Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Luận văn thạc sĩ triết học Vấn đề phát triển lực lượng sản xuất thời kỳ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.98 KB, 96 trang )

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Văn kiện Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định một trong
những nhiệm vụ hàng đầu ở nớc ta là: "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp
tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" [27, tr.9].
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định phát
triển lực lợng sản xuất là vấn đề quan trọng hàng đầu thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trởng kinh
tế nhanh, tạo tiềm lực kinh tế đủ mạnh từng bớc hội nhập kinh tế quốc tế để
từng bớc tiến lên chủ nghĩa xã hội, con đờng mà chúng ta đã lựa chọn. Trên cơ
sở đó từng bớc xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ và tính
chất của lực lợng sản xuất ở mỗi giai đoạn cụ thể.
Cùng với cả nớc, tỉnh Yên Bái đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
với những đặc điểm riêng của mình. Là một tỉnh miền núi Tây Bắc, có nhiều dân
tộc anh em, tỉnh Yên Bái có nhiều tiềm năng về kinh tế, có vị trí quan trọng về
chính trị, quốc phòng và an ninh. Do vậy, việc tổng kết thực tiễn, vận dụng lý
luận vào cuộc sống rút ra những bài học, kinh nghiệm để phát triển lực lợng sản
xuất ở tỉnh Yên Bái trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vấn đề có ý
nghĩa quan trọng và cấp thiết đối với cả lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ suy nghĩ trên, tôi chọn vấn đề: "Phát triển lực lợng
sản xuất ở tỉnh Yên Bái thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay" làm đề tài luận văn thạc sỹ, với hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ
của mình cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc và địa phơng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua xoay quanh vấn đề "Phát triển lực lợng sản xuất
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa" đã có rất nhiều công trình khoa học đề
cập. Những kết quả nghiên cứu này có giá trị lịch sử nhất định. Tuy nhiên,
thực tiễn luôn vận động biến đổi và phát triển nên mọi kết luận tổng kết vẫn
cần đợc bổ sung, phát triển.
Những công trình, bài viết tiêu biểu xoay quanh vấn đề này là: Nghiên


cứu về biểu hiện đặc thù của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lợng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
1
Việt Nam (Luận án phó tiến sĩ, Nguyễn Tĩnh Gia, 1987); Nghiên cứu về quy
luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản
xuất trong phát triển kinh tế hàng hóa theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở Lâm
Đồng (Luận án phó tiến sĩ, Bùi Chí Kiên, 1996); Từng bớc xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lợng sản xuất trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở Lạng Sơn (Luận
án tiến sĩ, Nông Thị Mồng, 2000); Vấn đề phát triển lực lợng sản xuất ở miền
núi phía Bắc nớc ta (Luận án tiến sĩ, Vi Thái Lang, 2002); Nghiên cứu nguồn
lực con ngời trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Luận án tiến sĩ,
Đoàn Văn Khái, 2000); Lê Xuân Đình, Ưu tiên phát triển lực lợng sản xuất,
Tạp chí Cộng sản, số 5 (03/1999); Lê Huy Ngọ, Khoa học - công nghệ phải là
động lực mạnh mẽ đa nông nghiệp, nông thôn sang bớc phát triển mới, Tạp
chí Cộng sản số 3 (02-1999), Nguyễn Cảnh Hồ, có phải khoa học đang trở
thành lực lợng sản xuất trực tiếp, Tạp chí Triết học, số 2 (02/2002); Lê Văn D-
ơng, vấn đề đổi mới lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, Tạp chí Triết học, số 1
(01/2002). Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa, Phát triển kinh tế - xã hội các
vùng dân tộc và miền núi theo hớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Mai Quốc Chánh, Nâng cao chất lợng
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1999; Lơng Xuân Quỳ, xây dựng quan hệ sản xuất định h-
ớng xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng, xã hội ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002
Song, cho đến nay cha có công trình nghiên cứu nào chuyên bàn về việc
phát triển lực lợng sản xuất ở tỉnh Yên Bái thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa dới dạng một luận văn khoa học.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu

- Mục đích đề tài: Trên cơ sở phân tích thực trạng vấn đề phát triển lực l-
ợng sản xuất ở tỉnh Yên Bái thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay,
luận văn phát hiện vấn đề nảy sinh và đa ra những giải pháp chủ yếu nhằm
phát triển lực lợng sản xuất, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của tỉnh Yên Bái.
- Nhiệm vụ:
2
+ Hệ thống lại những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò của lực lợng sản
xuất trong sự phát triển xã hội.
+ Phân tích, đánh giá sự phát triển lực lợng sản xuất của Yên Bái trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chỉ ra những mâu thuẫn trong quá trình
phát triển lực lợng sản xuất ở tỉnh Yên Bái.
+ Phân tích triển vọng, phơng hớng và giải pháp nhằm phát triển lực lợng
sản xuất ở tỉnh Yên Bái.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu vấn đề phát triển lực lợng
sản xuất ở tỉnh Yên Bái trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay
(tất nhiên đặt nó trong quan hệ với quan hệ sản xuất).
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
- Đề tài đợc nghiên cứu trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin và t tởng Hồ Chí Minh, lý luận hình thái kinh tế - xã hội. Cùng với các
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, những chủ trơng, chính sách, pháp
luật của Nhà nớc về phát triển lực lợng sản xuất. Đề tài còn kế thừa có chọn
lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học, các bài viết đã đợc
công bố có liên quan đến đề tài.
- Đề tài sử dụng phơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phơng pháp lôgíc kết
hợp với lịch sử để phân tích, đánh giá sự phát triển của lực lợng sản xuất ở tỉnh
Yên Bái. Ngoài ra luận văn còn sử dụng những phơng pháp khác nh thống kê,
khảo sát, tổng hợp so sánh.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn

- Đánh giá đúng thực trạng sự phát triển lực lợng sản xuất ở tỉnh Yên Bái,
xu hớng vận động và phát triển của lực lợng sản xuất thời kỳ CNH, HĐH ở
tỉnh Yên Bái.
- Đa ra những phơng hớng, giải pháp đặc thù sự phát triển lực lợng sản xuất ở
tỉnh Yên Bái.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về lực lợng sản xuất và
vai trò của lực lợng sản xuất đối với CNH, HĐH.
- Luận văn cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các ban ngành của
tỉnh tham khảo trong việc hoạch định các chính sách nhằm thúc đẩy lực lợng
sản xuất phát triển, đồng thời luận văn còn là t liệu tham khảo cho những ngời
làm công tác nghiên cứu, giảng dạy bộ môn Mác - Lênin.
3
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
3 chơng, 6 tiết.
4
Chơng 1
Vai trò của lực lợng sản xuất đối với
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.1. Vị trí của lực lợng sản xuất trong sự phát triển xã hội
1.1.1. Khái niệm lực lợng sản xuất
Quan niệm duy vật lịch sử chỉ ra rằng: "Cái sự thật hiển nhiên là trớc hết
con ngời cần phải ăn, uống, ở và mặc " [56, tr.166]. Điều đó có nghĩa là để
tồn tại và phát triển, con ngời phải tiến hành sản xuất vật chất. Hoạt động sản
xuất vật chất là hành vi đầu tiên của con ngời cũng nh lịch sử loài ngời. Trong
quá trình sản xuất con ngời biến đổi giới tự nhiên, biến đổi đời sống xã hội,
đồng thời biến đổi chính bản thân mình.
Sự sản xuất ra đời sống bản thân mình bằng lao động, cũng nh ra đời
sống của ngời khác bằng việc sinh con đẻ cái biểu hiện ra là một quan hệ

