BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
ˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉ
NGUYỄN TẤT THẮNG
TÍCH HỢP GIÁO DỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
TRONG DẠY HỌC SINH HỌC
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Hà Nội – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
ˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉˉ
NGUYỄN TẤT THẮNG
TÍCH HỢP GIÁO DỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
TRONG DẠY HỌC SINH HỌC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Chuyên ngành
: Lí luận và PPDH bộ môn Sinh học
Mã số
: 62 14 01 11
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN ĐỨC THÀNH
HÀ NỘI 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu là trung thực và chưa từng đượ c công bố trong bất kì công
trình nào khác.
Hà Nội, ngày ….. tháng năm 2018
Tác giả luận án
Nguyễn Tất Thắng
4
LỜI CẢM ƠN
Luận án được hoàn thành tại Bộ môn Phương pháp dạy học Sinh học,
Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trong quá trình nghiên cứu tôi
đã nhận được sự giúp đỡ vô cùng quý báu của các tập thể và cá nhân.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn
khoa học: PGS.TS Nguyễn Đức Thành đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể Bộ môn Phương pháp dạy học Sinh
học, Khoa Sinh học, Phòng Sau đại học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã
tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo, các em học
sinh ở các trường THPT tham gia vào quá trình khảo sát, thực nghiệm sư phạm.
Xin chân thành cảm ơn các nhà khoa học, các giáo viên đã gửi ý kiến đóng góp để
luận án được hoàn thiện hơn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến các đồng nghiệp, gia đình, bạn bè đã luôn
động viên, giúp đỡ, khuyến khích tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án.
Hà Nội, ngày ….. tháng năm 2018
Tác giả luận án
Nguyễn Tất Thắng
MỤC LỤC
6
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Stt
Chữ viết tắt
Đọc là
1.
BĐKH
Biến đổi khí hậu
2.
BVMT
Bảo vệ môi trường
3.
ĐC
Đối chứng
4.
DHSH
Dạy học Sinh học
5.
DHTH
Dạy học tích hợp
6.
ĐTB
Điểm trung bình
7.
ĐY
Đồng ý
8.
GD&ĐT
Giáo dục và Đào tạo
9.
GDBĐKH
Giáo dục biến đổi khí hậu
10.
GV
Giáo viên
11.
HS
Học sinh
12.
IPPC
Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu
13.
KNK
Khí nhà kính
14.
PĐ
Phản đối
15.
PPDH
Phương pháp dạy học
16.
PTBV
Phát triển bền vững
17.
PV
Phân vân
18.
RĐY
Rất đồng ý
19.
RPĐ
Rất phản đối
20.
SH
Sinh học
21.
THPT
Trung học phổ thông
22.
TN
Thực nghiệm
23.
TNSP
Thực nghiệm sư phạm
8
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
10
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Biến đổi khí hậu – một nhân tố hủy diệt sự sinh tồn của loài người
Biến đổi khí hậu (BĐKH) gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với tất cả các
quốc gia trên thế giới. Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về PTBV tại Johannesburg
(Cộng hòa Nam Phi) năm 2002 đã nhận định rằng những hậu quả của BĐKH
toàn cầu trực tiếp tác động đến sự sinh tồn của loài người, vì gây hại đến: Tài
nguyên nước, Năng lượng, Sức khỏe con người, Nông nghiệp và an ninh lương
thực, Đa dạng sinh học [38], [43], [44], [68], [69], [106].
Ở quy mô hành tinh, tác động của BĐKH thể hiện rõ ở xu thế tăng nhiệt
độ bề mặt Trái Đất, trên các đỉnh núi cao, dẫn đến hiện tượng nước biển dâng
và “biển tiến”. Theo IPCC (2007), nhiệt độ không khí trung bình toàn cầu trong
thế kỷ XX đã tăng lên 0,740C (± 0,20C), trên đất liền nhiệt độ tăng nhiều hơn trên
biển…. [43], [116]. Các dấu hiệu BĐKH trên thế giới hiện nay là: Mùa đông ít
tuyết ở khu vực trượt tuyết thuộc dãy Alpơ; Hạn hán triền miên ở châu Phi; Các
sông băng trên núi tan chảy nhanh nhất trong vòng 5000 năm qua. Ở quy mô khu
vực, BĐKH đã thể hiện qua các thiên tai hiện hữu với tính chất biến động mạnh
hơn, cực đoan hơn, dị thường hơn cả về tần xuất và cường độ. BĐKH đã trở
thành một trong những thách thức và nguy cơ lớn nhất đối với loài người trong
thế kỷ 21.
