Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Báo cáo: Tìm hiểu bao bì trong công nghệ sản xuất bia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.91 MB, 50 trang )

CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

BỘ CÔNG THƯƠNG

ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP. HCM
KHOA CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM

BÁO CÁO TIỂU LUẬN
MÔN: CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC 
PHẨM
Đề Tài: TÌM HIỂU BAO BÌ TRONG CÔNG NGHỆ 
SẢN XUẤT BIA

GVHD: Th.S Đặng Thị Yến
SVTH:
  NGUYỄN VĂN SÁU

2005110432

ĐẶNG NĂNG TÀI 

2005110457

ĐẶNG THỊ HUỲNH TRÂM

2005110576

NGUYỄN ĐOÀN TỨ

2005110569


LÊ THỊ BẢO TRANG

2005110597

LỚP: 02DHTP3
Nhóm: 9
1


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN
Buổi học: Chiều thứ 5, tiết 7,8 phòng b205
TP. Hồ Chí Minh, Tháng 12 năm 2014

2


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

LỜI MỞ ĐẦU
Thực phẩm là nhu cầu cần thiết cho sự sống và phát triển của loài người. Thời kì  
sơ khai, thực phẩm đơn giản cả về pương pháp chế biến và bảo quản. Khi khoa hc5  
kĩ thuật phát triển nhanh chóng thì việc chế  biến lương thực, thực phẩm cũng tiến  
những bước khá nhanh, cách xa so với trình độ  chế  biến cổ  xưa. Cho đến khi xuất 
hiện sự bổ sung những kĩ thuật chế biến ổn định sản phẩm trong thời gian lưu trữ thì  
một ngành công nghiệp mới ra đời – công nghiệp thực phẩm.
Những thành tựu mới nhất của các ngành khoa học đã được con người áp dụng vào  
sản xuất và chế biến lượng thực, thực phẩm. Hầu hết các loại thực phẩm đều bị ảnh 
hưởng bởi các yếu tố bên ngoài như  nước, đất, bụi, oxi, vi sinh vật,… Vì vậy chúng  
phải được chứa đựng trong bao bì kín.
Theo xu hướng đi lên của xã hội, con người ngày càng có nhu cầu cao hơn về giá 

trị cảm quan và đòi hỏi về tính thẩm mĩ. Do đó, mẫu mã bao bì cũng dần trở thành yếu  
tố quan trọng trong cạnh tranh.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó bao bì ra đời không chỉ với chức năng đơn thuần 
là bao gói và bảo vệ sản phẩm mà đã trở thành công cụ  chiến lược trong việc quảng  
bá sản phẩm và gây dựng một thương hiệu.
Với sự phát triển mạnh mẽ của ngành cơ khí, chất dẻo, công nghệ vật liệu,.. bbao 
bì kim loại ra đời. Với  ưu thế  vượt bậc về  thời gian bào quản, trong thời gian ngắn  
bao bì kim loại đã tạo nên bước đột phá cho công nghệ bảo quản thực phẩm.
Tại sao bao bì kim loại có thể làm được điều đó? Câu trả  lời sẽ  có trong bài tiểu  
luận này.

3


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ BIA
1.1. Khái niệm
Bia là một loại nước uống chứa cồn được sản 
xuất bằng quá trình lên men của đường lơ  lững 
trong môi trường lỏng và nó không được chưng 
cất sau khi lên men. Nói một cách khác, bia là loại 
nước giải khát có độ cồn thấp, bọt mịn xốp và có  
hương vị  đặc trưng của hoa houblon. Đặc biệt 
CO2  hòa   tan   trong   bia   có   tác   dụng   giải   nhiệt 
nhanh, hỗ trợ cho quá trình tiêu hóa, ngoài ra trong bia còn chứa một lượng vitamin  
kha phong phú (chủ yếu là vitamin nhóm B như B1, B2, PP...). Nhờ những ưu điểm 
này,  bia được sử  dụng rộng rãi  ở  hầu hết các nước trên thế  giới với sản lượng 
ngày càng tăng. Đối với nước ta bia đã trở  thành loại đồ  uống quen thuộc với sản  
lượng ngày càng tăng đã trở  thành ngành công nghiệp mũi nhọn trong ngành công  

nghiệp nước ta.
Quá trình sản xuất bia được gọi là nấu bia. Do đó các thành phần  sử dụng để sản  
xuất bia có khác biệt tùy theo từng khu vực, các đặc trưng của bia như hương vị và  
màu sắc cũng thay đổi rất khác nhau và do đó   có khái niệm loại bia hay các sự 
phân loại khác.
1.2. Lịch sử phát triển của bia
Tài liệu lịch sử cho thấy khoảng 6.000 năm trước, nền văn minh Trung Quốc cổ 
đại đã làm một loại đồ uống giống bia có tên gọi kyui.
Ở  vùng Lưỡng Hà cổ  đại, các tấm đất sét cho thấy việc làm bia là một nghề 
nghiệp được kính trọng vào thời đó. Các phát hiện cho thấy việc dùng lại cùng các  
dụng cụ chứa (chai, lọ, vại…) cho quá trình lên men nguyên liệu cung cấp các kết 
quả  đáng tin cậy hơn khám phá ban đầu là: những người làm bia khi di chuyển  
mang theo các bình bên mình.
Các tấm khắc đất sét Ebla được phát hiện năm 1974 tại Ebla, Syria, có niên đại  
2500 năm TCN, tiết lộ  việc thành phố  cổ  này đã sản xuất một loạt các loại bia 
4


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN
khác nhau, gồm cả một loại bia có tên gọi là "Ebla". Các dấu vết ban đầu của bia  
và quá trình làm bia cũng đã được tìm thấy  ở  Babylon cổ  đại. Vào thời điểm đó, 
phụ  nữ  và thầy tu cũng làm bia. Một số loại bia đã được sử  dụng, đặc biệt trong  
các nghi lễ  tôn giáo. Năm 2100 TCN, vua Babylon là Hammurabi đã ban hành bộ 
luật của mình, trong đó có cả các quy định về chủ quán rượu.
Bia là một phần trong chế độ  ăn uống hàng ngày của các Pharaoh Ai Cập cách  
đây hơn 5000 năm. Sau đó, nó được làm từ bánh mì lúa mạch nướng, và cũng được 
sử dụng trong các hoạt động tôn giáo.
Vai trò của bia trong xã hội Ai Cập cổ đại là rất lớn, nó không chỉ là một đồ uống.  
Thông thường, bia được sử  dụng để  chữa một số  bệnh khác nhau, bia còn được  
xem như một món quà thích hợp nhất để tặng cho các Pharaoh Ai Cập, và nó cũng 