"kép"; quan hệ với tự nhiên và quan hệ với xã hội, quan hệ với xã hội với ý
nghĩa đó là sự hợp tác của nhiều ngời, kể cả là trong những điều kiện nào, theo
cách nào và nhằm mục đích gì ? Trong đó quan hệ của con ngời với tự nhiên
trong sản xuất đợc biểu hiện là lực lợng sản xuất, còn quan hệ giữa ngời với
ngời trong sản xuất đợc biểu hiện là quan hệ sản xuất. Trong quan hệ "kép"
này, vai trò quyết định cuối cùng thuộc về lực lợng sản xuất của xã hội bởi lẽ
"Tổng thể những lực lợng sản xuất mà con ngời đã đạt đợc quyết định trạng
thái xã hội" [52, tr.42]. Vậy lực lợng sản xuất là gì ? Quan điểm của chủ nghĩa
Mác về vấn đề này nh thế nào?
Khi nói tới hoạt động sản xuất vật chất, C.Mác, Ph.ănghen và Lênin
không bàn nhiều về định nghĩa và các khái niệm lực lợng sản xuất và quan hệ
sản xuất, mà các ông trình bày thông qua quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ và tính chất của lực lợng sản xuất. Lực lợng sản xuất là khái niệm
của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Với việc vận dụng phép biện chứng duy vật để
giải quyết những vấn đề của lịch sử đã làm cho C.Mác và Ph.ănghen tiến một
bớc vợt bậc so với những nhà t tởng trớc.
Thuật ngữ "lực lợng sản xuất" lần đầu tiên đợc C.Mác nêu lên trong tác
phẩm Hệ t tởng Đức và đợc phát triển làm rõ thêm ở trong các tác phẩm: "Sự
khốn cùng của triết học", "Lao động làm thuê và t bản", "Tiền công, giá cả và
lợi nhuận" và nhất là trong "Bộ t bản". Thông qua việc phân tích, làm rõ quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lợng sản xuất
5
mà C.Mác đã chỉ ra bản chất của lực lợng sản xuất. Nhng khái niệm lực lợng
sản xuất cha đợc C.Mác phát biểu một cách hoàn chỉnh dới dạng định nghĩa
do vậy còn nhiều quan điểm khác nhau về lực lợng sản xuất. Trong lịch sử
phát triển của triết học các nhà triết học đa ra nhiều định nghĩa khác nhau về
lực lợng sản xuất. Về các định nghĩa khác nhau của lực lợng sản xuất nhiều
luận văn, luận án trớc đã trình bày. ở đây theo chúng tôi hiểu, lực lợng sản
xuất là hệ thống phơng thức kết hợp giữa ngời lao động với t liệu sản xuất
trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội nhất định.

Nó là hệ thống những phơng thức kết hợp chứ không phải chỉ một kiểu
kết hợp. Hình thức biểu hiện của lực lợng sản xuất đó là quan hệ giữa con ngời
và tự nhiên, C.Mác viết: "Lao động trớc hết là một quá trình diễn ra giữa con
ngời ta và giới tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính
mình con ngời làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và
tự nhiên" [58, tr.266]. Nghĩa là con ngời phải dựa vào tự nhiên, có mối quan
hệ gắn bó với giới tự nhiên, trao đổi chất với tự nhiên. Lực lợng sản xuất biểu
hiện mối quan hệ giữa con ngời với tự nhiên trong đó con ngời tác động vào tự
nhiên biến đổi tự nhiên phục vụ chính bản thân mình hay còn là quá trình tác
động vào tự nhiên tạo ra thiên nhiên thứ hai (tạo ra của cải vật chất mới đợc
gọi là lực lợng sản xuất).
Lực lợng sản xuất bao gồm lao động sống (ngời lao động với kỹ năng và
kinh nghiệm lao động của họ) và t liệu sản xuất (công cụ lao động, đối tợng
lao động, phơng tiện sản xuất). Ngày nay khoa học đã và đang trở thành lực l-
ợng sản xuất trực tiếp.
Nhân tố đầu tiên của lực lợng sản xuất chính là ngời lao động - yếu tố giữ
vị trí hàng đầu, chủ yếu của lực lợng sản xuất. V.I. Lênin nói: "Lực lợng sản
xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là ngời lao động" [50,
tr.430]. Vì chỉ có con ngời và xã hội loài ngời mới có sản xuất, "Điều khác
biệt căn bản giữa xã hội loài ngời với xã hội loài vật là ở chỗ: Loài vật may mắn
lắm chỉ hái lợm, trong khi con ngời sản xuất" [60, tr.241].
Trong quá trình tác động vào tự nhiên sản xuất ra của cải vật chất, con
ngời không chỉ với cơ bắp sức lực mà còn dùng cả những tri thức, kinh nghiệm
kỹ năng, kỹ xảo để tác động vào tự nhiên, tạo ra những sản phẩm vật chất có
hiệu quả nhất. Chính con ngời tạo ra tất cả những phơng tiện máy móc, tạo ra
công cụ lao động, tác động vào đối tợng lao động, tạo ra phơng tiện sản xuất
6
để cho hoạt động sản xuất của con ngời ngày một nâng cao. C.Mác viết: "Một
vật do bản thân tự nhiên cung cấp đã trở thành một khí quan của sự hoạt động
của con ngời, khí quan mà con ngời đem chắp vào những khí quan của cơ thể

mình, và do đó kéo dài cái tầm thớc tự nhiên của cơ thể đó" [58, tr.268].
Những t liệu sản xuất dù quan trọng đến đâu thì riêng bản thân chúng cũng
không tạo ra đợc của cải vật chất, nó chỉ có tác dụng khi con ngời sử dụng.
Cùng với việc tạo ra công cụ sản xuất, con ngời còn sử dụng những công
cụ đó để làm ra của cải vật chất cho xã hội. Từ những công cụ thủ công bằng
đá, bằng đồng, bằng sắt, con ngời tiến tới chế tạo máy móc với kỹ thuật mới,
công nghệ mới. Trên cơ sở vận dụng những thành tựu mới nhất của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ, ngày nay con ngời bớc những bớc kỳ diệu trong
việc chinh phục tự nhiên. Cũng chính sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật sản
xuất đòi hỏi lao động của con ngời trở thành lao động có trí tuệ và lao động trí
tuệ. Mà trí tuệ con ngời không phải là cái gì siêu nhiên, nó là sản phẩm của tự
nhiên của lao động, trí tuệ hình thành và phát triển cùng với lao động làm cho
sản phẩm của lao động ngày càng có hàm lợng trí tuệ cao. Do đó ngời lao
động cần phải đợc tăng cờng tri thức trên mọi lĩnh vực.
Trong lực lợng sản xuất, con ngời và t liệu sản xuất có mối liên hệ hữu
cơ. Nó chính là hệ thống những phơng thức kết hợp trong quá trình sản xuất
của cải vật chất của xã hội. Trong lực lợng sản xuất, cụ thể trong t liệu sản
xuất công cụ lao động là yếu tố quyết định của lực lợng sản xuất, nó chính là
tiêu chí cơ bản thể hiện trình độ trinh phục tự nhiên của con ngời.
Công cụ lao động là cái vật hóa trí tuệ và tài năng sáng tạo của con ngời.
Với mục đích tăng năng suất lao động và giảm cờng độ lao động, con ngời đã
sáng tạo ra công cụ lao động. Nhờ đó công cụ lao động ngày càng đợc cải tiến
hiện đại. Trình độ của công cụ lao động là thớc đo trình độ chinh phục tự
nhiên của con ngời, là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau.
C.Mác viết: "Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản
xuất ra cái gì mà ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những t liệu lao
động nào" [58, tr.269].
Công cụ lao động là cầu nối giữa ngời lao động với đối tợng lao động. Để
tác động vào đối tợng lao động bắt buộc con ngời phải sử dụng công cụ lao
động, để cải biến những vật liệu sẵn có trong tự nhiên thành những vật phẩm