Ở Việt Nam, trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình hàng năm ở
nước ta tăng khoảng 0,7oC, mực nước biển đã cao hơn khoảng 20cm. Hiện
tượng ElNino, LaNina ngày càng tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. BĐKH
thực sự đã làm cho các thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt [45,
tr. 56]. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, nếu nhiệt độ Trái Đất tăng lên 1
độ C và mực nước biển dâng cao 1m, các hiện tượng thời tiết trở nên bất thường
và khó dự báo hơn. Nếu mực nước biển dâng cao 1m, 12,2% diện tích đất của
Việt Nam sẽ bị nhấn chìm, 23% dân số (khoảng 17 triệu người) mất nơi cư trú,
nhiều cơn bão xuất hiện với mức độ tàn phá mạnh hơn, ảnh hưởng tới nông
nghiệp, tài nguyên nước, dòng chảy sông ngòi, độ mặn nước biển, đời sống và
sức khỏe con người, đa dạng sinh học, xói mòn đất... [17], Sự tương tác hai chiều
giữa BĐKH và nông nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống và sự phát triển
của con người.
Tại Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về BĐKH tổ chức ở Đan Mạch
(tháng 12 năm 2009), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh: Trái Đất là
ngôi nhà chung của nhân loại nên ứng phó với BĐKH là trách nhiệm của mọi
quốc gia. Việt Nam quyết tâm mạnh mẽ trong cuộc chiến chống BĐKH toàn
cầu, bảo vệ hệ thống khí hậu Trái Đất. Để thực hiện được vấn đề này cần phải
thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó giáo dục cho học sinh (HS), sinh
viên – những chủ nhân tương lai của đất nước nâng cao nhận thức, thái độ, có
hành vi bảo vệ môi trường (BVMT), chống BĐKH là một việc làm rất cần thiết
và cấp bách. Theo các nhà khoa học, Việt Nam được đánh giá là một trong năm
quốc gia dễ bị tổn thương và có khả năng sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của
BĐKH. Vì vậy, nghiên cứu về BĐKH, xu thế và các tác động của nó ở Việt Nam
là một việc làm có tính cấp bách.
Để bảo vệ cuộc sống, toàn xã hội nói chung, đặc biệt là thế hệ trẻ nói
riêng cần nhận thức đượ c trách nhiệm nhằm làm giảm thiểu và thích ứng với
những biến đổi bất thường của khí hậu. Nhiệm vụ này, ngoài việc hoạch định
chính sách thì giáo dục có trách nhiệm lớn đối với thế hệ trẻ, cần tìm cách
thức giáo dục có hiệu quả.
1.2. Vai trò của giáo dục trong cuộc đấu tranh với những thách thức của
biến đổi khí hậu
BĐKH là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại, có ảnh
hưởng sâu sắc và làm thay đổi toàn diện đời sống xã hội trên toàn thế giới. Đối
với Việt Nam, hậu quả của BĐKH là rất nghiêm trọng, ảnh hưởng đến mục tiêu
xóa đói giảm nghèo cũng như việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và sự
phát triển bền vững đất nước. Tài nguyên nước, nông nghiệp, ngư nghiệp, công
nghiệp, xây dựng, giao thông, nhà ở và cơ sở hạ tầng là các lĩnh vực, ngành dễ bị
tổn thương và chịu sự tác động mạnh mẽ nhất của BĐKH. BĐKH có tác động
mạnh đến các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của các ngành và
các địa phương. Nhiều thành phố, địa phương ven biển đã và đang chịu tác động
mạnh mẽ, trực tiếp từ BĐKH và các thiên tai do BĐKH gây ra. BĐKH đã và đang
ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh lương thực, năng lượng, giáo dục và sức khỏe
cộng đồng... Do vậy, BĐKH ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của
hàng triệu người dân Việt Nam cũng như sự phát triển kinh tế xã hội của địa
phương, đất nước.
Theo các nhà khoa học, BĐKH ngày càng gia tăng là do việc khai thác và
sử dụng ngày càng nhiều nhiên liệu hóa thạch, chặt phá rừng, chuyển đổi mục
đích sử dụng đất… để phát triển kinh tế, xã hội. Từ đó làm tăng phát thải khí nhà
kính, làm cho khí quyển Trái Đất nóng lên, ảnh hưởng tới môi trường toàn cầu,
gây ra những thảm họa vô cùng nguy hiểm cho nhân loại. Việt Nam là một trong
những quốc gia bị tác động nặng nề nhất do BĐKH gây ra.
Giáo dục biến đổi khí hậu (GDBĐKH) là một nhiệm vụ của giáo dục
nhằm giúp ngườ i học hiểu đượ c những tác động của BĐKH, đồng thời
khuyến khích thay đổi hành vi để ứng phó với BĐKH, góp phần PTBV cho
hiện tại và tươ ng lai. Để thực hiện GDBĐKH, theo quan điểm của UNESCO
cần phải hướng vào nguyên nhân và hậu quả của BĐKH. Qua GDBĐKH,
ngườ i học phải được đổi mới về kiến thức và kĩ năng về BĐKH, giá trị và
sáng tạo trong việc BVMT toàn cầu, đặc biệt là sự thay đổi hành vi thái độ
và năng lực của người công dân. Nói cách khác, GDBĐKH trong nhà trườ ng
bao gồm giáo dục nhận thức về BĐKH và ứng xử thân thiện với môi trườ ng.
