Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Quản lý nhà nước về thương mại đối với mặt hàng gạo xuất khẩu ở Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.12 KB, 50 trang )

Mục l

c
I. Cơ sở lý luận
3
1.Khái niệm. và một số đặc điểm của quản lý nước về thương mại nhà
3
2.Chức năng quản lý nhà nước về thương mại
3
3.Vai trò của quản lý nhà nước về thương mại
7
II.Quản lý nhà nước về thương mại đối với mặt hàng gạo xuất
khẩu ở Việt Nam
9
2.1.Thị trường XK gạo của Việt Nam Những năm qua (từ 1989 đến nay)
9
2.1.1.Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam
9
2.1.1.1 Kim ngạch xuất khẩu gạo qua các năm
9
2.1.1.2. Số lượng, chất lượng và cơ cấu sản phẩm gạo xuất khẩu

12
2.1.1.3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam
15
2.1.1.4. Giá cả và năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu gạo của Việt Nam
17
2.1.2. Thực trạng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong
xuất khẩu gạo
19
2. 2.Các chính sách xuất nhập khẩu


21
2.2.1 Các chính sách hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước (quy hoạch, đầu tư...)
21
2. 2. 2. Các chính sách nhập khẩu của các nước nhập khẩu
24
III.Chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu gạo
27
3.1.Định hướng và mục tiêu xuất khẩu gạo
27
3.1.1.Cơ chế mới
27
3.1.2.Định hướng mục tiêu xuất khẩu gạo
27
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo
28
3.2.1.Về phía chính phủ
28
3.2.1.1.Các giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức xuất khẩu
28
3.2.1.2.Các giải pháp về luật pháp, chính sách
29
3.2.1.3. Các giải pháp về đầu tư
31
3.2.1.4. Các giải pháp về thị trường
34
3.2.2. Về phía doanh nghiệp
37
3.2.2.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả xuất khẩu
37
3.2.2.2. Nâng cao giá xuất khẩu

38
3.2.2.3. Mở rộng phân phối thị trường
40
3.2.2.4. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu và hỗ trợ kinh doanh
44
3.2.2.5. Áp dụng các tiến bộ công nghệ, kỹ thuật
46
3.2.2.6. Nâng cao trình độ nguồn nhân lực
47
Kết Luận
I.Cơ sở lý luận
1.Khái niệm và một số đặc điểm của quản lý nhà nước về thương mại
* Quản lý nhà nước về thương mại
Quản lý nhà nước về thương mại là sự tác động có định hướng ,có tổ chức
của hệ thống cơ quan quản lý trên tầm vĩ mô về thương mại các cấp đến hệ
thống bị quản lý thông qua việc sử dụng các công cụ và chính sách quản lý
nhằm đạt mục tiêu đã đặt ra trong điều kiện môi trường xác định.
Các cơ quan quản lý vĩ mô của nhà nước về thương mại là người ra quyết
định,người tổ chức ,người điều hành và tác động tới doanh nghiệp ,các tổ
chức cá nhân tiến hành hoạt động thương mại trong phạm vi thị trường cả
nước ,thị trường từng địa phương cũng như thị trường ngoài nước theo phạm
vi phân công phân cấp quản lý.
Nhà nước sử dụng quyền lực của mình trong điều hành và quản lý thương
mại thông qua ban hành và sử dụng các công cụ kế hoạch hóa ,chính
sách,luật pháp và các quyết định khác về thương mại để tác động tới các chủ
thể người bán ,người mua trên thị trường .Sự tác động của các hệ thống quản
lý nhà nước về thương mại đến đối tượng trao đổi luôn đặt trong mối quan
hệ với môi trường cụ thể ,xác định trong từng thời kỳ.
*Đặc điểm cơ bản của quản lý nhà nước về thương mại
Quản lý nhà nước về thương mại mang những đặc điểm chung của quản lý

nhà nước về kinh tế.Mọi loại hình quản lý về kinh tế bao gồm hai hệ thống
là các cơ quan quản lý và đối tượng quản lý.Con người là trung tâm của
quản lý nằm ở hai hệ thống,do vậy mọi quản lý suy cho cùng là quản lý con
người,vì con người .Quản lý bao giờ cũng có sự trao đổi thông tin và liên hệ
ngược,nếu không có thông tin quản lý sẽ không thể thực hiện hiệu quả.Quản
lý kinh tế luôn hướng vào mục tiêu xác định và phải có giải pháp thực hiện
mục tiêu đã vạch ra.
Tính đặc thù của quản lý nhà nước về thương mại
Mục tiêu của quản lý nhà nước về thương mại gắn liền với quá trình kinh
tế xã hội ,các lợi ích cần đạ được từ thương mại trong từng thời kỳ cụ thể
.Mục tiêu quản lý nhà nước về thương mại bị chi phối bởi mục tiêu quản lý
kinh tế xã hội mà Đảng ,Nhà nước đã vạch ra .Mục tiêu bao trùm của quản
lý nhà nước về thương mại là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định ,bền vững
và đảm bảo sự tiến bộ và công bằng xã hội.
Để đạt được mục tiêu ,quản lý nhà nước về thương mại cần phải có quá
trình tổ chức công nghệ và kỹ thuật để vận hành ,phải sử dụng các công
cụ ,phương hướng mục tiêu ,phù hợp với lợi ích mong muốn trong mỗi thời
kỳ.
Quản lý nhà nước về thương mại bao gồm quản lý các chủ thể thương
nhân ,các nhà sản xuất và người tiêu dùng trong và ngoài nước cũng như
hoạt động trao đổi của họ cùng cơ sở hạ tần vật chất kỹ thuật thương mại
.Quản lý nhà nước về thương mại còn bao gồm việc kiểm tra sự chấp hành
chính sách,pháp luật và các định chế khác có liên quan tới lĩnh vực thương
mại .Nó liên quan tới nhiều cấp ,nhiều ngành và đòi hỏi phải có sự phối hợp
trong nước và quốc tế .tiện mang tính liên ngành để điều tiết hoạt động
thương mại theo định
2.Chức năng quản lý nhà nước về thương mại
1.2.1.Chức năng kế hoạch hóa về thương mại
Kế hoạch hóa thương mại là toàn bộ quá trình hoạch định và triển khai thực
hiện chiến lược ,quy hoạch,kế hoạch ,chương trình dự án phát triển thương

