Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Vấn đề phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.92 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong mọi thời đại lịch sử, vấn đề con người luôn là vấn đề trung tâm của
triết học. Học thuyết Mác là sự tiếp nối và là bước ngoặt trong nhận thức về
phát triển con người. Với bản chất cách mạng và khoa học của mình, học thuyết
Mác về phát triển con người toàn diện đã định hướng cho sự phát triển tiến bộ
tiếp theo của loài người.
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo học thuyết đó của chủ nghĩa Mác vào hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định:
“con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn
đấu cao nhất của chế độ ta”, rằng “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần
có những con người xã hội chủ nghĩa”. Từ lập trường tư tưởng đó, mọi hoạt động
của Hồ Chí Minh luôn hướng tới việc xây dựng con người Việt Nam mới – con
người phát triển toàn diện. Và với Người, “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau”, đào tạo “những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa”, có sự phát triển
toàn diện, “vừa hồng, vừa chuyên”, vừa có đức, vừa có tài, bao giờ cũng là mối
quan tâm hàng đầu.
Lấy chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn
diện làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho đường lối và chiến lược phát
triển con người toàn diện ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành và
thực hiện trên thực tế đường lối và nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp phát
triển con người Việt Nam mới - con người Việt Nam phát triển cả về trí lực lẫn
thể lực, cả về khả năng lao động lẫn tính tích cực chính trị - xã hội, cả về lý
tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá, nhằm thực
hiện thành công chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho công
cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế.
Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, trong những năm qua, chúng
ta đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn về phát triển con người toàn diện.
Song, trong bối cảnh nhân loại đã và đang có những bước tiến rất dài trong
chiến lược và thực tiễn phát triển con người; cùng với đó là sự phát triển như vũ


bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, của xu thế hội nhập quốc tế và
phát triển kinh tế tri thức, đòi hỏi chúng ta phải có sự phát triển nhanh về chất
lượng con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra.
Đáp ứng sự đòi hỏi đó, trong gần 30 năm đổi mới, nhất là trong những
năm gần đây, ở Việt Nam đã có không ít công trình nghiên cứu lấy quan niệm
của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người, giải phóng con người và phát triển
1
con người toàn diện; lấy tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người Việt
Nam mới, và lấy quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con
người Việt Nam hiện đại - con người Việt Nam của thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức làm đối tượng nghiên
cứu. Không ít những đề tài và chương trình khoa học đã được ứng dụng trong
thực tế và kết quả đạt được trong sự nghiệp phát triển con người Việt Nam cũng
không nhỏ. Tuy nhiên, bản thân sự phát triển con người ở nước ta còn nhiều
yếu kém, hạn chế và nhiều bất cập, như: thể lực con người Việt Nam còn chưa
tốt, mặt bằng dân trí còn chưa cao, trình độ chuyên môn và trình độ khoa học,
kỹ thuật của người lao động còn thấp, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm còn chưa
cao, tính sáng tạo và khả năng thích ứng với những biến đổi mới trong lao động
và cuộc sống còn chưa tốt, sự tự mãn dẫn đến tinh thần học hỏi và trí tiến thủ
còn yếu…. Nhiều vấn đề khác, như: sự yếu kém về kinh tế, tình trạng thất
nghiệp còn nhiều, sự chênh lệch về mức sống và điều kiện sống giữa các vùng,
miền, các dân tộc, các bộ phận dân cư; tình trạng mất dân chủ trong xã hội làm
cho quyền của một bộ phận không nhỏ nhân dân bị vi phạm; sự yếu kém về y tế
và trong công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng; sự yếu kém, bất cập trong giáo
dục - đào tạo; nạn ô nhiễm môi trường, bệnh dịch; sự xuống cấp về văn hóa
cũng như sự suy thoái về đạo đức, lối sống và thẩm mỹ, v.v và v.v cũng đã và
đang trở thành lực cản và là thách thức rất lớn cho sự phát triển con người Việt
Nam. Tất cả những vấn đề đó đặt ra: phải có một công trình có khả năng cung cấp
cơ sở lý luận, phương pháp luận và cơ sở thực chứng khoa học, sát thực, khả thi
nhằm đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam mới – con người phát

triển toàn diện, đáp ứng sự đòi hỏi của thực tiễn.
Với những lý do trên đây, chúng tôi chọn Vấn đề phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam hiện nay làm đề tài nghiến cứu cho luận án
tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ quan niệm về phát triển con người toàn diện trong học
thuyết Mác, trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam, luận án phân tích thực trạng, những vấn đề đặt ra trong phát triển
con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay; từ đó, xác định định hướng, đề xuất
một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ cụ
thể sau đây:
2
Thứ nhất, luận giải quan niệm của C.Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người toàn diện.
Thứ hai, phân tích thực trạng và luận giải những vấn đề đặt ra trong phát
triển con người toàn diện ở Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua.
Thứ ba, xác định định hướng, đề xuất và luận giải một số giải pháp nhằm
đẩy mạnh phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quan niệm của C.Mác, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
con người toàn diện; thực trạng và những vấn đề đặt ra trong phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án nghiên cứu quan niệm của C.Mác về phát triển con người toàn
diện được ông đưa ra trong một số tác phẩm tiêu biểu; đồng thời tập trung

nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện trong các
tác phẩm mà Người viết và nói về mục tiêu xây dựng con người Việt Nam hiện
đại. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phát triển con người toàn
diện ở Việt Nam được luận án nghiên cứu qua đường lối, chủ trương của
Đảng trong thời kì đổi mới đất nước.
- Luận án tập trung khảo sát thực trạng và những vấn đề đặt ra trong phát
triển con người toàn diện ở Việt Nam trong những năm đổi mới đất nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận, phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người toàn diện.
Luận án dựa trên những tác phẩm lý luận chủ yếu của C.Mác và
Ph.Ăngghen, Hồ Chí Minh; các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt
Nam; dựa vào các nguyên tắc và tiêu chí đánh giá phát triển con người của
Chương trình phát triển liên hợp quốc - UNDP, đồng thời kế thừa có chọn lọc
những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài của các học giả đi trước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu, trong luận án này, chúng
tôi sử dụng các phương pháp như: phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, tổng
hợp và khái quát hoá, đối chiếu và so sánh, thống kê
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án đã đưa ra và khẳng định: Phát triển con người toàn diện ở Việt
Nam hiện nay là sự phát triển toàn diện, hài hòa giữa con người cá nhân và
con người xã hội; giữa thể lực, trí lực và tâm lực; giữa đức và tài; giữa
3
“hồng” và “chuyên” trong mỗi con người; phát triển cá tính và sự phong
phú của bản chất con người, làm cho con người trở thành một nguồn lực chủ
yếu, một chủ thể vẹn toàn cả về năng lực lẫn phẩm chất, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế tri thức và hội
nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
- Từ thực trạng phát triển con người toàn diện ở Việt Nam, luận án đã
đưa ra và luận giải một số vấn đề đặt ra: 1) Mâu thuẫn giữa yêu cầu khách
quan của sự phát triển nhanh về con người toàn diện với thực tế phát triển
con người toàn diện ở nước ta còn chậm; 2) Mâu thuẫn giữa yêu cầu cần phải
tạo ra những điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cho phát triển con người
toàn diện với thực tế yếu kém, bất cập của những điều kiện này là trở lực đối
với phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
- Luận án xác định định hướng cơ bản và đề xuất, luận giải tính khả thi của
một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển con người toàn diện, đáp ứng những
đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế
tri thức và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ở một mức độ nhất định, luận án góp phần làm sáng tỏ lý luận chung về
phát triển con người toàn diện.
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng,
hoạch định chiến lược phát triển con người Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy triết học Mác - Lênin về vấn đề con người và phát triển con
người.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Vấn đề phát triển con người đã được nghiên cứu từ rất sớm ở cả phương
Đông lẫn phương Tây. Đến những năm 80 của thế kỉ XX, vấn đề phát triển con

