự trong các hoạt động
lao động sản xuất và trong hoạt động sáng tạo cá nhân.
Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII đã xác định rõ: “Phải thực sự coi giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu”, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài cho đất nước.
Xây dựng và thực hiện tốt các chính sách ưu tiên, hỗ trợ cho các hoạt động giáo
dục, đặc biệt là ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn,
tạo điều kiện, cơ hội, sự bình đẳng cho mọi người tham gia vào giáo dục, giúp nâng
cao trình độ dân trí, đào tạo nhân lực, đảm bảo cho con người phát triển toàn diện
trên cơ sở của sự phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.2.3. PTCN về mặt văn hóa, tinh thần
Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng ta xác định văn hóa là nền tảng, là mục tiêu

của xã hội, nhiệm vụ cao nhất của cách mạng là xây dựng nền văn hóa mới, con người
mới, đó là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mục tiêu xây dựng nền văn hóa
mới nhằm làm cho “con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực
sáng tạo, ý thức công dân”(4)
2

Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991 – 2000, Nxb Sự Thật, Hà
Nội, tr.8
3
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005): Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới 1986 - 2006,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.79
4
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.127


8

Giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa trong PTCN, kinh tế và văn
hóa có mối quan hệ mật thiết, làm tiền đề phát triển cho nhau, khi kinh tế phát triển
trong bản thân nó đã chứa đựng những yếu tố văn hóa, đến lượt mình thì phát triển
văn hóa lại mở đường, trở thành động lực cho phát triển kinh tế, không có kinh tế
thuần túy ngoài văn hóa và ngược lại không có văn hóa ngoài kinh tế.
1.3. Quan điểm PTCN của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP)

1.3.1. Con người là trung tâm, PTCN là mục tiêu tối thượng của sự phát triển kinh
tế, xã hội, hướng tới sự PTCN toàn diện, bền vững
Của cải, tài sản đích thực của quốc gia là con người chứ không phải của cải vật
chất, kinh tế, nói đúng hơn, con người mới thực sự là mục tiêu của mọi sự phát triển
kinh tế xã hội, mọi yếu tố của xã hội chỉ như là phương tiện để PTCN và lấy PTCN
làm thước đo cao nhất để đánh giá tính ưu việt của đường lối, chính sách cũng như

hiệu quả của các chương trình kinh tế, xã hội.
Con người là nhân tố quyết định của sự phát triển chính bản thân con người,
nghĩa là PTCN phải do chính con người thực hiện.
PTCN cần phải đảm bảo tính toàn diện, chú ý đến tất cả các tầng lớp người, không
phân biệt chủng tộc, giai cấp, tôn giáo, giới tính... Hướng tới việc tạo ra sự bình đẳng về
cơ hội cho tất cả mọi người, đồng thời quan tâm đến việc phân bổ các yếu tố đảm bảo
tính công bằng cho các nhóm người trong xã hội. Trong tính toàn diện của nó bao hàm
cả tính bền vững, có nghĩa là sự phát triển hiện tại phải là cơ sở sự phát triển trong tương
lai, được duy trì và nâng cao hơn từ thế hệ này sang thế hệ khác.

1.3.2. PTCN là sự mở rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa chọn cơ hội cho
con người
Theo quan điểm của UNDP, Phát triển con người là tạo ra một môi trường mà ở
đó con người có thể phát triển đầy đủ tiềm năng của mình và sống một cuộc sống
hạnh phúc phù hợp với nhu cầu và hạnh phúc của họ… Điều cơ bản của việc mở rộng
cơ hội lựa chọn của con người là tăng cường năng lực lựa chọn cơ hội cho con người.
PTCN là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn để con người có thể nâng cao chất
lượng cuộc sống toàn diện của chính mình một cách bền vững, để “nâng cao năng lựa
chọn” cho con người phải đảm bảo những nhu cầu thiết yếu cho con người, đó là nhu
cầu tối thiểu và nhu cầu mở rộng: Nhu cầu tối thiểu là nhu cầu về ăn uống, ở, đi lại,
học hành, thể thao… hình thành những năng lực về sức khỏe, tay nghề lao động, tri
thức, văn hóa… đây là những năng lực cơ bản, nền tảng để hình thành những năng
lực khác cao hơn.
Mở rộng cơ hội lựa chọn cho con người, nghĩa là mở rộng các điều kiện, môi
trường xã hội để con người tham gia vào các hoạt động xã hội một cách tự do, bình
đẳng, không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo… để mỗi người tự thể hiện, phát
huy và nâng cao năng lực của mình.
Bình đẳng là nguyên tắc cơ bản cho PTCN, mặc dù việc chú ý nâng cao năng
lực cho tất cả mọi người sẽ giúp con người tham gia vào xã hội để tự chủ phát triển
bản thân mình, nhưng nếu thiếu sự công bằng trong cơ hội lựa chọn thì khó có thể

đảm bảo tính bền vững, hiệu quả trong PTCN.

1.3.3. Bộ công cụ HDI và các công cụ bổ sung là thước đo định lượng trình độ PTCN
1.3.3.1 Bộ công cụ HDI
UNDP sử dụng ba chỉ số cơ bản là tuổi thọ, giáo dục và mức sống để xây dựng


9

chỉ số tổng hợp đánh giá trình độ PTCN, gọi tắt là chỉ số HDI (Human Development
Index). HDI là giá trị trung bình của 3 chỉ tiêu: Mức sống, đo bằng giá trị GDP tính
bình quân đầu người thực tế theo sức mua tương đương (Purchasing Power Parity PPP); Khả năng sống lâu, đo bằng tuổi thọ trung bình của cộng đồng; Trình độ giáo
dục, tính tổng hợp theo tỷ lệ biết chữ của người lớn và tỷ lệ đi học tiểu học, trung học
và đại học.
HDI không chỉ phản ánh trạng thái và những tiến bộ về PTCN, mà còn là căn cứ
để đảng và nhà nước các quốc gia lựa chọn và đề ra mục tiêu, chính sách phát triển
kinh tế, xã hội.
1.3.3.2. Các bộ công cụ bổ sung trong đánh giá trình độ PTCN
Các HDI chi tiết như: GEM - Số đo quyền lực giới tính; GDI - Chỉ số phát triển
giới tính; HPI - Chỉ số nghèo khổ, chỉ số MPI - Chỉ số nghèo đa chiều, Chỉ số nghèo
khổ tổng hợp (Human Poverty Index - HPI)… như là sự bổ sung cho việc đánh giá
trình độ PTCN ở các quốc gia.
Tóm lại, con người và PTCN luôn được quan tâm trong suốt tiến trình lịch sử,
đặc biệt trong thời đại ngày nay, con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử mà còn
là chủ thể sáng tạo ra lịch sử đó, mặc dù trong mỗi thời kỳ việc xem xét con người và
PTCN được tiếp cận ở các góc độ khác nhau, song con người luôn là trung tâm của
xã hội, là mục tiêu của sự phát triển. Trên cơ sở kế thừa quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Chương
trình phát triển Liên Hợp Quốc về PTCN, trong luận án này chúng tôi tập trung vào
các nội dung để làm cơ sở cho việc nghiên cứu PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc trong giai

đoạn hiện nay.

