KHOA HÓA LÝ KỸ THUẬT
BỘ MÔN CÔNG NGHỆ HÓA HỌC
*******
THẢO LUẬN HÓA VÔ CƠ
Chủ đề: Vật Liệu Chịu
Nhiệt
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU
1. VẬT LIỆU CHỊU NHIỆT: VLCN
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Nhiệt độ chịu lửa của một số VLCN
Bảng 2: Nhiệt độ biến biến dạng dưới tải trọng 2kg/cm2của VLCN
5
MỞ ĐẦU
Vật liệu là các chất liệu để làm ra hoặc tạo nên một vật. Từ khi nền văn
minh của loài người xuất hiện, con người sử dụng các vật liệu theo cùng với
năng lượng để nâng cao chất lượng cuộc sống của mình. Vật liệu ở khắp nơi
bao quanh chúng ta bởi các sản phẩm đều được làm từ các vật liệu. Một vài
vật liệu thông dụng như: gỗ xây dựng, bê tông, gạch, thép, chất dẻo, thủy
tinh, cao su, nhôm, đồng và giấy. Ngoài ra còn rất nhiều vật liệu khác, chỉ cần
chúng ta nhìn xung quanh chúng ta là thấy. Do vậy các vật liệu mới được
nghiên cứu và phát triển không ngừng.
Sự phát triển khoa học công nghệ VLCN, bắt đầu từ thế kỷ XIV, khi
xuất hiện các lò cao, nhưng ngành công nghiệp sản xuất VLCN dưới dạng
gạch samôt thương phẩm mới có ở Đức lần đầu tiên vào năm 1810, ở Anh vào
năm l822, ở Nga vào năm l 856. Một số VLCN ta thường gặp như gạch chịu
nhiệt, xi măng chịu nhiệt... do đóng vai trò đặc biệt đối với nền công nghiệp
nên VLCN có lịch sử phát triển khá lâu dài gắn liền với sự phát triển khoa
học kỹ thuật và nền công nghiệp thế giới. Ví dụ như tại châu Âu, cuối thế kỷ
XIV gạch samot đóng thành viên từ đất sét chịu lửa bắt đầu được sản xuất
nhưng đến năm 1856 mới xây dựng nhà máy sản xuất đầu tiên ở Nga đến
năm 1997, ở nước ta mới có 3 nhà máy sản xuất VLCN nhưng chỉ sản xuất
gạch chịu lửa samot.
Nhìn chung trên thế giới chỉ có khoảng 35 nước phát triển ngành
công nghiệp VLCN, trong đó hơn một nửa sản lượng của thế giới tập
trung ở Mỹ và Liên Xô cũ. Vào giữa thế kỷ XX do đòi hỏi của công
nghiệp chiến tranh và sự phát triển của ngành khoa học kỹ thuật vũ trụ,
các VLCN mới càng phát triển mạnh mẽ theo hướng các oxyt, cacbua,
6
silixua, borua, nitrua, các kim loại hiếm và đất hiếm cũng như các kim
loại và hợp kim chịu lửa. Ở Nhật Bản và sau đó là Mỹ người ta đã sản
xuất thử nghiệm thành công loại động cơ diezel đoạn nhiệt bằng vật liệu
gốm chịu lửa ZrO2 ổn định bằng Y2O3. Động cơ này làm việc ở nhiệt độ
trên 1000oC có hệ số tác dụng hữu ích 48%. Các động cơ đoạn nhiệt và
các loại tuabin khí bằng vật liệu chịu lửa composit gốm.
7
CHƯƠNG 1
KHÁI NIỆM MỞ ĐẦU VÀ CÁC TÍNH CHẤT CƠ
BẢN CỦA VẬT LIỆU CHỊU NHIỆT
1.1 Khái niệm
VLCN là vật liệu làm việc ở nhiệt độ cao, ở điều kiện khắc nghiệt
mà không thay đổi tính chất hóa lý.
VLCN là vật liệu dùng để xây dựng các lò công nghiệp , các ghi đốt, các
thiết bị làm việc ở nhiệt độ cao (>10000), ở đấy chúng chịu đựng lâu dài đối
với các tác dụng khác nhau về mặt cơ học và hóa lí. Chúng khác với các vật
liệu xây dựng khác về những yêu cầu sau:
Nhiệt độ đốt nóng trong các ghi đốt và lò công nghiệp hiện đại dao động
trong khoảng 100018000C . Vì vậy VLCN phải có độ chịu nhiệt nghĩa là khả
Thường đa số VLCN nóng chảy ở nhiệt độ cao hơn 16501750 0C nhưng
ở nhiệt độ thấp hơn nhiều các VLCN bắt đầu mềm và mất cường độ xây
dựng. Vì thế tác dụng của nhiệt độ cao lên VLCN không phải giới hạn ở
nhiệt độ nóng chảy của chúng mà chất lượng của VLCN được đánh giá bằng
khả năng chống lại các tác dụng của tải trong xây dựng ở nhiệt độ xác định.