theo yêu cầu mục đích sử dụng của con ngời. Công cụ lao động hiện thực hóa
7
cái trừu tợng của t duy con ngời. Sức mạnh vật chất bao giờ cũng là sức mạnh
hiện thực. Khi công cụ sản xuất thay đổi hoàn thiện và phát triển thì kinh
nghiệm và kỹ năng của ngời lao động cũng thay đổi, phát triển hoàn thiện và
đợc nâng cao. Công cụ lao động (công cụ sản xuất) có thể là một vật thể hay
là một phức hợp những vật thể (tùy theo tính chất của việc sản xuất sản phẩm).
Nó có nhiệm vụ dẫn truyền sự tác động của con ngời với đối tợng lao động để
tạo ra của cải vật chất.
Lịch sử phát triển loài ngời đợc đánh dấu bằng những mốc quan trọng
trong sự phát triển của lực lợng sản xuất, trớc hết là của công cụ lao động.
Thời trung cổ, công cụ lao động giản đơn thô sơ lạc hậu nh vật liệu bằng đá,
bằng đồng, bắng sắt. Thời cận, hiện đại công cụ bằng máy móc, hơi nớc, máy
dệt Ngày nay dới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, nhiều
công cụ lao động phát triển thành hệ thống thiết bị tự động và ngày càng phát
triển. Ngời lao động dần tách khỏi quá trình sản xuất trực tiếp, đóng vai trò
kiểm tra và điều hành sự vận động của hệ thống tự động.
Trong t liệu sản xuất nếu yếu tố công cụ lao động là cầu nối giữa ngời lao
động với đối tợng lao động thì đối tợng lao động cũng thể hiện rõ rệt vai trò
của nó. C.Mác nói: "Công nhân không thể sáng tạo ra cái gì hết nếu không có
giới tự nhiên, nếu không có thế giới hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu trong
đó lao động của anh ta đợc thực hiện, trong đó lao động của anh ta đợc triển
khai, từ đó và nhờ đó, lao động của anh ta sản xuất ra sản phẩm" [62, tr.130].
Đối tợng lao động là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con ngời tác
động vào làm thay đổi hình thái của nó cho phù hợp với mục đích của con ng-
ời. Đối tợng của lao động tồn tại dới hai dạng, trớc hết là dạng có sẵn trong tự
nhiên, con ngời tách nó ra khỏi mối liên hệ trực tiếp với tự nhiên và biến thành
sản phẩm nh gỗ trong rừng nguyên thủy, quặng dới lòng đất, tôm cá dới sông
biển Thứ đến là dạng đã trải qua lao động chế biến nh than trong nhà máy
nhiệt điện, sắt, thép, để chế tạo máy móc. Đối tợng lao động thuộc dạng này

còn gọi là nguyên liệu. Chúng thuộc đối tợng của các ngành công nghiệp chế
biến. Tuy nhiên, không phải mọi dạng vật chất có sẵn trong tự nhiên đều là đối
tợng lao động mà chỉ có những dạng vật chất có khả năng tạo ra những vật
phẩm theo những mục đích, yêu cầu đáp ứng những nhu cầu nào đó của con
ngời, và đợc con ngời tác động, khai thác, cải tạo thì chúng mới trở thành đối
tợng của lao động. Khi khoa học công nghệ càng cao, sản xuất xã hội càng
8
phát triển, khả năng cải tạo tự nhiên của con ngời ngày càng lớn thì khi đó
ngày càng nhiều dạng vật chất trở thành đối tợng lao động.
Cũng cần lu ý rằng mọi nguyên liệu đều là đối tợng của lao động nhng
không phải mọi đối tợng lao động đều là nguyên liệu. C.Mác nói: "Mọi
nguyên liệu đều là đối tợng lao động, nhng không phải mọi đối tợng lao động
đều là nguyên liệu. Đối tợng của lao động chỉ trở thành nguyên liệu khi đã trải
qua một sự biến đổi nào đó do lao động gây ra". Trong tơng lai nguyên liệu tự
nhiên cạn kiệt và đợc thay bằng những vật liệu không có trong tự nhiên, tơng
lai sử dụng những nguyên liệu "nhân tạo" thay thế cho dạng nguyên liệu
truyền thống, tuy nhiên những nguyên liệu "nhân tạo" đó cũng đều bắt nguồn
từ tự nhiên.
Trong t liệu sản xuất, ngoài công cụ lao động và đối tợng lao động còn có
phơng tiện sản xuất, kết cấu hạ tầng bao gồm: hệ thống dịch vụ, đờng xá, cầu
cống, bến bãi, nhà kho, thông tin những yếu tố này không trực tiếp tạo ra
sản phẩm. Trớc đây nó chỉ mang nghĩa dịch chuyển giá trị bên ngoài, không
đợc coi trọng thì nay đợc nhận thức lại và thấy rằng nó có ảnh hởng lớn tới giá
trị sản phẩm, đến sản xuất, nó là yếu tố nội sinh của quá trình sản xuất, góp
phần tạo ra giá trị mới. Sản phẩm hàng hóa làm ra chính nhờ kết cấu hạ tầng
này mà có thể tăng giảm giá trị sản phẩm, dịch chuyển Trong điều kiện của
cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện nay, lực lợng sản xuất không chỉ bao
gồm đối tợng lao động, phơng tiện và công cụ lao động, con ngời lao động với
những tập quán, thói quen, kỹ năng kinh nghiệm và tri thức lao động của mình
mà còn có cả yếu tố khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại.

Ngày nay, khoa học trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp. Nó vừa là ngành
sản xuất riêng, vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu thành lực lợng sản xuất, đem
lại sự thay đổi về chất của lực lợng sản xuất. C.Mác đã dự đoán khoa học sẽ trở
thành "lực lợng sản xuất trực tiếp", trong tác phẩm Hệ t tởng Đức, Mác và
ăngghen viết: "Những lực lợng sản xuất, nhất là những phát minh, đã đạt đợc
một địa phơng có mất đi hay không đối với sự phát triển sau này điều đó chỉ phụ
thuộc vào sự mở rộng của giao tiếp thôi" [52, tr.79]. C.Mác đã chỉ rõ điều kiện để
khoa học trở thành lực lợng sản xuất:
Những lực lợng tự nhiên nh hơi nớc, nớc, đợc áp dụng vào
quá trình sản xuất cũng không tốn kém gì cả. Nhng con ngời cần có
phổi để thở, thì t bản cũng cần có "một sản phẩm của bàn tay con
ngời", để có thể tiêu dùng một cách sản xuất những lực lợng của tự
9
nhiên. Cần phải có một cái xe nớc để có thể lợi dụng đợc sức đẩy
của nớc, cần phải có một máy hơi nớc để có thể lợi dụng đợc tính
đàn hồi của hơi nớc. Đối với khoa học thì cũng giống nh đối với các
lực lợng tự nhiên [58, tr.557].
Rồi Mác đa ra dẫn chứng cụ thể: "Nhng việc lợi dụng những quy luật đó
vào điện báo, đòi hỏi phải có những máy móc rất nhiều tiền và cồng kềnh"
[58, tr.557].
Ngày nay những dự đoán thiên tài của C.Mác đã trở thành hiện thực.
Khoa học là kết quả nghiên cứu của quá trình hoạt động thực tiễn, nhng đến l-
ợt nó lại có tác động mạnh mẽ đối với hoạt động sản xuất. Khoa học trong
thời đại ngày nay đã rút ngắn khoảng cách đến tối thiểu từ sáng chế, phát
minh đến ứng dụng vào sản xuất, đem lại hiệu quả nhanh. Sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học nó đã tác động to lớn đến mọi lĩnh vực sản xuất, tạo điều
kiện cho những nớc chậm phát triển có thể đi tắt đón đầu, "bứt phá" trong ứng
dụng những thành quả của khoa học công nghệ vào sản xuất.
Khoa học chỉ thể hiện đợc vai trò to lớn của mình khi nó thâm nhập vào
các yếu tố cấu thành lực lợng sản xuất, thẩm thấu vào cả những yếu tố quan hệ