người mới được nghiên cứu một cách sâu rộng. Ở Việt Nam, vấn đề phát triển
con người, mặc dù mới được quan tâm nghiên cứu. Nhưng đến nay, đã có rất
nhiều công trình có giá trị đã đã được công bố. Vì vậy, việc nghiên cứu tổng
quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án là hết sức cần thiết.
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LÝ LUẬN CHUNG
VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN
Về mảng vấn đề này, luận án đã đi tìm hiểu, tham khảo những công trình
của nhiều học giả, các nhà nghiên cứu, trong đó điển hình là các công trình,
như: Cuốn sách Vấn đề xây dựng con người mới do Phạm Như Cương chủ biên,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978; Nguyễn Thế Kiệt (1988), Luận án phó tiến
sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Vai trò của những điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan trong việc xây dựng con người mới trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; Trung tâm Khoa học Xã hội và
Nhân văn Quốc gia, Phát triển con người - từ quan niệm đến chiến lược và
hành động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Về phát triển toàn diện con
người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, do Phạm Minh Hạc (chủ biên),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Nguyễn Hữu Công, (2001), Tư tưởng
Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện, Luận án tiến sỹ triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Mấy vấn đề triết học về xã hội và phát
triển con người của Nguyễn Văn Huyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002;
Con người và phát triển con người: trong quan niệm của C.Mác và Ph.
Ăngghen, do Hồ Sĩ Quý chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Tư
tưởng Hồ Chí Minh - phương pháp luận nghiên cứu con người: Niên giám
nghiên cứu do Phạm Minh Hạc chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003;
Con người - Văn hóa, quyền và phát triển do Mai Quỳnh Nam (chủ biên), Nxb
Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2009; Trịnh Thị Kim Ngọc (chủ biên), Con người
và văn hóa: Từ lý luận đến thực tiễn phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
2009; Và một số bài viết trong Một số vấn đề triết học trong các văn kiện Đại
hội XI của Đảng, do PGS,TS Trần Văn Phòng và GS,TS Nguyễn Hùng Hậu
(đồng chủ biên – 2012), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM
Mảng vấn đề này gồm có các công trình cơ bản sau:
Vũ Thiện Vương, Triết học Mác-Lênin về con người và việc xây dựng con
người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001; Bộ sách gồm ba cuốn: 1) Đặng Quốc Bảo, Trương Thị
Thúy Hằng (đồng chủ biên), Chỉ số phát triển kinh tế trong HDI - Cách tiếp
cận và một số kết quả nghiên cứu; 2) Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thúy Hằng
(đồng chủ biên), Chỉ số tuổi thọ trong HDI - Một số vấn đề thực tiễn Việt Nam;
3) Đặng Quốc Bảo, Đặng Thị Thanh Huyền (đồng chủ biên), Chỉ số giáo dục
trong HDI - Cách tiếp cận và một số kết quả nghiên cứu, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2005; Hồ Sỹ Quý, Giáo trình Con người và phát triển con người,
dùng cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành triết học
của Khoa Triết học - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007; Nguyễn Hữu Châu (chủ biên), Giáo dục Việt
Nam những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007; Nguyễn Đình
Tuân (2011),“Báo cáo phát triển con người 2010: Xu hướng phát triển con
người và một số thay đổi trong tính toán các chỉ số”, Nghiên cứu con người (1);
Phạm Thành Nghị (2011),“Một số phác họa về con người Việt Nam hiện đại
qua kết quả nghiên cứu thực chứng”, Nghiên cứu con người (2).
Bên cạnh những công trình trên, để nghiên cứu thực trạng phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam, tác giả luận án còn tham khảo các công trình của
Tổng cục Thống kê, như: các Niên giám thống kê, Tổng điều tra dân số và nhà
ở 2009, Điều tra lao động và việc làm 2011 và các Thông cáo báo chí; Các Báo
cáo phát triển con người Việt Nam và thế giới của Chương trình phát triển Liên
hợp quốc – UNDP.
1.3. NHỮNG NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỊNH HƯỚNG VÀ
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM
Mảng vấn đề này gồm có các công trình cơ bản sau:

Bài viết của Đặng Xuân Kỳ: “Những phương thức và biện pháp xây dựng
con người mới”, trong Vấn đề xây dựng con người mới do Phạm Như Cương
chủ biên, Nxb KHXH, Hà Nội, 1978; Phần hai (Định hướng chiến lược phát
triển toàn diện con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước) cuốn sách Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá do Phạm Minh Hạc (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001; Chương 3 (Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa) cuốn sách
Triết học Mác-Lênin về con người và việc xây dựng con người Việt Nam trong
6
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001
của Vũ Thiện Vương; Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát
triển nguồn nhân lực: Tuyển tập các công trình nghiên cứu và bài báo khoa
học của nhiều tác giả, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002; Đoàn Văn Khái (2005),
Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội; Phạm Mậu Tuyển (2012), “Về một số giải
pháp đối với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam”, Nghiên cứu con
người (3); Báo cáo triển khai Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2010 và
thực hiện Kết luận số 51-KL/TW ngày 29/10/2012 của Hội nghị lần thứ 6 Ban
chấp hành Trung ưng Đảng khóa XI; và nhiều công trình khoa học khác.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về vấn đề con người, phát triển con
người và phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong những năm gần
đây được đăng tải với số lượng ngày càng nhiều, chất lượng cũng ngày càng
được nâng cao; với nhiều cách tiếp cận khác nhau; nội dung các công trình
cũng đã đề cập một cách khá toàn diện nhiều vấn đề về con người như:
Nguồn gốc, bản chất con người; vai trò, vị trí của con người; cấu trúc nhân
cách con người Việt Nam; sự phát triển con người và phát triển con người
toàn diện ở Việt Nam…
Thứ hai, các công trình nghiên cứu cung cấp những cơ sở lý luận và