được xem là vật cúng tế để dâng lên các vị thần.
Dựa bằng chứng lịch sử, người Ai Cập đã dạy cho người Hy Lạp cách làm bia. 
Nhà văn Hy Lạp là Sophocles (450 TCN) đã thảo luận về  khái niệm của sự  điều 
độ khi nói đến việc tiêu thụ bia trong nền văn hóa Hy Lạp, và ông tin rằng chế độ 
ăn uống tốt nhất cho người Hy Lạp gồm bánh mì, thịt, các loại rau và bia (người  
Hy Lạp gọi bia là "ζῦθος" (zythos)). Người Hy Lạp cổ đại cũng làm bia barleywine 
(tiếng Hy Lạp:  "κρίθινος   οἶνος" ­  krithinos  oinos,  "barley wine"),  loại  bia  này 
được sử  gia Hy Lạp Polybius đề  cập trong tác phẩm The Histories của ông, trong  
cuốn sách này ông nói người Phaeacia giữ bia barleywine trong krater (một loại vại)  
bằng bạc và vàng.
Ngược lại với người Ai Cập và Sumer, với người Do Thái thì "bia chưa bao giờ 
đóng một vai trò quan trọng trong các thói quen uống đồ  uống có cồn  ở  vùng đất 
Israel." Đây là tuyên bố của Bảng tàng Do Thái, New York và Jerusalem, liên quan 
tới tập quán của người Do Thái cổ đại.
Quá trình sản xuất bia đã tăng lên rất nhanh khi Kitô giáo phát triển. Điều này chủ 
yếu do các thầy tu cũng làm bia. Tu viện là các tổ  chức đầu tiên làm bia vì mục  
đích thương mại. Các thầy tu xây xưởng nấu bia là một phần của mục tiêu cung  
cấp thực phẩm, chỗ trú chân và đồ uống cho người hành hương và khách bộ hành.

5


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN
Một số  lượng lớn các vị  thánh của Kito giáo là thánh bảo trợ  cho việc làm bia.  
Thánh Augustine thành Hippo, thánh Arnulf thành Metz, Thánh Luca người truyền 
giáo và thánh Nicôla thành Myra đều được xem là người bảo trợ cho nghề làm bia.
Hoàng đế Charlemagne, người cai trị vương quốc Thiên chúa giao khoảng năm 770  
SCN coi bia là một phần quan trọng của cuộc sống, và mọi người thường nghĩ  
chính ông đã dạy cách làm bia cho người Cơ đốc.
1.3. Phân loại bia

Có rất nhiều loại bia khác nhau, mỗi loại là một kiểu bia cụ thể có đặc trưng riêng 
về hương vị tổng thể, hình thái và có nguồn gốc khác nhau trong quá trình tiến hoá  
của ngành công nghiệp bia. Dựa vào cách lên men, bia được chia làm 3 loại:
1.3.1. Lên men nổi: Bia Ale
Nhiệt độ lên men cao từ 15 đến 23 oC do đó lượng ester tạo ra nhiều, còn có các 
hương liệu thứ  cấp và các sản phẩm tạo mùi khác làm cho bia có mùi vị  của  
hoa hay quả tương tự như táo, lê, dứa, …. 
Các khác biệt về  kiểu giữa các loại ale là nhiều hơn so với các loại lager, và  
nhiều loại bia ale rất khó để phân loại chúng

6


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

1.3.2. Lên men chìm: Bia lager được sản xuất nhiều nhất trên thế giới
Lager trong tiếng Đức nghĩa là lưu trữ được phát minh một cách tình cờ khi để 
bia qua mùa đông. Do nhiệt độ lên men thấp 7­10oC và 0­4oC trong quá trình trữ mà 
ester và các sản phẩm phụ  tạo ra ít, nhờ  đó người uống không bị  nhức đầu khi 
thưởng thức các loại bia nay.
Phần lớn bia lager ngày nay dựa trên kiểu Pilsener, được sản xuất lần đầu tiên 
năm 1842 tại thành phố Pilsen (Plzeň), Cộng hòa Séc. Các loại bia lager Pilsener có  
màu sáng, được cacbonat hóa nồng độ  cao có hương vị  mạnh của hoa bia và nồng 
độ cồn 3­6% theo thể tích. Các sản phẩm bia Sài Gòn đều thuộc loại bia này.

Hình: Bia lager
1.3.3. Lên men tự nhiên:
Các loại bia này dùng men bia hoang dã chứ không phải các loại men bia được nuôi  
cấy. Tất cả các loại bia trước khi có việc nuôi cấy men bia trong thế kỷ 19 đã rất gần  
với kiểu bia này, được đặc trưng bởi các vị chua.

 Ngoài ra còn có loại bia hỗn hợp:
Kiểu bia lai hay bia hỗn hợp sử dụng các nguyên liệu và công nghệ hiện đại thay 
vì (hoặc bổ sung cho) các khía cạnh truyền thống của sản xuất bia. Mặc dù có một số 
biến thái giữa các nguồn khác nhau, nhưng nói chung bia hỗn hợp có thể  rơi vào các 
thể loại sau:

7


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN
Bia hoa quả và bia rau cỏ là hỗn hợp với một số loại phụ gia từ hoa quả hay rau  
cỏ  có thể  lên men trong quá trình lên men, tạo ra chất lượng hài hòa một cách rõ  
nét.

Hình: Bia hoa quả
Bia thảo mộc và bia gia vị bổ sung các chất chiết ra từ rễ, hạt, lá, hoa hay quả 
thảo mộc hoặc các loại cây gia vị thay vì (hoặc bổ sung cho) hoa bia.
Các loại bia tồn trữ  trong các thùng gỗ  là các loại bia truyền thống hay thực  
nghiệm được lưu trữ  trong các thùng gỗ  hoặc được tiếp xúc với gỗ  (trong dạng 
các mảnh nhỏ, mẩu hay hạt) trong một khoảng thời gian (gỗ sồi là phổ biến nhất).  
Thông thường, thùng gỗ  hay các miếng gỗ đầu tiên được xử  lý bằng một số  loại  
rượu mạnh hay các đồ  uống chứa cồn khác—việc sử  dụng rượu bourbon, scotch  
và sherry là phổ biến nhất.
Bia hun khói là bất kỳ  loại bia nào mà mạch nha của nó đã được hun khói. 
Thông thường các loại bia này có mùi và hương vị  của khói. Các ví dụ  điển hình 
của kiểu bia truyền thống này là bia Rauchbiers ở Bamberg, Đức. Tuy nhiên, nhiều 
nhà sản xuất bia ngoài nước Đức—chủ yếu là các nhà sản xuất bia thủ công ở Mỹ
—cũng bổ  sung mạch nha bia hun khói vào bia đen, ale Scotland và một loạt các 
kiểu bia khác.