sản xuất và kiến trúc thợng tầng, nâng trình độ ngời lao động, cải tiến công cụ
lao động, cải tạo đối tợng lao động, phơng tiện sản xuất Nó thâm nhập vào t
duy lãnh đạo quản lý, điều hành sản xuất và các lĩnh vực khác trong đời sống
xã hội để tạo ra sự thay đổi to lớn về kinh tế xã hội từ đó tìm ra những xu hớng
vận động của nền kinh tế để đa ra những chính sách phát triển kinh tế - xã hội
phù hợp.
Khoa học không chỉ tạo ra những hàng hóa thông thờng mà còn tạo ra
một loại hàng hóa đặc biệt, hàng hóa chất xám phi vật thể. Với cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại, tri thức trở thành yếu tố không thể thiếu
đợc của lao động sản xuất, lao động trí tuệ đang dần trở thành lao động chủ
yếu. Lao động cơ bắp mặc dù không bị mất đi nhng dần dần đợc thay thế bằng
lao động trí tuệ của nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức đang và sẽ là một
nền kinh tế tiết kiệm tài nguyên nhng vẫn tạo ra một khối lợng của cải đồ sộ.
Điều này khẳng định trí tuệ của con ngời đang là nguồn lực to lớn của sản
xuất vật chất và hoạt động xã hội. Cho nên con ngời chính là yếu tố hàng đầu,
chủ yếu của lực lợng sản xuất. Có thể thấy khoa học công nghệ hiện đại đã
quyết định đến sự phát triển sản xuất, trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp, nh-
ng nó không phải là yếu tố quyết định nhất trong lực lợng sản xuất. Công nghệ
10
tiên tiến và hiện đại chỉ làm tăng thêm khả năng chinh phục tự nhiên của con
ngời, giúp con ngời ngày càng tạo ra nhiều của cải vật chất, khám phá những
hiện tợng, khả năng mới của con ngời chứ không thay thế đợc hoàn toàn hoạt
động sản xuất của con ngời. Khoa học kỹ thuật hiện đại chỉ thay thế cho con
ngời những hoạt động nặng nhọc, phức tạp giúp con ngời có điều kiện để phát
triển trí tuệ, học tập và nghiên cứu.
Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, các yếu tố của lực lợng sản
xuất không tách rời nhau mà chúng có quan hệ qua lại tác động hỗ trợ nhau để
cùng tồn tại và phát triển. Với ý nghĩa đó, lực lợng sản xuất trở thành yếu tố
động nhất, cách mạng nhất.
1.1.2. Phát triển lực lợng sản xuất - nhân tố quyết định cuối cùng sự

phát triển xã hội
Sản xuất vật chất không ngừng biến đổi. Sự biến đổi đó, xét cho cùng
luôn phải bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển của lực lợng sản xuất. Do vậy,
lực lợng sản xuất là nhân tố quyết định cuối cùng của phát triển xã hội. Trình
độ của lực lợng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con ngời
trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Trình độ của lực lợng sản xuất thể hiện
khả năng của con ngời thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá
trình cải biến giới tự nhiên nhằm đảm bảo sự tồn tại, phát triển của mình. Khi
phân tích khái niệm lực lợng sản xuất, Ph.Ăngghen đã sử dụng khái niệm tính
chất và trình độ. Khi sản xuất công cụ ở trình độ thủ công thì lực lợng sản
xuất chủ yếu mang tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt trình độ cơ khí hóa thì
lực lợng sản xuất mang tính xã hội hóa. Ngày ngay lực lợng sản xuất đạt tính
quốc tế hóa. Trình độ của lực lợng sản xuất và tính chất của lực lợng sản xuất
không tách rời nhau nó phụ thuộc lẫn nhau.
Khuynh hớng của sản xuất vật chất không ngừng biến đổi và phát triển.
Sự biến đổi và phát triển đó trớc hết bằng những sự thay đổi và phát triển của
công cụ lao động. Cho nên lực lợng sản xuất là yếu tố động hơn và cách mạng
hơn cả của sản xuất vật chất. Trong khi đó quan hệ sản xuất lại tơng đối ổn
định, sự ổn định đợc duy trì trong khi lực lợng sản xuất luôn vận động biến
đổi phát triển đã hình thành mâu thuẫn cơ bản của một phơng thức sản xuất
(mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất). Mâu thuẫn càng phát
triển thì quan hệ sản xuất càng trở thành xiềng xích, trói buộc sự phát triển
của lực lợng sản xuất. Sản xuất đòi hỏi phải thay quan hệ sản xuất cũ đã lỗi
11
thời (là xiềng xích trói buộc) bằng một quan hệ sản xuất mới thích ứng với
trình độ phát triển mới của lực lợng sản xuất. Quá trình đó chính là sự thay thế
một phơng thức sản xuất cũ lỗi thời bằng một phơng thức sản xuất mới cao
hơn. C.Mác viết:
Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lợng
sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất

hiện có trong đó từ trớc đến nay các lực lợng sản xuất vẫn phát
triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lợng sản xuất,
những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của lực lợng sản xuất.
Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội [55, tr.15].
Lực lợng sản xuất phát triển làm thay đổi quan hệ sản xuất. Quan hệ sản
xuất thay đổi cho phù hợp lực lợng sản xuất làm thay đổi cả phơng thức sản
xuất. Phơng thức sản xuất thay đổi làm thay đổi kiến trúc thợng tầng. Kiến
trúc thợng tầng thay đổi phù hợp với cơ sở hạ tầng làm thay đổi cả hình thái
kinh tế xã hội -làm thay đổi toàn bộ xã hội cả vật chất lẫn tinh thần.
Ngày nay sự phát triển lực lợng sản xuất là nguyên nhân sâu xa của toàn
cầu hóa. Song, toàn cầu hóa lại tác động mạnh mẽ trở lại lực lợng sản xuất. Nó
thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực lợng sản xuất, đa lại sự tăng trởng
ngày càng cao cho nền kinh tế thế giới. Đầu thế kỷ XX, GDP thế giới tăng 2,7
lần nhng đến những năm cuối thế kỷ XX thì GDP đã đạt 5,2 lần, gấp 2 lần so với
những năm đầu thế kỷ. Với sự phát triển nhanh chóng của lực lợng sản xuất ,
nhất là trong xu thế toàn cầu hóa những nớc đang phát triển có thể tiếp nhận các
nguồn lực về vốn, công nghệ, về con ngời để tạo đà phát triển cho mình. Những
năm 70 của thế kỷ XX tốc độ tăng trởng kinh tế của những nớc đang phát triển từ
2,9%/năm thì đến những năm 90 đã lên đến 5%/năm.
Toàn cầu hóa tạo điều kiện cho lực lợng sản xuất phát triển góp phần từng
bớc củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất. Hiện nay dới tác động của toàn cầu
hóa, khu vực hóa, lực lợng sản xuất phát triển càng nhanh chóng, thúc đẩy
nhanh quá trình cải tạo và phát triển xã hội.
Thực tế đã chứng minh từ khi nhìn nhận lại một cách đúng đắn mối quan hệ
giữa quan hệ sản xuất với trình độ và tính chất của lực lợng sản xuất, chúng ta
phát triển lực lợng sản xuất nhng đồng thời tiến hành xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp thì nền kinh tế Việt Nam có những bớc tăng trởng vợt bậc.
12
1.1.3. Yêu cầu của sự phát triển lực lợng sản xuất thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nớc thuộc địa nửa phong kiến bỏ
qua chế độ t bản chủ nghĩa nên việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ và tính chất của lực lợng sản xuất trong điều kiện cụ thể nớc
ta vô cùng cần thiết. Ngay từ khi miền Bắc bắt đầu thời kỳ quá độ tiến lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta coi công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung
tâm của thời kỳ quá độ. Để đa nền kinh tế nớc ta từ sản xuất nhỏ là chủ yếu
lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chúng ta không có con đờng nào khác là
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa [16, tr.65]. Với chúng ta, mục tiêu công
nghiệp hoá là xây dựng một nền sản xuất lớn XHCN trong một cơ cấu công -
nông nghiệp hợp lý. Để công nghiệp hoá thuận lợi thì phải xác định các bớc đi
và hình thức đi thích hợp.
Đối với các nớc có nền sản xuất lớn t bản chủ nghĩa, sau khi cách mạng
XHCN nổ ra, việc thay thế các quan hệ sản xuất TBCN bằng quan hệ sản xuất
XHCN là có thể tạo ra đợc sự phù hợp giữa lực lợng sản xuất đã xã hội hoá và
quan hệ sản xuất mới. Nhng ở các nớc từ sản xuất nhỏ lên CNXH nh Việt
Nam không qua giai đoạn phát triển TBCN thì không chỉ xây dựng các quan
hệ sản xuất mới mà còn phải xây dựng, phát triển cả lực lợng sản xuất vì lực l-
ợng sản xuất còn ở trình độ thủ công manh mún, công nghiệp cha phát triển.
Sau khi cả nớc thống nhất, Đại hội IV cũng nhấn mạnh phải xây dựng từ
đầu cả lực lợng sản xuất mới lẫn quan hệ sản xuất mới nhng không phải tất
cả đều đợc nhận thức và làm nh vậy.
Do nhận thức không đầy đủ sản xuất trì trệ, tăng trởng kinh tế thấp, thiếu
lơng thực đến mức phải nhập khẩu với số lợng lớn. Hàng tiêu dùng thiết yếu
thiếu nghiêm trọng, vốn đầu t cho công nghiệp không đủ. Nhiều công trình
không đợc hoàn thành mà phải dừng giữa chừng, kéo dài vì thiếu vốn. Ngân
sách thiếu hụt, lạm phát gia tăng. Đất nớc đang đứng trớc những khó khăn lớn
về mặt kinh tế. Chúng ta phải mau chóng phá bỏ trì trệ, bảo thủ, đề ra đờng lối
đúng đắn, phát động quần chúng nhân dân bắt tay vào hành động cách mạng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đã chỉ ra, muốn chuyển biến đợc một
thực trạng kinh tế hiện nay phải tạo cho đợc một lực lợng sản xuất mới, một

năng suất lao động xã hội cao hơn, ngay trong khi cha có nền đại công
nghiệp [18, tr. 55].
13
Đảng ta đa ra chủ trơng phát triển lực lợng sản xuất trong Đại hội Đảng
lần thứ V là Đảng ta đã nhận thức đợc vai trò của lực lợng sản xuất mới là tạo
ra đợc một năng suất lao động cao hơn, nhng khi lực lợng sản xuất còn ở trình
độ sản xuất nhỏ manh mún thì phải nhận thức mối quan hệ giữa các yếu tố của
lực lợng sản xuất, từ đó Đảng đa ra chủ trơng đờng lối phát triển lực lợng sản
xuất:
Điều quan trọng nhất, việc có thể là cần phải làm trớc tiên là
làm chủ tập thể để sử dụng hợp lý và có hiệu quả lao động và đất
đai, mở rộng ngành nghề, tại từng cơ sở, trên từng địa phơng và
trong cả nớc; để mọi ngời lao động đều có việc làm, mọi đất đai đều
đợc khai thác, mọi ngành nghề đều đợc phát triển cả chiều rộng, lẫn
chiều sâu, tạo năng suất lao động xã hội cao hơn, giá trị tổng sản l-
ợng lớn hơn, cơ cấu sản phẩm phong phú hơn. Nh vậy, cần phải tập
trung phát triển mạnh nông nghiệp, đa nông nghiệp một bớc lên sản
xuất xã hội chủ nghĩa, trong một cơ cấu kết hợp chặt chẽ và đúng
đắn nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng
[18, tr.55-56].
Từ Đại hội VI đến nay, đờng lối phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của Đảng đã khắc phục những thiếu sót khuyết điểm, từng bớc đổi
mới phơng thức thực hiện phù hợp với thực tiễn đất nớc và tình hình thế giới
đã và đang có nhiều biến đổi. Thực hiện phát triển lực lợng sản xuất đồng thời
tiến hành xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực
lợng sản xuất.
Với đặc điểm chủ yếu của lực lợng sản xuất nớc ta hiện nay là sản xuất
nhỏ, thủ công phân tán, phân bổ không đều. Mà theo quan điểm chủ nghĩa
Mác - Lê nin, lực lợng sản xuất là nhân tố quyết định cuối cùng đối với sự
phát triển xã hội. Một nền sản xuất phát triển cao trớc hết phải dựa trên lực l-

ợng sản xuất hiện đại. Cho nên phát triển xã hội trớc hết phải u tiên tập trung
cho phát triển lực lợng sản xuất, xác lập quan hệ sản xuất cũng nhằm giải
phóng và phát triển lực lợng sản xuất.
Đặc trng của CNXH là có nền sản xuất cao, dựa trên lực lợng sản xuất
tiên tiến hiện đại. Với đặc điểm của lực lợng sản xuất nớc ta, việc tập trung
phát triển lực lợng sản xuất là yêu cầu tất yếu khách quan, là nhiệm vụ trọng
tâm của toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI nhấn
14
mạnh: Trong mỗi bớc đi của quá trình cải tạo, xây dựng phải đẩy mạnh việc
xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, tạo lực lợng sản xuất mới, trên cơ sở đó tiếp
tục đa quan hệ sản xuất lên hình thức, quy mô thích hợp để cho lực lợng sản
xuất phát triển. Tiếp văn kiện Đại hội VII, VIII đều nhấn mạnh phải phát triển
lực lợng sản xuất. Đến Đại hội IX của Đảng tiếp tục chỉ rõ: Ưu tiên phát triển
lực lợng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định h-
ớng xã hội chủ nghĩa" [27, tr.24]. Điều này có nghĩa là phát triển lực lợng sản
xuất từ đó xác lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực
lợng sản xuất, chống chủ quan duy ý chí nóng vội trong cải tạo quan hệ sản
xuất.
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhất là trong thời
kỳ hiện nay, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì yêu cầu phát triển lực l-
ợng sản xuất là vô cùng quan trọng, nó là một tất yếu khách quan, đảm bảo
cho sự thành công của sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta.
1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa dới tác động của sự phát
triển lực lợng sản xuất
1.2.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là gì?
Ngay từ thế kỷ XVIII một số nớc đã tiến hành công nghiệp hoá, mở đầu
là nớc Anh bằng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Thực chất của
công nghiệp hoá trong thời kỳ đó là quá trình chuyển nền kinh tế nông nghiệp
với kỹ thuật thủ công sang nền kinh tế cơ bản dựa trên công nghiệp với kỹ
thuật máy móc.