phương pháp luận quan trọng trong nghiên cứu vấn đề con người và phát triển
con người toàn diện ở Việt Nam, từ các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
(điển hình như các công trình do Hồ Sỹ Quý chủ biên), tư tưởng Hồ Chí Minh
(điển hình như luận án tiến sĩ của Nguyễn Hữu Công) đến các phương pháp
luận và phương pháp nghiên cứu cụ thể. Có những nhà khoa học tâm huyết và
đã có nhiều thành quả trong nghiên cứu con người và phát triển con người, điển
hình như Phạm Minh Hạc, Hồ Sỹ Quý, Đặng Hữu Toàn, Vũ Thiện Vương.
Thứ ba, những khảo sát thực tiễn và các kết quả nghiên cứu thực chứng
về vấn đề con người đã đưa ra, cho chúng ta thấy được một bức tranh toàn
cảnh về phát triển con người ở Việt Nam hiện nay, nhất là các công trình
nghiên cứu của Viện Khoa học xã hội Việt Nam nay là Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam và của UNDP (điển hình là các báo cáo quốc gia về phát
triển con người Việt Nam), cùng các tài liệu của Tổng cục Thống kê….Những
kết quả nghiên cứu đó đã cung cấp cho chúng tôi những tư liệu quý báu, vừa
có tính khái quát cao lại vừa hết sức đa dạng, nhưng cũng rất cụ thể và chi tiết.
7
Thứ tư, những đánh giá, nhận xét và những kết luận được các nhà nghiên
cứu đưa ra hết sức đúng đắn, xác thực. Các nhà khoa học đều khẳng định con
người vừa mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất là
trong giai đoạn hiện nay, trong khi các nguồn lực khác, khi được khai thác thì
ngày càng khan hiếm, cạn kiện thì con người, đặc biệt là trí tuệ con người, khi
được khai thác nó lại càng trở nên vô tận. Vì thế, các nhà khoa học đều thống
nhất cho rằng, việc nghiên cứu vấn đề con người, phát triển con người ở Việt
Nam hiện nay là hết sức khẩn thiết. Quan điểm này có giá trị to lớn về mặt
phương pháp luận cho việc nghiên cứu vấn đề phát triển con người toàn diện ở
Việt Nam hiện nay.
Những kết quả to lớn về mặt khoa học mà các công trình nghiên cứu trên đã
đạt được là những tài liệu tham khảo bổ ích, song đối với đề tài của luận án - Vấn
đề phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay - là một vấn đề không đơn
giản và đối với chúng tôi là một vấn đề lớn. Vì vậy, có một số vấn đề đặt ra cho

chúng tôi trong việc nghiên cứu đề tài luận án, đó là những vấn đề sau:
Một là, việc nghiên cứu vấn đề phát triển con người ở Việt Nam đã được
manh nha từ những thập niên 80 của thế kỉ trước, nhưng chỉ đến những năm
gần đây, khi mà công cuộc đổi mới đất nước đạt được những thành quả bước
đầu, vấn đề phát triển con người ở nước ta mới được thực sự quan tâm nghiên
cứu. Mặc dù mới được nghiên cứu, song kết quả nghiên cứu đã đạt được những
thành tựu quan trọng. Điều này đặt ra cho chúng tôi là phải đi sâu tìm tòi, kế
thừa, đối chiếu, chắt lọc và tích hợp để những thành quả có giá trị đã nghiên
cứu ấy được phát triển trong đề tài của chúng tôi.
Hai là, vấn đề phát triển con người toàn diện ở Việt Nam là một vấn đề
không còn quá mới mẻ. Các công trình nghiên cứu về vấn đề này được các nhà
khoa học tiếp cận ở nhiều góc độ khoa học khác nhau, như xã hội học, tâm lý
học, chính trị học, nghệ thuật học, kể cả triết học… Vì vậy, ở góc độ triết học,
một mặt, chúng tôi phải có sự luận giải mới mẻ hơn, nhưng mặt khác, chúng tôi
phải đưa ra được những kết quả nghiên cứu phù hợp với xu hướng nghiên cứu
và xu hướng phát triển trên thực tiễn của vấn đề này ở nước ta cũng như trên
thế giới trong giai đoạn hiện nay.
Ba là, các công trình nghiên cứu xung quanh đề tài của chúng tôi, có thể
nói là nhiều. Song, có công trình chỉ tập trung nghiên cứu thuần túy về mặt lý
luận hay phương pháp luận. Có công trình chỉ thuần túy nghiên cứu thực
chứng. Có những công trình tích hợp các bài báo hay chuyên khảo của một
8
số tác giả thì lại thể hiện khiếm khuyết là thiếu tính hệ thống, chưa lôgíc hoặc
còn sơ sài. Từ thực tế này, đặt ra cho chúng tôi phải có được một kết quả
nghiên cứu vừa có tính tích hợp cao, vừa phản ánh toàn diện hơn nhưng lại
phải sâu sắc, cụ thể.
Bốn là, trong bối cảnh hiện nay, khi mà vấn đề con người ngày càng trở
nên quan trọng, toàn thể nhân loại coi đây là vấn đề trung tâm. Đảng, Nhà nước
và toàn thể dân tộc ta cũng khẳng định rằng phát triển con người Việt Nam là
mục đích tối hậu của chế độ ta. Chính vì thế, nó đặt ra cho chúng tôi một nhiệm

vụ quan trọng là phải nghiên cứu để bổ sung và phát triển hơn về mặt lý luận,
phương pháp luận trong nghiên cứu vấn đề này. Đồng thời làm sâu sắc hơn, đầy
đủ hơn về thực trạng phát triển con người ở nước ta trong những năm vừa qua.
Hơn nữa, lại phải biết kế thừa kinh nghiệm của các quốc gia có nhiều thành tựu
trong phát triển con người. Trên cơ sở đó, mới có thể đưa ra được những định
hướng đúng đắn cũng như những giải pháp thiết thực, hiệu quả, có giá trị góp
phần cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong thực tiễn
phát triển con người toàn diện ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, nhằm mục tiêu dân giầu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN
2.1. QUAN NIỆM CỦA C.MÁC VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN
9
2.1.1. Phát triển con người toàn diện – “Phát triển sự phong phú của
bản chất con người”
Có thể nói, phát triển con người trong tư tưởng của C.Mác là phát triển con
người trong mối quan hệ hài hòa với tự nhiên và xã hội, phát triển các giá trị
văn hóa – giá trị tinh thần của con người, phát triển sự phong phú của bản chất
con người, nâng cao năng lực con người, giải phóng con người khỏi mọi sự tha
hóa, sự phiến diện, què quặt do tình trạng bóc lột của Chủ nghĩa tư bản. Trên cơ
sở đó, con người phát triển cá tính, năng khiếu, sự tự do và năng lực làm chủ xã
hội của mình. Phát triển con người là sự phát triển những năng lực mang phẩm
chất người, năng lực trinh phục tự nhiên, cải biến xã hội và năng lực làm chủ
bản thân mình.
2.1.2. Phát triển con người toàn diện gắn liền với phát triển kinh tế -
xã hội, thông qua lao động sản xuất và hoạt động thực tiễn của con người
Theo C.Mác con người không chỉ là sản phẩm mà còn là chủ thể của lịch
sử - xã hội. Vì vậy, sự phát triển con người toàn diện luôn gắn với sự phát

triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, từ nhu cầu và sự sinh tồn của cuộc sống, bằng
hoạt động thực tiễn, mà trước hết là lao động sản xuất - quá trình này đóng vai
trò nền tảng trong việc hoàn thiện và phát triển con người toàn diện.
2.2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN
Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
phát triển con người toàn diện được thể hiện ở hai nội dung cơ bản sau:
2.2.1. Phát triển con người toàn diện vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định con người là
vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người và phát triển con người
toàn diện là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, là nhiệm vụ trung tâm, là
động lực của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ
nghĩa xã hội luôn gắn liền với giải phóng và phát triển con người Việt Nam.
Xem xét con người với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi việc kết hợp chặt chẽ giữa
động lực vật chất và động lực tinh thần. Kết hợp chăm lo đời sống vật chất cho
nhân dân gắn với việc kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, xây dựng một
nền văn hóa mới, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện để con người
Việt Nam phát triển toàn diện.
2.2.2. Phát triển con người toàn diện là phát triển con người về các
phương diện thể lực, trí lực và tâm lực
10
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải quyết vấn đề này trong mối quan
hệ biện chứng, trong khi khẳng định thể lực là cái trước tiên, đóng vai trò nền
tảng ban đầu, thì trí lực lại là nhân tố phản ánh sự phát triển về chất lượng con
người Việt Nam. Cùng với hai yếu tố đó, tâm lực là yếu tố hết sức quan trọng và
không thể thiếu trong con người toàn diện.
Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta cũng đã đưa ra nhiều chủ trương, biện
pháp và triển khai thực hiện trên thực tế để phát triển về cả ba mặt đó trong con

người Việt Nam phù hợp với từng giai đoạn lịch sử của đất nước.
2.3. MỘT SỐ NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
TOÀN DIỆN
Thứ nhất, con người được xem là trung tâm của sự phát triển
Ngoài số ít quan điểm không thấy được vị trí, vai trò trung tâm của nhân
tố con người (như quan điểm duy tâm cho con người chỉ là sản phẩm của tinh
thần…), thì hầu hết các quan điểm, nhất là những quan điểm hiện đại đều
thống nhất cho rằng con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội,
của cộng đồng, quốc gia và của toàn thể loài người. Điều đó đặt ra một vấn
đề rằng chúng ta phải tập trung nghiên cứu để áp dụng trong thực tiễn nhằm
thúc đẩy sự phát triển nhân tố con người.
Phát triển con người theo quan điểm của UNDP được cụ thể hóa thành chỉ
số phát triển người: HDI (thu nhập, giáo dục và tuổi thọ). Và UNDP cũng đã
cho rằng: Phát triển con người là quá trình mở rộng các sự lựa chọn của con
người nhằm đạt được những khả năng nhất định và tận dụng những khả năng
đó. Một số lựa chọn có tính quyết định nhất là có một cuộc sống lành mạnh và
lâu dài, là hiểu biết và có mức sống khá.
Thứ hai, về phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay
Khái niệm và nội hàm khái niệm phát triển con người toàn diện ở Việt
Nam đã được các học giả, các nhà nghiên cứu thể hiện rất phong phú và đa
dạng. Song về cơ bản, các học giả, các nhà nghiên cứu đều thể hiện trong nội
hàm khái niệm này những đặc thù, những phẩm chất thể hiện bản sắc độc đáo
của người Việt Nam, đó là những phẩm chất: có tinh thần yêu nước, yêu lao động,
sống tình nghĩa, có đạo đức trong sáng, yêu chuộng hòa bình, thông minh, có tinh
thần độc lập, tự chủ, tự cường.
Đứng trên lập trường duy vật của học thuyết Mác, kế thừa giá trị tư tưởng Hồ
Chí Minh, quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát
triển con người toàn diện. Đồng thời tiếp thu những giá trị trong quan niệm của
các nhà nghiên cứu đi trước và xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, thực
tiễn phát triển con người Việt Nam, tác giả luận án cho rằng: Phát triển con

11
người toàn diện ở Việt Nam hiện nay là sự phát triển toàn diện, hài hòa giữa
con người cá nhân và con người xã hội; giữa thể lực, trí lực và tâm lực; giữa
đức và tài; giữa “hồng” và “chuyên” trong mỗi con người; phát triển cá tính và
sự phong phú của bản chất con người, làm cho con người trở thành một nguồn
lực chủ yếu, một chủ thể vẹn toàn cả về năng lực lẫn phẩm chất, đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập
quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Cụ thể hóa quan niệm đó về phát triển con người toàn diện ở Việt Nam
hiện nay, theo chúng tôi, được thể hiện ở ba mặt cơ bản:
Phát triển về mặt thể lực, được thể hiện ở: thể hình, sức khỏe và tuổi thọ,
sức bền và sức dẻo dai của cơ bắp, khả năng lao động và làm việc ở nhịp độ
cao, khả năng hoạt động linh hoạt, nhanh nhạy và có tâm - sinh lý tốt.
- Sự phát triển thể lực con người Việt Nam còn được thể hiện gián tiếp ở:
mức độ phát triển của công tác y tế, chăm sóc sức khỏe con người; tỷ lệ đói
nghèo; sự phát triển của công tác thể dục, thể thao; sự trong sạch của môi
trường sinh thái; mức sống (thu nhập), tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh và sản phụ…của
cộng đồng dân cư, dân tộc hay của đất nước.
Phát triển về mặt trí lực, được thể hiện ở: trình độ tri thức và trình độ học
vấn; kỹ năng nghề nghiệp và trình độ khoa học, kỹ thuật; khả năng nhận thức;
sự hiểu biết sâu rộng; chỉ số IQ và tư duy sáng tạo; nhân sinh quan.
- Sự phát triển trí tuệ con người Việt Nam còn được thể hiện ở: sự phát
triển của giáo dục - đào tạo; số lượng lao động có trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn và trình độ công nghệ cao; số lượng các nhà trí thức;…
Phát triển về mặt tâm lực, được thể hiện ở: sự phát triển hài hòa của ý chí,
tình cảm, thái độ và định hướng giá trị. Những phẩm chất căn bản là lý tưởng và
niềm tin với cách mạng, lòng yêu nước, đạo đức và lối sống, ý chí vươn lên trong
cuộc sống, ý thức trách nhiệm với bản thân và cộng đồng, quan điểm và hành vi
pháp luật, quan điểm và hành vi thẩm mỹ.

- Sự phát triển tâm lực con người Việt Nam còn được thể hiện ở: sự phát
triển của văn hóa, của nghệ thuật, của nền dân chủ trong xã hội, của đạo đức
truyền thống dân tộc, của việc đáp ứng thông tin và truyền thông;…ở cộng
đồng dân cư của dân tộc.
Như vậy, phát triển con người toàn diện là thể thống nhất của sự phát triển về
cả ba mặt thể lực, trí lực và tâm lực trong con người. Các mặt đó có mối quan hệ
biện chứng, liên hệ hữu cơ với nhau. Nếu như thể lực đóng vai trò nền tảng ban đầu
cho sự phát triển con người toàn diện, thì trí lực và tâm lực là yếu tố đóng vai trò cơ
bản và quyết định nhất đối với chất lượng con người.
12
Thứ ba, những nhân tố tác động đến phát triển con người toàn diện ở Việt
Nam hiện nay
Sự phát triển con người không đơn thuần chỉ là sự phát triển “tự nó”, là sự
phát triển “tự thân”, sự phát triển đó còn chịu tác động của những điều kiện
khách quan và chủ quan:
Về điều kiện khách quan:
Một là, phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trước hết chịu tác động
của môi trường kinh tế và thành quả phát triển kinh tế của đất nước.
Hai là, giáo dục và đào tạo luôn có tác động rất lớn đến phát triển con
người, đặc biệt là nó tác động trực tiếp đến phát triển trí lực của con
người.
Ba là, công tác y - dược, chăm sóc sức khỏe nhân dân và môi trường sinh
thái cùng với công tác thể dục, thể thao có tác động trực tiếp đến phát triển thể
lực con người.
Bốn là, văn hóa, bao gồm cả đạo đức xã hội, có tác động trực tiếp đến phát
triển con người toàn diện, nhất là phát triển về tâm lực con người.
Năm là, xu thế hội nhập quốc tế có ảnh hưởng lớn đến phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam.
Về nhân tố chủ quan:
Một là, nhân tố chủ quan trước tiên đó chính là sự nhận thức và năng lực