8


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

Hình: Bia hun khói
Bia đặc biệt là cách gọi chung để  chỉ  các loại bia được sản xuất mà sử  dụng  
các nguồn đường, hạt ngũ cốc và tinh bột có thể lên men không thông dụng.
1.4. Giá trị dinh dưỡng của bia
Bia có giá trị  dinh dưỡng cao. Bia thường có nồng độ  cồn thấp, lại thường có 
5% nước khí Carbonic, 0,5% Albumin, 17 loại Amino acid, nhiều loại vitamin cùng 
nhiều loại vi lượng tố như Calci, Phosphore, sắt, chất đắng từ  hoa houblon có tác  
dụng kích thích tiêu hóa, có tính diệt khuẩn cao; đặc biệt CO2 bảo hòa trong bia có 
tác dụng làm giảm nhanh cơn khát của người uống. Ngoài ra đối với phụ nữ rất có  
lợi khi dùng đúng lượng thích hợp sẽ làm sáng da, mượt tóc.
Giá trị năng lượng của loại bia với 12% độ cồn là khoảng 440 calories/lít, bằng  
2/3 giá trị dinh dưỡng của sữa.
Nhờ những ưu điểm như vậy mà ngày nay bia được sử dụng rộng rãi như một loại  
nước giải khát ở hầu hết các nước trên thế giới.
1.5. Một số sản phẩm bia hiện nay
Hiện nay trên thị trường có vô số các sản phẩm bia khác nhau:
Một   số   sản   phẩm   bia   hiện   có   trên   thị   trường   như:   Bia   Hà   Nội,   bia   333,   ia  
Henninger.......

9


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

10



CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

11


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN VỀ BAO BÌ BIA
2.1. Sơ lược lịch sử phát triển của bao bì bia

  Các dạng dụng cụ chứa đầu tiên
Các dạng dụng cụ đầu tiên dùng để chứa bia là các quả bầu bí khô, các bình bằng đất 
sét và các túi làm từ da hay thuộc da. Từ “blackjack” được dùng nhằm để chỉ dụng cụ 
có dạng một cái bình lớn làm bằng thuộc da dùng chứa bia, được phủ  bên ngoài một 
lớp hắc ín.

 Sự thay thế các dụng cụ chứa thô sơ bởi thùng chứa
Tuy nhiên cách đây hơn 1000 năm thì đã xuất hiện thêm bên cạnh nó một dạng dụng 
cụ chứa khác mà ngày nay vẫn dùng để chứa bia, đó là các thùng gỗ.
Cũng giống như đối với hầu hết các loại thực phẩm khác, chất lượng bia thường 
bị tác động sâu sắc bởi các vi sinh vật. Nguyên nhân chính là do vi khuẩn và nấm men  
dại đã sản sinh ra các acid mà cho bia có vị chua như giấm. Mặc dù một số vi sinh vật  
gây hư  hỏng bia vẫn sống được trong các thùng gỗ  dùng chứa ba nhưng người ta chỉ 
xem đây là một vấn đề nhỏ. Các nhà máy sản xuất bia rượu thường vệ sinh các thùng 
chứa và xử lý để khử các hợp chất hóa học như các chất kiềm, các chất màu để “làm  
sạch” chúng trước khi tái sử dụng để chiết rót. Chỉ đến cuối những năm 1800, khi có  
các kết quả nghiên cứu của Louis Pateur thì mới có một cách nhìn nhận đúng hơn về 
tính bền của các vi sinh vật nhiễm cũng như   ảnh hưởng của chúng đến mùi vị  của  

bia.Sử  dụng các thùng gỗ  rất có lợi vì chúng có thời hạn sử  dụng dài và có thể  sử 
dụng  một  cách  dễ  dàng.Tóm  lại,   chúng  có  thể   chịu  được  các  va  chạm  mạnh khi 
chuyên chở đồng thời cũng chứa được một lượng bia tương đối lớn.
Trước thế kỷ 16, hầu hết các sản phẩm bia và rượu đều được bán trong các thùng, 
khi đó giá thành của chúng phụ thuộc vào thể tích thùng. Để đảm bảo tính công bằng  
trong mậu dịch, các nhà sản xuất thường không cho phép tự  ý sản xuất các thùng  
chứa. Các thùng chứa dùng để đựng bia thương phẩm có dung tích 36 gallon sẽ được 
cung cấp bởi những người thợ  đóng thùng và ngày nay các thừng rượu của Anh vẫn  
được cũng cấp theo cách thức này.
Trong một vài thế kỉ, các thùng chứa làm bằng gỗ vẫn là dạng bao bì bia chiếm ưu thế 
12


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN
nhất trên toàn thế giới. Nhờ quá trình lên men phụ được thực hiện bởi nấm men mà sẽ 
có thêm một lượng CO2 sinh ra bên trong các thùng chứa. Hàm lượng CO2 trong bia lúc 
bấy giờ  chắc chắn là thấp hơn hẳn so với hàm lượng CO2  trong bia ngày nay. Đó 
chính là do gỗ  thì có trạng thái xốp và việc đóng kín các nút thùng còn thô sơ  nên đã  
làm thất thoát đi một phần CO2 sinh ra.
Bia có thể lấy ra khỏi thùng bằng cách mở nút thùng rượu hay đầu vòi thông qua một  
lỗ  được bịt kín  ở  bên dưới lỗ  thùng. Lỗ  thông hơi phía trên của thùng cũng sẽ  được 
mở giúp không khí đi vào bên trong thùng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc rót bia ra 
khỏi đầu vòi của thùng.