ở Việt Nam ngay từ những năm 60, Đảng ta đã xác định công nghiệp hoá
là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Chủ trơng của Đảng về công
nghiệp hoá là: Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện
đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp lấy công nghiệp nặng làm nền tảng,
u tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ [16, tr.182-183].
Đến đại hội IV tiếp tục khẳng định đẩy mạnh công nghiệp hoá là nhiệm
vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ:
Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở
vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đa nền kinh tế nớc ta từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và
15
công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả
nớc thành một cơ cấu kinh tế công nông nghiệp [17, tr.68].
Đại hội IV đờng lối công nghiệp hoá XHCN đã có sự điều chỉnh sát hơn,
hợp lý hơn.
Đại hội III và IV của Đảng đã khẳng định công nghiệp hoá là nhiệm vụ
trung tâm của cả thời kỳ quá độ nhng đến Đại hội V của Đảng, nội dung công
nghiệp hoá XHCN mới đợc xác định một cách cụ thể rõ ràng hơn: Trong 5
năm 1981 - 1985 và những năm 80 cần tập trung sức phát triển mạnh nông
nghiệp, coi nông nghiệp là một mặt trận hàng đầu, đa nông nghiệp một bớc
lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và
tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng, kết hợp nông
nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu
công - nông nghiệp hợp lý". Đó là những nội dung chính của công nghiệp hoá
trong chặng đờng trớc mắt.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI - bớc ngoặt trong đổi mới t duy của
Đảng ta về CNXH. T tởng chủ đạo của các chính sách kinh tế là giải phóng
mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nớc

và sử dụng có hiệu qủa sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lợng sản
xuất. Đại hội chỉ rõ: nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu khái quát của những
năm còn lại của chặng đờng đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế xã
hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đờng tiếp theo [19, tr.42].
Đến Đại hội VII của Đảng thông qua cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong
thời kỳ quá độ lên CNXH: Các Nghị quyết Trung ơng khoá VII đã tiếp tục
khẳng định và làm rõ quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơng lĩnh chỉ
rõ:
phát triển lực lợng sản xuất, công nghiệp hoá đất nớc theo
hớng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện
là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bớc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao
động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân [21, tr.9].
Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ hoá VII, Đảng ta đa ra
khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hội nghị khẳng định: Mặc dù còn
nhiều yếu kém phải khắc phục, những thành tựu quan trọng đạt đợc đã và
đang tạo ra những tiền đề đa đất nớc chuyển dần sang một thời kỳ phát
16
triển mới, thời kỳ đẩy tới một bớc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc"
[22, tr.22].
Đây là lần đầu tiên trong văn kiện Đảng ta dùng khái niệm công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Nhng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là gì thì cha đợc
xác định thật rõ tại Hội nghị này.
Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa đợc xác định rõ tại Hội nghị lần
thứ VII Ban Chấp hành Trung ơng Đảng khoá VII (tháng 7 năm 1994). Nghị
quyết đã chỉ rõ:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản,
toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý
kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng

một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phơng tiện và
phơng pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp
và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội
cao [22, tr.65].
Nh vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực chất là quá trình tạo ra những
tiền đề vật chất, kỹ thuật về con ngời, công nghệ, phơng tiện, phơng pháp -
những yếu tố cơ bản của lực lợng sản xuất cho CNXH. Nội dung cơ bản là cải
tiến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện
đại để đạt tới năng suất lao động xã hội cao.
Nghị quyết cũng xác định:
Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến
nớc ta thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện
đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với
trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần
cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nớc mạnh, xã hội
công bằng văn minh [22, tr.70].
Từ khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để xác định rõ tại Hội nghị
lần thứ VII, Ban Chấp hành Trung ơng khoá VII đến Đại hội VIII và Đại hội
IX tiếp tục cụ thể hoá hơn về nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đại
hội VIII khẳng định nớc ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa Nhiệm vụ đề ra cho chặng đờng đầu của
thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành
cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
17
đất nớc" [24, tr.67- 68]. Đại hội IX khẳng định phát triển kinh tế công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm [25, tr.91].
Vậy công nghiệp hoá là gì? hiện đại hoá là gì ? Vì sao nhất thiết phải gắn
công nghiệp hoá với hiện đại hoá. Đã có những thời kỳ chúng ta chỉ có công
nghiệp hoá mà không tính đến hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động

sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phơng tiện và phơng pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và
tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Hiện đại hóa là làm cho các quá trình kinh tế - xã hội mang tính chất hiện
đại. Hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân làm cho kỹ thuật và trình độ sản xuất
cũng nh cơ cấu kinh tế đạt đợc trình độ tiên tiến của thời đại. Ngoài mặt kinh
tế, kỹ thuật, hiện đại hoá còn bao gồm cả phơng diện kinh tế - xã hội.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là hai khái niệm không hoàn toàn đồng
nhất, đã có thời kỳ chúng ta chỉ nói tới công nghiệp hoá với kỹ thuật cơ bản,
với cơ chế quản lý theo lối hành chính, mệnh lệnh, quan liêu bao cấp thì nay
chúng ta nói công nghiệp hoá luôn gắn với hiện đại hoá. C.Mác đã chỉ ra rằng:
Những thời đại kinh tế khác nhau, không phải ở chỗ chúng sản
xuất ra cái gì, mà ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những t liệu
lao động nào. Các t liệu lao động không những là thớc đo sự phát triển
sức lao động của con ngời, mà còn là một chỉ tiêu của những quan hệ xã
hội trong đó lao động đợc tiến hành [58, tr.269-270].
Với Việt Nam hiện nay, công nghiệp hoá nhất thiết gắn với hiện đại hoá.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII đã chỉ ra:
Công nghiệp hóa thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc
độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là
quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ,
tạo nền tảng cho sự tăng trởng nhanh hiệu quả cao và lâu bền của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa, kết hợp những b-
ớc tiếp tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt,
đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên
tiến của khoa học - công nghệ thế giới [22, tr.27].
18

Có thể thấy công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là quá trình làm chuyển
đổi căn bản toàn diện trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc phải đảm bảo xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, trớc hết là độc lập tự chủ về đờng lối,
chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh, có mức tích lũy
ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức
cạnh tranh, kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và có một số ngành
công nghiệp nặng then chốt, có năng lực nội sinh về khoa học công
nghệ, giữ vững ổn định kinh tế - tài chính, môi trờng xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển
đất nớc [27, tr.91-92].
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế đất nớc là một nhiệm vụ chiến
lợc quan trọng hàng đầu để tiến tới xây dựng một xã hội dân giàu, nớc mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nớc cũng đồng thời là quá trình giải quyết hàng loạt mối quan hệ nhà nớc
và thị trờng, sở hữu và kinh doanh, giữa việc phát triển các yếu tố của lực lợng
sản xuất với quan hệ sản xuất, giữa phát triển kinh tế với tiến bộ công bằng xã
hội, phát triển kinh tế với bảo vệ môi trờng sinh thái, giữa truyền thống và
hiện đại, đòi hỏi phải đợc giải quyết. Nhng yếu tố quyết định tác động trực
tiếp đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đó chính là lực lợng sản xuất,
nó đảm bảo thành công hay thất bại của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và công nghiệp hoá hiện đại hoá cũng chính là nhân tố tạo bớc nhảy về
chất cho sự phát triển của lực lợng sản xuất.
1.2.2. Sự tác động của lực lợng sản xuất (xét trong quan hệ với quan
hệ sản xuất) đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là để tạo ra những tiền đề cơ sở vật chất để
làm chuyển đổi mọi mặt đời sống xã hội.
Để tiến hành sản xuất, con ngời không chỉ có quan hệ với giới tự nhiên
mà còn có quan hệ với nhau tức là những quan hệ sản xuất. Trong tác phẩm