mại của quốc gia bao gồm phạm vi cả nước ,của từng địa phương từng vùng
và theo từng ngành hàng ,ngành dịch vụ phù hợp với yêu cầu ,mục tiêu của
tiến trình CNH,HDH đất nước và hội nhập quốc tế.
Nhà nước thực hiện chức năng kế hoạch hóa của mình để định
hướng,hướng dẫn hoạt động thương mại và đầu tư của chủ thể tham gia thị
trường trong nước cũng như thị trường quốc tế .Giúp các doanh nghiệp có sự
lựa chọn và quyết định đúng đắn chiến lược,chính sách và kế hoạch sản xuất
kinh doanh trong từng giai đoạn phát triển.
Các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền tiếp
cận thông tin từ các văn bản kế hoạch hóa như các chiến lược và dự báo phát
triển kinh tế ,thương mại và thị trường.
Để nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về thương mại cần
phải đổi mới nhận thức về kế hoạch hóa ,cải tiến nội dung ,phương pháp và
hoàn thiện bộ máy kế hoạch hóa thương mại ,tăng cường các phương tiện kỹ
thuật và hệ thống công nghệ thông tin quản lý,nâng cao trình độ nguồn nhân
lực công tác chiến lược ,quy hoạch và kế hoạch phát triển thương mại ,nhất
là trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày nay.
1.2.2.Chức năng tổ chức và phối hợp các hoạt động quản lý thương mại
Nhà nước thiết lập các cơ quan và hệ thống tổ chức quản lý,sử dụng bộ
máy quản lý này để hoạch định các chiến lược ,quy hoạch các ,chính
sách,các văn bản pháp quy khác về quản lý thương mại .Đồng thời sử dụng
sức mạnh của bộ máy tổ chức để triển khai thực hiện những công việc thuộc
chức năng quản lý của nhà nước ,nhằm đưa chính sách ,pháp luật vài thực
tiễn kinh doanh của doanh nghiệp,biến chiến lược ,quy hoạch và kế hoạch
phát triển thương mại thành hiện thực.
Hoạt động thương mại rất đa dạng ,diễn ra trên phạm vi cả nước và từng
địa phương ,từng vùng ,ở cả thị trường trong và ngoài nước ,liên quan tới
nhiều bộ ngành .Do vậy ,nhà nước phải phối hợp giữa các cơ quan quản lý
về thương mại ,các cấp trung ương và tỉnh ,giữa các ngành thương mại dịch
vụ với các ngành sản xuất trong nền kinh tế ,giữu chính phủ ,quốc hội ,tòa

án và cơ quan khác .
1.2.3.Chức năng lãnh đạo ,điều khiển các hoạt động thương mại
Nhà nước là người đại diện quyền lợi hợp pháp của mọi chủ thể tham gia
thị trường ,đảm bảo thực thi quyền kinh doanh của các doanh nghiệp,bằng
luật pháp ,khuyến khích cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền.Một
mặt ,nhà nước hướng dẫn ,kích thích doanh nghiệp hoạt động theo định
hướng đã vạch ra.Mặt khác ,nhà nước phải điều tiết thị trường ,can thiệp khi
cần thiết để ổn định kinh tế vĩ mô ,duy trì sức mạnh nền tài chính quốc gia
,giữ vững sức mua của tiền tệ ,đảm bảo lợi ích của người sản xuất và người
tiêu dùng .Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau để điều tiết thị
trường và quan hệ thương mại ,xử lý mâu thuẫn của các quan hệ trao đổi
đó .Những biện pháp khuyễn khích hay hạn chế trong thương mại quốc tế
thường được sử dụng là các chính sách kinh tế như ; thuế ,lãi suất ,giá,tỷ
giá,trợ cấp khác và các công cụ phi thuế.Nhà nước sử dụng hệ thống pháp
luật để ràng buộc quan hệ trao đổi ,buôn bán của các chủ thể kinh doanh trên
thị trường ,không phân biệt đó là nhà kinh doanh trong nước hay nước ngoài
.
1.2.4.Chức năng kiểm soát các quan hệ trao đổi ,các hoạt đông thương
mại.
Nhà nước kiểm soát tất cả các quan hệ trao đổi buôn bán trên thị trường
giữa các bên thông qua bộ máy tổ chức bằng việc sử dụng các phương
pháp ,công cụ khác nhau .Nhà nước kiểm soát trực tiếp hoạt động sản xuất
kinh doanh đối với các doanh nghiệp nhà nước để đảm bảo sử dụng hiệu quả
các nguồn lực ,tài sản quốc gia cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
trong từng thời kỳ.

Phát hiện những lệch lạc nguy cơ chệch hướng hoặc vi phạm pháp luật và
các quy định chính sách của nhà nước như buôn bán hàng cấm ,kinh doanh
các dịch vụ không được cấp phép ,gian lận thương mại buôn lậu ,làm hàng
giả …Từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh thích hợp nhằm tăng cường

hiệu quả quản lý nhà nước về thương mại.Ngoài ra nhà nước cũng phải kiểm
tra đánh giá sức mạnh của hệ thống tổ chức bộ máy quản lý thương mại của
nhà nước các cấp cũng như năng lực của đội ngũ cán bộ công chức trong các
cơ quan quản lý nhà nước về thương mại trong từng giai đoạn để có biện
pháp đổi mới và tăng cường cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội.
3.Vai trò của quản lý nhà nước về thương mại
1.3.1. Định hướng ,hướng dẫn hoạt động của các chủ thể trao đổi
Nhà nước định hướng,hướng dẫn các doanh nghiệp trong các hoạt động
đầu tư cà kinh doanh trên thị trường nội địa và quốc tế ,nhằm khai thác có
hiệu quả tiềm năng của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cho
sự phát triển thương mại.Từ đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ,cải
thiện đời sống dân cư và nâng cao phúc lợi xã hội.
1.3.2.Tạo lập môi trường thương mại và cạnh tranh
Môi trường thương mại và cạnh tranh phụ thuộc rất nhiều vào chính sách
luật pháp và thủ tục hành chính .Các thông tin về kế hoạch hóa thương mại
nếu bị thiên lệnh trong quá trình phổ biến cho các doanh nghiệp ,các quy
định chính sách nếu phân biệt đối xử sẽ bóp méo cạnh tranh ,thủ tục hành
chính rườm rà ,khuân khổ pháp lý nếu không đầy đủ đồng bộ ,nhất quán
,minh bạch sẽ gây trở ngại cho thương mại trên nhiều mặt ,dẫn đến cả tổn
thất về vật chất ,tinh thần, Do vậy,nhà nước có vai trò rất quan trọng trong
việc tạo lập ,cải thiện môi trường kinh doanh ,nhất là trong điều kiện moi
trường kinh doanh luôn có sự vận động ,biến đổi không ngừng.
1.3.3.Hỗ trợ các doanh nghiệp giải quyết các mâu thuẫn,tranh chấp
thương mại
Nhà nước là người tiếp cận ,can thiệp và giải quyết các mâu thuẫn trên thị
trường .Nhà nước mới có khả năng và cần thiết phải giải quyết các mâu
thuẫn giữa các chủ thể kinh doanh với nhau trong mua và bán ,trong nhập
khẩu và xuất khẩu ,mâu thuẫn giữa kinh doanh đúng đắn ,trung thực và kinh
doanh bất hợp pháp ,giữa kinh doanh hàng thật và hàng giả …