Việc tăng cường giáo dục được coi là “chìa khóa” để ứng phó hiệu quả
đối với BĐKH [59, tr.270]. Hệ thống các cơ sở giáo dục phát triển rộng với
nhiều loại hình đa dạng, đội ngũ giáo viên (GV) và cán bộ quản lí giáo dục đông
đảo là điều kiện thuận lợi để thực hiện tích hợp GDBĐKH cho người học. HS,
sinh viên chiếm một phần đông đảo trong xã hội, có ảnh hưởng tích cực trong gia
đình và cộng đồng, là những chủ nhân tương lai của các quốc gia trên thế giới.
HS, sinh viên cũng chính là những người chịu gánh nặng do tác động của BĐKH
hiện nay và mai sau. Nếu các em có nhận thức đúng đắn về BĐKH, có hành vi,
thái độ BVMT, ứng phó với BĐKH thì có thể gắn kết được các hoạt động phát
triển kinh tế, xã hội, sinh hoạt với việc ứng phó với BĐKH. Do vậy, việc
GDBĐKH cho HS, sinh viên là rất cần thiết. Giáo dục là ngành có điều kiện
thuận lợi để giải quyết những thách thức của BĐKH.
Để thực hiện GDBĐKH có hiệu quả, mang tính đồng bộ cần phải kết hợp
với chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt (Quyết định số 158/2008/QĐTTg ngày 02/12/2008) gồm các nhiệm
vụ cụ thể như: (i) Đánh giá mức độ và tác động của BĐKH ở Việt Nam; (ii) Xác
định các giải pháp ứng phó với BĐKH; (iii) Xây dựng chương trình khoa học công
nghệ về BĐKH; (iv) Tăng cường năng lực tổ chức, thể chế, chính sách về BĐKH;
(v) Nâng cao nhận thức và phát triển nguồn nhân lực, (vi) Tăng cường hợp tác
quốc tế, (vii) Tích hợp các vấn đề về BĐKH vào các chiến lược, chương trình,
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, phát triển ngành; (viii) Xây dựng
các kế hoạch hành động của các Bộ, ngành và địa phương ứng phó với BĐKH; (ix)
Xây dựng và triển khai các dự án của chương trình. Như vậy, nội dung GDBĐKH
có thể xây dựng thành các chương trình cụ thể, chi tiết nhằm thực hiện các nhiệm
vụ đã được Chính phủ phê duyệt. Trong giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) có thể tích
hợp nội dung GDBĐKH vào chương trình giảng dạy một cách mềm dẻo, linh hoạt
trong các môn học, lựa chọn phương pháp phù hợp để người học nâng cao nhận
thức, thái độ, kĩ năng ứng phó với BĐKH.
1.3. Điều kiện thuận lợi của nội dung Sinh học ở trường trung học phổ
thông trong giáo dục biến đổi khí hậu
Nội dung môn Sinh học (SH) ở trường trung học phổ thông (THPT) được
xây dựng theo quan điểm của sinh học hiện đại, tiếp cận hệ thống cấu trúc
nhằm giúp học sinh chỉ ra được: Cấu trúc của tổ chức sống, hoạt động sống ở
mỗi cấp độ tổ chức sống, sự tương tác qua lại giữa sinh vật với môi trường.
Cấu trúc của các cấp độ tổ chức sống từ đơn giản đến phức tạp, từ
thấp đến cao được sắp xếp trong chương trình Sinh học THPT như sau: Lớp
10 – Cấp độ tế bào, cấp độ cơ thể (đơn bào), lớp 11 – Cấp độ cơ thể (đa bào),
lớp 12 – Cấp độ trên cơ thể (quần thể, quần xã, HST, sinh quyển). Đặc điểm
chung của các cấp độ tổ chức sống là: Tổ chức theo nguyên tắc thứ bậc, hệ
thống mở và tự điều chỉnh, thế giới sống liên tục tiến hóa. Tổ chức sống ở
cấp cao hơn không chỉ có những đặc điểm của tổ chức sống cấp thấp hơn mà
còn có những đặc tính nổi trội mà tổ chức cấp thấp hơn không có đượ c.