hoạt động thực tiễn của chính bản thân mỗi con người. Có thể coi đây là nhân
tố quyết định nhất đến phát triển của chính con người.
Hai là, chiến lược phát triển con người, chính sách an sinh xã hội phục vụ
phát triển con người và việc thực hiện các quyền con người sẽ là nhân tố quyết
định sự phát triển của cộng đồng người.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Vấn đề con người nói chung, vấn đề phát triển con người toàn diện nói
riêng đã được C.Mác giải quyết một cách đúng đắn theo quan điểm duy vật
biện chứng. Với C.Mác phát triển con người toàn diện là phát triển sự phong
phú của bản chất con người. Rằng con người vừa là sản phẩm vừa là chủ thể
của lịch sử. Phát triển con người toàn diện gắn liền với phát triển kinh tế - xã
hội, thông qua lao động sản xuất và hoạt động thực tiễn của con người.
Cách tiếp cận và luận giải một cách đúng đắn, khoa học về những vấn đề
đó trong sự phát triển con người toàn diện đã làm cho học thuyết Mác về con
người và phát triển con người toàn diện không chỉ mang giá trị lịch sử to lớn,
mà còn mang ý nghĩa vạch thời đại. Cũng do vậy, học thuyết Mác về con
13
người và phát triển con người toàn diện đã trở thành nền tảng lý luận, cơ sở
phương pháp luận để chúng ta xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển con
người Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Kế thừa và tiếp thu một cách có chọn lọc, vận dụng và phát triển sáng
tạo học thuyết Mác về con người và phát triển con người toàn diện trong
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đi đến kết luận: Để đưa cách mạng Việt Nam
đến thành công và đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi thì
trước hết và “đầu tiên là công việc đối với con người”. Vì vậy, nhiệm vụ xây
dựng và phát triển con người Việt Nam nhằm đáp ứng những đòi hỏi của sự
nghiệp cách mạng Việt Nam trong thời đại mới được Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đặc biệt quan tâm. Với Đảng ta và với Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát

triển con người toàn diện được thể hiện ở các phương diện: Phát triển con
người toàn diện với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng
Việt Nam; phát triển con người toàn diện là phát triển con người về các
phương diện thể lực, trí lực và tâm lực.
Học thuyết Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về phát
triển con người toàn diện là cơ sở lý luận và phương pháp luận quan trọng để
luận án đưa ra những nhận thức chung về sự phát triển con người toàn diện nói
chung và phát triển con người toàn diện ở Việt Nam nói riêng. Việc nhận thức
lý luận sâu sắc về vấn đề phát triển con người toàn diện nói chung và phát triển
con người toàn diện ở Việt Nam nói riêng là tiền đề hết sức quan trọng để
chúng ta tiến hành nghiên cứu thực trạng phát triển con người toàn diện ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay; đồng thời cũng là tiền đề lý luận quan trọng để
chúng ta xác định những định hướng cơ bản và tìm ra những giải pháp thiết
thực nhất và hiệu quả nhất để nhằm xây dựng con người Việt Nam mới – con
người phát triển toàn diện đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
Chương 3
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY –
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
14
3.1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM
3.1.1. Phát triển con người Việt Nam về mặt thể lực
3.1.1.1. Những thành tựu cơ bản trong phát triển con người Việt Nam về
mặt thể lực
Những thành quả đạt được trong lĩnh vực kinh tế, xóa đói giảm nghèo,
công tác y tế chăm sóc sức khỏe cộng đồng, phát triển thể dục, thể thao cũng
như cải tạo môi trường sinh thái, đã tạo ra những điều kiện hết sức thuận lợi
thúc đẩy con người Việt Nam có điều kiện phát triển về mặt thể lực. Vì vậy, tỷ
lệ chết ở bà mẹ và trẻ em giảm; tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng giảm; chiều cao
và cân nặng tăng; người Việt Nam đã có nhiều thành tích trong thi đấu thể

thao; và sự tăng nhanh về chỉ số tuổi thọ là nhân tố phản ánh rõ nhất sự phát
triển thể lực người Việt Nam.
3.1.1.2. Những hạn chế, yếu kém trong phát triển con người Việt Nam về
mặt thể lực
Kinh tế chưa phát triển mạnh nên việc đầu tư cho công tác y tế, chăm sóc
sức khỏe nhân dân còn chưa cao; tỷ lệ nghèo đói còn cao. Thu nhập thấp, nghèo
đói đã tác động trực tiếp đến phát triển thể chất con người. Sự yếu kém và bất
cập về y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân, nhiều dịch bệnh gia tăng làm suy
giảm sức khỏe dân cư. Bên cạnh đó, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, thiên
tai, nạn bia rượu, thuốc lá, bạo lực hàng năm đã cướp đi hàng nghìn người
dân Việt Nam.
3.1.2. Phát triển con người Việt Nam về mặt trí lực
3.1.2.1. Những thành tựu cơ bản trong phát triển con người Việt Nam về
mặt trí lực
Trong những năm đổi mới vừa qua, trí lực con người Việt Nam đã có
những phát triển vượt bậc. Có được điều đó là do nhiều nguyên nhân, trong đó
sự phát triển của nền giáo dục nước nhà là nhân tố trực tiếp nhất tạo nên thành
quả đó. Trình độ văn hóa, trình độ dân trí, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ
thuật của người Việt Nam không ngừng tăng lên về cả số và chất lượng. Kết
quả đó đã tạo ra một nguồn nhân lực dồi dào và có chất lượng, đáp ứng với thực
tiễn của đất nước.
3.1.2.2. Những hạn chế, yếu kém trong phát triển con người Việt Nam về
mặt trí lực
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nhìn chung trí lực của của người Việt
Nam còn phát triển chậm, thể hiện qua trình độ dân trí, trình độ văn hóa,
15
chuyên môn nghiệp vụ và trình độ khoa học, kỹ thuật còn chưa cao và phân bố
không đều (hay chênh lệch lớn) giữa các vùng, các địa phương, các bộ phận dân
cư. Việc đào tạo, sử dụng và bồi dưỡng nhân tài của chúng ta còn chưa hiệu
quả. Nhiều bất cập, yếu kém trong giáo dục - đào tạo nước ta là trở lực chính