lao động làm thuê và t bản, C.Mác viết:
Trong sản xuất, ngời ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên,
ngời ta không thể sản xuất đợc nếu không kết hợp với nhau theo một
cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau.
19
Muốn sản xuất đợc ngời ta phải có những mối liên hệ và quan hệ
nhất định với nhau và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là
việc sản xuất [54, tr.552].
Trong tác phẩm góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, C.Mác đã chỉ
ra: Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con ngời có những quan
hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ, những quan hệ sản
xuất [54, tr.553].
Có thể thấy quan hệ sản xuất là quan hệ giữa ngời và ngời trong quá trình
sản xuất vật chất, quan hệ tất yếu khách quan không phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan của con ngời. Quan hệ này đợc biểu hiện trên ba mặt, đó là quan hệ
sở hữu đối với t liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ
phân phối sản phẩm lao động.
Trong quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất là yếu tố cơ
bản nhất, đặc trng cho một quan hệ sản xuất nhất định. Quan hệ này quyết
định vị trí của các tập đoàn ngời khác nhau trong sản xuất, trong tổ chức quản
lý và trao đổi hoạt động, trong phân phối sản phẩm xã hội. Tính chất của quan
hệ sản xuất trớc hết đợc quy định bởi quan hệ sở hữu đối với t liệu sản xuất
biểu hiện thành chế độ sở hữu, là đặc trng của một phơng thức sản xuất. Chính
quan hệ sở hữu - quan hệ giữa các tập đoàn ngời trong việc chiếm hữu các t
liệu sản xuất đã quy định địa vị của từng tập đoàn trong hệ thống sản xuất xã
hội và trong xã hội nói chung.
Từ trớc tới nay, lịch sử đã có hai loại hình sở hữu cơ bản đối với t liệu sản
xuất là sở hữu t nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu công cộng là loại hình mà
trong đó mọi t liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của cộng đồng. Nhờ cơ
sở đó nên về mặt nguyên tắc, các thành viên trong cộng đồng bình đẳng với

nhau trong tổ chức lao động và phân phối sản phẩm. Do t liệu sản xuất là tài
sản chung của cả cộng đồng nên các quan hệ xã hội trong sản xuất vật chất và
đời sống xã hội nói chung trở thành quan hệ hợp tác tơng trợ giúp đỡ lẫn nhau.
Ngợc lại, sở hữu t nhân thì t liệu sản xuất chỉ nằm trong tay một số ít ngời nên
của cải xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về số ít ngời đó, vì thế các
quan hệ xã hội trở thành bất bình đẳng, quan hệ thống trị và bị trị. Tạo ra các
đối kháng xã hội, trong các xã hội tồn tại chế độ t hữu, tiềm tàng, trở thành
đối địch gay gắt. Đây là nguồn gốc sinh ra đối kháng giai cấp và đấu tranh
giai cấp.
20
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ, trong các chế độ sở
hữu t nhân điển hình trong lịch sử; sở hữu t nhân của xã hội chiếm hữu nô lệ,
sở hữu t nhân của chế độ phong kiến; sở hữu t nhân trong CNTB, thì trong đó
sở hữu t nhân trong CNTB là đỉnh cao của loại sở hữu này. CNXH dựa trên
chế độ công hữu về t liệu sản xuất, dù sớm hay muộn cũng sẽ đóng vai trò phủ
định đối với chế độ t hữu.
Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ tổ chức quản lý và phân phối sản
phẩm, song, quan hệ tổ chức và phân phối sản phẩm cũng tác động trở lại chế
độ t hữu. Vì:
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt quản lý sản
xuất, tổ chức là các quan hệ có khả năng quyết định một cách trực tiếp quy
mô, tốc độ, hiệu quả và xu hớng của mỗi nền sản xuất cụ thể bằng cách nắm
bắt các nhân tố xác định của một nền sản xuất, điều khiển và tổ chức cách thức
vận động của các nhân tố đó, các quan hệ tổ chức và quan hệ quản lý sản xuất có
khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm các quá trình khách quan của sản xuất.
Các quan hệ về mặt tổ chức và quản lý sản xuất luôn có xu hớng thích
ứng với kiểu quan hệ sở hữu thống trị của mỗi nền sản xuất cụ thể. Do vậy,
việc sử dụng hợp lý các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất có khả năng vơn
tới tối u. Trong trờng hợp ngợc lại các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm
biến dạng quan hệ sở hữu, ảnh hởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội.

Quan hệ về mặt phân phối sản phẩm cũng là những nhân tố có ý nghĩa
hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Mặc dù bị
phụ thuộc vào các quan hệ sở hữu, vào trình độ tổ chức quản lý sản xuất song,
do có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con ngời, nên các quan hệ
phân phối là chất xúc tác của các quá trình kinh tế - xã hội.
Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sự sản xuất,
làm năng động toàn bộ đời sống kinh tế xã hội, hoặc trong trờng hợp ngợc lại
nó có khả năng kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất mặc dù giữ vai trò quyết
định đối với quan hệ trong tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm nhng nếu
quan hệ tổ chức và phân phối sản phẩm không giải quyết đúng đắn sẽ tác động
tiêu cực đến quan hệ sở hữu, làm cho quan hệ sở hữu biến dạng. Động lực
thúc đẩy hoạt động con ngời là hoạt động lợi ích mà cơ sở là lợi ích kinh
tế. Do đó, sở hữu t liệu sản xuất luôn là cơ sở, phơng tiện, điều kiện của mọi
21
quan hệ lợi ích. Nhng quan hệ sở hữu không tự thực hiện đợc lợi ích của mình
mà phải thông qua quan hệ tổ chức quản lý và phân phối. Quan hệ tổ chức,
quản lý và phân phối không đúng, vi phạm lợi ích ngời lao động thì sở hữu
công cộng, tập thể dù có ý nghĩa to lớn đến đâu cũng đều vô nghĩa.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, lực lợng sản xuất
tác động mạnh mẽ đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhng bao giờ
cũng xét trong mối quan hệ với quan hệ sản xuất. Vì lực lợng sản xuất và quan
hệ sản xuất là hai mặt của một phơng thức sản xuất.
Trong quan hệ với lực lợng sản xuất, quan hệ sản xuất luôn luôn phù hợp
với trình độ và tính chất của lực lợng sản xuất. Lực lợng sản xuất luôn quyết
định sự vận động - biến đổi và phát triển của quan hệ sản xuất, lực lợng sản
xuất quyết định tính chất của quan hệ sản xuất, quyết định sự phát triển của
quan hệ sản xuất, lực lợng sản xuất nh thế nào thì quan hệ sản xuất nh thế ấy,
lực lợng sản xuất biến đổi thì sớm muộn quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo.
Thực tiễn loài ngời đã chứng minh rằng khuynh hớng sản xuất vật chất là

không ngừng biến đổi và phát triển, sự biến đổi và phát triển luôn bắt đầu từ
lực lợng sản xuất, lực lợng sản xuất biến đổi đến một trình độ nào đó sẽ mâu
thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp
đến không phù hợp tạo ra những xiềng xích trói buộc lực lợng sản xuất, kìm hãm
sự phát triển của lực lợng sản xuất. Do đó, đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất
cũ, thay bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ và tính chất của lực lợng
sản xuất để cởi trói cho lực lợng sản xuất tiếp tục phát triển.
Điều đó có nghĩa phải phát triển lực lợng sản xuất rồi mới xây dựng quan
hệ sản xuất phù hợp với nó chứ không chủ quan nóng vội xây dựng một kiểu
quan hệ sản xuất mới, áp đặt cho nó, sẽ tạo ra những sai lầm nh trớc những
năm đổi mới. Nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay
phải phát triển lực lợng sản xuất nhng đồng thời tạo sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với lực lợng sản xuất. C. Mác viết: Những quan hệ xã hội đều gắn
liền mật thiết với những lực lợng sản xuất. Do có đợc những lực lợng sản xuất
mới, loài ngời thay đổi phơng thức sản xuất của mình và do thay đổi phơng
thức sản xuất cách kiếm sống của mình loài ngời thay đổi tất cả những quan
hệ xã hội của mình [53, tr.187].
Khác với lực lợng sản xuất luôn luôn vận động biến đổi và phát triển thì
quan hệ sản xuất có tính ổn định tơng đối. Nó tác động trở lại với lực lợng sản
22
xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, khuynh hớng phát
triển của quan hệ lợi ích, nh mục đích sản xuất của đất nớc ta hiện nay là để
làm sao thúc đẩy hoàn thành nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
tạo ra một lực lợng sản xuất phát triển cao để xây dựng quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa phù hợp với nó. Ngoài ra quan hệ sản xuất còn tạo ra một hệ
thống những yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất.
Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lợng sản xuất nó
sẽ thúc đẩy cho lực lợng sản xuất phát triển nhanh chóng. Và khi quan hệ sản
xuất không phù hợp với trình độ và tính chất của lực lợng sản xuất sẽ kìm hãm sự
phát triển của lực lợng sản xuất. Đó là biểu hiện tính năng động của lực lợng sản