Những đặc tính nổi trội ở mỗi cấp tổ chức sống có đượ c là do sự tươ ng tác
của các bộ phận cấu thành. Những đặc điểm đặc trưng của thế giới sống ở
các cấp độ tổ chức sống là: trao đổi chất và năng lượ ng, sinh trưởng và phát
triển, cảm ứng, sinh s ản, di truy ền, ti ến hóa. Các đặc điểm đặc trưng của thế
giới sống được thể hiện thông qua các hoạt động sống và đượ c thể hiện trong
nội dung môn SH THPT. Từ logic phát triển nội dung SH cho th ấy, ho ạt động
sống của sinh vật luôn có mối quan hệ chặt chẽ với môi trườ ng. Trong các
yếu tố của môi trườ ng, khí hậu là nhân tố sinh thái vô sinh có ảnh hưở ng rất
quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của sinh vật. Các hoạt động sống của
sinh vật và con người đã có tác động đến thành phần, đặc điểm của khí hậu.
Đặc biệt, hoạt động quang hợp của thực vật đã làm biến đổi thành phần và
đặc trưng của khí quyển Trái Đất, từ khí quyển sơ khai mang đặc trưng khử
sang đặc trưng ôxi hóa. Quá trình tươ ng tác giữa sinh vật với môi trườ ng đã
góp phần quan trọng tạo nên khí quyển, khí hậu Trái Đất ngày nay. Mặt khác,
khí hậu có tác động tới sinh vật, làm cho sinh vật biến đổi, tiến hóa. BĐKH đã
làm cho rất nhiều loài sinh vật bị tuyệt chủng trong quá khứ, đồng thời những
loài sinh vật chống ch ịu đượ c với những điều kiện thay đổi của khí hậu lại
sinh trưởng và phát triển. Nói cách khác, chính khí hậu là một nhân tố quan
trọng tác động đến sự sinh trưởng và phát triển, tồn tại và tiến hóa của sinh
vật, góp phần tạo nên diện mạo thế giới sinh vật hi ện nay. Các hoạt độ ng
khai thác và sử dụng không bền vững tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh
tế xã hội của con người đã gây ra tác hại cho các loài sinh vật, làm cho nhiều
loài sinh vật bị tuyệt ch ủng, đồng thời gây ra tác động xấu cho khí hậu. Hoạt
động của con người chính là nguyên nhân chủ yếu gây ra BĐKH hiện đại.
Như vậy, giữa sinh v ật và khí hậu luôn có mối quan hệ tác động qua lại, tạo
thành một chỉnh thể thống nh ất, chi ph ối l ẫn nhau. Do v ậy, trong quá trình
DHSH THPT cần ph ải tích hợp GDBĐKH để hình thành tri thức SH và
GDBĐKH cho HS.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi nghiên cứu đề tài “Tích hợp giáo
dục biến đổi khí hậu trong dạy học Sinh học trung học phổ thông”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Xác định biện pháp tích hợp GDBĐKH trong DHSH cấp THPT theo quan
điểm sinh vật là một thành phần quan trọng tác động đến hệ thống khí hậu để
HS vừa nắm vững nội dung SH vừa nắm vững nội dung GDBĐKH và có biện
pháp ứng phó với BĐKH.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp tích hợp GDBĐKH trong DHSH cấp THPT.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Quá trình DHSH cấp THPT.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu thực hiện GDBĐKH bằng biện pháp tích hợp trong DHSH cấp THPT
theo quan điểm sinh vật là một thành phần quan trọng tác động đến khí hậu thì
HS vừa nắm vững kiến thức SH, vừa nắm vững kiến thức GDBĐKH đồng thời
có hành vi ứng phó với BĐKH.
5. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài tập trung nghiên cứu cách tích hợp GDBĐKH trong DHSH cấp độ cơ
thể và trên cơ thể ở THPT.
6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
6.1. Hệ thống hóa cơ sở lí luận dạy học tích hợp, tích hợp GDBĐKH trong
DHSH ở THPT.
6.2. Điều tra thực trạng thực hiện tích hợp GDBĐKH trong DHSH ở THPT.
6.3. Xác định thành phần của khí hậu và đặc điểm của khí hậu biến đổi làm cơ
sở để tích hợp GDBĐKH trong DHSH ở THPT.
6.4. Phân tích quan hệ giữa sinh vật và khí hậu để xác định nguyên nhân SH dẫn
đến BĐKH.
6.5. Xây dựng quy trình và biện pháp tích hợp GDBĐKH trong DHSH ở THPT.
6.6. Xây dựng tiêu chí và công cụ đánh giá hiệu quả tích hợp GDBĐKH trong
DHSH ở THPT.
6.7. Thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá giả thuyết khoa học của đề tài.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Nghiên cứu các văn kiện của Ban liên chính phủ về BĐKH của Liên hiệp
quốc; của Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam cũng như các nước khác về
BĐKH, các chương trình mục tiêu quốc gia về giải pháp ứng phó với thách thức
của BĐKH hiện tại và tương lai.
Các tài liệu hội thảo khoa học, bài báo khoa học, sách, giáo trình trong
nước và quốc tế về khí hậu, BĐKH, GDBĐKH, giáo dục vì sự PTBV.