Nhà nước dựa vào các chuẩn mực về pháp luật,các định chế cần thiết để
thực hiện và cướng chế việc thi hành luật ,giả quyết tranh chấp thương mại
thông qua hệ thống luật pháp và hệ thống hành pháp .
1.3.4.Điều tiết quan hệ thị trường ,các hoạt động thương mại
Các quan hệ thị trường ,các hoạt động trao đổi tự nó không phải bao giờ
cũng cân đối và hiệu quả .Theo quy luật thị trường ,các chủ thể kinh doanh
luân quan tâm tới việc bố trí nguồn lực đến nơi có điều kiện sản xuất và
thương mại thuận lợi ,bán được giá cao ,tìm kiếm lợi nhận dẫn tới việc phân
bổ nguồn lực mất cân đối giữa các vùng miền .Do vậy,nhà nước phải điều
tiết các quan hệ trao đổi ,các hoạt động thương mại để hạn chế nhược điểm
trên nhằm đảm bảo tính cân đối và để mọi người dân đều được hưởng thành
tựu kinh tế xã hội ,để nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân .
Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ ,biện pháp khác nhau để điều tiết
thị trường và thương mại xử lý đúng đắn mâu thuẫn của các quan hệ trao
đổi.Những biện pháp khuyến khích hay hạn chế thương mại thường được sử
dụng là thuế quan và các biện pháp phi thuế quan .Để điều tiết thị trường
,trong nhiều trường hợp nhà nước phải sử dụng thực lực kinh tế nhà nước để
điều hòa cung cầu ,ổn định giá cả thị trường ,nâng cao sức mua của xã hội .
1.3.5.Giám sát ,kiểm tra thực hiện các mục tiêu phát triển thương mại
Quản lý nhà nước về thương mại bao giờ cũng hướng tới mục tiêu cụ thể
phù hợp với định hướng mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước
trong từng thời kỳ .Do vậy ,thông qua thực hiện các chức năng của quản
lý ,nhà nước sẽ giám sát ,kiểm tra và phát hiện những biểu hiện sai lệch
,những mâu thuẫn bất hợp lý trong quá trình thực hiện mục tiêu để từ đó đưa
ra các giải pháp điều chỉnh sự phát triển cho phù hợp.Các mục tiêu của
thương mại mang tính bền vững bao gồm mục tiêu về kinh tế xã hội ,về môi
trường văn hóa ,trong đó mục tiêu kinh tế không chỉ là số lượng mà còn thể
hiện ở chất lượng của tăng trưởng thương mại .Việc kiểm soát và điều chỉnh
thực hiện mục tiêu phát triển thương mại đòi hỏi phải có sự phối hợp giữu
các cấp và ngành ,giữa trung ương và địa phương ,giữu trong nước và quốc

tế ,nhất là trong lĩnh vực quản lý nhà nước về thương mại dịch vụ ,trong các
vấn đề buôn lậu và gian lận thương mại.
II.Quản lý nhà nước về thương mại đối với mặt hàng
gạo xuất khẩu ở Việt Nam
2.1.Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam Những năm qua (từ 1989
đến nay)
2.1.1.Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam
2.1.1.1 Kim ngạch xuất khẩu gạo qua các năm
Năm 1989, lần đầu tiên kể từ sau khi thống nhất nước nhà (năm
1975), Việt Nam trở lại thị trường xuất khẩu gạo thế giới với số lượng
khá lớn 1,4 triệu tấn. (Trước đó Việt Nam không những không tiếp tục
xuất khẩu được gạo, ngược lại mỗi
năm đều phải nhập thêm gạo và các
lương thực khác, năm cao nhất lên 2 triệu tấn).
Từ đó đến nay xuất khẩu tăng trưởng tương đối đều đặn và liên tục, năm
1995 xuất được 2 triệu tấn, năm
1999

xuấ
t được 4,5 triệu tấn. Bảng 1
thể hiện rõ kim ngạch tăng đều qua các năm từ 1989-2000.
và tăng cường sản xuất trong nước, cộng thêm khủng hoảng dầu
lửa. Các tác động này đã làm giá gạo trên thị trường thế giới bắt đầu giảm
xuống từ đầu năm, Năm 2000, khủng hoảng tài chính trong khu vực làm 2
trong số 5 nước nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới là Indonesia và Phillipin
đã giảm lượng nhập khẩu gạo cho đến cuối năm xuất khẩu gạo của Việt
Nam so với năm 1999 bị giảm đi 15,5% về lượng và 16% về giá, hạ kim
ngạch xuất khẩu gạo năm 2000 xuống còn 668 triệu USD, mức thấp nhất
trong vòng 5 năm trở lại đây. Trước năm 1999, gạo luôn là một trong năm
mặt hàng đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, góp phần cải thiện cán

cân thanh toán quốc tế của Việt Nam.
Trong sáu tháng đầu năm 2001, lượng gạo xuất khẩu đạt 2,18
triệu tấn, với mức kim ngạch 314 triệu USD, tăng 34,5% về số lượng và
6,3% về giá so với cùng kỳ năm trước. Cả năm 2001, xuất khẩu đạt trên
3,6 triệu tấn, trị giá trên 600 triệu USD, tăng khoảng 5% về lượng so với
năm 2000. Cả năm 2002, cả nước xuất khẩu trên
3,2
triệu tấn gạo, trị giá
608 triệu USD. Năm 2003 lượng gạo xuất khẩu dự kiến sẽ ở mức 3,4 - 3,5
triệu tấn. Theo nguồn tin từ bộ Thương mại, tình hình xuất khẩu của Việt
Nam hiện nay đang có chiều hướng thuận lợi.
Ngoài ra, chưa kể lượng gạo xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới
Tây Nam sang Lào và
Campodia,

nhưng
nhiều nhất qua biên giới phía
Bắc sang Trung Quốc. Từ năm 1989 - 000, số gạo buôn bán tiểu ngạch
ước tính trên 2,5 triệu tấn với giá trị khoảng trên 500 triệu USD.
Thị phần xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 1998 chiếm gần 18,8%
tổng xuất khẩu gạo thế giới - đứng thứ hai thế giới, sau Thái Lan. Hiện
nay thị phần gạo của Việt Nam là 18,44% so với Thái Lan là 22,2%. Về
tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, gạo chiếm trung
bình 11 - 12%, đứng vị trí thứ hai, sau dầu thô.
Bảng1- sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam giai
đoạn 1989-2000
Năm Sản lượng xuất khẩu
(triệu tấn)
Kim ngạch xuất khẩu
(triệu USD)