 Các cải tiến về kỹ thuật giúp bảo quản tốt bia chứa trong các thùng gỗ
Khi bia được tiêu thụ  nhanh chóng thì việc sử  dụng các thùng gỗ  đựng bia là rất tốt.  
Tuy nhiên, khi hàng bị tồn trữ trong kho quá lâu, bia không sử dụng trong các thùng bốc 
mở nắp sẽ bị thất thoát CO2 và bị chua do tác động của vi sinh vật nhiễm vào từ không  
khí. Do đó, người ta sẽ đề ra các giải pháp kỹ thuật để giải quyết vấn đề trên. Trong  
những thập kỷ cuối của thế kỷ 19, khi các loại khí nén trở nên phổ biến, các lỗ thông  

khí thường được nạp CO2 sạch , có áp lực cao hơn không khí thường trong phòng ủ. 
Kết quả  là đã làm gia tăng lượng CO2 trong bia và giảm một lượng lớn bia bị  chua.  
Sang năm 1900, hệ thống này sẽ được sử dụng trong hơn 75% nhà máy bia ở Mỹ.
Nhờ những cải tiến này mà các thùng gỗ vẫn được giữ lại sử dụng một cách rộng  
rãi cho đến khoảng giữa thế kỷ 20 mặc dù đến giai đoạn này các dạng bao bì khác có  
thể  sử  dụng khá tốt. Năm 1942,  ấn phẩm “ Hướng dẫn thực hành trong nghành công 
nghiệp bia rượu” của nhà xuất bản thực nghiệm về ủ bia rượu đã nêu ra 5 dạng thùng 
chứa sử dụng, bao gồm các dạng thùng làm bằng gỗ, các phiến gỗ, thép không gỉ, thép 
và nhôm.
Tại thời điểm này, tất cả  các dạng thùng chứa­trừ  thùng chứa làm từ  thép không  
gỉ­ đều được quét hoặc lót bằng một loại nhựa hữu cơ hay sáp để ngăn bia không tiếp 
xúc trực tiếp với các thùng chứa nó. Chính điều này đã giúp cải thiện điều kiện vệ 
sinh bên trong thùng trước khi chiết rót và làm giảm tới mức tối thiểu sự  phát triển  
của vi sinh vật có thể gây ảnh hưởng đến mùi vị của bia. Trong trường hợp các thùng 
làm bằng nhôm hay thép, chúng cũng được bảo về  để  tránh khỏi sự  ăn mòn hóa học 
13


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN
cũng như tránh có mùi kim loại.
Vào những thập kỷ cuối của thế kỷ 18, việc ứng dụng rỗng rãi kỹ thuật bảo quản  
lạnh trong vận chuyển và phân phối bia tươi đã giúp chống lại sự  xâm nhập của vi 
sinh vật . Các nhà sản xuất nhận thấy rằng hầu hết các vi sinh vật gây hại cho bia  
thường phát triển rất mạnh ở nhiệt độ cao hơn. Do không thể loại trừ hoàn toàn hệ vi  
khuẩn và nấm men có trong bia nên các nhà sản xuất thường sử  dụng nhiệt độ  thấp 
để tránh các biến đổi không mong muốn. Ngày nay, các thùng chứa bia hay thùng bốc  
đều làm từ thép không gỉ. Tuy nhiên, các sản phẩm bia thì lại được chứa trong các bao  
bì làm bằng vật liệu rất dễ vỡ. Khi chiết rót, các thùng bốc cần phải được giữ  lạnh  
nhằm giữ  bia  ở  dạng nguyên chất. Sự  phát triển của vi sinh vật và sự  gia tăng về 
nhiệt độ  sẽ  thúc đẩy các phản  ứng oxy hóa và các phản  ứng hóa học khác làm giảm 

chất lượng bia xảy ra nhanh hơn.
Thực tế, người ta phải tìm cách để gia tăng thời hạn sử dụng của bia chứa 
trong thùng bốc trước so với bia chứa trong các dạng bao bì khác như chai hay lon. Bia 
rót trong các thùng bốc thường được giữ lạnh khi vận chuyển và tiêu thụ trong khi bia 
chứ trong các lon hay chai thì không cần. Kết quả là mùi vị của bia tươi thì mới hơn và 
tự nhiên hơn nhưng thời hạn sử dụng chúng thì ngắn hơn rất nhiều­khoảng 6 tuần. Do 
đó, đa số trường hợp, người tiêu dùng đều mua bia tươi ở dạng được giữ lạnh.
Sự ra đời của sản phẩm bia chai
Theo các tài liệu về ngành bia rượu thì trước thế  kỷ 20, bia đóng chai chưa hề 
được đề cập đến. Tuy nhiên, có rất nhiều bằng chứng chứng tỏ rằng người ta đã sử 
dụng chai làm bao bì chứa đựng bia từ cách đây hơn 300 năm.
Bia đóng chai được đề cập đến lần đầu tiên trong một buổi nói chuyện của tiến sĩ  
Alexander Nowell, chủ nhiệm St.Pau’ls Cathedral khoảng năm 1560 đến ăm 1602 . Báo 
cáo đã nêu ra rằng vị trí tiến sĩ này đã đánh rơi một chai bia đậy bằng nút bằng gần bờ 
sông trong một lần đi câu cá. Và sau một vài ngày, ông  ấy trở  lại và bật nút chai thì  
nghe thấy một tiếng nổ  rất lớn, giống như  tiếng súng. Điều này chứng tỏ, ngay từ 
những ngày đầu, đặc trưng cơ  bản của bia đóng chai thường được xem xét là lượng 
CO2 được sinh ra và duy trì  ở  mức khá cao. Một nghiên cứu tiến hành vào năm 1615 
của hội người nội trợ Anh mô tả quá trình làm rượu bia đóng chai, cho rằng “ các nút  
14


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN
bần được niền chặt bằng một sợi dây nhằm tránh sự bay hơi, đậy kí miệng chai­ nơi  
thường dễ bị nhiễm, gây ra hư hỏng toàn bộ rượu.
Khi lượng CO2 phù hợp, các chai được mở ra ở  dạng một bao gói có vẻ  bề  ngoài  
“dành cho bia mà không uống ngay lập tức”.Những loại này gồm bia để  uống  ở  các  
quán rượu và rộng hơn là bia dành cho xuất khẩu. Một tài liệu khác đã nêu rằng “ có  
khoảng 3000 chai bia làm bằng thủy tinh được sản xuất  ở  Anh vào năm 1695 và bia 
đóng chai dường như vẫn phổ biến trong suốt thế kỷ 18.