Nghiên cứu các tài liệu lí luận dạy học, phương pháp dạy học tích hợp,
phương pháp dạy học tích cực, các luận văn, luận án có liên quan đến đề tài
nghiên cứu làm cơ sở xây dựng quy trình và xác định các biện pháp tích hợp
GDBĐKH trong DHSH ở THPT .
Phân tích cấu trúc, nội dung môn SH ở THPT làm cơ sở xác định nội dung
GDBĐKH cần tích hợp.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực trạng
Mục đích điều tra: Tìm hiểu về tình hình thực hiện dạy học tích hợp
GDBĐKH trong môn SH ở THPT của GV và hiểu biết của HS về BĐKH.
Nội dung điều tra
+ Đối với giáo viên:
++ Nhận thức về tính cấp thiết của GDBĐKH cho HS ở trường THPT; Vai
trò, lợi ích mà GDBĐKH mang lại cho HS trong DHSH ở trường THPT; Khó
khăn khi DHTH GDBĐKH trong môn SH ở trường THPT.
++ Thực hiện tích hợp GDBĐKH trong DHSH ở trường THPT: Mức độ
thực hiện tích hợp GDBĐKH trong DHSH ở trường THPT; Hình thức, nội dung
GDBĐKH đã sử dụng trong DHSH ở trường THPT; Phương pháp, phương tiện
GV thường sử dụng để tích hợp GDBĐKH trong DHSH ở trường THPT; Nguồn
tài nguyên GV thường khai thác để tích hợp GDBĐKH trong DHSH ở trường
THPT.
+ Đối với học sinh:
++ Nhận thức của HS về BĐKH: khái niệm khí hậu, BĐKH; nguyên nhân,
biểu hiện của BĐKH; khái niệm ứng phó với BĐKH, thích ứng với BĐKH, giảm
nhẹ BĐKH; các KNK gây ra BĐKH, nguyên nhân làm cho KNK tăng lên...
++ Các nguồn tài liệu HS thường tìm hiểu về BĐKH.
Phương pháp điều tra
+ Đối với GV: Sử dụng phiếu khảo sát việc vận dụng GDBĐKH trong
DHSH ở trường THPT. Khảo sát 124 GV ở 41 trường THPT trên địa bàn Hà Nội,
Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Hưng Yên.
+ Đố i vớ i HS : S ử d ụng phi ếu kh ảo sát nh ậ n th ức c ủa HS v ề BĐKH,
các ngu ồ n tìm hi ểu v ề BĐKH c ủa HS. Kh ảo sát 1180 HS ở 30 lớ p thu ộc 10
trườ ng THPT trên đị a bàn Hà N ộ i, B ắ c Ninh, H ưng Yên, Thái Bình, Nam
Đ ị nh, Thanh Hóa, Ngh ệ An. M ỗi tr ườ ng THPT chúng tôi khả o sát 3 lớ p,
mỗ i kh ố i kh ảo sát 1 lớ p.
7.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Bố trí TN: Tổ chức thực nghiệm kiểu song song. Lớp TN dạy theo
phương án tích hợp GDBĐKH, lớp ĐC dạy theo hướng dẫn của sách giáo viên.
Chọn trường, lớp, GV dạy TN: Chúng tôi chọn 6 trường TN thuộc các tỉnh
Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Thanh Hóa. Mỗi trường chọn 6 lớp để TNSP,
trong đó mỗi khối (10, 11, 12) chọn 2 lớp tương đương nhau, 1 lớp ĐC và 1 lớp
TN. Mỗi trường 1 GV dạy TN. GV dạy TN là người có chuyên môn và kinh
nghiệm DHSH, đã được tác giả trao đổi kỹ về nội dung và phương pháp TN cũng
như các vấn đề liên quan đến quá trình TN, có hiểu biết về GDBĐKH.
Quá trình TN: TN thăm dò trong năm học 20122013, tiến hành ở một
trường THPT về nội dung GDBĐKH trong DHSH. Thực nghiệm chính thức
được tiến hành trong năm học 20132014, 20142015.
Nội dung TN: Chọn một số nội dung môn SH10, SH11, SH12 ban cơ bản,
xây dựng các chủ đề tích hợp GDBĐKH để TNSP. Đánh giá kết quả TNSP bằng
kết quả học tập nội dung SH và BĐKH.
7.4. Phương pháp xử lí số liệu
Sử dụng thống kê toán học, phần mềm tin học SPSS và Excel để xử lí số
liệu. Sử dụng phần mềm SPSS để tính giá trị trung bình, sai số trung bình cộng,
độ lệch chuẩn, độ tin cậy... để so sánh kết quả bài kiểm tra của lớp TN và lớp
ĐC. Sử dụng phần mềm Excel để tính %, điểm trung bình của các câu hỏi điều
tra, tiêu chí đánh giá.