1989 1,425 321,811
1990 1.624 310,403
1991 1,035 243,941
1992 1,946 418,400
1993 1,728 360,900
1994 1,983 449,500
1995 1,988 546,800
1996 3,040 868,270
1997 3,575 899,025
1998 3,730 1024,752
1999 4,550 1035,090
2000 3,476 667,000
Nguồn: - TS. Nguyễn Trung Vãn: Lúa gạo Việt Nam trước thiên niên kỷ mới,
Hướng xuất khẩu NXB Chính Trị Quốc Gia Hà Nội 2001, tr.179.
Như vậy, Việt Nam từ một nước nông nghiệp thiếu đói phải nhập
khẩu gạo triền miên, đột biến trở thành nước xuất khẩu thứ ba thế giới, sau
Thái Lan và Mỹ và từ năm 1997 đứng thứ hai thế giới, sau Thái Lan.
Trong
14

năm
(1989 - 2002), xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 37 triệu tấn,
với kim ngạch 8 tỷ USD.
Những kết quả khả quan này là do có nhiều thuận lợi như tự do
mậu dịch gia tăng, các rào cản kỹ thuật trong buôn bán từng bước được
dỡ bỏ, nhu cầu gạo tăng lên và có sự tham gia tích cực và có hiệu quả
của nhiều thành phần kinh tế trong hoạt động xuất khẩu. Đặc biệt, vai trò
của Chính phủ trong việc mạnh dạn mở rộng thị trường cho mặt hàng
gạo. Kết quả là nhiều thoả thuận cấp chính phủ về xuất khẩu gạo đã
được ký kết, riêng năm 2001 đã vượt con số 1 triệu tấn, chiếm 30%

tổng lượng xuất khẩu.
2.1.1.2. Số lượng, chất lượng và cơ cấu sản phẩm gạo xuất khẩu
Trong mậu dịch gạo quốc tế, cũng giống những mặt hàng khác,
chất lượng gạo gắn liền với hiệu quả xuất khẩu và cũng là công cụ cạnh
tranh hàng đầu hiện nay, đặc biệt khi xuất khẩu sang các nước phát triển
và các nước NIC. Vì trên thế giới ngày càng bộc lộ rõ xu hướng tăng lên
về loại gạo có phẩm chất cao. Điều này thể hiện lượng tiêu thụ và giá cả
của gạo phẩm chất tốt ngày càng tăng trong khi nhu cầu về loại gạo phẩm
cấp thấp ngày càng giảm.
Để đánh giá chất lượng gạo, người ta căn cứ vào các tiêu thức khác
nhau như hình dáng, kích cỡ hạt gạo, độ bóng, độ đồng đều, mùi vị, màu
sắc, thuỷ phần, tỷ lệ tấm, tỷ lệ tạp chất. Hay gạo phải thơm, dẻo, giá trị
dinh dưỡng cao, ưa nhìn và “sạch” - yêu cầu vệ sinh dịch tễ. Bảng 5
dưới đây cho thấy rõ tình hình chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam
trong những năm qua (xét theo tiêu thức tỷ lệ tấm).
Bảng 2– Chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam những năm qua
(đơn vi: %)
Năm Loại gạo
5% tấm
Loại gạo
10% tấm
Loại gạo
15% tấm
Loại gạo
20% tấm
Loại gạo
25% tấm
Loại gạo
35-40% tấm
1989 0,3 - - 2,3 5,0 92,4

1990 3,3 13,1 5,9 2,0 20,2 55,5
1991 6,0 30,0 3,0 8,0 26,4 26,6
1992 18,5 20,8 13,0 1,2 15,4 31,1
1993 25,7 25,6 13,3 8,2 14,7 12,5
1994 42,3 23,6 4,1 8,5 6,7 14,8
1995 30,6 22,3 13,8 11,6 16,5 5,2
1996 30,6 17,7 5,5 6,2 21,7 18,3
1997 27,4 16,2 7,1 1,2 35,9 12,2
1998 26,9 26,2 13,9 0,4 30,8 1,8
Nguồn: - TS. Nguyễn Trung Vãn: Lúa gạo Việt Nam trước thiên niên kỷ mới
Hướng xuất khẩu, NXB Chính Trị Quốc Gia Hà Nội 2001, tr.187.
Xét theo tỷ lệ tấm, chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam nói
chung tăng rõ rệt. Năm 1989, loại gạo 5% tấm gần như không có, chỉ
chiếm 0,3% (chủ yếu loại gạo 35% tấm), đến năm 1994 đã chiếm tới
42,3% t
ổng
l
ượng
gạo xuất khẩu của cả nước. Cả hai loại gạo tốt (tỷ lệ 5
và 10% tấm) chiếm 0,3% tổng sản lượng gạo
xuấ
t
khẩu
năm 1989 đã lên
tới 65,9% năm 1994. Ngược lại, cấp loại gạo xấu (tỷ lệ tấm
35 và 45%) năm 1989 chiếm 92,4% đã giảm xuống 5,2% năm 1995 và
1,8% năm
1998 của tổng lượng gạo xuất khẩu. Tuy nhiên, đó chỉ là tiến bộ trong
cải thiện độ gẫy của gạo. Gạo 5% tấm của Thái Lan hơn hẳn của ta về
mùi vị, hình dáng, kích thước và tỷ lệ thuỷ phần.