Trong suốt những năm 1700, các chai có hình dạng thay đổi từ  dạng bình thót cổ 
dạng củ   hành  sang  dạng hình  trụ  dài vẫn  còn  thường  dùng chứa   rượu  Bordeaux,  
nhưng công nghệ chế tạo chai vẫn còn chưa phát triển lắm. Các chai này vẫn có thêm 
sự tham gia hỗ trợ của các khuôn làm từ sáp, gỗ hay đồng thau. Kích thước thật sự của  
mỗi chai khác nhau khá rõ. Các nút bần thì hết sức hữu dụng trong trường hợp này.  
Sau khi được nén và chèn khít vào chai, chúng sẽ  giãn nở  để  đậy kín miệng chai bất  
kể hình dạng và kích thước của các miệng chai.
Trong những thập kỷ  ngay sau cách mạng Mỹ, các chai bia được xem như  một  
hàng hóa quan trọng đối với một đất nước còn non trẻ  đến mức độ  mà thực tế, các  
chai Maryland đã bị tiêu hủy bởi lửa đã được đem ra vay và nhận được một số vốn vay  
8000$ từ Ú Congress, giúp cho việc tái xây dựng lại đất nước.
Tại nước Anh, việc xuất khẩu bia lúc ban đầu chỉ áp dụng đối với bia ở dạng đóng  
chai.Từ 1801 đến 1810, các ban của nước Mỹ đã xuất khẩu khoảng hơn 1 triệu gallon  
bia, 15% trong số đó là dạng đóng chai.
Trước thế kỷ  20, việc đóng chai tiến hành theo phương pháp thủ  công và chỉ  có 1  
hay 2 dụng cụ  rất thô sơ  để  rót và đóng nút bần. Nhìn chung, các quá trình này cũng  
tương tự  như  các quá trình được thực hiện bởi những người sản xuất bia và rượu ở 
quy mô gia đình hiện nay.
Sự  cơ  giới hóa của công đoạn đóng chai bắt đầu với việc cải tiến các khuôn và 
một vài sự  cách tân như  ứng dụng khí nén đã được đề  cập đến vào khoảng giữa thế 
kỷ 19, vào năm 1866, các khuôn làm bằng thép tôi đã được đưa ra và tiếp sau đó là một  
loạt những sáng chế về máy móc để đóng chai. Cùng với việc tạo ra các chai có kích  
cỡ đồng nhất, có một đòi hỏi về một cách đóng kín chai thích hợp hơn vào năm 1892,  
15


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN
người ta phát minh ra nắp có khía dạng miệng mũ. Các tiến bộ  trong lĩnh vực bảo  
quản và sự ra đời của khí hóa lỏng cũng đã giúp kỹ thuật chiết rót vào chai phát triển, 
cho phép bia được bổ sung thêm CO2 nhân tạo trước khi rót, hạn chế quá trình lên men  

trong chai.

 Ứng dụng phương pháp thanh trùng Pasteur vào ngành bia
Khi kỹ  thuật chiết rót vào chai ngày càng phát triển, người ta cố  gắng tìm cách đảm  
bảo chất lượng và vệ sinh của quá trình đóng chai bia. Vào năm 1982, nhà sản xuất bia 
người Đức Thasing đã đề cập đến mùi hôi phát sinh khi bia được bảo quản trong các 
chai thủy tinh trong. Chính điều này đã khiến các nhà sản xuất bia sử dụng các chai có 
màu nâu để đựng bia nhằm tránh hiện tượng trên.
Chính những nghiên cứu tiên phong về  vi sinh của Louis Pasteur vào những năm  
giữa và cuối 1800 đã chỉ ra cho các nhà sản xuất bia thấy rằng dựa vào các sản phẩm  
thu được từ  quá trình lên men, ta có thể  xác định được bản chất của quá trình. Bên  
cạnh đó, một bước tiếp không kém phần quan trọng khác trong nổ lực nghiên cứu của  
ông là nhằm làm chấm dứt quá trình hư hỏng trong sản phẩm rượu Pháp.
Ngày nay, nó được biết đén như  là quá trình gia nhiệt nhằm tiêu diệt vi sinh vật  
gây hại có bên trong các chai đã đậy kín.
Năm 1903 , quá trình thanh trùng đã trở thành một phần trong quy trình sản xuất bia  
chiết rót tự động. Các máy móc lớn để rửa sạch, chiết rót và vô trùng chiếm phần lớn  
diện tích của hầu hết các nhà máy sản xuất bia.Cùng với sự  phát triển của máy móc, 
các vật liệu và quá trình cơ bản của quá trình chiết rót cũng được thay đổi chút ít trong 
những năm còn lại của thế  kỷ  20. Khi ngành công nghiệ  sản xuất bia được tái phục 
hồi lại sau Luật cấm nấu và bán rượu (thời kỳ 1929­1933 ở Mỹ), bia tươi chiếm hơn  
70% sản lượng. Ngày nay lượng bia tươi sản xuất đã giảm, chỉ còn khoảng 10% tổng 
lượng bia được sản xuất ở Mỹ. Cũng theo huynh hướng này mà ngay cả  đối với hầu 
hết các nhà máy sản xuất nhỏ, chai đã trở thành một phần sản xuất của họ.
Tuy nhiên,  quá  trình  chiết rót đóng chai rất tốn  kém.Các  nhà  sản  xuất  bia  lớn 
thường dành khoảng 60% nguồn vốn của họ  cho quá trình đóng chai. Trong môt lô 6 
chai trung bình, bia thật sự chỉ chiếm dưới 20% tổng giá thành của sản phẩm.
Ngay cả  khi một nhà máy sản xuất có đầu tư  nặng về  phần thiết bị  máy móc và  
16



CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN
tiêu tốn chi phí cao cho việc đóng chai, nhằm thu hút khách hàng, chất lượng bia có thể 
kém. Nếu quá trình vận hành không đúng, việc bảo dưỡng máy móc kém hay không 
quan tâm đến vấn đề vệ sinh của hệ thống thì ngay cả một nhà máy trang bị tốt cũng  
sẽ  không đạt được chất lượng. Kết quả  là bia có thể  có mùi tạo hoặc rất dễ  hỏng 
nghĩa là chúng sẽ hỏng nhanh chóng chỉ sau một vài tuần sau khi sản xuất.
Để giảm tới mức thấp nhất chi phí cho việc chiết rót đóng chai, nhiều nhà máy sản 
xuất quy mô nhỏ đã trở lại với các phương thưc cũ tức là bỏ qua bước thanh trùng vốn 
tốn kém thay vì chiết rót bia “sống” mà vẫn còn chứa nấm men và một lượng nhỏ 
đường chưa lên men.Điều này đã thúc đẩy quá trình lên men thứ trong chai, sản sinh ra 
CO2 và giúp chống lại quá trình oxy hóa. Các sản phẩm này có thể có mùi tự nhiên, 
tươi nhưng rất dễ hư hỏng nếu không được xử lý đúng cách.