1.4. Những tiêu chí đánh giá PTCN ở Vĩnh Phúc
PTCN vốn đã là một phạm trù rộng nhưng trong khoa học hiện đại, PTCN ngày càng
được các nhà nghiên cứu lượng hóa các nội dung chi tiết để nó phản ánh chính xác hơn,
toàn diện hơn thực tế phát triển con người. Hiện nay, các nội dung nghiên cứu về PTCN đã
được các chuyên gia UNDP lượng hóa thành hàng trăm chỉ số, nhằm phản ánh cả những
những khía cạnh đạo đức, văn hóa, xã hội… của sự phát triển con người ở các xã hội khác
nhau. Dù chưa thể đạt đến mức toàn diện, bao quát như đòi hỏi từ phương diện triết học,
nhưng PTCN theo tinh thần của LHQ đã khá bao quát, đã tính đến các chiều cạnh văn hóa,
xã hội, đạo đức… chứ không chỉ đơn thuần gói gọn giản đơn trong các chỉ số về kinh tế,
giáo dục và sức khỏe, như có quan niệm đã lầm tưởng.
Trong việc xác định những tiêu chí đánh giá PTCN, luận án này dựa vào các quan
điểm phương pháp luận về PTCN của triết học Mác - Lênin, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của
Đảng Cộng sản Việt Nam và của UNDP về con người và PTCN; bao gồm các nội dung sau:
- PTCN là trung tâm của mọi sự phát triển, là mục tiêu và động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội. PTCN là nhằm tới sự phát triển ngày càng hoàn thiện của chính con
người.
- PTCN là sự phát triển ngày càng hoàn thiện về thể lực, trí lực và về văn hoá, tinh
thần.
- PTCN là sự mở rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa chọn cho con người.
Sự mở rộng và nâng cao này được định lượng bằng thước đo cụ thể (chỉ số HDI và
các chỉ số mở rộng)
Dựa trên hệ thống lý luận đã nghiên cứu, vận dụng vào nghiên cứu thực tiễn PTCN ở
tỉnh Vĩnh Phúc, theo chúng tôi, khung lý thuyết PTCN được áp dụng ở tỉnh Vĩnh Phúc về cơ


10
bản là: Đó là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ chưa toàn diện đến toàn diện hơn về đời
sống vật chất và tinh thần, được thể hiện ở các phương diện: a). Thu nhập, b). Thể lực, c)

Trí lực, d). Văn hóa, tinh thần cũng như sự hài hòa giữa các yếu tố này. PTCN ở tỉnh Vĩnh
Phúc là sự mở rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa chọn cho người dân để người
dân vừa là chủ thể thực sự, tích cực của quá trình phát triển, và bản thân sự phát triển của
con người trên toàn địa bàn tỉnh vừa là mục tiêu cao nhất của mọi sự phát triển.
Từ quan niệm này, chúng tôi xây dựng những tiêu chí cụ thể trong nghiên cứu PTCN ở
tỉnh Vĩnh Phúc bao gồm các nội dung sau:

1.4.1. Sự PTCN ở Vĩnh Phúc về mặt kinh tế và thu nhập
Đánh giá PTCN trên phương diện xã hội thì thu nhập là yếu tố đầu tiên phản ánh
mức sống của con người, là điều kiện để duy trì đời sống, là điều kiện để nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của mình. Trên cơ sở đó, mỗi người mỗi người có điều
kiện vật chất để tham gia vào các hoạt động y tế, giáo dục, văn hoá, tinh thần để nâng
cao sức khoẻ, nâng cao tay nghề, cũng như tri thức của mình.
Góc độ thu nhập trong PTCN được đánh giá ở chỉ số thu nhập, ở mức độ thu
nhập thường xuyên đảm bảo nhu cầu thiết yếu và phát triển của con người, thể hiện ở
mức thu nhập tăng trưởng hàng năm, tính ổn định thu nhập trong các ngành kinh tế
trong cơ cấu kinh tế của vùng miền. Ngày nay khi đánh giá về PTCN, Chương trình
phát triển Liên hợp quốc đã chỉ ra một trong những thước đo quan trọng nhất đánh
giá sự tiến bộ của biến đổi cơ cấu kinh tế trong đảm bảo mục tiêu thu nhập là hướng
về người lao động, từ đó điều chỉnh sự phát triển kinh tế phục vụ mục tiêu PTCN.
1.4.2. Sự PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc qua tương quan giữa các chỉ số thành phần
của bộ công cụ HDI
Đối với Đảng bộ và các cấp chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc, PTCN trên thực tế
luôn gắn với những điều kiện kinh tế, xã hội và với những hoạt động của chính bản
thân các cộng đồng cư dân. PTCN luôn được quán triệt là trung tâm, là mục tiêu và là
động lực của tất cả các hoạt động kinh tế, xã hội.
Theo đó, PTCN là nhân tố chi phối, quy định và quyết định các yếu tố kinh tế,
xã hội, giáo dục, y tế còn các nhân tố khác chỉ là điều kiện, là cơ sở, tiền đề cho
PTCN. Về mặt lý thuyết, trình độ PTCN là thước đo cao nhất cả về định tính lẫn định
lượng để đánh giá các giá trị này. “Mục đích của phát triển là để tạo ra môi trường

thuận lợi cho phép con người được hưởng cuộc sống dài lâu, khỏe mạnh và sáng tạo”
[112, tr.148], PTCN không phải là phương tiện mà là mục tiêu của sự phát triển, con
người đóng vai trò là yếu tố quyết định cả “đầu vào” và ở cả “đầu ra” trong quá trình
phát triển, PTCN thường được xem xét ở cả yếu tố bên ngoài (mở rộng các cơ hội lựa
chọn) và cả yếu tố bên trong (nâng cao năng lực lựa chọn cơ hội cho con người), bộ
công cụ HDI của Chương trình này là thước đó đánh giá những tiến bộ đạt được của
mỗi quốc gia và toàn thể nhân loại đối trong PTCN. Khi nghiên cứu PTCN ở phạm vi
tỉnh thành của quốc gia mà cụ thể trong luận án nghiên cứu PTCN ở địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc hiện nay, việc sử dụng lý thuyết PTCN của UNDP là rất cần thiết để định
lượng những tiêu chí cụ thể về PTCN và đặc biệt đánh giá những tiến bộ và những
mặt hạn chế để từ đó đề ra các giải pháp phát triển kinh tế, xã hội đảm bảo đúng định
hướng vì mục tiêu PTCN.
Chỉ số HDI của UNDP là thước đo định lượng đánh giá trình độ PTCN được sử
dụng rộng rãi trên thế giới và ở Việt Nam, chỉ số HDI được đo bằng chỉ số trung bình


11

của 3 chỉ số thành phần: Chỉ số thu nhập, chỉ số y tế và chỉ số giáo dục, việc sử dụng bộ
công cụ HDI đảm bảo tính phổ biến đánh giá trình độ PTCN vượt qua khỏi những khác
biệt về phạm vi vùng miền, phạm vi quốc gia cho chúng ta bộ công cụ đo đạc đánh giá,
so sánh những tiến bộ đạt được của cộng đồng ở mục tiêu PTCN. Đồng thời, đây cũng là
công cụ để đánh giá tương quan giữa thu nhập với giáo dục và y tế để đánh giá sự phát
triển kinh tế đã vì mục tiêu PTCN hay chưa, những tiêu chí này được các quốc gia sử
dụng vào đánh giá trình độ PTCN ở tỉnh trong các báo cáo thường niên.
1.4.3. Sự PTCN ở Vĩnh Phúc qua hoạt động xoá đói, giảm nghèo
Tình trạng đói, nghèo luôn được nhiều quốc gia quan tâm kể cả với các quốc gia
phát triển. Trong thời đại ngày nay, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của ác quốc gia, sự
phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng cộng thêm nữa là khủng hoảng kinh tế luôn có
nguy cơ đẩy một bộ phần lớn người lao động rơi vào tình trạng thất nghiệp, nợ nần…