Khi chịu tác dụng bởi nhiệt độ cao, phần lớn các VLCN đều giảm thể
tích do hiện tượng kết khối phụ. Một số khác lại tăng thể tích như Dinat. Sự
8
biến đổi thể tích của VLCN có thể gây nên hư hỏng và phá hủy vỏ lò. Vì vậy
VNCN phải có thể tích ổn định ở nhiệt độ dùng của chúng.
Sự thay đổi nhiệt độ của lò khi đốt nóng và làm nguội cũng như khi đốt
nóng vỏ lò không đều cũng gây nên nứt vỡ VLCN. Do vậy cần phải có độ
bền nhiệt.
Lớp gạch lót trong lò công nghiệp hay các ghi đốt dễ bị hủy hoại do tác
động hóa học với tro xỉ nhiên liệu hay với các vật liệu nấu hay nung trong đó,
vì vậy một yêu cầu nữa là cần có độ bền hóa.
Hiện nay vẫn chưa có loại VLCN nào tập hợp đầy đủ các tính chất làm
việc cần thiết để sử dụng một cách chắc chắn trong các điều kiện bất kì.
Mỗi dạng VLCN được đặc trưng bởi những tính chất nào đó của nó, trên cơ
sở đó người ta xác định phạm vi sử dụng thích hợp. Ví dụ: Dinat ở nhiệt độ
cao có cường độ xây dựng lớn, có thể dùng rất tốt để xây vòm lò làm việc ở
nhiệt độ cao. Trong khi đó gạch manhêdi thường có độ chịu lửa cao và bền xỉ
nhưng độ bền nhiệt thấp, nhiệt độ biến dạng dưới tải trọng thấp không thể
dùng ở vòm lò có lực xiên ngang.
1.2 Phân loại
Có nhiều cách phân loại
1.2.1 Theo bản chất hoá lí của nguyên vật liệu ban đầu
Theo bản chất hoá lí của nguyên vật liệu ban đầu có thể chia VLCN làm
8 nhóm chính:
Nhóm silic: Gồm 2 nhóm nhỏ là dinat và thạch anh
9
a) Dinat là loại VLCN chứa >= 93% SiO 2, sản xuất từ quặng của quắc
và chất liên kết là vôi hoặc chất khác, nung ở nhiệt độ đảm bảo quắc biến
đổi đa hình thành tridimit và cristobalit. Dinat là loại VLCN axit, nó rất bền
đối với xỉ axit, tro nhiên liệu. Ôxyt kim loại ăn mòn dinat tạo thành hợp chất
silicat dễ nóng chảy.
Nguyên liệu chủ yếu để sản xuất dinat là các quặng của quắc có thành
phần chủ yếu là SiO2 ở các dạng tinh thể và vô định hình. Sự biến đổi đa hình
của chúng quyết định quá trình kỹ thuật và tính chất của sản phẩm.
b) Thạch anh nóng chảy ở 1600 1670 0C. Nhiệt độ nóng chảy của nó
không thể xác định chính xác được vì có sự biến hóa một phần sang những
dạng đa hình khác với tỉ lệ khác nhau tùy theo điều kiện bên ngoài.
Thạch anh tinh khiết nhất gặp trong thiên nhiên gồm những tinh thể
trong suốt và không màu được gọi là pha lê thiên nhiên. Khi có lẫn tạp chất,
thạch anh có các màu khác nhau: hồng, tím, nâu, lục. Những dạng này được
coi là đá quý.
Thạch anh là chất có hoạt tính quang học. Dựa vào hoạt tính này người
ta chia thạch anh làm hai dạng: thạch anh quay phải và thạch anh quay
trái.Ngoài đặc tính quang học thạch anh còn có tính áp điện.
Người ta dùng những tinh thể lớn của thạch anh vào trong các máy phát
siêu âm còn những tinh thể nhỏ thạch anh dùng trong các đầu đọc của máy thu
nhanh và máy quay đĩa.
Thạch anh thuộc loại khoáng vật hết sức phổ biến.Tinh thể thạch anh
tinh khiết dùng để làm thấu kính và lăng kính. Đá quaczit và cát là loại thạch
anh kém tinh khiết hơn. Trong phòng thí nghiệm, ngoài những dụng cụ bằng
thủy tinh người ta còn dùng những dụng cụ như chén, bát,ống thử..làm bằng
10
thạch anh(hay còn gọi là thủy tinh thạch anh). Ưu điểm nổi bật của thủy tinh
thạch anh có hệ số dãn nở rất bé và hầu như không thay đổi theo nhiệt độ nên
chịu được sự thay đổi nhiệt độ rất đột ngột. Loại thủy tinh này không ngăn
giữa tia tử ngoại nên được dùng trong các máy tia tử ngoại.