 Sự xuất hiện của bia lon
Cùng với việc trở  thành hàng hóa bán hàng loạt, việc sử  dụng lon để  chiết rót bia, 
ngày càng trở  nên phổ  biến hơn là dùng các loại bao bì khác. Tổng cộng có khoảng  
60% lượng bia tiêu thụ ở Mỹ được xuất ra khỏi các nhà máy ở dạng các lon.
Mặc dù ngày nay lon chiếm  ưu thế trong các loại bao bì, tuy nhiên lon vẫn là loại 
bao bì mới nhất dùng để  chiết rót bia. Bia được rót vào các lon được xuất hiện lần  
đầu tiên trên thị trường Mỹ vào năm 1935 và các lon bia chỉ được bán chạy hơn so với  
bia  ở  dạng chai từ  năm 1969. Tuy nhiên, kỹ  thuật cơ  bản của việc đóng lon, thì đã  
được biết đến cách đây hơn 200 năm.
Vào những năm 1970, một nhà sản xuất bánh kẹo nguời Pháp là Nicholas Appert đã 
phát hiện ra rằng khi nấu thực phẩm trong các chai đã được đậy kín thì chúng sẽ 
không bị  giảm giá trị. Navy (người Pháp) đã kiểm tra lại điều này vào năm 1806 trên  
một số  thực phẩm khác nhau gồm thịt, rau quả, trái cây, và sữa. Chỉ  một thời gian 
ngắn sau đó, một người Anh là Peter Durand đã được nhận bằng sáng chế  cho một 
phương pháp tương tự đối với bao bì làm bằng thép tráng thiếc. Cho đến lúc này, khi 
quá trình đã được biết đến thì vẫn chưa xuất hiện nghiên cứu khoa học để có thể ứng 

dụng nó vào trong thực tiễn một cách rộng rãi. Sản lượng của sản phẩm dạng này chỉ 
khoảng 10 lon/ ngày.
Vào năm 1900 một người Đức di dân sang Mỹ tên là Max Am đã phát minh ra một  
17


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN
hệ thống giúp thực hiện quá trình đóng lon tự động. Ban đầu, các lon thiếc hoàn toàn 
không bị  đậy giúp cho quá trình chiết rót thực hiện nhanh chóng và sau đó, thực hiện  
nhanh quá trình đóng nắp (nắp có dạng miếng có gân). Hệ thống này nhanh chóng thay  
thế  các hệ thống đóng gói thực phẩm khác và ngay nay nó đã trở  thành một quá trình 
cơ bản được sử dụng đối với các thực phẩm dạng đóng gói.
Theo tài liệu, sản phẩm bia dạng đóng lon đầu tiên được sản xuất là vào ngày 24 
tháng 6 năm 1935, do công ty bia rượu Krueger  ở  Newark sản xuất. Cũng trong năm 
này, Schlitz cũng giới thiệu một dạng lon có phần phía trên dạng hình nón một thay 
đổi nhỏ nhưng rất đáng chú ý trong việc thiết kế hình dạng chai.
Vào năm 1959, Coors đã lần đầu giới thiệu dạng lon nhôm. Năm 1965, công ty bia  
rượu Pittsburgh cũng giới thiệu dạng lon có gắn một miếng kim loại để  mở.Cũng 
trong năm 1965 , các vong dùng để mở  nắp lon cũng trở nên phổ  biến và làm cho trở 
thành loại bao bì đãn đầu trong các loại bao bì bia. Từ đó đến nay, chỉ có một thay đổi  
nhỏ trong việc tạo ra khóa mở lon làm sao để giảm lượng phế liệu phát sinh trong quá  
trình dập cấc vòng dùng để mở nắp lon.
Từ  mặt về chất lượng sản phẩm, các sản phẩm bia lon thì được người tiêu dùng 
ưa thích hơn so với các sản phẩm đóng chai. Do sau khi chiết rót, ta thực hiện quá  
trình thanh trùng trong bao bì nên mối quan tâm chủ  yếu là làm giảm tới mức thấp  
nhất hàm lượng oxy để giảm sự tác động của quá trình thanh trùng đến mùi vị  bia và  
làm chậm các phản ứng gây nhạt vốn có trong quá trình bảo quản bia.
Hạn chế đặc trưng của việc sử dụng các lon để đựng bia là khả năng gây ảnh 
hưởng tới mùi vị của bia. Các dạng chất bôi trơn, các lớp phủ và các loại sơn khác 
nhau được sử dụng trong quá trình sản xuất lon và đóng nắp thì là các nguyên nhân 

tiềm tàng có thể làm ảnh hưởng tới mùi vị bia. Mặc dù các yếu tố này hầu như ít ảnh 
hưởng đến chất lượng bia, tuy nhiên chúng đòi hỏi các nhà sản xuất phải kiểm soát 
các quá trình một cách thận trọng và quản lý chất lượng sản phẩm.
2.2. Yêu cầu đối với bao bì bia
Bia là một sản phẩm có từ lâu đời, được làm từ  lúa mạch.Do sự tăng về nhu cầu, 
bia đã trở thành một thức uống đơn giản và được sử dụng nhiều nhất trên thế giới.
Bốn mối nguy thường khiến các nhà sản xuất bia lo ngại boa gồm: vi sinh vật, oxi,  
18


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN
nhiệt độ, ánh sáng.
2.2.1. Vi sinh vật
Vi sinh vật là tác nhân gây hư hỏng chính trong tất cả các đồ ăn và thức uống. Mặc  
dù trong bia có chứa rượu và các loại nhựa hoa hublon vốn không thích hợp cho bất kì 
tác nhân gây hại nào, các vi sinh vật làm  ảnh hưởng đến mùi vị  của sản phẩm vẫn  
phát triển rất mạnh tại mọi thời điểm, đặc biệt là trong trường hợp bia không được  
bảo quản lạnh. Để  ngăn cản điều đó, các nhà sản xuất thức uống thường áp dụng  
phương pháp thanh trùng thời gian ngắn nhưng nhiệt độ  cao để  tieu diệt các vi sinh  
vật nhằm tạo ra sản phẩm an toàn về mặt vi sinh.
Muốn tránh thanh trùng, một số nhà sản xuất lớn thường sử dụng phương pháp lọc vô  
trùng. Khác với quá trình lọc bia nhằm loại bỏ nấm men vẫn thường được tiến hành 
trong tất cả các nhà máy, quá trình lọc vô trùng sẽ giúp loại bỏ phần lớn vi khuẩn thúc  
đẩy sự hư hỏng của bia. Những sản phẩm như vậy được bán trên thị  trường ở  dạng  
“bia tươi trong chai” bởi vì chúng thiếu hẳn mùi nấu có được sau quá trình thanh trùng. 
Tuy nhiên, nếu kích thước lỗ lọc quá nhỏ thì quá trình lọc cũng sẽ làm mất đi một số 
mùi hương và vị đặc trưng của bia.
2.2.2. Oxy
Sau vi sinh vật, mùi vị bia có thể bị  nhạt chủ yếu do sự tác dụng của oxy với các 
hợp chất khác. Tại mọi thời điểm, trong bia luôn xảy ra các phản ứng oxy hóa nhưng 