Vì thế mà Liên hợp quốc đã đưa vấn đề xoá đói, nghèo là mục tiêu quan trọng nhất
trong 8 mục tiêu của thiên niên kỷ (MDGs), nếu bỏ qua tiêu chí này thì chúng ta đã
bỏ quên một lớp người đang hứng chịu hậu quả của sự phát triển thiếu cân đối hiện
nay. Vấn đề đói, nghèo được đánh giá bằng tỉ lệ số người, hộ đói, nghèo, hộ cận
nghèo về mặt thu nhập; bên cạnh đó thì tình trạng “nghèo đa chiều” hiện nay xảy ra
không chỉ ở khu vực nông thôn, miền núi mà cả ở khu vực thành thị đang là vấn đề
nhức nhối. Vì vậy, việc bám sát vào những tiêu chí này mới đánh giá được những góc
khuất của PTCN trong khi GDP ngày càng cao.
1.4.4. Sự PTCN ở Vĩnh Phúc về mặt thể lực, trí lực và văn hoá, tinh thần
Sự PTCN về thể lực được thể hiện thông qua chỉ số tuổi thọ trung bình của
người dân, tình trạng sức khoẻ của người dân, số người dân được hưởng các dịch vụ
y tế (đặc biệt là trẻ em, người cao tuổi) điều này được phản ánh ở mức độ phát triển y
tế về số lượng, chất lượng, về y tế cộng đồng đảm bảo cho người dân có điều kiện
tham gia vào các dịch vụ y tế nâng cao sức khoẻ của mình.
Sự PTCN ở Vĩnh Phúc về mặt trí lực được đánh giá bằng bằng tỉ lệ số người
trong độ tuổi theo học, số người lao động có trình độ tay nghề qua đào tạo và bồi
dưỡng thường xuyên, đồng thời được thể hiện thông qua việc mở rộng quy mô và
nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng nhu cầu nâng cao kiến thức cho nhân dân.
Sự PTCN ở Vĩnh Phúc về mặt văn hóa, tinh thần bao gồm việc con người tham
gia vào sinh hoạt văn hoá được thể hiện thông qua các lễ hội truyền thống, trong bảo
tồn và lưu giữ các giá trị văn hoá cộng đồng, số lượt người tham gia vào các hoạt
động thư viện, các hoạt động sinh hoạt văn hoá, nghệ thuật. Bên cạnh đó còn được
thể hiện trong việc đầu tư các công trình văn hoá, xã hội phục vụ nhu cầu văn hoá
tinh thần của cộng đồng.
Tiểu kết chương 1
Trên cơ sở xuất phát coi con người là chủ thể của lịch sử, giải phóng PTCN là
mục tiêu cao nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác-Lênin xem xét
PTCN luôn gắn với những hoạt động kinh tế xã hội đồng thời là kết quả của những
hoạt động kinh tế xã hội đó. PTCN là sự phát triển toàn diện về đời sống vật chất, về
thể lực và trí lực của mình, sự phát triển toàn diện là kết quả lâu dài gắn với công

cuộc đấu tranh giải phóng con người, khắc phục tình trạng tha hóa người trong chế độ
tư hữu tư bản chủ nghĩa. Để đảm bảo con người phát triển toàn diện, giai cấp công


12

nhân phải tiến hành cuộc cách mạng vô sản lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập
chế độ xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ tình trạng nghèo nàn lạc hậu, tệ nạn xã hội, phát triển
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, xây dựng đời sống xã hội lành mạnh để mỗi người được
làm chủ, được nâng cao, trí lực của mình, từ đó sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Đây là cơ sở phương pháp luận
cho việc nghiên cứu con người cũng như xây dựng các chính sách PTCN ở mỗi quốc
gia, đó cũng là lý tưởng cao đẹp mà nhân loại đang hướng tới.
Vận dụng sáng tạo lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin vào cách mạng Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi con người mà cụ thể là quần chúng
nhân dân luôn là chủ thể, là động lực của cách mạng, PTCN là mục tiêu cao nhất của
công cuộc xây dựng CNXH, PTCN là sự phát triển toàn diện về thể lực, về trí lực, về
văn hoá tinh thần. Xây dựng con người mới luôn gắn với quá trình cách mạng của
dân tộc, sự nghiệp cách mạng XHCN là của con người, do con người và vì hạnh phúc
của con người. Trong thời kỳ đổi mới trên cơ sở nhận thức rõ mục tiêu là động lực
chính của sự phát triển là vì con người, do con người, đặt con người vào vị trí trung
tâm của chiến lược phát triển kinh tế xã hội, xác định rõ mọi chính sách xã hội đúng
đắn phải vì hạnh phúc con người và phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân.
Các chính sách của Đảng nhà nước đều quan tâm đến sự PTCN về mặt thể lực và trí
lực để đưa con người phát triển toàn diện. Tuy nhiên, để hạn chế những tác động tiêu
cực của kinh tế thị trường cũng như tác động của toàn cầu hóa, các chính sách về phát
triển kinh tế, giáo dục, y tế, văn hóa của Đảng và Nhà nước luôn được điều chỉnh và
bổ sung kịp thời để đảm bảo đúng định hướng cho phát triển toàn diện con người. Vì
thế, những thành tựu về phát triển kinh tế luôn gắn với những thành tựu trong PTCN.
Vào những năm 80 và 90 của thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học và công

nghệ đã thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển nhanh chóng, quá trình toàn cầu hóa
tác động đến sự phát triển của tất cả các quốc gia đem lại sự thịnh vượng giàu có cho
nhiều quốc gia dân tộc, cho nhiều người và cho cộng đồng thế giới nói chung. Tuy
nhiên, những thành quả kinh tế không phải lúc nào cũng đem đến sự tiến bộ, đem đến
đời sống ấm no hạnh phúc cho tất cả mọi người ở tất cả các quốc gia. Nhận thức được
vấn đề này, từ năm 1990, chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc đã xây dựng
báo cáo PTCN đưa ra cách tiếp cận cụ thể hơn về PTCN bằng chỉ số HDI, để đo đạc
đánh giá trình độ PTCN ở các quốc gia, chương trình này cũng xác định phải thực sự
coi con người là trung tâm là mục tiêu tối thượng của mọi sự phát triển. Vì thế, sự
phát triển của xã hội phải đảm bảo mở rộng các điều kiện xã hội để tất cả mọi người
được tham gia vào lao động sản xuất và nâng cao sức khỏe, nâng cao đời sống văn
hóa tinh thần, đồng thời phải nhằm nâng cao các năng lực cơ bản để mỗi người có thể
làm chủ bản thân mình, có thể tham gia và xã hội với tính cách là người chủ của xã
hội đó.
Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm về PTCN của chủ nghĩa Mác - Lênin,
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam và của Chương trình Phát triển
Liên Hợp Quốc, chúng tôi đưa ra các tiêu chí nghiên cứu để đánh giá thực trạng
PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
Chương 2
THÀNH TỰU VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI


13

Ở TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc

2.1.1. Những nhân tố khách quan

2.1.1.1. Điều kiện địa lý, lịch sử và văn hóa của tỉnh Vĩnh Phúc

Trải qua các thời kỳ lịch sử, địa giới của tỉnh Vĩnh Phúc có nhiều biến đổi to lớn,
ngày 01/01/1997 tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập sau khi tách ra từ tỉnh Vĩnh Phú, với địa
hình thuận lợi, Vĩnh Phúc nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của đồng bằng Bắc Bộ, có
điều kiện khí hậu hài hoà, ít chịu nhiều thiên tai, giao thông thuận lợi… đã ảnh hưởng ít
nhiều đến lối sống, văn hoá con người, hình thành những con người cởi mở, sống hài
hoà, thân thiện, tư duy đổi mới, dễ thích ứng với những biến đổi kinh tế, xã hội. Vĩnh
Phúc là một trong những tỉnh đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với nền kinh tế
phát triển nhanh tạo điều kiện cho việc nâng cao thu nhập cho người dân, tạo tiền đề
phát triển các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa phục vụ sự PTCN.
Vĩnh Phúc là một trong những cái nôi của văn hóa người Việt cổ, sáng tạo ra
nhiều giá trị văn hóa vật chất và tinh thần. Những giá trị đó đã làm hình thành nên
con người Vĩnh Phúc kiên cường, bất khuất trong đấu tranh, có lối sống giản dị, tiết
kiệm, có tinh thần hiếu học, cầu thị, có ý thức tìm tòi, cần cù lao động, đổi mới và
sáng tạo. Đây là những tiền đề, là hành trang để người Vĩnh Phúc phát huy truyền
thống tốt đẹp của mình tiếp tục đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, đưa người Vĩnh Phúc dần trở thành người làm chủ xã hội, từng bước xây
dựng cuộc sống phồn vinh và hạnh phúc.
2.1.1.2. Điều kiện kinh tế, giáo dục và y tế tác động trực tiếp đến PTCN ở tỉnh
Vĩnh Phúc
Kinh tế là nhân tố quyết định đầu tiên đối với đời sống của con người, nó phản
ánh ở mức độ thu nhập của con người, đảm bảo những điều kiện cho con người có cái
ăn, mặc ở… duy trì và nâng cao sức khỏe, từ đó con người mới có điều kiện tham gia
vào các hoạt động y tế, giáo dục, văn hóa, văn nghệ, thể thao để nâng cao mọi mặt
đời sống của mình. Sự phát triển nhanh chóng nền kinh tế Vĩnh Phúc trong những
năm vừa qua là điều kiện tiên quyết PTCN ở khu vực này, sự phát triển nhanh nền
công nghiệp, giải quyết công ăn việc làm tạo điều kiện nâng cao mức sống cho con
người. Hơn nữa, nền kinh tế phát triển là nền tảng để thúc đẩy sự phát triển của y tế,
giáo dục và các hoạt động văn hóa, tinh thần.
Y tế và giáo dục là hai nhân tố cơ bản trực tiếp tác động đến PTCN kể cả ở góc
độ cá nhân cũng như xã hội, sự PTCN chủ yếu phụ thuộc vào hai yếu tố này, nó đảm

bảo cho nâng cao thể lực và trí lực của con người. Sự tác động của 2 nhân tố này phụ
thuộc vào các yếu tố nội sinh của nó, bao gồm số lượng và chất lượng các dịch vụ của
nó, sự phân bố các dịch vụ, ngoài ra nó còn bao gồm các yếu tố phản ánh mức độ thu
hút con người tham gia vào, tính bình đẳng cho các tầng lớp người. Nhân tố y tế và
giáo dục cũng là một trong những thước đo quan trọng đánh giá sự tiến bộ xã hội,
định hướng cho mọi hoạt động kinh tế của địa phương.
Văn hóa, đạo đức xã hội có tác động hàng này hàng giờ đến đời sống của con
người trên nhiều phương diện, nó tồn tại trong các lĩnh vực đời sống của con người
vừa có tác động trực tiếp vừa gián tiếp đến các yếu tố kinh tế, y tế và giáo dục. Tuy
nhiên, con người là chủ thể của các hoạt động đời sống, là chủ thể của chính bản
thân, hoạt động luôn mang tính tự giác vì sự tiến bộ của mình. Dó đó, PTCN ở tỉnh


14

Vĩnh Phúc có tác động từ chính nền văn hóa đương thời và thông qua các hoạt động
văn hóa, tinh thần tại địa phương.
2.1.1.3. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và công cuộc Đổi mới đất
nước
Công cuộc Đổi mới của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam là một nhân tố quan trọng bậc nhất đối với sự PTCN Vĩnh Phúc. Sau hơn 30
năm đổi mới, đất nước tạo nhiều thay đổi lớn về chất trên các lĩnh vực của đời sống
xã hội, tựu trung lại vẫn là thành tựu về PTCN, đường lối đổi mới của Đảng đã khẳng
định và đề cao vai trò của con người và PTCN là vốn quý nhất, PTCN vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới đất nước, mọi chính sách kinh tế, xã hội
đều nhằm mục tiêu tạo điều kiện cho con người phát triển. Đặc biệt, trong những năm
gần đây, Đảng ta đã đưa ra hàng loạt nghị quyết mang tính chiến lược, đột phát nhằm
PTCN Việt Nam tương xứng với yêu cầu của thời đại mới.
Việc đề cao vai trò của con người và PTCN đã và đang tạo thế và lực mới cho
sự PTCN Việt Nam nói chung, công cuộc đổi mới của Đảng đã đưa tỉnh Vĩnh Phúc

phát triển nhanh chóng về kinh tế xã hội, mở ra những điều kiện để nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân trong tỉnh, đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu
đối với tỉnh Vĩnh Phúc phải thực sự đưa PTCN là nhân tố quyết định đảm bảo cho sự
phát triển nhanh và bền vững.

2.1.2. Những nhân tố chủ quan
2.1.2.2. Sự phát huy nội lực của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã xây dựng hàng loạt chính sách về phát triển kinh tế,
phát triển văn hóa, xã hội thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa hiện đại
hóa. Mặc dù, các cấp ủy Đảng và Chính quyền chưa xây dựng cụ thể đường lối, chính
sách riêng cho PTCN. Tuy nhiên, trong quá trình đề ra đường lối phát triển kinh tế,
văn hóa xã hội được thể hiện ở các chính sách phát triển công nghiệp, nông nghiệp,
giải quyết việc làm, các chính sách xóa đói giảm nghèo cho người dân, cũng như các
chính sách về phát triển giáo dục y tế và văn hóa..., từ những cơ sở đó, các cấp chính
quyền từ cấp tỉnh đến cấp huyện và cấp xã tổ chức thực hiện phát triển kinh tế, xã hội
vì mục tiêu phát triển toàn diện con người.
2.1.2.3. Sự năng động nắm bắt thời cơ của nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
Nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã luôn cần cù, sáng tạo trong lao động, trong kinh
doanh và trong mở rộng đầu tư phát triển kinh tế, xã hội. Là một tỉnh có dân số trẻ,
nhân dân các làng nghề đã nhanh chóng chuyển đổi mô hình sản xuất, chuyển từ sản
xuất nhỏ, sang sản xuất lớn, từ sản xuất thủ công sang hiện đại.
Điều quan trọng hơn là ngoài việc sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, người
Vĩnh Phúc có tinh thần đoàn kết, hợp tác chặt chẽ trong lao động sản xuất, đây là một
trong những điểm nổi bật thể hiện tinh thần hợp tác trong lao động, hướng đến nền
sản xuất lớn của người dân theo xu hướng phát triển nền công nghiệp lớn.
Người dân Vĩnh Phúc luôn cùng với cơ quan chính quyền, đoàn thể nhanh
chóng thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực xây dựng đường xá, nhà văn hóa, các trung
tâm văn hóa, thể thao ngay cả ở những vùng khó khăn. Đây là một tiền đề quan trọng
không chỉ là cơ sở cho phát triển kinh tế, xã hội mà quan trọng hơn đã xây dựng được
những thiết chế nền tảng phục vụ cho mục tiêu phát triển mọi mặt đời sống của nhân

dân địa phương.