Nhóm Alumôsilicat: Gồm 3 nhóm nhỏ: Bán axit, sămôt, cao alumin
Bán axit chứa Al2O3 ≤30% (1530%)
Sămôt chứa Al2O3 = 3045% sản xuất từ đất sét và cao lanh chịu lửa
cộng với phụ gia gầy Sămôt (tức đất sét đã nung đến kết khối) hoặc đất sét
không dẻo cộng chất kết dính là đất sét và cao lanh.
Cao Alumin chứa Al2O3>45% loại này có chất lượng cao, đáp ứng được
yêu cầu tăng cường quá trình nhiệt trong các lò công nghiệp, đảm bảo độ
bền, chịu tải trọng và chịu tác dụng của môi trường khí ở nhiệt độ cao. Nó
được sử dụng trong tất cả những điều kiện làm việc rất nặng nề mà Sămôt
không thể chịu đựng nổi. Tùy hàm lượng Al2O3 có trong sản phẩm chia 3 loại:
+ Loại A: chứa từ 4560% Al 2O3
+ Loại B: chứa từ 6075% Al2O3
+ Loại C: chứa > 75%
Tùy theo thành phần khoáng chia sản phẩm ra làm 4 loại:
+ Loại silimanit: 4570% Al2O3
+ Loại mullit: 7078% Al2O3
+ Loại mullit corun 7895% Al2O3
+ Loại corun: > 95% Al2O3
11
Hàm lượng Al2O3 không chỉ là dấu hiệu để chia loại sản phẩm mà nó
còn quyết định những tính chất cơ bản của sản phẩm cao alumin cũng như
qua đó để lựa chọn nguyên liệu và kỹ thuật thích hợp.
VLCN thuộc nhóm alumosilicat có cấu tạo chủ yếu từ SiO 2 và Al2O3 .
Các oxit khác có trong sản phẩm là các tạp chất. Thành phần và hàm lượng
của tạp chất này phụ thuộc vào độ tinh khiết của nguyên liệu ban đầu. Hàm
lượng Al2O3 dao động trong khoảng lớn từ 1015% ở sản phẩm bán axit đến
99100% ở sản phẩm cao alumin. Sự thay đổi thành phần hóa học của sản
phẩm alumosilicat tương ứng với sự thay đổi thành phần pha của chúng. Từ
thành phần pha ta có thể phán đoán được tính chất của sản phẩm.
Nhóm Manhêdi: Gồm 4 nhóm nhỏ: Đôlômit, Forsterit, Spinen, manhêdi
VLCN manhêdi là loại VLCN kiềm tính điển hình, chứa 8085% periclaz
(MgO) đôi khi nhiều hơn , nhiệt độ chịu lửa >2000oC ( nhiệt độ nóng chảy
của MgO nguyên chất 2800oC ). Tạp chất chủ yếu trong sản phẩm manhêdi
SiO2, CaO, Al 2O3 và Fe2O3 . Ở nhiệt độ cao chúng tạo ra một số khoáng
có độ chịu lửa cao , một số có độ chịu lửa thấp . Có hai loại VLCN manhêdi :
Loại viên và loại bột. Loại viên để xây tường lò , loại bột dùng để đầm lò .
Nhóm crômit: Gồm 2 nhóm nhỏ: Crômit, crôm manhêdi
VLCN Crôm manhêdi (CrMg) là sản phẩm sản xuất từ 2 nguyên liệu
crômit và manhêdi kết khối. Khoáng chủ yếu trong sản phẩm này thuộc loại
nhóm khoáng Spinen với công thức chung R2+O, R3+2O3. (R2+ là Mg2+, Fe2+; R3+
là Cr3+, Fe3+, Al3+...)
Crômit là quặng mà thành phần khoáng (Fe,Mg).(Cr,Al)2O4 chiếm ~
80%. Khoáng nguyên chất của crômit là FeO.Cr2O3 nhưng hiếm gặp trong
12
thiên nhiên. Trong quặng crômit ngoài crômspinen ra còn có lẫn 20% khoáng
tạp như Serpentin (M3S2H2) clorit, một ít canxit.
Thành phần hoá của quặng crômit dao động trong một khoảng rộng:
Cr2O3 1862%, Fe2O3 03%, FeO 020%, MgO 616%, Al 2O3 033%. Ngoài ra
còn có: 2% TiO2, 0,2% V2O5, 1% MnO, 0,1% NiO, 0,01% CoO và đến 2% CaO.