Tuy nhiên, cùng với những tiến bộ chung đó, chất lượng gạo theo
tỷ lệ tấm của nước ta cũng
còn

những
điều bất cập. Nổi bật nhất là cấp
loại gạo tốt, tỷ lệ 5% tấm có xu hướng tụt lùi rõ rệt từ năm 1995 đến nay,
từ chỗ chiếm 42,3% xuống còn 26,9% năm 1998 của tổng lượng gạo xuất
khẩu. Tương tự, cấp loại gạo tốt 10% tấm cũng suy giảm gần như vậy, trừ
năm 1998. Những năm 1995 và 1996, giá gạo tăng mạnh, nhiều nước
nghèo giảm hẳn nhu cầu loại gạo tốt và tăng mua cấp loại gạo trung
bình (20 - 25% tấm). Nên tỷ trọng gạo tốt trong xuất khẩu của nước ta
chưa nhiều là chiến lược chưa hợp lý. Cuối năm 1994, Việt Nam bước đầu
sản xuất được gạo cao cấp, điển hình cấp loại cao 5% tấm, gần tương
đương với gạo Thái Lan cùng cấp.
Ngoài tỷ lệ tấm, gạo xuất khẩu của Việt Nam những năm qua đã
có những tiến bộ nhiều về các tiêu thức như tỷ lệ hạt hẩm, hạt đỏ và sọc
đỏ, hạt bạc bụng, hạt thóc lẫn, tập chất, thuỷ phần...Hình dáng, kích cỡ,
mùi
vị
t

nhiên của gạo xuất khẩu cũng có sự cải thiện. Những tiến bộ này
chỉ mang tính tương đối, nghĩa là chỉ so với
thờ
i
kỳ
đầu xuất khẩu của ta.
Nếu so với chất lượng của các nước xuất khẩu nhiều như Mỹ, Thái Lan,
Pakixtan thì chất lượng của gạo Việt Nam còn thua kém nhiều ở

hầu hết
các khâu: canh tác, thu hoạch, bảo quản, đặc biệt công nghệ xay xát.
Trong những năm qua cơ cấu sản phẩm gạo xuất khẩu của Việt
Nam vẫn chủ yếu loại gạo cấp thấp và trung bình, trong khi loại gạo cấp
cao chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Tỷ trọng gạo tốt trong tổng xuất khẩu của ta
vãn chưa tăng mạnh. Trong chiến lược lâu dài, Việt Nam cần chú trọng
chất lượng hơn nữa để có điều kiện thâm nhập những thị trường khó tính,
và sự đa dạng hoá chủng loại gạo xuất khẩu nhằm nâng cao hiệu quả kinh
doanh và năng lực cạnh tranh xuất khẩu gạo.
2.1.1.3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam
Ngay từ năm 1989, thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn
là châu Á (chiếm 50% tổng
xuấ
t
khẩu),
và châu Phi (chiếm 49%), châu Mỹ
chỉ chiếm 0,9% và châu Âu chiếm 0,01%. Hiện nay gạo xuất khẩu của
Việt Nam chiếm 14,3% thị trường châu Á, 17,5% thị trường châu Phi,
16,03% thị trường Mỹ Latinh và Caribê. Mặc dù đến nay gạo Việt Nam
có mặt trên 80 quốc gia thuộc các châu lục khác nhau, nhưng phần gạo
xuất khẩu qua khâu trung gian vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Trong đó Pháp
chiếm 30-40%, Hồng Kông chiếm 10 - 15%, Thái Lan 9%, Malaixia 10%,
Indonesia 3 - 4% (riêng năm 1990 chiếm 32%) tổng lượng gạo xuất khẩu.
Hoặc xuất sang Singapore để tái xuất vì không tìm được thị trường trực
tiếp.
Thực tế Việt Nam chưa xây dựng được hệ thống bạn hàng trực
tiếp tin cậy, doanh thu xuất khẩu giảm do phải chi khoản hoa hồng môi
giới. Để tăng cường xuất khẩu gạo trực tiếp được nhanh chóng, cùng với
sự chủ động của bản thân doanh nghiệp trong việc tìm kiếm bạn hàng,
Nhà nước cần hỗ trợ hoạt động xúc tiến

thương mại, mở rộng quan hệ
cấp Chính phủ xung quanh việc buôn bán gạo.
Thị trường thường xuyên quan hệ của Việt Nam từ năm 1989 đến
nay là một số nước điển hình sau:
Malaixia là nước thường xuyên thiếu lương thực, hàng năm có
lượng nhập khẩu khá đều đặn. Kể từ năm 1990, Malaixia bắt đầu nhập
khẩu gạo của Việt Nam, trung bình 150.000 tấn/năm. Năm 1994, do bị lũ
lụt, chúng ta không đáp ứng được nhu cầu của bạn nên đã mất thị trường
này. Đến năm 1996, với sự nỗ lực về thị trường và ngoại giao, chúng ta
mới nối lại được quan hệ buôn bán gạo với thị trường
này.
Philippin năm 1990 nhập khẩu của Việt Nam 150.000 tấn, năm
1994 - 1995 nhập 500.000 tấn loại 25 - 30% tấm. Tuy lượng nhập khẩu
chưa đều đặn như Malaixia, nhưng nước này cũng là khách hàng
truyền
thống
quan trọng cần được củng cố.
Indonesia, cũng giống như Philippin, là thị trường truyền thống của
ta, lượng nhập không đều đặn. Năm 1989, Việt Nam xuất khẩu sang nước
này khoảng 90 tấn; năm 1994 là 100.000 tấn (do lũ lụt, nên đã không giao
đủ đúng trong hợp đồng). Từ năm 1997 đến nay, Indonesia trở thành thị
trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam.
Ngoài ra, thị trường Trung Đông, đặc biệt Iran và Iraq, là bạn
hàng quen thuộc, có quan hệ tốt với ta t

lâu và không khó tính lắm.
Ngay từ năm 1990, Việt Nam đã xuất 120.000 tấn, loại gạo 10% tấm,
sang Iran. Năm 1996, Việt Nam tiếp tục ký hiệp định bán 300.000 tấn
gạo cho Iran. Năm 1995, Irắc nhập khoảng 100.000 tấn gạo từ Việt
Nam. Riêng tháng 1/2002, Việt Nam đã xuất sang Iraq 500 ngàn tấn gạo.

Tuy nhiên, ở đây gặp phải sự cạnh tranh rất lớn do nhiều nước xuất khẩu
tập trung vào khu vực này, đặc biệt Thái Lan. Nên năm 1992 nước ta
xuất sang Trung Đông 204.750 tấn gạo, đến năm 1995 con số này lại giảm
xuống 92.250 tấn.
Kế đến là thị trường châu Mỹ với khối lượng chỉ khoảng 338.250
tấn năm 2000
trong đó Nam Mỹ chiếm khoảng 154.000 tấn. Hoa Kỳ cũng
là thị trường xuất
khẩu gạo của ta. Từ năm 1993, nước này nhập khoảng
90.000 tấn gạo phẩm chất cao của Việt Nam. Năm 1996, Mỹ tiếp tục nhập
khẩu của Việt Nam khoảng 45.000 tấn.
2.1.1.4. Giá cả và năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu gạo của Việt
Nam
Thực tế, trong những năm qua chất lượng gạo của Việt Nam còn
thấp hơn rõ nét so với chất lượng
gạo
c