8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
8.1. Làm rõ và bổ sung lí luận tích hợp theo hướng chiết suất nội dung GDBĐKH
cần tích hợp từ giá trị của kiến thức SH THPT.
8.2. Phân tích, xác định được kiến thức khí hậu, khí hậu ở mức ổn định và những
tác động trực tiếp, gián tiếp của sinh giới đến hình thành khí hậu cũng như
BĐKH trong DHSH ở THPT.
8.3. Đề xuất được nguyên tắc và quy trình dạy học tích hợp GDBĐKH trong
DHSH ở THPT theo hướng hoạt động của sinh giới là một trong những tác nhân
quan trọng gây ra BĐKH.
8.4. Đề xuất được cách thức tích hợp GDBĐKH trong DHSH cấp THPT.
8.5. Qua nghiên cứu đã khẳng định tích hợp GDBĐKH theo định hướng sinh vật
là thành phần quan trọng tác động đến khí hậu là hướng dạy học có hiệu quả.
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VỀ TÍCH HỢP GIÁO DỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
TRONG DẠY HỌC Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1.1. Lược sử nghiên cứu về tích hợp trong dạy học
1.1.1.1. Trên thế giới
Các tư tưởng về tích hợp đầu tiên được thể hiện trên quan điểm gắn nhà
trường với xã hội, kết nối giữa học với hành, giáo dục gắn liền với lao động sản
xuất. Trong cuốn “Nhà trường và xã hội” xuất bản năm 1899, Jonh Deway đã
khởi xướng quan điểm nhà trường lao động, trong đó chỉ ra các nguyên tắc mới
trong việc tổ chức giáo dục nhà trường là: Tổ hợp (đồng bộ), liên môn, tích hợp,
tạo cơ sở cho việc định hướng nhân cách HS. Tư tưởng này là một bước tiến so
với công trình nghiên cứu ở những năm 70 của thế kỷ XVIII do Pestalogi thực
hiện về mối quan hệ giữa giáo dục và lao động. Sau này, Hội đồng nhà nước về
khoa học Xô Viết mà đại diện là N.K. Crupxkaia (1918) đã thông qua nhiệm vụ
“Xây dựng những nguyên tắc chung đối với nhà trường phổ thông lao động thống
nhất kiểu kỹ thuật tổng hợp”. Sau đó, tư tưởng phát triển liên môn trong nhà
trường theo thực tiễn được nhiều nhà khoa học Xô Viết nghiên cứu và phát triển.
H.A. Loskareva (1973) cho rằng: “Các mối quan hệ liên môn được thể hiện trong
quá trình dạy học phải được hiểu như tính quy luật của hiện thực khách quan, là
cơ sở triết lý và lí luận dạy học để xác định các nội dung, phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học”. Trong tuyển tập khoa học “Các quá trình tích hợp trong
khoa học giáo dục và thực tiễn giáo dục dạy học chủ nghĩa cộng sản” xuất bản
năm 1983, khái niệm tích hợp đã được đưa vào giáo dục học Xô Viết. Theo
V.T.Phormenko (1996), tích hợp là phương thức hình thành nhân cách và phát
triển toàn diện con người Xô Viết. Đầu những năm 90 của thế kỷ XX,
V.T.Phormenko và cộng sự đã tiến hành xác lập các phương thức xây dựng
chương trình tích hợp trong giáo dục, đưa ra cách phân loại các phương thức đó,
hình thành khái niệm về các sự kiện tích hợp và cần được tích hợp [25], [73].
Như vậy, theo quan điểm của các nhà giáo dục Xô Viết, DHTH thực chất là giáo
dục lao động mà thực chất là giáo dục kĩ thuật tổng hợp.
Trong Hội nghị phối hợp trong chương trình của UNESCO tổ chức tại
Paris năm 1972, UNESCO định nghĩa: DHTH các khoa học là “một cách trình bày
các khái niệm và nguyên lý khoa học cho phép sự diễn đạt thống nhất cơ bản
của một tư tưởng khoa học, tránh nhấn quá mạnh hoặc quá sớm sự sai khác giữa
các lĩnh vực khoa học khác nhau”. Định nghĩa này nhấn mạnh cách tiếp cận các
khái niệm và nguyên lý chứ không phải là hợp nhất nội dung. Theo Hội nghị tại
Maryland (tháng 4/1973), khái niệm DHTH các khoa học còn gắn với công nghệ
học. Nghĩa là phải chỉ ra các cách thức chuyển từ nghiên cứu khoa học sang triển
khai ứng dụng, làm cho các tri thức kỹ thuật công nghệ trở thành một bộ phận
quan trọng trong đời sống xã hội hiện đại [42].