Tuỳ theo hàm lượng Cr2O3 chia quặng crômit làm 4 loại :
+ Quặng nghèo: Cr2O3 <40%
+ Quặng trung bình 4045%
+ Quặng giàu 4550%
+ Quặng rất giàu >50%
Crômit để sản xuất VLCN yêu cầu: Cr2O3=3540%, phần phi quặng
<20% ( là Serpentin thì tốt hơn là clorit vì clorit chịu lửa kém hơn, khó biến đổi
khi nung hơn )
Nhóm Zircôn: Gồm 2 nhóm nhỏ: Silicat Zircôn (ZrSiO4) và Zircôn
(ZrO2)
Silicat Zircon chứa ZrO2: 67,1% ; SiO2: 32,9% được sử dụng rộng rãi
trong các đồ gốm khác nhau xây dựng, sứ vệ sinh, gốm sứ, sản xuất gốm sứ
và hàng thủ công khác trong gốm sứ men chế biến, sử dụng một loạt các khối
lượng ứng dụng. Lý do tại sao các silicat zirconi được sử dụng rộng rãi trong
sản xuất gốm sứ, mà còn vì sự ổn định hóa học của họ, và do đó không bị ảnh
hưởng bởi không khí bắn gốm sứ, và có thể cải thiện đáng kể tính chất ràng
buộc của men sứ, cải thiện độ cứng của gốm tráng men.
Silicat Zircon cũng là một hình ảnh màu sắc ngành công nghiệp truyền
hình ống, ngành công nghiệp thủy tinh nhũ tương kính, sản xuất men men đã
13
được áp dụng tiếp. Nhiệt độ nóng chảy cao của zircon silicat: 2500 oC, vì vậy
trong vật liệu chịu lửa, thủy tinh lò, các hợp chất, sơn cũng đã được sử dụng
rộng rãi.
Nhóm cácbon: Gồm 2 nhóm nhỏ: Cốc và Grafit
Than cốc là sản phẩm tạo thành từ than đá, là loại than chứa ít lưu
huỳnh và ít tro nhờ quy trình luyện than đá thành than cốc ở điều kiện yếm
khí trên 1000°С. Các thành phần dễ bay hơi như nước, khí than và tro than đã
bị loại bỏ gần như hoàn toàn. Cacbon và các phần tro còn lại bị hòa tan lẫn
vào nhau. Một phần cacbon bị chuyển sang dạng giống như than chì (hay
graphít).
Than cốc được sử dụng để nung chảy gang (cốc lò cao) cũng như làm
nhiên liệu không khói chất lượng cao, làm chất khử trong các công nghệ
luyện kim từ quặng sắt, các chất làm tơi trong phối liệu. Than cốc cũng được
sử dụng như là nhiên liệu trong sản xuất gang đúc hay các mục đích sử dụng
thông thường, trong các công nghiệp hóa chất và luyện các hợp kim của sắt
(các dạng cốc đặc biệt). Cốc lò cao cần phải có kích thước các cục không
nhỏ hơn 2540 mm với số lượng các cục cốc nhỏ hơn 25 mm và lớn hơn 80
mm không vượt quá 3%. Than cốc sử dụng để đúc gang theo kích thước
không được nhỏ hơn than cốc lò cao, các cục cốc trong trường hợp này có
kích thước không nhỏ hơn 6080 mm. Sự khác biệt chính giữa cốc lò cao và
cốc đúc là hàm lượng lưu huỳnh nhỏ hơn, nó không được vượt quá 1% (trong
cốc lò cao có thể tới 2%). Trong công nghiệp luyện các hợp kim của sắt
người ta sử dụng các cục than cốc nhỏ (ví dụ, các cục kích thước 1025 mm),
trong trường hợp này thì người ta cần tốc độ phản ứng nhanh chứ không phải
hàm lượng các tạp chất có trong than cốc. Các yêu cầu đối với độ bền vững
14
của than cốc thông thường là không quá nghiêm ngặt so với cốc lò cao hay
cốc đúc. Trong mọi loại hình sản xuất than cốc thì loại nguyên liệu được ưa
chuộng là các loại than có độ xốp cao, ít tro và chứa ít lưu huỳnh và chứa
không nhiều các thành phần tạo cốc cục nhỏ. Sản lượng than cốc sản xuất
trên thế giới khoảng 400 triệu tấn/năm.
Grafit là một biến dạng của cacbon có cấu trúc tinh thể nhất định,
Grafit kết tinh trong hệ sáu phương. Các tinh thể có dạng bản hay tấm sáu
góc; tập hợp vảy mỏng, grafit có màu đen sắt đến xám thép, vết vạch đen
ánh. Ánh của grafit có dạng đen sắt đến xám thép, vết vạch đen ánh. Ánh của
grafit có dạng kim loại mạnh, tập hợp ẩn tinh mờ, độ cứng là 1 ở dạng từ
mỏng, grafit giòn, sờ nhờn tay, quệt làm bẩn tay và bẩn giấy.