đối với phát triển trí lực người Việt Nam.
3.1.3. Phát triển con người Việt Nam về mặt tâm lực
3.1.3.1. Những thành tựu trong phát triển con người Việt Nam về tâm lực
Thành tựu trong phát triển con người Việt Nam về mặt tâm lực được thể
hiện ở những phương diện sau:
Thứ nhất, những giá trị truyền thống tốt đẹp trong con người Việt Nam
được phát huy trong tình hình mới.
Thứ hai, con người Việt Nam ngày càng có tinh thần tự lập, tự trọng, sáng
tạo, quyết tâm vượt qua hoàn cảnh của mỗi cá nhân.
Thứ ba, con người Việt Nam có ý thức pháp luật ngày càng cao, có bản
lĩnh trong đấu tranh đòi hỏi sự công bằng và lẽ phải, biết hướng tới những cái
đúng, cái tốt, cái đẹp.
Thứ tư, nhiều thành tựu trong phát triển văn hóa, nghệ thuật đã đem đến
đời sống tinh thần hết sức phong phú cho nhân dân.
3.1.3.2. Những hạn chế trong phát triển con người Việt Nam về tâm lực.
Bên cạnh những giá trị tiến bộ trong phát triển tâm lực con người Việt Nam
nêu trên, việc phát triển tâm lực con người Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều
hạn chế và nhiều bất cập. Điều đó được thể hiện:
Thứ nhất, sự suy thoái về chính trị, tư tưởng
Thứ hai, sự xuống cấp về đạo đức, văn hóa và suy thoái về lối sống
3.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Mặc dù chúng ta đạt được nhiều thành tựu trong phát triển con người. Song,
trên thực tế, sự phát triển con người Việt Nam hiện nay có nhiều mâu thuẫn đòi hỏi
chúng ta phải giải quyết trên cả bình diện lý luận và thực tiễn, cơ bản có các mâu
thuẫn sau đây:
3.2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu khách quan của sự phát triển nhanh về con
người toàn diện với thực tế phát triển con người toàn diện ở nước ta còn chậm
Nhiệm vụ lớn lao của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là phải
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế

tri thức và hội nhập quốc tế sâu rộng, nhằm đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp phát triển, dân giầu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Nhiệm vụ đó đòi hỏi chúng ta phải xây dựng những con người Việt Nam mới –
con người phát triển toàn diện. Đó là những con người có thể lực tốt, có sức bền
và sức dẻo dai, đáp ứng được cường độ lao động cao, có trí tuệ tinh thông, có
trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ kỹ thuật cao, có khả năng thích ứng
16
với sự thay đổi và tư duy sáng tạo. Đồng thời, phải có tinh thần yêu lao động,
có trí tiến thủ và trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm cộng đồng, có đạo đức trong
sáng và ý thức thẩm mỹ cao đẹp. Hơn thế nữa, những yếu tố này trong con
người phải luôn được bồi đắp và phát triển theo chiều hướng tích cực. Với
những yêu cầu khách quan về phát triển con người Việt Nam như vậy trong
tương quan với thực tế phát triển con người Việt Nam hiện nay, chúng ta thấy
sự phát triển con người Việt Nam còn chậm. Điều đó thể hiện trên cả ba mặt: thể
lực, trí lực và tâm lực. Theo báo cáo phát triển con người toàn cầu (HRD), năm
2009 Việt Nam xếp ở vị trí 116/182 nước. Trong khu vực ASEAN thì chúng
ta chỉ xếp thứ 7 (0,725), và chỉ đứng trên ba nước là Myanma, Lào và
Campuchia. Trong khi đó chỉ số này của Thái Lan là 7,83 (xếp vị trí 87/182);
Malaysia là 0,829 (xếp vị trí 66/182).
3.2.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu cần phải tạo ra những điều kiện kinh tế
- xã hội thuận lợi cho phát triển con người toàn diện với thực tế yếu kém,
bất cập của những điều kiện này là trở lực đối với phát triển con người
toàn diện ở Việt Nam
Để phát triển con người toàn diện, điều hết sức quan trọng là phải tạo ra
những điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cho con người phát triển, và chỉ trong
môi trường thuận lợi thì con người mới có thể phát huy hết năng khiếu và năng
lực của mình. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta, nhiều hạn chế, yếu kém về kinh tế
- xã hội đang trở thành trở lực đối với sự phát triển con người toàn diện, điều
này được thể hiện ở những vấn đề sau:
Thứ nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta có xuất phát điểm thấp,

những hậu quả chiến tranh còn nặng nề làm cho sự nghiệp phát triển con
người Việt Nam chậm chạp.
Thứ hai, tác động của những mặt trái trong kinh tế thị trường làm xói
mòn những giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam, trở thành rào cản cho
phát triển con người toàn diện ở nước ta.
Thứ ba, những bất cập, yếu kém trong giáo dục - đào tạo ảnh hưởng trực
tiếp đến phát triển về chất lượng của con người Việt Nam.
Thứ tư, một số chính sách xã hội còn chưa kịp thời và chưa thực sự có hiệu
quả, đã gây trở lực cho phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
Thứ năm, vấn đề phát triển con người toàn diện ở Việt Nam còn bị cản trở
bởi sự chống phá của các thế lực thù địch, nhất là âm mưu thực hiện chiến lược
“diễn biến hòa bình” của chúng.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
17
Trong những năm qua, nhất là trong gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi
mới vừa qua, Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta đã làm tất cả những gì
cần làm để nhằm xây dựng và phát triển con người Việt Nam mới - con người
phát triển toàn diện. Chúng ta đã từng bước tạo lập và xây dựng những điều
kiện cho phát triển con người Việt Nam trên nhiều phương diện, từ phát triển
kinh tế, đến phát triển trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, cải tạo môi
trường tự nhiên nhằm tạo môi trường tốt nhất có thể để con người Việt Nam
phát huy hết khả năng của mình và phát triển toàn diện cho mọi cá nhân cả về
thể lực, trí lực lẫn tâm lực.
Thành quả của sự phát triển toàn diện cá nhân con người Việt Nam luôn
đặt trong tổng thể thành quả của sự phát triển con người - xã hội, đó là sự phát
triển những cộng đồng người Việt Nam về đời sống vật chất và đời sống tinh
thần. Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong các lĩnh vực xoá đói giảm
nghèo, phát triển giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ và cải thiện đời sống
vật chất, tinh thần cho nhân dân là rất đáng tự hào. Song, trên thực tế, trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, và sự nghiệp phát triển con