tốc độ của chúng thì phụ thuộc vào nhiệt độ và hàm lượng oxy trong lọ.
Để chống lại quá trình oxy hóa các hợp chất mùi, các nhà sản xuất bia thường cố 
gắng làm cho hàm lượng oxy trong chai lọ  hoặc trong các lon là rất nhỏ. Mặc dù  
khoảng không gian giữa nắp và mực bia trong hầu hết các chai thường chứa khoảng  
20ml khí nhưng với các dây chuyền đóng chai có chất lượng cao, hàm lượng oxy có 
thể giảm đến 2%.
Nhờ quá trình thanh trùng, hầu hết các sản phẩm bia đạt được nhiệt độ cần thiết ngay 
tức thì sau khi nó được chiết rót vào chai hay lon. Nếu hàm lượng oxy là nhỏ, quá trình  
thanh trùng có thể được điều khiển ở chế độ thích hợp nhằm đảm bảo sự giảm về độ 
tươi của bia là không đáng kể. Trong tất cả các trường hợp như sự khác biệt về mùi vị 
có thể được phát hiện bởi những người tiêu dùng đã được huấn luyện cảm quan về 
19


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN
bia hoặc hàm lượng oxy cao hay quá trình thanh trùng được kiểm soát không tốt, mùi 
nấu đặc trưng đều có thể phát hiện dễ dàng.
2.2.3. Nhiệt độ
Nhiệt độ bảo quản cũng có tác dụng sâu sắc đến quá trình oxy hóa hay sự nhạt dần  
về mùi vị của bia. Thông thường, vị bia bị nhạt khi nó được bảo quản khoảng 1 tuần  
ở  nhiệt độ  100oF thì tương đương với khi nó được bảo quản  ở  70oF trong 2 tuần và 
40oF trong hơn 1 năm.
Bên cạnh đó, sự tác động của các nhà phân phối, những người bán lẽ và cả  người 
tiêu dùng khi thay đổi đột ngột nhiệt độ  (chẳng hạn như  lấy ra hay cho vào tủ  lạnh) 
đều có thể ảnh hưởng xấu đến chất lượng bia.
2.2.4. Ánh sáng
Cuối cùng, các nhà sản xuất thường tìm cách bảo vệ  các sản phẩm bia của họ 
tránh khỏi sự mất mùi do tác dụng của ánh sáng. Ở bước sóng đặc trưng của ánh sáng  
mặt trời và ánh sáng đèn huỳnh quang, có sự  tác động của ánh sáng lên các hợp chất  
của hoa houblon, làm cho bia có mùi hôi.Các chai thủy tinh sậm màu sẽ  có tác dụng 

chống lại các phản ứng trên và làm giảm tới mức thấp nhất ảnh hưởng của chúng lên 
hầu hết sản phẩm bia. Các chai thủy tinh trong xanh không có khả  năng đó. Và các  
phản ứng oxy hóa khác mà có thể ảnh hưởng tới mùi vị của bia vào một lúc nào đó thì 
xảy ra gần như  ngay lập tức. Đối với bia đựng trong các chai thủy tinh xanh nếu đặt  
dưới ánh sáng huỳnh quang khoảng gần 1 giờ thì ta sẽ dễ dàng phát hiện mùi hôi đặc  
trưng.
Đối với những người uống bia, bia tươi và thơm ngon luôn là yêu cầu hàng đầu. 
Do đó, thật là lý tưởng nếu chúng ta đi đến nhà máy bia và uống ngay bia từ các thùng 
lên men. Nhưng điều đó thì không phải lúc nào cũng có thể làm được. Để giúp cho 
người tiêu dùng thuận lợi hơn việc sử dụng đồng thời đem lại cơ hội to lớn để mở 
rộng việc mua bán của các nhà sản xuất thì cách đây rất lâu, bia đã được chiết rót vào 
các dạng bao bì. Chính nhờ quá trình chiết rót này mà bia được cung cấp đến được 
người tiêu dùng vẫn giữ được trạng thái tươi, mùi vị thơm ngon đặc trưng. Do đó, 
công đoạn chiết rót phải được tiến hành dựa trên nguyên tắc đảm bảo cho sản phẩm 
sau khi chiết rót có thể chống chịu tốt với các tác động không có hại, làm giảm chất 
20


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN
lượng của bia trên đường vận chuyển hay trong giai đoạn phân phối, bảo quản sản 
phẩm trước khi nó thật sự đến tay người tiêu dùng.
2.3. Phân loại bao bì bia
2.3.1. Theo vật liệu làm bao bì
Về cơ bản, ta có thể sử dụng 4 loại để chế tạo bao bì chứa đựng bia là:
 Gỗ 
 Thủy tinh
 Kim loại
 Nhựa
2.3.2. Theo dạng sản phẩm
 Bia chứa trong thùng bốc

Bia có chứa CO2 sau quá trình lên men thứ được chứa trong các thùng hay thùng bốc 
rồi được phân phối tới tay người tiêu dùng. Do nhu cầu của người tiêu dùng, ngày nay 
những sản phẩm dạng này có thể được thấy rất dễ dàng ở Anh Quốc và ngày càng gia 
tăng về số lượng trong các quán bar và quán rượu.
Bởi vì bia trong thùng bốc thì không qua thanh trùng – và đôi khi bia cũng không 
được qua loc – cho nên vẫn giữ được mùi vị tươi mới hơn so với các dạng bia đã được 
rót vào chai hay lon. Tuy nhiên, hệ thống các đại lý phân phối phải được thiết kế sao  
cho quá trình vận chuyển, phân phối sản phẩm tiến hành thuận lợi cũng như hàng hóa  
được xoay vòng nhanh chóng để từ đó góp phần đảm bảo chất lượng sản phẩm.
 Bia đóng chai có kiểm soát
Một số nhà sản xuất bia rượu đã theo cách thức truyền thống là rót trực tiếp bia mà  
vẫn còn chứa nấm men vào trong bao bì. D đó CO2  dạng tự  nhiên vẫn được sinh ra 
thêm ngay trong bao bì đựng bia. Một điểm có lợi nữa là do bia không qua quá trình 
thanh trùng nên nấm men vẫn còn sống và chính chúng sẽ làm hạn chế sự xảy ra của  
các phản ứng gây làm mùi vị bia nhạt đi, từ đó giúp bảo toàn được mùi vị của bia.
Mặc dù việc sử dụng các sản phẩm này tốt nhất vẫn là khi chúng còn mới và được  
ủ lạnh nhưng chúng rất rõ ràng là có lợi hơn các sản phẩm bia đóng chai khác.
Để kiểm soát quá trình đóng chai này, trước khi chiết rót, ta cần phải xác định mức 
độ giới hạn màu nâu của lớp men dưới đáy chai.
21