Grafit được dùng trong nhiều ngành kinh tế quốc dân. Nó được dùng
trong công nghiệp kỹ thuật điện ( pin, ắc quy kiềm, các điện cực, than phát
sáng, than để hàn điện, tiếp xúc trượt.v.v…). Trong ngành đúc và trong công
nghiệp đồ góm ( nồi nấu, khuôn đúc v.v..) khi sản xuất các sản phẩm chịu
hóa chất ( bể điện phân, nồi nấu giấy v.v…), trong ngành năng lượng nguyên
tử hạt nhân ( các chi tiết của lò phản ứng nguyên tử hạt nhân) để sản xuất
bút chì, sơn, vật liệu mài, vật liệu chống xỉ bọt (đúc).
Trong công nghiệp luyện kim, VLCN được sử dụng nhiều nhất: các lò
cao, lò luyện thép (lò Mactanh, lò thép thổi), lò nấu luyện các kim loại màu, lò
điều chế các kim loại sạch và siêu sạch,... Nhu cầu VLCN của công nghiệp
luyện kim chiếm gần một nửa khốí lượng VLCN sản xuất ra trên thế giới.
Có thể hình dung lượng VLCN tiêu tốn cho gang thép bằng 10% sản lượng
gang thép sản xuất ra. Ngoài ra VLCN còn được sử dụng cho công nghiệp hóa
chất, chế tạo máy, công nghiệp năng lượng để lót các lò nung xi măng, lò nấu
15
thủy tinh, lò khí hóa than, các nồi hơi, lò điện... Ngày nay với sự phát triển
của khoa học vật liệu, người ta còn dùng VLCN mới để chế tạo các động cơ
đốt trong đoạn nhiệt (adiabatic) làm việc ở nhiệt độ cao hơn 1000oC không
cần hệ thống làm nguội để tăng hệ số tác dụng hữu ích (theo nguyên lý
Carno), chế tạo các tuabin khí làm việc lâu dài ở nhiệt độ rất cao, chế tạo các
buồng đốt nhiên liệu và đầu phun khí đốt của các động cơ phản lực, chế tạo
vỏ tên lửa, vỏ vệ tinh. Lò phản ứng của các nhà máy điện nguyên tử đòi hỏi
VLCN vừa có tác dụng hấp thụ nơtron tốt vừa chịu được nhiệt độ cao. Công
nghệ chế biến các hợp chất siêu sạch cũng đòi hỏi VLCN bền với các chất
hóa học liên quan để làm bình phản ứng, nồi lò, chén nung...
Nhóm Cacbua Nitrua: Gồm 2 nhóm nhỏ: Cacborun và các loại khác
Cacborun là hợp chất của silic với cacbon ( SiC ): là vật liệu rát cứng sử
dụng để xây dựng buồng hồi nhiệt.
Nhóm oxyt: Các oxyt tinh khiết
1.2.2 Theo độ chịu lửa
Chia làm 3 loại:
Loại chịu lửa thường: Độ chịu lửa từ 15801770oC
Loại cao lửa: Độ chịu lửa 17702000oC
Loại rất cao lửa : độ chịu lửa >2000oC
1.2.3 Theo đặc tính gia công nghiệt:
Chia làm 3 loại:
Loại không nung
Loại nung
Loại đúc từ chất nóng chảy
16
1.2.4 Theo phương pháp sản xuất:
Chia làm 3 loại:
Sản phẩm nén dẻo, nén bán khô hoặc nén dập từ phối liệu dạng bột
không dẻo
Sản phẩm đúc từ hồ và chất nóng chảy
Sản phẩm cưa từ quặng
1.2.5 Theo độ xốp:
Chia làm 3 loại:
Loại kết khối : Có độ xốp nhỏ hơn 1 %
Loại đặc: Có độ xốp từ 1030 %
Loại kết khối :Có độ xốp lớn hơn 50 %
1.3 Các tính chất cơ bản
1.3.1 Độ chịu lửa:
Khái niệm: Là khả năng chống lại tác dụng của nhiệt độ cao không bị
nóng chảy
Độ chịu lửa là một hằng số kỹ thuật, nó khác với nhiệt độ nóng chảy
của vật liệu là một hằng số lí học. Nhiệt độ nóng chảy là nhiệt độ ứng với
trạng thái cân bằng giữa pha tinh thể và pha lỏng. Điểm nóng chảy cũng là
nhiệt độ kết tinh của vật chất bị nóng chảy, vì ở nhiệt độ đó trạng thái cân
bằng của quá trình nóng chảy và kết tinh là thuận nghịch. Để xác định độ chịu
lửa của vật liệu người ta dùng côn để đo.
Độ chịu lửa của vật liệu thí nghiệm phụ thuộc vào tính chất của vật
liệu và điều kiện thí nghiệm như: Thành phần hoá, thành phần khoáng, thành
phần hạt, tốc độ nâng nhiệt, hình dạng kích thước mẫu thí nghiệm, môi
17
trường thí nghiệm... Các vật liệu có thành phần hoá và thành phần khoáng
khác nhau sẽ có nhiệt độ chịu lửa khác nhau.