người toàn diện ở nước ta nói riêng còn có nhiều hạn chế, bất cập. Vì thế, tính
năng động sáng tạo của con người Việt Nam và vai trò của con người trong
công cuộc xây dựng xã hội mới chưa được phát huy triệt để, chưa thật sự mang
lại hiệu quả, đời sống vật chất và tinh thần của một số bộ phận dân cư còn nhiều
khó khăn.
Từ thực trạng phát triển con người toàn diện ở nước ta trong những năm
đổi mới vừa qua đã xuất hiện hai mâu thuẫn cơ bản: Thứ nhất, mâu thuẫn giữa
yêu cầu khách quan của sự phát triển nhanh về con người toàn diện với thực tế
phát triển con người toàn diện ở nước ta còn chậm; thứ hai, mâu thuẫn giữa
yêu cầu cần phải tạo ra những điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cho phát
triển con người toàn diện với thực tế yếu kém, bất cập của những điều kiện này
là trở lực đối với phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
Những vấn đề đặt ra từ thực trạng phát triển con người toàn diện ở Việt
Nam đòi hỏi chúng ta phải đưa ra những định hướng cơ bản, lớn và đúng đắn;
trên cơ sở đó, có những giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm đẩy mạnh phát triển
con người toàn diện ở Việt Nam.
Chương 4
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY -
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
18
4.1. ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN
DIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.1. Phát triển con người toàn diện vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cách mạng Việt Nam
Đây là định hướng mang tính chủ đạo trong quá trình phát triển con người
toàn diện ở Việt Nam hiện nay. Định hướng này đòi hỏi phát triển con người
toàn diện luôn phải được coi là bản chất và là mục tiêu của cách mạng Việt
Nam. Ngược lại, sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam cần và phải có
con người Việt Nam phát triển toàn diện.
4.1.2. Gắn chiến lược phát triển con người toàn diện với chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội
Định hướng này đòi hỏi chiến lược phát triển con người phải trong quan
hệ khăng khít với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (Gồm các chiến lược
như: chiến lược kinh tế, giáo dục, y tế; thể dục, thể thao; văn hóa, chiến lược
xóa đói, giảm nghèo…).
4.1.3. Phát triển con người toàn diện là sự nghiệp của toàn dân, của cả
hệ thống chính trị và mọi tổ chức xã hội
Sự phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay không chỉ là phát
triển những giá trị tốt đẹp của cá nhân con người, mà hơn thế, còn là sự phát triển
con người xã hội, bao gồm toàn thể cộng đồng - nhân dân (gồm các giai cấp,
tầng lớp, bộ phận dân cư, lứa tuổi, giới tính…). Vì vậy, sự nghiệp phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam đòi hỏi phải có sự tham gia của toàn xã hội.
4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả chiến lược phát
triển con người Việt Nam theo những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Xây dựng chiến lược phát triển con người toàn diện là một trong những
vấn đề hết sức cơ bản trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Xây dựng chiến lược này cần phải xác định rõ mục tiêu, phương hướng và
những giải pháp cơ bản cho việc xây dựng con người đáp ứng yêu cầu đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, của sự phát triển kinh tế tri thức và hội
nhập quốc tế.
4.2.2. Kết hợp nâng cao đời sống vật chất với đời sống tinh thần của
con người Việt Nam
19
Vấn đề nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người
Việt Nam là một nội dung quan trọng trong sự phát triển con người toàn diện ở
Việt Nam. Nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân là nền tảng vững chắc nhất
để nhân dân có điều kiện phát triển toàn diện cả về thể chất, lẫn phát triển về trí

tuệ và nâng cao đời sống tinh thần. Cùng với nâng cao đời sống vật chất, nâng
cao đời sống tinh thần, đẩy mạnh quá trình xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời phải làm cho văn hóa trở thành nền tảng
tinh thần của xã hội.
4.2.3. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; gắn tăng trưởng kinh
tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ tạo điều kiện để phát huy
tính sáng tạo của con người. Hơn nữa, chính thông qua cạnh tranh trên thị
trường, và cuộc sống của xã hội công nghiệp, người lao động nước ta mới có
điều kiện để nâng cao giá trị sức lao động của mình, nâng tầm giá trị lao động
của người Việt Nam, nhờ đó cho phép chúng ta tự chủ trong quá trình hội nhập
kinh tế thế giới.
Tuy nhiên kinh tế thị trường và công nghiệp hóa, hiện đại hóa có những
mặt trái làm ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển con người Việt Nam. Vì thế đòi
hỏi chúng ta phải gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phải đảm bảo các quyền cơ bản của
nhân dân trên tất cả các mặt từ kinh tế, chính trị cho đến xã hội, văn hóa,
4.2.4. Tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo nhằm
phát triển chất lượng con người Việt Nam
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo là nhân tố quyết định đến
phát triển chất lượng con người Việt Nam, là yếu tố đóng vai trò bậc nhất trong
việc xây dựng con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện.
Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục - đào tạo thực chất là nhằm đào
tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển con người Việt Nam về chất
lượng, vừa có đức, vừa có tài, phát triển cả về đức, trí, thể, mỹ nhằm đáp ứng sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Để thực hiện thắng lợi chiến lược đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào
tạo chúng ta phải “thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất

lượng giáo dục - đào tạo” [89, tr.216]. Trên tinh thần đó, chúng tôi xin đề xuất
một số biện pháp sau đây:
Thứ nhất, quán triệt quan điểm “giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu”.
20
Thứ hai, thực hiện xã hội hóa giáo dục kết hợp với xây dựng mô hình giáo
dục chất lượng cao; kết hợp nâng cao dân trí với bồi dưỡng và sử dụng nhân tài.
Thứ ba, đổi mới công tác quản lý giáo dục.
Thứ tư, nội dung và phương pháp dạy và học phải hướng đến sự phát triển
con người toàn diện.
Thứ năm, chăm lo đến đội ngũ nhà giáo gắn với hiện đại hóa cơ sở vật
chất phục vụ giáo dục - đào tạo.
Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo.
4.2.5. Tiếp tục kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống
tốt đẹp gắn với tăng cường xây dựng niềm tin, lý tưởng cách mạng trong
con người Việt Nam
Đạo đức luôn giữ một vị trí hàng đầu trong bậc thang giá trị của con người
Việt Nam. Nền tảng đạo đức của xã hội Việt Nam là một trong những yếu tố cơ
bản cấu thành và làm nên cốt cách, bản sắc tinh thần phong phú, tốt đẹp của con
người Việt Nam. Kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp trong
con người Việt Nam mới đồng nghĩa với việc phải thường xuyên đấu tranh loại
trừ ra khỏi đời sống xã hội và con người Việt Nam những hiện tượng đạo đức
hủ bại, kết hợp với việc chống lại những đạo đức và văn hóa mới phản tiến bộ,
trái với các chuẩn mực của xã hội và thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Cùng với kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, việc
tăng cường giáo dục niềm tin và lý tưởng cách mạng trong con người Việt
Nam mới là điều hết sức cần thiết. Phải làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin cùng
với tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành nền tảng tinh thần trong đời sống xã
hội và của mọi người dân Việt Nam.
Để thực hiện tốt việc kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của
dân tộc gắn với tăng cường xây dựng niềm tin, lý tưởng cách mạng trong con