15

2.2. Những thành tựu trong PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc

2.2.1. Thành tựu PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc về mặt kinh tế và thu nhập
Đảng bộ và chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc đã nhanh chóng đưa ra các chính sách ưu
tiên đầu tư phát triển công nghiệp, nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cùng
với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp và dịch vụ đem lại
công ăn việc làm cho con người là cơ sở bền vững nhất để mọi người có nguồn thu nhập
chính đáng, để nâng cao đời sống của chính bản thân người lao động và gia đình.
Chính sách hỗ trợ cho nông dân, cho các chủ thể kinh doanh vay vốn và hệ
thống các chính sách phát triển kinh tế đã và đang giúp người dân nâng cao các khoản
thu nhập chính đáng của mình. Các nguồn thu nhập của người dân chuyển từ thu
nhập từ sản xuất nông, lâm nghiệp sang thu nhập chủ yếu và ổn định từ tiền công và
tiền lương trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ ngày càng cao.
Việc đầu tư về kinh tế cho con người ngày càng được nâng lên, thể hiện bằng
việc đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước sinh hoạt… thể hiện nền kinh tế của
tỉnh đã đảm bảo “tính bao trùm” vì mục tiêu con người.

2.2.2. Thành tựu PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc qua chỉ số HDI
2.2.2.1. Sự tăng trưởng của chỉ số HDI Vĩnh Phúc
Về sự phát triển của chỉ số HDI của tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm vừa qua
luôn luôn phát triển nhanh chóng. Năm 1999, chỉ số này là 0,682, thuộc nhóm phát
triển trung bình khá, đến năm 2012 đã lên tới 0,764 (tăng 0,93 điểm) thuộc nhóm tỉnh
có chỉ số phát triển HDI cao, và luôn luôn đứng ở vị trí xếp hạng từ 9 đến 11 trong 63
tỉnh thành của cả nước, và ở vị trí thứ 3 đến vị trí thứ 5 so với 10 tỉnh đồng bằng sông
Hồng, đến nay chỉ số HDI của tỉnh Vĩnh Phúc chỉ đứng sau 3 tỉnh, thành phố lớn ở

miền Bắc là Hà Nội, Hải Phòng và tỉnh Bắc Ninh.
2.2.2.2. Sự đóng góp của các chỉ số thành phần vào chỉ số HDI Vĩnh Phúc
* Đóng góp của chỉ số thu nhập:nhờ sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh
tế, chỉ số thu nhập tăng lên nhanh, đóng góp to lớn, ảnh hưởng nhiều nhất cho sự thay
đổi chỉ số HDI.
* Đóng góp của chỉ số tuổi thọ vào chỉ số HDI của tỉnh: Chỉ số tuổi thọ mặc dù
không tăng nhanh, không có đóng góp nhiều vào sự thay đổi chỉ số HDI nhưng Vĩnh
Phúc vẫn là tỉnh có chỉ số tuổi thọ cao hơn trung bình của cả nước
* Đóng góp của chỉ số giáo dục: Chỉ số về giáo dục của tỉnh Vĩnh Phúc tăng lên
theo các năm đã phản ánh và chỉ số giáo dục của tỉnh Vĩnh Phúc đang ngày càng tăng
trưởng cùng các chỉ số khác, tỉ lệ thuận với sự tăng trưởng của chỉ số HDI.

2.2.3. Xóa đói, giảm nghèo là một trong những thành tựu nổi bật của PTCN tỉnh
Vĩnh Phúc
Chương trình xóa đói, giảm nghèo đã thực sự đi vào cuộc sống và có nhiều tác
dụng thiết thực đến nâng cao đời sống của nhân dân, giúp người nghèo nâng cao khả
năng lao động, tạo nguồn thu nhập ngày càng cao, nâng cao sức khỏe… là cơ sở để
người nghèo làm “nâng cao năng lực” và tham gia vào đời sống xã hội là tiền để đảm
bảo sự phát triển toàn diện.
Một trong những sáng tạo trong chương trình xóa đói giảm nghèo tại Vĩnh Phúc
là đã đa dạng hóa các loại hình giải quyết việc làm, đặc biệt là việc làm ở khu vực
nông thôn, bao gồm xây dựng trang trại, xây dựng các vùng chuyên canh… giúp


16

người nông dân dần thoát nghèo, làm giàu chính đáng tại địa phương.
Tình trạng nghèo đói ở tính theo chỉ số HPI và MPI của tỉnh giảm xuống tương
đương với tốc độ trung bình của các tỉnh đồng bằng sông Hồng, mặc dù chỉ số HPI và
MPI còn cao so với một số tỉnh trong khu vực, song chỉ số này vẫn thấp hơn mức

trung bình của cả nước.
2.2.4. Sự PTCN ở Vĩnh Phúc về mặt thể lực, trí lực và văn hoá, tinh thần
2.2.4.1. Thành tựu PTCN ở Vĩnh Phúc về mặt thể lực
Thứ nhất: Tỷ lệ ngân sách chi cho y tế được nâng lên, chất lượng dịch vụ và đội
ngũ cán bộ y tế đảm bảo: đến nay, tất cả các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh đều
có bệnh viện với các vật dụng y tế cũng được mua sắm trang bị ngày càng hiện đại;
trình độ của cán bộ ngành y, dược cũng được nâng lên đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao trong khám chữa bệnh cho người dân; các hoạt động chăm sóc sức khỏe bà mẹ,
trẻ em ngày càng được chú trọng đây là yếu tố quan trọng nhất đánh giá sự tiến bộ về
y tế cũng như đánh giá sự tiến bộ về mọi mặt trong xã hội
Thứ hai: Hỗ trợ chi phí bảo hiểm y tế cho người nghèo, người dân tộc thiểu số.
tạo điều kiện nâng cho những nhóm người “dễ bị tổn thương” nâng cao sức khỏe,
giúp họ có cuộc sống ổn định và hạnh phúc.
Thứ ba: dịch vụ y tế cộng đồng ngày càng có hiệu quả rõ có vai trò to lớn đảm
bảo cho sự ổn định và phát triển của xã hội, đảm bảo vấn đề “an ninh” trong PTCN.
2.2.4.2. Thành tựu PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc về mặt trí lực
Hệ thống các trường lớp ở tất cả các bậc học mần non, tiểu học, phổ thông được
đầu tư khang trang, đầy đủ đảm bảo nhu cầu phát triển giáo dục của nhân dân; Hệ
thống mạng lưới các các trường nghề ở tỉnh Vĩnh Phúc cũng khá phát triển đáp ứng
nhu cầu đào tạo nhân lực, nâng cao trình độ tay nghề của người lao động.
Đội ngũ giáo viên đạt chuẩn ở tất cả các ngành, đáp ứng đủ về số lượng và trình
độ cho nền giáo dục của Tỉnh
Chất lượng giáo dục được coi là yếu tố quyết định cho PTCN, “Vĩnh Phúc luôn
được đánh giá là một trong những tỉnh, thành có chất lượng giáo dục tốt nhất cả
nước. phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập được thực hiện
tốt.” 139, tr.23].
2.2.4.3. Thành tựu PTCN về mặt văn hóa, tinh thần
Khôi phục các giá trị văn hóa vật thể, đặc biệt là văn hóa phi vật thể nhằm khẳng
định và nâng cao giá trị văn hóa đặc thù của cộng đồng, nâng cao những giá trị văn
hóa yếu tố cốt lõi để xây dựng nền văn hóa phục vụ cho PTCN.

Công tác phát thanh và truyền hình, hoạt động thư viện có vai trò ngày càng lớn
trong việc tuyên truyền, giáo dục, giúp nhân dân nâng cập nhật, nâng cao tri thức
phục vụ nhu cầu lao động, sản xuất và nhu cầu văn hóa tinh thần.
Phong trào xây dựng gia đình văn hóa là nền tảng để xây dựng xã hội văn minh,
con người hạnh phúc, đây là một nội dung quan trọng trong PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc, có
tác dụng thiết thực trong việc cổ vũ, nhân rộng các mô hình tiên tiến góp phần nâng cao
đời sống văn hóa ở cơ sở xây dựng nền tảng tốt đẹp và sự phát triển bền vững, xây dựng
gia đình hạnh phúc góp phần to lớn và sự phát triển toàn diện con người.