Bảng 1: Nhiệt độ chịu lửa của một số VLCN
Loại vật liệu
Quắc
Dinat
Đất sét chịu lửa
Cao lanh
Sămôt
Bán axit
Độ chịu lửa (oC) Loại vật liệu
Độ chịu lửa (oC)
1730 1750
Cao alumin
1780 2000
1710 1720
Manhedi
>2300
1580 1750
Crom manhedi
>2000
1740 1770
Đôlomit
>2000
1610 1750
Forsterit
1800 – 1850
( 2MgO.SiO2 85% +
MgO.Fe2O3 15% )
1610 1710
1.3.2 Cường độ xây dựng ở nhiệt độ cao
Là khả năng chống lại đồng thời tác dụng của nhiệt độ và tải trọng cơ
học. Tính chất này được đặc trưng bởi nhiệt độ biến dạng dưói tải trọng tĩnh
2 kg/cm2, biểu thị khoảng mềm khi đó sản phẩm sẽ bị biến dạng dẻo.
Tải trọng thực tế thường nhỏ hơn tải trọng kiểm tra nhiều lần. Cao
nhất 0,51kg/cm2.
Để xác định nhiệt độ biến dạng dưói tải trọng tĩnh 2kg/cm2 theo tiêu
chuẩn Liên Xô (GOST 407048) ngưòi ta cắt sản phẩm ra thành hình trụ có
18
đường kính 36mm, cao 50mm. Mẫu này đặt trong lò điện và luôn chịu một tải
trọng không đổi 2kg/cm2. Cạnh lò có một hệ thống cơ học ghi sự biến dạng
của sản phẩm.
Tốc độ nâng nhịêt: đến 800oC không qúa 10oC /phút. >800oC 45oC/phút.
Quá trình xác định sẽ tìm ra 3 nhiệt độ:
Nhiệt độ bắt đầu biến dạng: Ứng với độ lún của mẫu 0,3mm
Nhiệt độ biến dạng 4%: Ứng với độ lún của mẫu 2mm
Nhiệt độ kết thúc biến dạng hay là nhiệt độ phá huỷ: Ứng với độ lún
của mẫu 40% chiều cao ban đầu.
Bảng 2: Nhiệt độ biến biến dạng dưới tải trọng 2kg./cm2 của
VLCN
Nhiệt độ biến dạng dưới tải trọng 2 kg/cm2 (oC)
VLCN
BD
4%
40%
Dinat
1650
Bán axit
1400
1430
1500
Sămot B
1250
1320
1500
Sămot A( Al2O3 40%) 1400
1470
1600
Cao lanh (Al2O3 42%) 1450
1550
1650
Mullit kết khối
1600
1660
1800
1870
1900
1670
(Al2O3 70%)
Côrun (Al2O3 99%)
Manhedi ( 99% MgO) 1550
1580
Crom Manhedi
1450 1550
1480 1600
Forsterit
1550 – 1650
1650 1710
Đôlomit
1550 1610
1630 1680 1650 1690
19
Nhiệt độ biến dạng của VLCN chủ yếu phụ thuộc vào thành phần
khoáng hoá, vào đặc tính cấu trúc, vào tỉ lệ giữa pha tinh thể và pha thuỷ tinh,
vào độ nhớt của pha lỏng tạo ra khi nóng chảy pha thuỷ tinh và tinh thể dễ
chảy.
Nhiệt độ biến dạng dưới tải trọng của VLCN đi từ các oxyt tinh khiết
thường gần với nhiệt độ nóng chảy của nó, vì trong thành phần pha của sản
phẩm lượng pha thuỷ tinh hầu như không có hoặc có chỉ rất ít. Khi các pha
tinh thể chủ yếu bắt đầu hoá mềm và biến dạng dẻo (sắp nóng chảy) thì sản
phẩm mới bắt đầu bị biến dạng. Nhưng VLCN thường chứa một lượng tạp
chất nên ở nhiệt độ cao chúng tạo một lượng pha lỏng làm hạ thấp nhiệt độ
biến dạng của sản phẩm so với độ chịu lửa càng lớn. Lúc này đặc tính cấu
trúc phần tinh thể có giá trị lớn. Các tinh thể chủ yếu đủ lớn tạo được một
khung xương vững chắc, khắc phục được ảnh hưởng có hại của pha lỏng sẽ
làm tăng nhiệt độ biến dạng . Thể hiện rõ nhất ở Dinat.