người Việt Nam mới, phải có sự kết hợp giữa giáo dục và tự giáo dục. Công tác
giáo dục phải kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội; kết hợp giữa
giáo dục bằng các chương trình chính thống với thông tin đại chúng để thường
xuyên tuyên truyền đến mọi người dân về những giá trị lý luận và thực tiễn tốt
đẹp trong lịch sử cũng như những giá trị tiên tiến, văn minh của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. Mặt khác, phải
phát huy tinh thần tự giáo dục, mỗi con người Việt Nam phải thường xuyên tu
dưỡng và rèn luyện đạo đức, niềm tin, lý tưởng cách mạng; biết chắt lọc lấy
những giá trị tốt và tiến bộ, làm cho tâm hồn của mình được trong sáng; mọi hoạt
động nhận thức và thực tiễn phải luôn nhằm đạt tới giá trị chân, thiện, mỹ.
21
4.2.6. Xây dựng, tổ chức thực hiện và giám sát hiệu quả hệ thống chính
sách xã hội vì mục tiêu phát triển con người toàn diện
Hệ thống chính sách thì rất nhiều, bên cạnh một số chính sách đã được đề
cập trong chương này, theo chúng tôi, chúng ta cần thực hiện tốt một số chính
sách sau:
Một là, tập trung giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm.
Hai là, thực hiện tốt chính sách bảo đảm an sinh xã hội, nhất là chính sách
xóa đói, giảm nghèo.
Ba là, thực hiện tốt chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo vệ và
chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em và chính sách kế hoạch hóa gia đình.
Bốn là, tiếp tục phát huy dân chủ kết hợp với tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa là yếu tố cơ bản trong phát triển con người toàn diện.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Trong giai đoạn hiện nay, để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp phát triển con
người Việt Nam đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra, điều tiên quyết là phải đề ra
được những định hướng đúng đắn. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra ba định hướng
cơ bản, gồm các định hướng:
Thứ nhất, phát triển con người toàn diện vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cách mạng Việt Nam.

Thứ hai, gắn chiến lược phát triển con người toàn diện với chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, phát triển con người toàn diện là sự nghiệp của toàn dân, của cả
hệ thống chính trị và mọi tổ chức xã hội.
Trên cơ sở những định hướng cơ bản đó, cần phải có một hệ thống các giải
pháp và biện pháp thiết thực, hiệu quả, khả thi để có thể nhanh chóng áp dụng
trong thực tiễn, nhằm thúc đẩy nhanh sự nghiệp phát triển con người toàn diện
ở Việt Nam. Trước hết, chúng ta cần thực hiện các giải pháp sau:
1. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển con
người Việt Nam theo những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
2. Kết hợp nâng cao đời sống vật chất với đời sống tinh thần của con
người Việt Nam.
3. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; gắn tăng trưởng kinh tế với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
22
4. Tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo nhằm phát
triển chất lượng con người Việt Nam.
5. Tiếp tục kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp
gắn với tăng cường xây dựng niềm tin, lý tưởng cách mạng trong con người
Việt Nam.
6. Xây dựng, tổ chức thực hiện và giám sát hiệu quả hệ thống chính sách
xã hội nhằm mục tiêu phát triển con người toàn diện.
Sự thực hiện một cách đồng bộ và hiệu quả những định hướng và giải pháp
trên là điều kiện đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp phát triển con người toàn diện
ở Việt Nam trong giai đoạn mới.
KẾT LUẬN
1. Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, vấn đề con người đều được nhiều
nhà khoa học, cũng như nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu. Và dù ở

lĩnh vực khoa học nào thì các học giả đều hướng tới một mục tiêu cơ bản là làm
sao để con người được phát triển. Sự ra đời của học thuyết Mác là một bước
ngoặt vĩ đại trong nghiên cứu về con người và phát triển con người toàn diện.
Đứng trên lập trường thế giới quan duy vật biện chứng, học thuyết Mác đã luôn
xem xét và đặt con người trong mối quan hệ mật thiết với điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội và tự nhiên. Ở trong mối quan hệ đó, con người vừa là sản
phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử - xã hội; nhờ và bằng hoạt động nhận thức và
thực tiễn của mình, con người đã sáng tạo ra lịch sử - xã hội và cũng chính
trong lịch sử - xã hội đang phát triển đó, con người sẽ được tự do và phát triển.
Với quan niệm đó, học thuyết Mác đã trở thành học thuyết về con người, trong
đó sự phát triển con người toàn diện là một nội dung cốt lõi.
2. Kế thừa và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác về phát triển con người
toàn diện vào thực tiễn ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định muốn có chủ
nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa – Con người Việt Nam mới,
phát triển toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”; rằng sự giải phóng và phát triển
con người là bản chất của chế độ ta. Với lập trường quan điểm như vậy, trong
vai trò của người lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều
chủ trương, chính sách đúng đắn, đồng thời triển khai trong thực tiễn nhằm phát
triển con người toàn diện ở Việt Nam. Và những thành quả đạt được trong sự
nghiệp cách mạng này là hết sức lớn lao.
3. Lấy học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con
người toàn diện làm nền tảng lý luận, làm cơ sở phương pháp luận và làm kim
23
chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Ngay từ những ngày đầu bắt tay vào công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định lấy sự phát triển con
người toàn diện làm mục tiêu phấn đấu cao nhất, làm nền tảng để xây dựng chế
độ xã hội mới. Trên thực tế, Đảng và Nhà nước ta đã làm tất cả những gì cần
làm để đạt mục tiêu ấy. Hiện nay, hơn lúc nào hết, phát triển con người Việt
Nam mới – con người phát triển toàn diện được Đảng ta hết sức quan tâm và
coi đó là một trong những vấn đề mang tính đột phá chiến lược của cách mạng

Việt Nam.
4. Từ những chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng về phát triển con
người Việt Nam mới - con người phát triển toàn diện, trong những năm đổi
mới vừa qua, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển con
người Việt Nam. Mặc dù nền kinh tế nước ta còn ở trình độ phát triển chưa cao,
song con người Việt Nam đã có sự phát triển nhất định cả về thể lực, trí lực và
tâm lực. Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong các lĩnh vực xoá đói
giảm nghèo, phát triển giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ và cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần cho nhân dân là rất đáng tự hào, thể hiện sự đúng đắn
trong đường lối, chủ trương của Đảng và trong chính sách của Nhà nước ta.
Đồng thời đó cũng là kết quả phản ánh sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, cũng
như toàn thể nhân dân ta trong suốt những năm đổi mới vừa qua. Tuy nhiên, sự
phát triển của con người Việt Nam hiện nay còn chưa tương xứng với nhu cầu
của sự phát triển, và còn chậm so với các nước phát triển trong khu vực và trên
thế giới. Hơn thế, một số vấn đề yếu kém, tiêu cực trong đời sống, trong kinh
tế, chính trị, xã hội vẫn chậm được khắc phục và đang là trở lực lớn đối với sự
phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
5. Trong bối cảnh của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
trong xu thế hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức ngày càng cao như
hiện nay, vấn đề phát triển con người toàn diện ở Việt Nam càng phải được ưu
tiên hàng đầu. Trước hết, trên cơ sở thực trạng phát triển con người Việt Nam
hiện nay, nhất là những vấn đề mang tính cấp thiết đang đặt ra đối với sự phát
triển con người toàn diện ở Việt Nam, chúng ta phải có những định hướng phát
triển con người đúng đắn, mang tính chiến lược; đồng thời, hệ thống giải pháp
đưa ra phải xác thực, khả thi, có tính hiệu quả cao và được thực hiện một cách
đồng bộ. Có như vậy, chúng ta mới có thể xây dựng và phát triển con người
Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện, tạo nền tảng để xây dựng nước
Việt Nam, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
24

×