Theo D’ Hainaut (1977), sự tích hợp môn học có những mức độ từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp nhưng tựu chung lại có bốn quan điểm sau:
Tích hợp trong nội bộ môn học, tích hợp đa môn, tích hợp liên môn và tích hợp
xuyên môn [107]. Theo Loeep, F.L., (1999), có ba mô hình chương trình DHTH
phổ biến nhất trên thế giới là: tích hợp đa môn, dựa trên chuỗi vấn đề, dựa trên
các chủ đề [48].
Theo Xavier Roegiers (1996), có bốn cách tích hợp môn học được thành hai
nhóm lớn: Thứ nhất, đưa ra những ứng dụng chung cho nhiều môn học (thực
hiện ở cuối năm học hay cuối cấp học, hoặc ở những thời điểm đều đặn trong
năm học). Thứ hai, phối hợp quá trình dạy học của nhiều môn học khác nhau
(phối hợp bằng đề tài tích hợp hoặc tình huống tích hợp). Theo Xavier Rogiers,
nếu nhà trường chỉ quan tâm dạy cho HS các khái niệm một cách riêng rẽ thì
nguy cơ sẽ hình thành ở HS các suy luận khép kín, hình thành những con người
“mù chức năng”, nghĩa là những người đã lĩnh hội kiến thức nhưng không có khả
năng sử dụng các kiến thức đó hàng ngày. DHTH sàng lọc cẩn thận những thông
tin có ích để hình thành các năng lực và mục tiêu tích hợp [107].
Ở nhiều nước trên thế giới, tích hợp là một quan điểm cơ bản trong việc
xây dựng chương trình và sách giáo khoa từ Tiểu học đến Trung học cơ sở và
THPT. Tùy theo cấp học, bậc học mà việc thực hiện quan điểm tích hợp có
những nét đặc thù riêng đối với từng nước. Ở Mỹ, Anh, Úc, Niudilân, Pháp,
Nhật Bản, Hàn Quốc… vận dụng quan điểm tích hợp ở mức cao, từ Tiểu học
đến THPT. Mức độ tích hợp đa dạng, ở tất cả các môn học và đã đạt mức cao
nhất: xuyên môn, đa môn, nội môn. [8], [100].
1.1.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, đã có nhiều môn học, nhiều tác giả quan tâm vận dụng tư
tưởng sư phạm tích hợp vào quá trình dạy học để nâng cao chất lượng giáo dục
HS và đưa các nội dung giáo dục vào môn học. Năm 1997, vấn đề tích hợp được
nghiên cứu và triển khai ở dự án Hỗ trợ kỹ thuật thuộc Dự án phát triển trung
học cơ sở do Viện khoa học Giáo dục và Trường Đại học sư phạm Hà Nội thực
hiện. Các tác giả đã nghiên cứu kinh nghiệm tích hợp của Đức, Anh, Úc… và xây
dựng dự thảo chương trình môn Khoa học, môn Sử Địa, Ngữ văn theo quan
điểm tích hợp [8], [100].
Bộ GD&DDT đã tập huấn GV cốt cán tích hợp nội dung giáo dục sức
khỏe sinh sản, giáo dục môi trườ ng, giáo dục sử dụng tiết kiệm năng lượ ng ở
một số môn học cho HS phổ thông [5], [7], [52]. Hi ện nay, B ộ GD&ĐT đang
nghiên cứu xây dựng chươ ng trình, SGK phổ thông giai đoạn sau 2015 cũng
dựa trên quan điểm tích hợp và quan điểm hệ thống nhằm giảm tải môn học,
giảm tải nội dung [14].
Ở môn SH, tích hợp đã được nêu trong định hướng xây dựng chương trình
môn SH cấp THPT. Thí dụ, tích hợp kiến thức SH thực vật và SH động vật trong
phần SH cơ thể.
Nguyễn Thị Thấn (2006) đã chỉ ra vai trò quan trọng của tiếp cận tích hợp
và vận dụng tích hợp giáo dục môi trường trong môn tự nhiên và xã hội cho HS
tiểu học [79], [80]. Cao Thị Thặng và cộng sự đã thiết kế tài liệu và thử nghiệm
dạy học nội dung tích hợp chủ đề “Sự biến đổi xung quanh ta” trong chương
trình môn khoa học tự nhiên lớp 6 thuộc Dự án phát triển THCS. Kết quả cho
thấy: Có thể thiết kế được nội dung tích hợp Khoa học tự nhiên… Tuy nhiên,
việc nghiên cứu tích hợp chủ yếu là tích hợp nội dung, thiếu sự đồng bộ, thống
nhất từ cấp Tiểu học đến Trung học cơ sở và THPT. Tích hợp thể hiện ở tên
môn học, cấu trúc nội dung môn học… [8], [100, tr.122131].