xuất - chính sự biến đổi, phát triển lực lợng sản xuất là cơ sở, động lực chủ yếu
thúc đẩy sự phát triển cả chế độ xã hội và cũng là cơ sở kinh tế bảo đảm thành
công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc.
Sự tác động của lực lợng sản xuất đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa thể hiện ở chính các yếu tố cấu thành lực lợng sản xuất, các yếu tố con ngời,
công cụ lao động, đối tợng lao động, khoa học công nghệ đều có vai trò to lớn
đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng là những nhân tố quyết
định sự thành công hay thất bại của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa công cụ lao động phải nhờ có
khoa học công nghệ hiện đại tác động vào mới làm cho chúng thay đổi về
chất. Và ngời lao động - cũng nh thế phải có khoa học hiện đại tác động vào,
nâng hiểu biết của họ lên tầm cao thì chính họ mới tạo ra và sử dụng những
công cụ do họ tạo ra trong thực tiễn sản xuất, đáp ứng đòi hỏi mới, cao hơn
của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa. Thật vậy, đây là sự tác động biện
chứng. Đối tợng lao động (t liệu sản xuất và phơng tiện sản xuất) cũng phải
nhờ đến con ngời với khoa học công nghệ mới phát huy đợc tiềm năng to lớn
của mình phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách hiệu quả
nhất. Nên ở đây luận văn chỉ đề cập sự tác động của lực lợng sản xuất đối với
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ yếu là vai trò của ngời lao động và khoa
học công nghệ.
Con ngời là chủ thể, là lực lợng sản xuất hàng đầu của xã hội, nên con
ngời chính là động lực cơ bản nhất của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Với các nguồn lực khác nh: đất, nớc khai thác đến một lúc nào đó sẽ
cạn kiệt, chỉ có ngời lao động với trí tuệ, chất xám là có thể tự tái tạo đến vô
hạn. Các nguồn lực khác không tự mình trở thành động lực của sự phát triển
đợc mà phải nhờ đến ngời lao động. Ngời lao động là lực lợng cơ bản, quyết
23
định nhất với những tri thức, trí tuệ, kinh nghiệm và bản lĩnh của mình xác
định mục tiêu nội dung và những cách thức tiến hành công nghiệp hóa hiện
đại hóa (cụ thể là đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ).

Điều này thể hiện:
- Bồi dỡng, đào tạo lại lực lợng lao động hiện có và quy hoạch đào tạo
mới nguồn nhân lực.
- Góp phần soạn thảo chiến lợc, các chính sách của công nghiệp hóa hiện
đại hóa; đồng thời cụ thể hóa chúng bằng các chơng trình, kế hoạch hành
động cụ thể.
- Sáng tạo và tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, ứng
dụng chúng vào trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để thúc đẩy xã
hội phát triển.
- Đa ra các phơng án, biện pháp để điều chính và định hớng quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời góp phần giải quyết các mẫu thuẫn
nảy sinh trong quá trình này.
- Dự báo những thuận lợi và khó khăn; khả năng, triển vọng phát triển
của đất nớc và cả nguy cơ nếu có [71, tr.326].
Chính vì vậy, không phát huy nguồn lực con ngời, không đảm bảo quá
trình "Tăng trởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa,
giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trờng" [24, tr.85] thì
không thể có thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa sự yếu kém về công
nghệ kỹ thuật thì các nớc có thể khắc phục đợc bằng con đờng chuyển giao,
nhập khẩu Nhng còn ngời lao động với những khả năng sáng tạo của họ thì
không thể dễ dàng nhập khẩu hoặc vay mợn đợc mà phải thuê chuyên gia và
đào tạo chuyên gia cho mình. Do đó, ngời lao động là yếu tố quan trọng nhất
của sự phát triển kinh tế - xã hội. Là yếu tố quyết định sự thành công của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc không thể
không dựa trên nền tảng vững chắc của khoa học công nghệ hiện đại. Tại Hội
nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ơng khóa VIII, Đảng ta đã xác định rõ:
"Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nớc phải bằng và dựa vào khoa học công
nghệ" [25, tr.59]. " Khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng và động

lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa" [25, tr.48]. Khoa học công nghệ hiện
đại ngày càng đóng vai trò then chốt trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nó
là phơng tiện không thể thiếu đợc của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
24
của công cuộc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho hình thái kinh tế - xã hội
mới. Khoa học công nghệ chỉ trở thành động lực và có hiệu quả khi nó đợc áp
dụng một cách thích hợp. Đó là quá trình đổi mới công nghệ truyền thống kết
hợp với công nghệ hiện đại; đồng thời tranh thủ những cơ hội tốt để "đi tắt đón
đầu", tạo ra những ngành kinh tế mũi nhọn, nhanh chóng đa nớc ta thoát khỏi
nguy cơ tụt hậu.
Trong điều kiện nớc ta và Yên Bái nói riêng còn nghèo, cơ sở vật chất - kỹ
thuật còn yếu kém, trình độ văn hóa - khoa học cũng nh đời sống của ngời lao
động còn thấp thì việc lựa chọn phơng án phát triển, hớng đầu t và công nghệ cần
đợc cân nhắc một cách kỹ lỡng. Cùng với việc phát triển khoa học công nghệ thì
phải tạo ra một đội ngũ cán bộ khoa học có đủ trình độ để quản lý nhà nớc, tổ
chức quản lý nền sản xuất và áp dụng đợc những thành tựu khoa học - công nghệ
hiện đại vào sản xuất là một công việc hết sức quan trọng. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định "Phát triển khoa học và công nghệ cùng
với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc" [27, tr.112].
Do vậy lực lợng sản xuất có vai trò to lớn đối với công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phát triển lực lợng sản xuất chính là để thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm phát triển kinh tế - xã hội vì mục
tiêu "Dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Chơng 2
Phát triển lực lợng sản xuất ở tỉnh Yên Bái
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa -
thực trạng và vấn đề
2.1. Thực trạng việc phát triển lực lợng sản xuất ở tỉnh
Yên Bái

2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội
Nằm ở vị trí địa lý 21
0
18' - 22
0
17' vĩ Bắc và 103
o
56' - 105
0
06' kinh Đông.
Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa Tây Bắc và
Trung du Bắc bộ. Phía Tây Bắc giáp tỉnh Lao Cai, phía Đông Bắc giáp hai tỉnh
Tuyên Quang và Hà Giang; Phía Đông Nam giáp tỉnh Phú Thọ và phía Tây
Nam giáp tỉnh Sơn La với tổng chiều dài địa giới giáp các tỉnh nói trên là 710
km (trong đó giáp Lao Cai 252Km, giáp Sơn La 205 km)
25

×