Lý thuyết thị trường hiệu quả và tài chính hành vi
GVHD: Ths. Trương Minh Tuấn
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA : TÀI CHÍNH
TIỂU LUẬN THUYẾT TRÌNH MÔN:
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
ĐỀ TÀI 1: LÝ THUYẾT THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ VÀ TÀI CHÍNH
HÀNH VI
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THS.TRƯƠNG MINH TUẤN
NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN: NHÓM 8
1
S
T
T
HỌ VÀ TÊN
MSSV
0
1
Võ Như Phước
33161020011
0
2
Nguyễn
Dương
33161020049
0
3
Trần Thị Oanh
33161020008
0
4
Lê Thị Thanh Loan
33161020271
0
5
Vũ Thanh Xuân
33161020260
0
6
Nguyễn
Trung
T.Thùy
Thành
DANH SÁCH NHÓM 8
CÔNG VIỆC
Phần B. Lý
thuyết tài
chính hành vi
Phần A. Lý
thuyết thị
trường hiệu
quả
Phần B. Lý
thuyết tài
chính hành vi
Làm
Powerpoin
Phần A. Lý
thuyết thị
trường hiệu
quả
Làm
Powerpoin
KÝ TÊN
Lý thuyết thị trường hiệu quả và tài chính hành vi
GVHD: Ths. Trương Minh Tuấn
3
NHẬN XÉT GIÁO VIÊN
ĐIỂM
Lý thuyết thị trường hiệu quả và tài chính hành vi
GVHD: Ths. Trương Minh Tuấn
PHỤ LỤC
A.
Lý thuyết thị trường hiệu quả
I.khái niệm thị trường hiệu quả..................................................................trang
5
5
1. Các giả thuyết thị trường hiệu
quả.........................................................trang 5
2. đặc điểm của thị trường hiệu quả
II. hình thái thị trường hiệu quả...............................................................trang
67
III. Kiểm chứng thị trường hiệu quả.....................................................trang 7
– 8
IV. Thực trạng thị trường chứng khoán ở Việt Nam............................trang
89
B. Lý thuyết tài chính hành vi
I. Khái niệm tài chính hành vi..................................................................trang 9
1.Nền tảng tài chính hành vi..................................................................trang 9
10
2.Khái niệm và mục tiêu tài chính hành vi.........................................trang 10
11
a. Khái niệm...........................................................................................trang 1011
b. Nền tảng..............................................................................................trang 11
II.Điều kiện tồn tại tài chính hành vi...................................................trang 10
14
1.Hành vi bất hợp lí...............................................................................trang 11
12
2.Hành vi bất hợp lí mang tính hệ thống............................................trang 12
13
Lý thuyết thị trường hiệu quả và tài chính hành vi
GVHD: Ths. Trương Minh Tuấn
3.Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá trong thị trường tài
chính..........................................trang 13
4.Quan điểm tài chính hành vi......................................................... trang 1314
5.Nhược điểm tài chính hành vi........................................................trang 14
7
ĐỀ TÀI :LÝ THUYẾT VỀ THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ VÀ TÀI CHÍNH
HÀNH VI
A.LÝ THUYẾT VỀ THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ
I.
Khái niệm về thị trường hiệu quả
Là nơi mà tại bất thời điểm nào, tất cả các thông tin mới đều được những người tham gia
thị trường nắm bắt và tức thì, được phản ánh vào trong giá cả thị trường.
Lý thuyết thị trường hiệu quả) (en: efficient market hypothesis) là một giả thuyết của lý
thuyết tài chính khẳng định rằng các thị trường tài chính là hiệu quả (efficient), rằng giá của
chứng khoán (securities) trên thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán, phản
ánh đầy đủ mọi thông tin đã biết. Do đó không thể kiếm được lợi nhuận bằng cách căn cứ
vào các thông tin đã biết hay những hình thái biến động của giá cả trong quá khứ.Có thể nói
một cách ngắn gọn là các nhà đầu tư không thể khôn hơn thị trường.
1. Các giả thiết về thị trường hiệu quả
Thứ nhất: Thị trường hiệu quả nó đòi hỏi một số lượng lớn các đối thủ cạnh tranh
tham gia vào thị trường với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, họ tiến hành phân tích và
định giá các loại chứng khoán một cách hoàn toàn độc lập với nhau.
Thứ hai: Những thông tin mới về chứng khoán được công bố trên thị trường một cách
ngẫu nhiên và tự động, và việc quyết định về thời điểm công bố thông tin cũng độc
lập lẫn nhau.
Thứ ba: Các nhà đầu tư luôn tìm mọi cách điều chỉnh giá chứng khoán thật nhanh
nhằm phản ánh chính xác ảnh hưởng của thông tin. Mặc dù sự điều chỉnh của giá có
thể là không hoàn hảo, tuy nhiên nó không hề ưu tiên cho một mặt nào. Có khi sự điều
chỉnh là quá mức, cũng có khi là dưới mức cần thiết, nhưng ta không thể dự đoán
được điều gì sẽ xảy ra ở mỗi thời điểm xác định. Giá chứng khoán được điều chỉnh
một cách nhanh chóng là bởi số lượng lớn các nhà đầu tư với mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận cạnh tranh với nhau.