2.2.5. Nguyên nhân của những thành tựu trong PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay
* Nguyên nhân khách quan.


17

- Điều kiện địa lý và tự nhiên điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế, xã hội và PTCN.
- Đường lối đổi mới của Đảng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội để nâng
cao mọi mặt đời sống của nhân dân.
* Nguyên nhân chủ quan
- Những chính sách ưu tiên cho phát triển kinh tế giải quyết được công ăn, việc
làm tạo thu nhập cho người lao động
- Chính sách phát triển y tế, giáo dục, văn hóa xã hội nhằm nâng cao sức khỏe,
trình độ tay nghề và văn hóa phục vụ mục tiêu PTCN, điểm nổi bật là trong từng giai
đoạn, UBND và xây dựng các quy hoạch phát triển làm định hướng giải quyết các
vấn đề về kinh tế, giáo dục, y tế, văn hóa, môi trường…liên quan đến PTCN.
- Sự sáng tạo của nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc trong phát triển kinh tế, xã hội.
2.3. Những vấn đề đặt ra trong PTCN ở Vĩnh Phúc hiện nay

2.3.1. Sự chênh lệch về thu nhập của người dân giữa các vùng miền, giữa các ngành
kinh tế

Khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa khu vực nông nghiệp và nông thôn
với khu vực công nghiệp và thành thị. Đây là nguy cơ không chỉ ảnh hưởng đến sự
phát triển cân đối kinh tế vùng miền mà ảnh hưởng lớn đến PTCN ở nhiều vùng,
miền trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc tạo nên tình trạng bất bình đẳng trong PTCN ở tỉnh
Vĩnh Phúc hiện nay.
Thu nhập của công nhân tại các nhà máy xí nghiệp của tư bản nước ngoài
thường có mức lương cao hơn, ổn định hơn so với các nhà máy, xí nghiệp trong
nước; một bộ phận công nhân lao động mang tính thời vụ, thu nhập bấp bênh.

2.3.2. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, hiện tượng tái nghèo và nghèo đa chiều
đang có xu hướng tăng
Hiệu quả của các chính sách này chưa đảm bảo tính toàn diện và tính bền vững,
Ở nhiều vùng nông thôn, nguy cơ tái nghèo luôn rình rập, đặc biệt là đối với bộ phận
người dân lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, chăn nuôi, thủy sản.
Trong những năm gần đây, mặc dù nghèo kinh tế đã được khắc phục về cơ bản,
nhưng người dân phải đối mặt với tình trạng nghèo đa chiều, mặc dù đã khắc phục
được tình trạng nghèo thu nhập thì tình trạng nghèo phi thu nhập lại đang là một gánh
nặng đối với người dân trong tham gia ở xã hội,

2.3.3. Các cơ sở y tế phân bố không đều, chất lượng y tế còn thấp, các dịch vụ y tế
cộng đồng chưa theo kịp được tính phức tạp trong phòng và chữa bệnh
Một là, về sự phân bố và hiệu quả của y tế đối với PTCN: Số bác sĩ và số giường
bệnh, số cơ sở y tế phân bố không đều giữa các vùng, miền; các thủ tục chăm sóc sức
khỏe còn rườm rà, gây nhiều khó khăn cho người dân trong khám, chữa bệnh.
Hai là, dịch vụ y tế dự phòng chưa theo kịp với yêu cầu của việc phòng và chữa
bệnh: cơ sở vật chất lạc hậu, đội ngũ cán bộ y tế còn thiếu, trình độ chưa đáp ứng được
yêu cầu, cơ chế vận động chưa hiệu quả, hoạt động y tế còn mang tính thụ động.

2.3.4. Chất lượng giáo dục và đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề còn chưa đáp ứng
được yêu cầu cho PTCN

Về cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học còn thiếu, không đồng bộ và lạc hậu,
nhiều trường học còn thiếu phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm, khu giáo dục thể
chất và các công trình phụ trợ…
Đội ngũ giáo viên còn chưa đồng bộ, mất cân đối về cơ cấu gây hạn chế trong


18

việc phát triển toàn diện học sinh.
Năng lực đào tạo, dạy nghề của các cơ sở đào tạo thuộc tỉnh còn nhiều hạn chế:
về số lượng, cơ cấu ngành nghề đào tạo còn ít, còn thiếu nhiều ngành nghề đáp ứng
yêu cầu về nguồn nhân công lao động trong các nhà máy, xí nghiệp.
Nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước hạn chế so với nhu cầu; xã hội hoá
giáo dục - đào tạo trên địa bàn còn chưa mạnh so với khả năng và tiềm năng, sức hút
đầu tư vào phát triển giáo dục - đào tạo còn kém, hệ thống trường tư được hình thành
nhưng còn nhỏ lẻ, chưa ổn định, hơn nữa, do mức đóng góp cao hơn trường quốc lập,
nên khó thu hút được người học.

2.3.5. Các hoạt động văn hóa chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của người
dân, đời sống văn hóa tinh thần của một bộ phận người dân biến đổi lệch lạc, xói
mòn các giá trị văn hóa truyền thống, tệ nạn xã hội tăng
Ở nhiều thư viện thôn, xã, số đầu sách báo nhiều, song nhiều tài liệu vẫn chưa
đáp ứng được nhu cầu thiết thực của người dân, nên khó thu hút họ trong việc tìm
kiếm tri thức, nhiều thư viện, nhiều nhà văn hóa hoạt động mang tính hình thức, “Xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở chưa thực sự đi vào chiều sâu; xây dựng nếp sống văn
hóa, văn minh đô thị chưa được quan tâm đúng mức”(5). Vì thế, người dân khó tìm
đến được không gian sinh hoạt văn hóa đích thực trong việc hưởng thụ các giá trị văn
hóa cũng như nâng cao các năng lực văn hóa cho bản thân mình.
Sự bất bình đẳng về văn hóa cũng là một rào cản trong PTCN ở Vĩnh Phúc, sự
phân hóa giàu nghèo ảnh hưởng lớn đến việc hưởng thụ các giá trị văn hóa.

Nhiều giá trị văn hóa truyền thống đang bị mai một, đạo đức, lối của một bộ
phận nhân dân, nhất là thanh thiếu niên đang bị sa sút…
Các tệ nạn xã hội vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, với những thủ đoạn
hoạt động tinh vi, dưới nhiều hình thức đa dạng, khó kiểm soát.

2.3.6. Nguyên nhân của những vấn đề đặt ra trong PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay
* Nguyên nhân khách quan
- Điểm xuất phát từ một nền nông nghiệp nhỏ, nền kinh tế còn lạc hậu
- Sự tác động mặt trái của kinh tế thị trường
* Nguyên nhân chủ quan
- Nhận thức của các cấp đảng và chính quyền về PTCN còn nhiều hạn chế.
- Đầu tư phát triển kinh tế chạy theo lợi nhuận chưa chú ý đảm bảo những điều
kiện thực sự cho PTCN.
- Công tác xóa đói, giảm nghèo chưa hoàn toàn đáp ứng nhu cầu.
- Đầu tư vào lĩnh vực y tế còn chưa đồng bộ giữa các vùng miền, chậm đổi mới
giáo dục, các hoạt động văn hóa, tinh thần chưa thực sự hiệu quả..
- Trình độ dân trí còn thấp, không đồng đều cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng
không nhỏ đến PTCN.
Tiểu kết chương 2
Sau 20 năm tái lập tỉnh, Vĩnh Phúc đã trở thành một tỉnh có tốc độ phát triển
công nghiệp tương đối mạnh so với nhiều tỉnh thành khác thuộc vùng kinh tế trọng

5

Tỉnh ủy Vĩnh Phúc (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh lần thứ XV, Lưu Văn phòng Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, tr.42.