Dinat: có cấu trúc mạng lưói tinh thể trydimit rối loạn xen kẽ nhau chặt
chẽ làm cho nhiệt độ mềm của dinat cao so với độ chịu lửa và đạt tới 1650
1670oC. Khoảng cách giữa độ chịu lửa và độ biến dạng gần 5070 oC mặc dù
dinat ngoài SiO2 còn có 46% tạp chất tạo 1015% pha lỏng. Độ nhớt của pha
thuỷ tinh nóng chảy cao. Các tinh thể trong dinat là liên kết bền vững, nó hoà
tan trong pha lỏng không đáng kể.Vì thế dinat chỉ bị phá huỷ khi tridimit bắt
đầu nóng chảy ở 16501670oC. Ở nhiệt độ này tốc độ phá huỷ sản phẩm rất
nhanh (hiệu nhiệt độ giữa bắt đầu biến dạng và kết thúc biến dạng chỉ có 10
20oC) đường cong biến dạng gần như dốc thẳng đứng.
Sản phẩm manhêdi: Chứa 91% MgO, gồm 90% tinh thể periclaz, 10%
còn lại gồm MgO+ các tinh thể dễ chảy chủ yếu là silicat và pha thuỷ tinh.
20
Tinh thể periclaz khi tái kết tinh và lớn lên có dạng hạt không phải que hay
trụ nên không tạo một mạng tinh thể chặt chẽ trong sản phẩm. Các hạt tinh
thể liên kết nhau bằng một lớp chất dễ chảy mỏng. Nếu lớp này mềm ra,
chảy ra sẽ làm sản phẩm mềm và biến dạng. Vì vậy nhiệt độ biến dạng của
manhêdi xấp xỉ 1550oC tức chính là nhiệt độ nóng chảy chất liên kết. Khoảng
cách giữa nhiệt độ biến dạng và nhiệt độ chịu lửa khoảng 700 oC. Độ nhớt
pha liên kết giảm khá nhanh khi tăng nhiệt độ nên sản phẩm manhêdi có
khoảng biến dạng ngắn (2050oC), đường cong biến dạng ở giai đoạn cuối
dốc gần như thẳng đứng.
Sămốt: Sản phẩm này bị biến dạng hơi khác khi tăng nhiệt độ. Sămốt
chứa gần 50% mullit ( A3S2) chịu lửa cao nhưng tinh thể hình kim nhỏ không
tạo thành liên tinh thể bền vững. Phần còn lại là pha thuỷ tinh silic có độ nhớt
cao. Vì thế khi tăng nhiệt độ khối thuỷ tinh mềm ra, độ nhớt giảm dần, pha
lỏng tăng lên làm Sămốt biến dạng từ từ. Mẫu thí nghiệm không bị phá huỷ
ngay mà bị phình ra theo hình tang trống. Khoảng biến dạng dài 150
200oC.λλλλλ
1.3.3 Độ bền nhiệt (bền xung nhiệt)
Sự thay đổi nhiệt độ ở các lò nung và thiết bị làm việc gián đoạn hay sự
dao động nhiệt độ ở các lò và thiết bị làm việc liên tục có thể gây nứt vỡ
gạch xây dựng. Tính chất của VLC chống lại sự dao động nhiệt độ không bị
phá huỷ gọi là độ bền nhiệt.
Nguyên nhân làm vỡ gạch vì dao động nhiệt là do khi đốt nóng và làm
nguội sản phẩm sẽ có sự chênh lệch nhiệt độ dẫn đến xuất hiện ứng xuất
trong sản phẩm. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa các lớp song song với bề mặt
đốt nóng và làm nguội sản phẩm phụ thuộc vào điều kiện đốt nóng và làm
21
nguội, vào hệ số dẫn nhiệt độ . Hệ số dẫn nhiệt độ đặc trưng tốc độ phân
phối nhiệt độ trong vật liệu và nó phụ thuộc vào các đại lượng vật lí sau: hệ
số dẫn nhiệt, tỉ nhiệt, trọng lượng thể tích của vật liệu.
Như vậy nếu điều kiện đốt nóng và làm nguội như nhau thì vật liệu sẽ
có hệ số dẫn nhiệt lớn, gradien nhiệt độ trong vật liệu càng nhỏ.
Khi có sự chênh lệch nhiệt độ trong sản phẩm sẽ xuất hiện ứng suất do
giãn nỡ nhiệt không đều. Như vậy muốn cho sản phẩm bền vững thì sự
chênh lệch nhiệt độ giữa các lớp phải nhỏ, nghĩa là hệ số dẫn nhiệt lớn hệ
số giãn nõ nhiệt nhỏ.
Ngoài ra người ta còn thấy rằng:
Sản phẩm càng bền nhiệt nếu tính chất đàn hồi của vật liệu càng cao.
Kích thước và hình dạng sản phẩm cũng ảnh hưởng đến độ bền nhiệt.
sản phẩm có hình dạng nhiều góc cạnh, nhiều điểm uốn lượn thì kém bền
nhiệt hơn so với sản phẩm dạng đơn giản.