Thứ tư: Vì giá chứng khoán điều chỉnh theo tất cả những thông tin mới nên giá của
những chứng khoán này sẽ phản ánh tất cả các thông tin có sẵn và được công bố rộng
rãi ở mọi thời điểm. Vì thế mà nó sẽ phản ánh không thiên lệch tất cả những thông tin
có sẵn hiện thời và đã bao gồm rủi ro của việc nắm giữ chứng khoán.
Lý thuyết thị trường hiệu quả và tài chính hành vi
GVHD: Ths. Trương Minh Tuấn
Như vậy trong một thị trường vốn hiệu quả, khó có một nhà đầu tư nào đánh bại
được thị trường và duy trì được tỉ suất sinh lợi lâu. Tỷ suất sinh lợi mong đợi trong mức
giá hiện tại của chứng khoán sẽ phản ánh rủi ro tương ứng của nó, có nghĩa là các nhà
đầu tư mua chứng khoán ở mức giá thông tin hiệu quả sẽ nhận được một tỷ suất sinh lợi
phù hợp với rủi ro phải gánh chịu chứng khoán đó.
2. Đặc điểm của thị trường hiệu quả
Thị trường hiệu quả có một số đặc điểm chủ yếu sau:
Mọi thông tin trên thị trường đều nhanh và chính xác, mọi nhà đầu tư đều thu nhận
ngay lập tức các thông tin này. Khi thị trường hiệu quả, giá cả chứng khoán trên thị trường
luôn phản ánh đúng, chính xác các thông tin trên thị trường có liên quan đến loại chứng khoán
đó.
Mọi cố gắng để thu nhập tăng thêm do khai thác các thông tin trên thị trường hiệu quả
đều đem lại mức thu nhập thấp hơn chi phí bỏ ra. Trên thị trường hiệu quả thì các chứng
khoán sẽ được mua/bán, trao đổi ngang giá trên các sàn giao dịch chứng khoán, do đó sẽ không
có cơ hội một cách hệ thống để một số người mua ép giá cổ phiếu hoặc thổi phồng mức giá
khi bán (hiện tượng làm giá) hoặc có cơ hội để kiếm lời chênh lệch thông qua nghiệp vụ
arbitrage. Người chơi luôn được tin tưởng rằng thị trường đối xử công bằng với tất cả mọi
người.
Giá cả chứng khoán tăng hay giảm do một nguyên nhân duy nhất là giá chứng khoán phản
ứng trước những thông tin mới xuất hiện trên thị trường. Do những thông tin này xuất hiện
một cách ngẫu nhien, không thể dự đoán trước được nên giá cả chứng khoán thay đổi một
cách ngẫu nhiên và không thể dự đoán trước được trong thị trường hiệu quả.Tuy nhiên, cần
phân biệt tính ngẫu nhiên của giá với sự bất hợp lí về mức giá.Nếu giá cả được hình thành
một cách hợp lí thì chỉ những thông tin mới mới làm cho giá đó thay đổi.
II.
Hình thái thị trường hiệu quả
Các hình thái của thị trường hiệu quả được phân chia căn cứ trên mức độ khác nhau trong
sự phản ánh của giá cả đối với thông tin trên thị trường.
Có 3 loại hình thái:
Thị trường hiệu quả dạng yếu: Giá cả chứng khoán hiện tại là sự phản ánh mọi thông
tin chứa đựng trong hồ sơ giá quá khứ, như tỷ suất sinh lợi chứng khoán, khối lượng
giao dịch, các chuyển dịch, xu hướng, quy luật hiện tại của giá. Hoặc các thông tin
chung như mua bán lô lẻ, các thương vụ của các chuyên gia, các nhóm độc quyền. Vì
nó giả định rằng mức giá thị trường hiện tại này đã phản ánh tất cả các thu nhập trong
9
quá khứ và mọi thông tin trên thị trường nên giả thuyết này có nghĩa là tỷ suất thu
nhập trong quá khứ cũng như các thông tin khác không có mối liên hệ với tỷ suất thu
nhập trong tương lai (các tỷ suất thu nhập độc lập với nhau). Bởi vậy, chúng ta có thể
thu được thêm chút thu nhập khi ra quyết định mua hoặc bán chứng khoán dựa trên các
thông tin về tỷ suất thu nhập hay các thông tin khác của thị trường trong quá khứ.
Nhưng khó có thể duy trì một siêu tỷ suất sinh lợi liên tục. Giá cả chuyển động một
cách ngẩu nhiên (Random Walk).