a các nước xuất khẩu lớn như
Thái Lan, Mỹ, Pakixtan đặc biệt những năm đầu xuất khẩu gạo. Chất
lượng thua kém là lí do cơ bản nhất quyết định giá gạo xuất khẩu của
Việt Nam thấp hơn giá gạo quốc tế. Qui cách chất lượng sản phẩm còn
thấp và không đồng đều. Những hạn chế về chất lượng, cơ cấu chủng loại
có ảnh hưởng rất lớn đến giá gạo xuất khẩu. Nếu tỷ trọng gạo phẩm cấp
cao càng lớn thì mức giá gạo bình quân năm càng cao và ngược lại. Chẳng
hạn, giai đoạn 1997 – 1998, đồng Bath mất giá nghiêm trọng (hơn 40%)
do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, Thái Lan đã hạ giá gạo
ngang với giá gạo Việt Nam, thậm chí có lúc rẻ hơn 5 - 10 USD/tấn để
tăng sức cạnh tranh. Nhưng, nếu tính giá gạo bình quân năm của ta vẫn
thấp hơn của Thái Lan vì gạo xuất khẩu phẩm cấp cao của Thái Lan chiếm

tỷ trọng lớn hơn của Việt Nam.
Ngoài chất lượng, mức chênh lệch giữa giá gạo quốc tế và giá gạo xuất
khẩu của Việt Nam còn
do

những
nguyên nhân khác. Cụ thể, Việt Nam
chưa có được hệ thống bạn hàng tin cậy, ổn định nhiều năm như Thái Lan.
Khả năng hạn chế của các doanh
nghiệp Việt Nam về marketing trong
việc tiếp cận thông tin, nắm bắt thị
trường, cũng như trong khâu giao
dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng. Trên thực tế, có những hợp đồng xuất
khẩu gạo của Việt Nam vi phạm thời hạn giao hàng, hoặc khâu bốc
xếp.....Hệ quả là mức chênh lệch giá trong năm 1989, năm đầu Việt Nam
xuất khẩu gạo, thường rất lớn từ 70 - 80 USD/tấn. Bảng 6 dưới đây sẽ
nói rõ tình
hình giá cả gạo xuất khẩu Việt Nam trong những năm qua so
với giá gạo quốc tế.
Bảng 3- Giá gạo xuất khẩu gạo Việt Nam so với giá gạo quốc tế
thời gian qua
(đơn vị: USD/tấn)
Giá gạo quốc tế
(FOB-Bnagkok
loai 5% tấm)
Giá gạo XK
trung bình của
Việt nam
Giá gạo XK của
Việt nam theo giá

gạo 5% tấm
Chênh lệch
giá giữa (2)
và (4)
(1) (2) (3) (4) (5)
1989 311 226 236 75
1990 275 191 212 63
1991 298 227 242 56
1992 275 2174 228 47
1993 247 211 209 38
1994 285 230 250 35
1995 332 250 301 31
1996 348 285 321 27
1997 312 247 288 24
1998 312 273 290 21
1999 250 227 230 20
2000 204 188 190 14
Nguồn: - TS. Nguyễn Trung Vãn: Lúa gạo Việt Nam trước thiên niên kỷ mới -
Hướng xuất khẩu,
NXB

Chính
Trị Quốc Gia Hà Nội 2001, tr.199.
Bảng trên phản ánh tổng hợp giá gạo quốc tế và giá gạo Việt Nam, cụ thể:
- Cột 2: Nói rõ giá gạo quốc tế, tức giá gạo xuất khẩu theo điều
kiện FOB tại cảng Bangkok, thường đối với loại gạo 5% tấm.
- Cột 3: Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tính giá trung bình của
tổng lượng xuất khẩu mỗi năm.
- Cột 4: Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam quy theo giá cấp loại 5%
tấm.

Từ đó có thể xác định được mức chênh lệch giữa giá gạo quốc tế
và giá gạo xuất khẩu Việt Nam
cùng
c
ấp
loại 5% tấm. Quá trình thu hẹp
mức chênh lệch giá từ 75 USD/tấn năm 1989 xuống còn 21 USD/tấn năm
1998 cũng là quá trình cố gắng của Việt Nam ở các khâu sản xuất, thu
hoạch, chế biến, bảo quản, chuyên chở, cảng khẩu, cũng như nghiệp vụ
thương mại quốc tế, trong đó chất lượng là yếu tố cơ bản nhất mà Việt
Nam cần phấn đấu nhiều hơn nữa trong thời gian tới.
2.1.2. Thực trạng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của Việt Nam
trong xuất khẩu gạo
Cùng với những kết quả khả quan đã đạt được, chúng ta cũng còn
nhiều việc chưa làm được, trong
đó

phả
i kể đến những vấn đề sau:
Thứ nhất, số lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo
Bước đầu chúng ta đạt được mục tiêu về số lượng gạo để vừa
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia vừa phục vụ cho xuất khẩu. Đồng
thời, kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam so với Thái Lan có xu
hướng tăng từ dưới 30% (trước năm
1998) lên 44% (năm 1998). Điều đó cho thấy, thời gian qua, sức cạnh
tranh của gạo Việt Nam có được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, tốc độ kim
ngạch tăng nhỏ hơn tốc độ của sản lượng xuất khẩu (17,1% so với
20,2%). Trong khi tốc độ tăng sản lượng của các đối thủ thấp hơn, nhưng
tốc độ tăng kim ngạch lại cao hơn Việt Nam. Chẳng hạn, sản lượng gạo
xuất khẩu của Thái Lan chỉ gấp 1,67 lần của Việt Nam thì kim ngạch

xuất khẩu lại gấp 2,27 lần.
Thứ hai, chất lượng gạo xuất khẩu
So với thời kỳ đầu xuất khẩu thì chất lượng gạo Việt Nam có được
cải thiện đáng kể. Cụ thể, tăng
đượ
c t

trọng gạo cấp cao trong tổng số
gạo xuất khẩu; song cơ cấu chủng loại còn chưa đa dạng; chất lượng chưa
đáp ứng được đầy đủ ở các thị trường cấp cao. Nên thị phần ở đây còn
khiêm tốn, do đó giá bán luôn thấp hơn giá của các đối thủ cạnh tranh, gây
thua thiệt cho hoạt động xuất khẩu.
Thứ ba, giá gạo xuất khẩu
Những năm gần đây giá gạo xuất khẩu Việt Nam có tăng lên, nhưng
vẫn thấp hơn giá của các đối thủ cạnh tranh và thấp hơn nhiều của thế giới
Thứ tư, thị phần và thị trường xuất khẩu
Từ năm 1991 đến năm 1998 thị phần gạo được mở rộng hơn 10%.
Đến nay con số đó là 18,44% so với Thái Lan là 22,2%. Như vậy, thị
phần gạo tăng lên thì cùng với quy mô thị trường xuất khẩu được mở
rộng.
Tuy