19

điểm Bắc Bộ. Những kết quả về PTCN cũng tỉ lệ thuận với phát triển kinh tế xã hội,

điều này phản ánh tính đúng đắn trong mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo
phát triển vì con người và cho con người.
Sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế đã là cơ sở để nâng cao thu nhập cho
người dân, nâng cao mức sống của nhân dân, người dân tự làm giàu bằng chính sức lực
của mình, là cơ sở cốt lõi để nâng cao sức khỏe, trình độ học vấn, tay nghề và đời sống
tinh thần của nhân dân. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã tạo công ăn việc làm, giúp người lao động nâng cao thu
nhập, cải thiện đời sống. Các dịch vụ y tế ngày càng phát triển nhanh cả về quy mô lẫn
chất lượng phục vụ, người dân có điều kiện để chăm sóc sức khỏe, nâng cao thể lực
của mình. Sự tăng trưởng về kinh tế cũng như sự mở rộng các cơ sở y tế tại các địa
phương giúp cho người dân nâng cao thể lực của mình. Tuy nhiên, bên cạnh sự tăng
trưởng về kinh tế thì sự phân hóa giàu nghèo, thêm vào đó là chất lượng của các dịch
vụ y tế còn thiếu và yếu, chi phí cho khám, chữa bệnh còn cao ở nhiều vùng đồng bằng
và miền núi cũng là một thách thức đối với việc nâng cao thể lực cho con người.
Về mặt trí lực của người dân tỉnh Vĩnh Phúc cũng đạt được nhiều thành tựu
đáng kể, hệ thống trường học phổ thông, các cơ sở dạy nghề được mở rộng là điều
kiện để mọi người tham gia học tập nâng cao tri thức, trình độ tay nghề đáp ứng nhu
cầu học tập và lao động cho người dân, chất lượng giáo dục toàn tỉnh được nâng lên
rõ rệt. Tuy nhiên, cơ cấu giáo dục vẫn chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu phát
triển trí lực của nhân dân trong bối cảnh hiện nay.
Các hoạt động văn hóa, tinh thần được mở rộng, phát triển đa dạng, phong phú,
phần nào đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong đời sống tinh thần của nhân dân. Tuy
nhiên, tình trạng xuống cấp về đạo đức, tệ nạn xã hội phát triển, đã tác động tiêu cực
đến đời sống của người dân, khó đảm bảo tính toàn diện và bền vững trong PTCN.
Chỉ số HDI của tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm vừa qua liên tục tăng phản ánh
tính tương đối toàn diện trong PTCN, tỷ lệ thuận với sự phát triển kinh tế xã hội, so
với các tỉnh, thành phố ở khu vực đồng bằng sông Hồng nói riêng và trên phạm vi cả
nước nói chung. Chỉ số HDI tỉnh Vĩnh Phúc luôn ở vị trí cao, tốc độ tăng trưởng ổn
định, trong ba chỉ số: thu nhập, giáo dục, y tế, thì chỉ số thu nhập đóng góp lớn nhất
vào mức tăng của chỉ số HDI, chỉ số giáo dục và y tế luôn ổn định và tăng trưởng, thể

hiện sự tăng trưởng kinh tế vì mục tiêu tiến bộ xã hội vì con người.
Về cơ bản, đến nay trên địa bàn tỉnh hầu như không còn hộ nghèo về kinh tế, tuy
nhiên, nếu đo đạc bằng công cụ nghèo đa chiều thì tình trạng thiếu hụt trong sử dụng
các dịch vụ về nước sạch, về đảm bảo các công trình vệ sinh còn khá cao. Điều này
phản ánh tính bao trùm trong PTCN còn hạn chế, khó đảm bảo tính bình đẳng và hiển
nhiên khó đảm bảo sự phát triển toàn diện và bền vững trên cả phương diện kinh tế,
xã hội và đặc biệt là trên phương diện PTCN.
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở TỈNH VĨNH PHÚC
3.1. Nâng cao nhận thức đối với các cấp chính quyền, đoàn thể về ý nghĩa của
PTCN đối với phát triển kinh tế, xã hội
Đảng ủy và UBND các cấp cần nhận thức sâu sắc hơn về mục tiêu PTCN trong
các chương trình phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh, trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ


20

Tỉnh cần phải xây dựng quan điểm chỉ đạo và cụ thể hóa trong nghị quyết về phát
triển kinh tế đảm bảo việc đề ra các chính sách phát triển kinh tế, xã hội đúng định
hướng vì mục tiêu PTCN.
Các cấp cần nhận thức vai trò của phát triển công nghiệp đối với phát triển kinh
tế gắn với đem lại các lợi ích lâu dài cho con người, việc đầu tư xây dựng các nhà
máy, xí nghiệp cần phải hạn chế xây dựng tại các vùng “đất vàng”, phải nhanh chóng
kiểm soát những vấn đề môi trường, chất thải công nghiệp ở các nhà máy đang tiềm
ẩn nhiều nguy cơ đến sức khỏe người dân, ưu tiên cho phát triển công nghiệp sạch,
công nghiệp hiện đại, sử dụng nguồn nhân công lao động chất lượng cao, xây dựng
các chế tài yêu cầu tại các khu công nghiệp xây dựng các cơ sở y tế trong việc giải
quyết các vấn đề sức khỏe của công nhân.
Nâng cao nhận thức của lãnh đạo các cấp về đầu tư phát triển ngành công
nghiệp không khói theo hướng hạn chế việc lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường,

đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ nhu cầu vui chơi giải trí của dân chúng.
Nâng cao nhận thức đối với ngành thống kê trong các điều tra các dữ liệu về
PTCN, đồng thời phải có sự phối hợp giữa ngành thống kê với các cơ quan chính
quyền, đoàn thể trong điều tra các dữ liệu, làm cơ sở cho các cơ quan chức năng
trong việc bổ sung cũng như thực hiện các chính sách PTCN ở từng địa phương, từ
đó mới đảm bảo sự tăng trưởng mang tính bao trùm và bền vững.
3.2. Phát triển nền kinh tế trên cơ sở khai thác thế mạnh vùng, miền vì mục tiêu
nâng cao đời sống nhân dân

3.2.1. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hướng phát triển công nghệ cao, coi
trọng công nghiệp phụ trợ, công nghiệp chế biến, ưu tiên bảo vệ môi trường

- Chuyển đổi cơ cấu công nghiệp theo các hướng đa dạng hoá sản phẩm, nhất là
các sản phẩm công nghệ cao; tăng cường kêu gọi hợp tác đầu tư nước ngoài; ưu tiên
thu hút các ngành công nghiệp công nghệ cao, thân thiện với môi trường.
- Phát triển công nghiệp phụ trợ là khâu đột phá để phát triển các ngành công
nghiệp chủ lực của Vĩnh Phúc trong quá trình CNH, HĐH; tạo hàng hóa thay thế
nhập khẩu, tạo chủ động cho sản xuất hàng hóa tiêu dùng và xuất khẩu.
- Hỗ trợ, đầu tư công nghiệp chế biến nông, lâm sản.
- Tăng cường công tác quản lý môi trường, thực hiện nghiêm chỉnh luật bảo vệ
môi trường.