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN
 Bia tươi đóng chai
Các sản phẩm này – đáng chú ý nhất là Miller Genuine (MGD)­ được sản xuất 
bằng phương pháp lọc vô trùng do đó gữ được mùi vị tươi mới của bia tốt hơn là các  
sản phẩm bia thanh trùng đựng trong các chai và lon.
Bia đựng trong các chai nâu
Đây là dạng bao bì thường được sử dụng nhất bởi hầu hết các công ty bia. Mặc dù 
bia vẫn qua quá trình thanh trùng, tuy nhiên nó vẫn giữ được cả sự hài hòa lẫn cường  

độ mùi vị hết sức đặc trưng cho bia.Những người uống bia sành điệu quan sát hạn sử 
dụng in trên nhãn chai để có thể mua được sản phẩm bia tươi nhất.
 Bia đựng trong các chai xanh
Các chai màu xanh thường được quảng cáo là dành cho các sản phẩm có giá trị cao. 
Thế  nhưng chúng hoàn toàn không tốt đối với mùi vị  của bia. Không giống với các  
chai nâu, các chai xanh không thể ngăn cản sự truyền ánh sáng qua do đó sẽ có sự xảy  
ra các phản  ứng vốn tạo thành mùi hôi trong bia. Thông thường, bia đựng trong chai  
xanh luôn có mùi này và hiện nay, đa số người tiêu dùng chấp nhận nó, thậm chí còn 
than phiền khi không có nó.Với những người tiêu dùng mà không thích mùi này thì họ 
nên mua các sản phẩm đựng trong các hộp kín, không tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng  
hay có thể sử dụng các sản phẩm bia tươi.
 Bia lon
Giống như  trường hợp bia chai, bia lon cũng được thanh trùng sau khi rót và hầu 
như  người ta không nhận thấy có sựu khác biệt về  mùi vị  của bia. Tuy nhiên, khả 
năng mùi vị của bia lon bị nhạt đi­ thường khá hiếm – thì lớn hơn so với bia chai bởi vì 
khi chế tạo lon, người ta sử dụng thêm các chất bôi trơn, các loại sơn và các lớp phủ 
và chính các vật liệu này có thể hấp thu các mùi vị vốn có của bia.
 Bia chứa trong các chai nhựa
Gần đây, sản phẩm bia  ở các dạng chai nhựa được tung ra thị trường lần đầu tiên 
bởi công ty rượu Miller. Các chai dụng chứa bia dạng này được chế  tạo bằng những 
loại nhựa đặc biệt gồm 5 lớp nhằm bảo vệ bia tránh khỏi sự  xâm nhập của O 2 đồng 
thời giúp bia tránh được “mùi hôi” gây ra bởi ánh sáng, cho phép bia có thể bán trên thị 
trường ở các dạng bao bì trong suốt không màu mà chất lượng không bị giảm như các 
22


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN
sản phẩm bia khác. Tuy nhiên, sản phẩm dạng này chỉ  mới được đưa ra trên một số 
thị trường giới hạn và vẫn chưa đa dạng về chủng loại.


23


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

CHƯƠNG 3 CÔNG NGHỆ CHẾ TẠO LON NHÔM – RÓT BIA 
VÀO LON
3.1. Công nghệ chế tạo lon nhôm 
3.1.1 Nguyên liệu
3.1.1.1 Nguyên liệu chính
Nguyên liệu chính là sản phẩm của công nghệ  chế  tạo nhôm. Lon nhôm chịu tác 
động cơ học kém, khi bao bì nhôm chứa những chất lỏng có gas, áp lực tạo thành bên  
trong làm lon nhôm trở nên cứng và vững.
Nhôm:
Yêu cầu có độ tinh khuyết cao 99 – 99.8%
Độ dày lá nhôm 7, 9, 12, 15, 18 μm. 
Lá nhôm thường có những lỗ kim với độ  dày 7 μm có thể  có  800 lỗ/m2 laù:độ 
dày 9 μm có khoảng 200 loã/m2 lá.
3.1.1.2 Nguyên liệu phụ
Là mốt số  kim loại như  Fe, Cu, Mn, Si… Thành phần % 0.25Si, 0.04Fe, 0,05Mg, 
0,03Zn.
3.1.2 Quy trình công nghệ
3.1.2.1 Quy trình chế tạo nhôm tấm

24


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM     GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN




Giải thích quy trình:
• Khâu tinh chế:
­ Nhôm sau khi khai thác từ quặng được đưa tới nhà máy để nghiền nhỏ, sau đó 

thực hiện phản ứng hóa học bayer để chiết lọc ra nhôm.
­ Nhôm làm bao bì có độ  tinh khiết đến 99%, 1% còn lại là những thành phần 
kim loại khác như Si, Fe, Cu, Mn, Mg, Zn, Ti.
­ Nhôm này sẽ được nung nóng để loại bỏ hơi ẩm.

• 
Khâu điện phân:
­

Đây là phòng chứa các nồi điện phân, 1 dòng điện chạy trong nồi điện phân này 

sẽ giúp ta thực hiên phương pháp điện phân để tách nhôm ra.
­

Có một chiếc cầu chuyển nhôm đến từng nồi điện phân với những  nguyên tố 

hóa học bổ sung như canxi florua hoặc nhôm florua để giảm độ nóng chảy của nhôm.
­

Dòng điện phóng ra từ anot chuyển qua lớp nhôm tan chảy trong nồi và tiến tới 

đáy nồi điện phân, ở đó có catot. Dưới tác dụng nhiệt nóng chảy của nhôm các anot sẽ 
tan chảy dần dần và cần được thay theo định kỳ. Công việc này cần được thực hiện  

25



×