nhiên,
dù số lượng thị trường xuất khẩu có nhiều hơn, nhưng
các thị trường nhập khẩu quy mô lớn và ổn định thì lại ít. Xuất khẩu vẫn
mang tính manh mún, nhỏ lẻ, từng chuyến. Đến nay, các doanh nghiệp
vẫn chưa ký kết được nhiều những hợp đồng xuất khẩu trực tiếp, phần
lớn đều xuất khẩu qua trung gian. Ngoài ra, mức độ thâm nhập vào thị
trường “chính ngạch” của gạo Việt Nam rất thấp. Đây là thị trường nhập
khẩu chủ yếu và đòi hỏi tiêu

chuẩn

chấ
t lượng cao như gạo đặc sản.
2.2Các chính sách xuất nhập khẩu
2.2.1 Các chính sách hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước (quy hoạch, đầu
tư...)
Tuy chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, không còn bao cấp
của Nhà nước, nhưng vai trò của Nhà nước trong việc điều hành nền kinh
tế ở tầm vĩ mô lại càng cần thiết hơn. Bởi nếu để nền kinh tế vận hành
t
heo

quy
luật cung-cầu dễ dẫn đến sự mất cân đối lớn trong nền kinh tế
nói chung và trong hoạt động xuất khẩu gạo nói riêng. Chúng ta đều biết
không phải lúc nào quan hệ cung cầu cũng vận hành theo quy luật thực tế
của thị trường, đôi khi nó lại tác động xấu đến nền kinh tế. Lúc này cần
có tác động kịp thời của con người, cụ thể Nhà nước, vào nền kinh tế
nhằm mục đích hướng nó có lợi cho nền kinh tế.
Trong những năm gần đây xảy ra tình trạng mất cân đối trong sản
xuất và xuất khẩu lúa gạo. Nguyên nhân do thiếu sự chỉ dẫn, và quy
hoạch cụ thể từ Trung ương đến địa phương, cứ mạnh ai nấy làm. Lúc
này Nhà nước cần có những quy hoạch tổng thể để hướng dẫn nông dân
căn cứ vào điều kiện về đất đai, khí hậu, và thời vụ nên phát triển giống
cây nào là phù hợp nhằm phát huy tối đa lợi thế của từng vùng. Chẳng
hạn, đối với các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hải Dương nên phát triển
giống lúa thơm đặc sản, giảm giống lúa đại trà, trong khi các vùng
khác lại phát triển những giống lúa lai đại trà sẽ cho năng suất và chất
lượng cao hơn. Bằng cách này, chúng ta sẽ nâng dần tỷ trọng xuất khẩu

loại gạo thơm đặc sản, mà vẫn không giảm những chủng loại gạo khác,
đa dạng hoá xuất khẩu gạo hiện nay.
Ngoài ra, cứ sắp đến vụ sản xuất mới hay vào dịp cuối năm, người
nông dân đa số cần tiền để
mua

sắm,
lúc này số lượng lúa gạo bán ra rất
lớn, dẫn đến cung vượt cầu. Đây là cơ hội tốt để bọn tư thương chèn
ép
giá
người nông dân càng nhiều càng tốt, gây thiệt hại lớn cho họ - những
người một nắng hai sương làm ra hạt
thóc để
rồi bị tư thương bắt chẹn mà
không biết kêu ai. Trong trường hợp này, Nhà nước có thể bỏ tiền ra để
mua tạm trữ cho xuất khẩu khi giá cả tăng lên nhằm ổn định giá
cả tránh
thua lỗ quá lớn cho người nông dân. Hoặc cho người nông dân vay vốn
với
. Thực t
ế

cho
thấy nếu Nhà nước càng đầu tư lớn vào lĩnh vực này thì
hiệu quả xuất khẩu càng cao. Vì với sự cải tiến giống mới sẽ cho năng
suất cao, phòng chống sâu bệnh, tăng chất lượng gạo xuất khẩu. Ví dụ, giai
đoạn 1991 - 1995, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã công nhận
44 giống mới và cho áp dụng vào canh tác trên diện tích 440.000 ha. Do
năng suất tăng tối thiểu 0,50 tạ/ha, nên tổng sản lượng tăng là 220.000

tấn, với giá thóc 1.500 đồng/kg, giá trị do sản lượng lúa mang lại là 1,5
triệu x 220.000 = 330.000 triệu đồng trong khi kinh phí đầu tư cho
chương trình tạo giống lúa hàng năm chỉ khoảng 1 tỷ đồng.
Hơn nữa, Nhà nước có thể đầu tư đồng bộ từ khâu sản xuất - thu
hoạch - chế biến - vận chuyển – bảo quản, vừa nâng cao chất lượng gạo
vừa tránh tình trạng “tổn thất trong nhà” như hiện nay, tăng về lãi suất thấp
để họ kịp tiến hành sản xuất vụ mới. Như vậy, cả người nông dân cũng có
lợi và Nhà nước cũng góp phần nâng cao đời sống của người dân, giúp
xoá đói giảm nghèo.
Hoặc sự quan tâm đầu tư của Nhà nước vào khoa học kỹ thuật, đặc
biệt khâu lai tạo giống mớimặt sản lượng. Theo kết quả điều tra của Viện
Công nghệ sau thu hoạch và Tổng cục Thống kê, tỷ lệ tổn thất bình
quân sau thu hoạch lúa của Việt Nam như sau:
- Khâu thu hoạch: 1,2 - 1,7%
- Khâu vận chuyển: 1,2 - 1,5%
- Khâu đập (tuốt): 1,4 – 1,8%
- Khâu phơi (sấy): 1,9 – 21,%
- Khâu bảo quản: 3,2 –3,9%
- Khâu xay xát chế biến: 4,1 – 5,0%
- Tổng số: 13,0 – 16,0%
Mức tổn thất trong 3 khâu phơi, bảo quản, và xay xát chế biến chiếm 68
– 70%, trong khi ở các nước tiên tiến chỉ chiếm 3,9 – 5,6%. Như vậy, khi
giảm được 30% tổn thất sau thu hoạch, chúng ta có thể tận thu thêm được
một lượng thóc đáng kể, lên tới 850.000 tấn và tương đương với 135.000
ha canh tác lúa.
Đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng như cảng biển, hệ thống thông
tin...phục vụ hoạt động xuất khẩu nhằm giảm chi phí vận chuyển, chi phí
lưu thông gạo, góp phần hạ giá thành xuất khẩu. Về cảng xuất khẩu
yêu
c