Theo Dương Tiến Sỹ (1999), tích hợp là sự kết hợp một cách hữu cơ, có
hệ thống các kiến thức/khái niệm thuộc các môn học khác nhau thành một nội
dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được để
cập trong các môn học đó [71], [73]. Việc xây dựng các chủ đề tích hợp trong
dạy học sẽ phát triển năng lực của HS [72], [76].
Theo Nguyễn Phúc Chỉnh (2012), tích hợp dạy học là quá trình dạy học
trong đó có sự lồng ghép, liên hệ những tri thức khoa học, những qui luật chung
gần gũi với nhau, qua đó người học không chỉ lĩnh hội được tri thức khoa học
của môn học chính mà cả tri thức của khoa học được tích hợp, từ đó hình thành
cho người học cách nhìn khái quát hơn đối với các khoa học có cùng đối tượng
nghiên cứu, đồng thời có được phương pháp xem xét vấn đề một cách logic, biện
chứng [25]. Như vậy, xu hướng tích hợp không chỉ rút gọn thời lượng trình bày
tri thức của nhiều môn học mà quan trọng hơn là tập dượt cho HS cách vận dụng
tổng hợp các tri thức vào thực tiễn, vì để giải quyết một vấn đề thực tiễn
thường phải huy động tri thức của nhiều môn học. Dạy từng môn học riêng sẽ
đem lại những tri thức hàn lâm có hệ thống, nhưng khó vận dụng vào thực tiễn.
Theo Cao Thị Thặng, Lương Việt Thái (2011), Nguyễn Phúc Chỉnh (2012),
tích hợp kiến thức là sự liên kết, kết hợp, lồng ghép tri thức của các khoa học
khác nhau thành một tập hợp kiến thức thống nhất. Có 3 mức độ tích hợp kiến
thức trong dạy học: tích hợp, kết hợp (lồng ghép), liên hệ [8], [25], [100].
Trong dạy học ở cấp trung học cơ sở đã có một số tác giả quan tâm
nghiên cứu vận dụng DHTH như: “Giáo dục môi trường trong dạy học SH 6 theo
chủ đề” của Lê Đình Trung, Nguyễn Kì Loan (2015) [87]; “Tích hợp giáo dục kĩ
năng sống cho HS dân tộc miền núi tỉnh Nghệ An trong dạy học môn Ngữ văn
THCS” của Lã Thị Thanh Huyền (2015) [55]; “Xây dựng chuyên đề DHSH 7 tích
hợp giáo dục BVMT” của Phan Thị Thanh Hội và Lê Thanh Oai (2015) [50]... Ở
cấp THPT, cũng có một số tác giả quan tâm nghiên cứu vận dụng DHTH, tích
hợp liên môn như: Giáo dục môi trường qua dạy học Sinh thái học lớp 11, THPT
của Dương Tiến Sỹ (1999) [71]; “Tích hợp giáo dục dân số sức khỏe sinh sản
trong dạy học chương Sinh sản, SH11” của Nguyễn Phúc Chỉnh và Trương
Mộng Diện (2012) [26]; “Tích hợp giáo dục môi trường qua phương pháp dạy
học theo dự án trong phần Hóa phi kim ở trường THPT” của Nguyễn Thị Sửu và
Phạm Hồng Bắc (2013) [70]; “Giáo dục tích hợp môi trường thông qua dạy học
theo dự án chương 6 nhóm Ôxi (Hóa học 10) của Bùi Thị Gấm, Trần Trung
Ninh và Vũ Thị Yến (2014) [35]; “Thực hiện tích hợp nội môn, liên môn và tích
hợp kiến thức đời sống trong dạy học Tiếng Việt ở trường THPT” của Nguyễn
Thị Hiên (2015) [39]...
Từ các nghiên cứu trên cho thấy, DHTH luôn hướng tới việc tổ chức các
hoạt động học tập, trong đó tập trung hướng dẫn, tổ chức cho HS học cách sử
dụng phối hợp các kiến thức và kĩ năng trong các tình huống dạy học có ý nghĩa,
gần với cuộc sống. Từ đó giúp HS phát triển năng lực, đây cũng chính là mục tiêu
cơ bản của tư tưởng sư phạm tích hợp.
Tóm lại, khái niệm tích hợp ở nước ta hiện nay được hiểu theo những
mức độ khác nhau và dùng những thuật ngữ khác nhau như: “kết hợp”, “lồng
ghép”, “liên hệ”, đó là hiểu về cách làm. Còn nội dung tích hợp có những quan
niệm như: “liên môn”, “xuyên môn”, “nội môn”. Ngoài những cách hiểu như trên,
ở vị trí người dạy có thể từ giá trị của kiến thức theo một lĩnh vực nào đó, chỉ ra
cách thức ứng dụng. Nghĩa là tích hợp theo kiểu khai thác giá trị của kiến thức
môn học, như vậy “một mũi tên” sẽ đạt được “nhiều đích”.