Thực tế đã chỉ ra rằng bằng cách làm tăng kích thước hạt trong phối
liệu (gạch Sămốt, manhêdi, corun) sẽ làm tăng độ bền nhiệt của vật liệu.
Nguyên nhân: với thành phần hạt như vậy cấu trúc của sản phẩm sẽ có
những vết nứt li ti, các mối đứt gần quanh các hạt lớn làm tính linh động của
các hạt tăng lên làm tăng độ bền nhiệt.
Phương pháp gia công phôi liệu và đóng khuôn sản phẩm cũng có thể
thay đổi độ bền nhiệt.
22
CHƯƠNG 2
CÁC ỨNG DỤNG
Vật liệu chịu nhiệt có nhiều ứng dụng trong công nghiệp, nghiên cứu
khoa học và đời sống.
CHƯƠNG 2: CÁC ỨNG DỤNG
2.1. Trong đời sống sinh hoạt
Rất nhiều đồ dùng sinh hoạt trong gia đình đc làm từ VLCN như:
Tô thủy tinh có thể sử dụng được trong lò vi sóng.
Xoong nồi
Bếp gas : Kiềng bếp, giá đỡ , đầu đốt
Bếp điện, bếp hồng ngoại: mặt kính và mâm nhiệt
Bóng đèn sợi đốt
Sơn
...
2.2. Trong công nghiệp
23
Công nghiệp VLCN là ngành công nghiệp sản xuất vật liệu sử dụng ở
nhiệt độ cao, dùng để xây các loại lò nung như lò nung gốm sứ, vật liệu chịu
nhiệt, xi măng, lò nấu thuỷ tinh, luyện kim, xây dựng các buồng hồi nhiệt,
buồng đốt nhiên liệu và các thiết bị làm việc ở nhiệt độ lớn hơn 10000C.
VLCN được sử dụng cho công nghiệp hóa chất, chế tạo máy, công
nghiệp năng lượng để lót các lò nung xi măng, lò nấu thủy tinh, lò khí
hóa than, các nồi hơi, lò điện...
Trong công nghiệp luyện kim, VLCN được sử dụng nhiều nhất: các
lò cao, lò luyện thép (lò Mactanh, lò thép thổi), lò nấu luyện các kim loại
màu, lò điều chế các kim loại sạch và siêu sạch,... Nhu cầu VLCN của
công nghiệp luyện kim chiếm gần một nửa khốí lượng VLCN sản xuất ra
trên thế giới. Có thể hình dung lượng VLCN tiêu tốn cho gang thép bằng
10% sản lượng gang thép sản xuất ra. Ngoài ra VLCN còn được sử
dụng cho công nghiệp hóa chất, chế tạo máy, công nghiệp năng lượng
để lót các lò nung xi măng, lò nấu thủy tinh, lò khí hóa than, các nồi hơi,
lò điện... Ngày nay với sự phát triển của khoa học vật liệu, người ta còn
dùng VLCN mới để chế tạo các động cơ đốt trong đoạn nhiệt (adiabatic)
làm việc ở nhiệt độ cao hơn 1000 oC không cần hệ thống làm nguội để
tăng hệ số tác dụng hữu ích (theo nguyên lý Carno), chế tạo các tuabin
khí làm việc lâu dài ở nhiệt độ rất cao, chế tạo các buồng đốt nhiên liệu
và đầu phun khí đốt của các động cơ phản lực, chế tạo vỏ tên lửa, vỏ vệ
tinh. Lò phản ứng của các nhà máy điện nguyên tử đòi hỏi VLCN vừa có
tác dụng hấp thụ nơtron tốt vừa chịu được nhiệt độ cao. Công nghệ chế
biến các hợp chất siêu sạch cũng đòi hỏi VLCN bền với các chất hóa
học liên quan để làm bình phản ứng, nồi lò, chén nung...
24
Tại Việt Nam, nhu cầu sử dụng VLCN đã có từ lâu, nhưng mãi tới khi
miền Bắc được giải phóng chúng ta mới bắt đầu xây dựng được một số nhà
máy sản xuất vật liệu chịu lửa có quy mô nhỏ, công suất nhỏ,nhiều máy móc
và thiết bị gia, điển hình như các nhà máy :
+ Nhà máy VLCN Cầu Đuống (nay là công ty cổ phần VLCL Viglacera
Cầu Đuống)
+ Nhà máy VLCN Thái Nguyên.
+ Nhà máy VLCN Tuyên Quang.
2.3. Cơ hội việc làm
Có thể làm việc tại:
Công ty sản xuất phụ tùng thay thế cho các thiết bị nông lâm ngư
nghiệp.
Các công ty cấu kiện, vật liệu xây dựng, vật liệu trang trí nội thất.
Các cơ quan đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Viện nghiên cứu thiết bị và cải tiến công nghệ. ...
25