ầu
cơ bản là phải có cảng chuyên dùng cho hoạt động xuất khẩu gạo với
trang thiết bị hiện đại, có thể bốc xếp cả hàng rời và hàng đóng bao, năng
lực bốc dỡ cao (từ 2000 tấn/ngày trở lên); khả năng tiếp nhận tàu lớn (tải
trọng từ 20.000 – 30.000 tấn); và phải có hệ thống trung chuyển quy mô
lớn, kỹ thuật bảo quản hiện đại và đóng gói ngay tại kho cảng trước khi
giao hàng lên tàu. Trên thực tế, chúng ta chưa có cảng chuyên dùng xuất
khẩu
gạo.
Các năm qua, phần lớn gạo xuất khẩu (khoảng 80%) đều thông qua
cảng Sài Gòn, một cảng xuất nhập hàng hoá tổng hợp, có năng lực thông
quan hàng hoá hiện nay của cảng hơn 7,3 triệu tấn/năm. Trong đó riêng
mặt hàng gạo xuất khẩu chiếm hơn 30%. Tuy nhiên, năng suất bốc xếp
gạo của cảng chỉ đạt bình quân 800 – 1000 tấn/ngày. Trong vòng 3 năm
lại đây, Ngành Giao thông Vận tải cũng đã cố gắng rất nhiều để đưa thêm
cảng Cần Thơ vào hoạt động xuất khẩu gạo, nhưng khả năng của cảng Cần
Thơ chỉ tiếp nhận an toàn các tàu tải trọng từ 3000 – 5000 tấn (đối với tàu
cỡ 10.000 tấn cập cảng không an toàn). Điều này chưa phù hợp với tính
hiệu quả trong vận tải hàng hải, nên cảng này mới đang trong giai đoạn
thử nghiệm. Dự kiến trong vòng 10 - 20 năm tới, cảng Sài Gòn vẫn giữ vị
trí quan trọng hàng đầu.
Do vậy nếu giải quyết tốt các hoạt động phụ trợ nêu trên sẽ góp
phần nâng cao đáng kể giá bán sản phẩm. Qua đó nâng cao hiệu quả và
thu nhập ngoại tệ trong kinh doanh xuất khẩu gạo.
2. 2. 2. Các chính sách nhập khẩu của các nước nhập khẩu
Trong số các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu sản
phẩm gạo của Việt Nam trong thời gian tới không thể không kể đến các
chính sách nhập khẩu của những nước nhập khẩu gạo bởi chỉ một sự thay
đổi nhỏ về chính sách nhập khẩu của họ lập tức tác động tới thị trường
gạo thế giới như quan hệ cung cầu, giá

cả...Chẳng hạn, năm 1999 bốn
nước nhập khẩu gạo hàng đầu thế giới là Indonesia,
philippin, Bangladesh
và Brazil có chính sách giảm nhập khẩu gạo trong năm. Điều này đã ảnh
hưởng chung đến thị trường gạo thế giới, cụ thể giá gạo giảm, khối
lượng gạo giao dịch thế giới cũng giảm (từ 27,3 triệu tấn năm 1998 xuống
25,1 triệu tấn năm 1999), và đương nhiên cũng tác động không nhỏ đến
tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam (kim ngạch xuất khẩu năm 1999 so
với năm 1998 chỉ tăng 1,01% trong khi năm 1998 so với năm 1997 là
13,98%). Dưới đây sẽ đề cập đến chính sách nhập khẩu của một số nước
chủ yếu trong thời gian tới.
Các nước phát triển cam kết sẽ giảm thuế trung bình 36%, mức giảm tối
thiểu với mỗi dòng thuế không ít hơn 15% và thực hiện trong 6 năm
(1995 – 2000). Các nước đang phát triển cam kết sẽ giảm thuế trung bình
24%, mức giảm tối thiểu với mỗi dòng thuế không ít hơn 10% và thực
hiện trong 10 năm (1995 – 2004). Một vài nước
như
Nhật Bản, Hàn
Quốc, Philippin, và Ixaren có vấn đề an ninh lương thực đặc biệt nhạy
cảm được áp dụng
ngoạ
i l
ệ,
đặc biệt khi thuế hoá các biện pháp phi thuế
quan, ngược lại họ có nghĩa vụ đẩy mạnh mức độ mở cửa thị trường cho
hàng nông sản nhập khẩu. Các nước cũng cam kết giữ mức mở cửa thị
trường tối thiểu không
thấp
hơn trung bình của thời kỳ 1986 – 1990 và
không đưa ra thêm hàng rào phi thuế quan.

Thuế quan cắt giảm trung bình cho tất cả sản phẩm nông nghiệp là
24% và tối thiểu cho từng sản phẩm là 10% ở nước đang phát triển (chủ
yếu là các thành viên trong WTO) trong vòng 10 năm tới (1995 – 2004).
Trung Quốc là nước rất đáng được nói đến vì Trung Quốc vừa là
nước xuất vừa là nước nhập khẩu gạo. Đặc biệt sau khi Trung Quốc trở
thành thành viên chính thức của WTO thì trong chính sách nhập khẩu cũng
có những sự thay đổi.
Về gạo, năm 2002 Trung Quốc nhập khẩu 1,1 triệu tấn gạo. Đây là
một phần trong cam kết mở cửa nhập khẩu 4 triệu tấn gạo với thuế suất
1% của Trung Quốc trước khi gia nhập WTO. Hạn ngạch thuế quan bắt
đầu là 2,6 triệu tấn và năm 2005
tăng lên 5,3 triệu tấn và bỏ vào năm
2006. Một nửa dành cho hạt ngắn và vừa - loại
gạo Hoa Kỳ có khả năng
cạnh tranh nhất. Trung Quốc cam kết trước tiên dành 50% cho khu vực tư
nhân.
Trung Quốc cam kết sẽ loại bỏ và không đưa ra, không đưa lại,
không áp dụng các biện pháp phi thuế quan khác với những biện pháp
thông thường. Trung Quốc cũng cam kết chỉ áp dụng những biện pháp
phi thuế quan ở mức quốc gia và địa phương do chính quyền Trung ương
cho phép mới được áp dụng.... Hạn ngạch sẽ tăng từ mức thương mại
hiện thời với tốc độ 15% một năm để đảm bảo mức tiếp cận thị trường
được tăng dần và ảnh hưởng của các biện pháp hạn chế số lượng sẽ giảm
dần. Hạn ngạch đối với gạo, lúa mỳ và ngô...sẽ được loại bỏ vào năm
2006.

×