3.2.2. Phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại
- Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng: Xây dựng và
phát triển nền nông nghiệp sạch, an toàn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, theo hướng công
nghiệp hoá và hiện đại hoá, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường
- Tăng cường đầu tư trực tiếp cho nông nghiệp, nông thôn và đẩy mạnh việc đưa
cơ khí hoá vào sản xuất nông nghiệp; phát triển công nghiệp chế biến nông sản để
tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.
- Ưu tiên đầu tư từ ngân sách tỉnh cho việc ứng dụng và chuyển giao tiến bộ kỹ

thuật nông nghiệp, công nghệ sinh học, hình thành các khu sản xuất nông nghiệp
công nghệ cao, hỗ trợ nông dân tìm kiếm thị trường, đầu tư thỏa đáng cho hoạt động
bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và kỹ năng nghề cho nông dân, tăng cường đầu tư
cung cấp thông tin cho nông dân.
- Khuyến khích nông dân dồn điền đổi thửa hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng


21

đất theo luật đất đai để tạo thành các khu sản xuất tập trung; kiện toàn hệ thống hợp
tác xã, xóa dần tình trạng manh mún trong nông nghiệp tiến đến sản xuất lớn.
- Đảm bảo cho người nông dân nâng cao năng suất lao động và nâng cao thu
nhập, từng bước hiện đại hóa nền nông nghiệp, có cơ chế, chính sách về tài chính,
pháp lý trong nông nghiệp tạo cơ hội cho nông dân làm giàu.

3.2.3. Đẩy mạnh phát triển ngành nghề thủ công nghiệp, phát triển kinh tế tại địa
phương nâng cao thu nhập cho người dân
Huy động các nguồn vốn ưu đãi hỗ trợ, cần có sự định hướng đầu tư khoa học công
nghệ và nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Các sản phẩm chưa tìm ra
được thị trường nước ngoài, đòi hỏi các cơ quan chức năng cần đưa ra các chính sách, có
sự phối hợp với các doanh nghiệp để mở rộng thị trường xuất khẩu.
3.3. Đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo, đảm bảo giảm nghèo bền vững.

3.3.1. Về thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo

Chính quyền tỉnh cần tăng cường các nguồn lực, thực hiện lồng ghép chương
trình giảm nghèo với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới từ nay
đến năm 2020 và 2030.
Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, rà soát phân kỳ đầu tư cho người
nghèo thuộc vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn.

Tiếp tục nâng cao chất lượng thực hiện các chương trình chăm sóc sức khỏe cho
người nghèo; tăng cường quản lý, sử dụng có hiệu quả quỹ khám, chữa bệnh cho
người nghèo.
Nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho người nghèo, gắn đào tạo nghề với nhu
cầu thị trường lao động, đảm bảo người học nghề xong có việc làm, thu nhập ổn định
là điều cốt yếu để giảm nghèo bền vững, có chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ chi
phí học tập cho học sinh - sinh viên hộ nghèo theo quy định
Tăng cường phối hợp giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể
tỉnh tiếp tục tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân tích cực chung
sức tham gia thực hiện giảm nghèo bền vững
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách,
việc sử dụng các nguồn hỗ trợ, nguồn vốn vay cho người nghèo, đảm bảo hiệu quả.
Cần phải ban hành kế hoạch thực hiện giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh
đến các cấp huyện, xã; xây dựng các chỉ tiêu cụ thể từng năm về công tác giảm nghèo
làm định hướng cho kế hoạch về phát triển kinh tế, xã hội, tiến tới xóa hẳn tình trạng
đói, nghèo về kinh tế và nghèo đa chiều.

3.3.2. Giải pháp về tuyên truyền, nhận thức đường lối chính sách của Đảng và nhà
nước cũng như tính tự chủ trong vươn lên thoát nghèo
- Sử dụng các phương tiện truyền thông thông tin đại chúng như; truyền hình,
báo, đài phát thanh địa phương làm thay đổi dần về nhận thức cách nghĩ, cách làm
nhằm từng bước nâng cao dân trí cho nhân dân trong toàn huyện, nhất là những vùng
còn nhiều hộ nghèo.
- Tổ chức các cuộc hội thảo, các buổi liên hoan văn nghệ tại địa phương với chủ
đề xóa đói giảm nghèo, đồng thời phổ biến các chương trình, mục tiêu xóa đói giảm
nghèo đến người dân.
- Tổ chức các hoạt động tuyên truyền cổ động cho phong trào đổi mới tư duy, đổi
mới phương thức làm ăn và hướng dẫn tìm cách thoát nghèo, làm giàu chính đáng,



22

kịp thời cổ vũ, khen ngợi những tấm gương làm kinh tế giỏi vươn lên thoát nghèo,
các điển hình lao động tiên tiến, chia sẻ và trau dồi những kinh nghiệm trong lao
động sản xuất
3.4. Phân bổ lại nguồn lực cho y tế, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, hạn
chế bất bình đẳng trong cung ứng dịch vụ và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của
người dân
Phân bổ lại nguồn lực cho y tế một cách hợp lý, tăng cường đầu tư tài chính từ
nguồn ngân sách của tỉnh kết hợp với huy động các nguồn vốn thông qua thực hiện
chính sách xã hội hóa.
Tiếp tục duy trì, mở rộng bảo hiểm y tế cho người nghèo, cận nghèo và người,
đồng bào dân tộc thiểu số, tiến tới thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân
Mở rộng và đẩy mạnh hoạt động y tế dự phòng trong ngăn chặn và khắc phục
hậu quả bệnh trong cộng đồng
3.5. Đẩy mạnh đổi mới hoạt động giáo dục
Đầu tư cơ sở vật chất, mở rộng các trường học, nâng cao chất lượng dạy học
nhằm đảm bảo tính bao phủ, sự công bằng và cơ hội học tập cho mọi người
Nâng cao chất lượng giáo dục có ý nghĩa quyết định trong PTCN ở góc độ trí
lực.
Tiếp tục đẩy mạnh các chính sách ưu tiên giáo dục tại các vùng dân tộc, miền
núi, giảm thiểu những chi phí giáo dục cho người dân
Đẩy mạnh đào tạo nghề cho người lao động đáp ứng nhu cầu làm việc của người
dân tại các địa phương.
3.5. Chú trọng phát triển các hoạt động văn hóa, ngăn chặn sự xuống cấp văn
hóa, nâng cao năng lực cảm thụ và sáng tạo các giá trị văn hóa cho nhân dân
- Một là, phát huy truyền thống nổi bật trong văn hóa của con người Vĩnh Phúc,
đó là tính cần cù, sáng tạo trong lao động.
- Hai là, tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào “toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu. Xây dựng gia đình thực

sự là nơi hình thành và giáo dục nếp sống cho con người, gắn kết giữa giáo dục giữa
gia đình với nhà trường và xã hội trong giáo dục thế hệ trẻ.
- Ba là, tiếp tục đầu tư, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống
các thiết chế văn hóa, thể thao, nhất là ở tuyến cơ sở, đồng thời quan tâm hỗ trợ, đầu
tư cơ sở vật chất cho các sinh hoạt văn hóa, thể thao, các công trình phúc lợi công
cộng phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí của nhân dân.
- Bốn là, đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động văn hóa, thể
thao, thông tin và truyền thông.
.
Tiểu kết chương 3
Con người và PTCN lập sự nghiệp của toàn Đảng, của toàn bộ hệ thống chính trị
và của toàn dân nói chung. Đối với tỉnh Vĩnh Phúc, việc nâng cao nhận thức của
Đảng bộ, các cấp chính quyền, các cơ quan chức năng, đoàn thể nhân dân có vai trò
to lớn trong việc xây dựng, điều chỉnh và tổ chức thực hiện các chính sách kinh tế xã
hội ngày càng đúng đắn hơn đảm bảo được tiêu cao nhất là PTCN, vì sự tiến bộ xã
hội, vì hạnh phúc của nhân dân.
Trong các giải pháp PTCN, thì xây dựng nền kinh tế toàn diện, khai thác và phát


×