Thị trường hiệu quả dạng trung bình : Giá cả phản ánh không những giá cả quá khứ
mà còn phản ánh một cách nhanh chóng bất kỳ một thông tin nào được công bố. Thông
tin được công khai bao gồm tất cả những thông tin như các thông báo về thu nhập, cổ
tức, tỷ lệ P/E, chia cổ tức, đề nghị sáp nhập công ty… Các nhà đầu tư khi đưa ra quyết
định dựa trên những thông tin sau khi được công bố sẽ không thu được tỷ suất sinh lợi
cao hơn mức trung bình, bởi giá cả chứng khoán đã phản ánh mọi thông tin công khai
đó.
Thị trường hiệu quả dạng mạnh : Giá cả phản ánh tất cả thông tin có thể được công
bố bằng cách phân tích tỷ mĩ về công ty và nền kinh tế, cả những thông tin về sự kiện
đã xảy ra, và cả những thông tin mà thị trường sẽ kỳ vọng xảy ra trong tương lai. Giá
cả thực tế của một loại chứng khoán luôn là một dấu hiệu hoàn hảo về giá trị thực sự
của nó. Trong thị trường như vậy, chúng ta sẽ quan sát thấy các nhà đầu tư may mắn
và không may mắn, nhưng chúng ta không tìm thấy bất kỳ một siêu giám đốc đầu tư
nào có thể liên tục đánh bại thị trường. Việc mua bán cổ phiếu trong nổ lực “vượt
mặt” thị trường có thể giống như trò chơi may rủi hơn là một cuộc đấu đòi hỏi kỹ
năng.
III.
Kiểm chứng thị trường hiệu quả
Thị trường hiệu quả dạng yếu : giả thuyết EMH dạng yếu cho rằng giá cả chứng
khoán hiện nay phản ánh tức thời và đầy đủ các thông tin đã có trong lịch sử về chứng
khoán đó. Với hình thái này, mọi cố gắng để sử dụng thông tin trong quá khử để dự
đoán sự biến động giá cả chứng khoàn trong tương lai đều không có ý nghĩa. Nói tóm
lại, khi dạng yếu của thị trường hiệu quả tồn tại, các thông tin trong quá khứ về
chứng khoán không có khả năng giúp các nhà đầu tư dự đoán được giá chứng khoán
trong tương lai để tìm kiếm lợi nhuận siêu ngạch thông qua chiến lược mua và giữ
chứng khoán thụ động cũng như chủ động.
Mục tiêu của kiểm chứng thị trường hiệu quả dạng yếu: trên cơ sở sử dụng thông tin
trong quá khứ, thực hiện các giao dịch chứng khoán theo những thông tin này, nếu không tạo
ra thu nhập cao hơn thị trường thì thị trường hiệu quả dạng yếu.
Lý thuyết thị trường hiệu quả và tài chính hành vi
GVHD: Ths. Trương Minh Tuấn
Thị trường hiệu quả dạng trung bình :EMH dạng trung bình cho rằng giá cả chứng
khoán hiện tại đang phản ánh đầy đủ và tức thì tất cả các thông tin được công bố sẵn
về các thị trường chứng khoán. Nếu giả thuyết này là đúng thì khi có một thông tin
mới nào đó được công bố nó sẽ được kết hợp nhanh chóng vào giá cả chứng khoáng.
Các tin tức tốt làm giá cả tăng lên và những tin tức xấu làm giá tụt xuống. Nhưng một
khi điều này xảy ra thì sẽ không còn những thay đổi giá cả có thể dự đoán được nữa.
Tóm lại giả thuyết này ngụ ý rằng: không thể trông cậy vào việc chậm trễ trong quá
trình phổ biến thông tin mà xây dựng phương pháp kiếm lời thương mại. Tương tự
nếu tin tức không dẫn đến thay đổi nào trong giá cả và EMH dạng trung bình là đúng
thì từ đó có thể suy ra rằng: các tin tức đó không chứa những nội hàm thich hợp.
Thị trường hiệu quả dạng mạnh :EMH dạng mạnh phát biều rằng: giá cả chứng khoán
hiện tại đang phản ánh tức thời và đầy đủ tất cả các thông tin được biết về các thị
trường chứng khoán kể cả các thông tin nội bộ, điều này nghĩa là: các thị trường phản
ánh nhanh đến mức thậm chí chẳng có ai nắm được thông tin nội bộ có giá nhất lại có
thể lợi dụng nó để kiếm lời.
Trên thực tế giả thuyết này đang gặp phải mẫu thuẫn, vẫn có trường hợp những người
trong cuộc vẫn có thể thu được lợi nhuận siêu ngạch( sau khi trừ chi phí giao dịch và rủi ro ).
IV.
Thực trạng về thị trường chứng khoán Việt Nam
Thị trường chứng khoán Việt Nam là một thị trường còn khá trẻ( ra đời 7/2000) nên đang
tăng trưởng rất nhanh nhưng cũng còn nhiều hạn chế.Đa số các công ty niêm yết là những
công ty có vốn ít và hiệu quả hoạt động thấp, còn các công ty lớn thì vẫn chưa mặn mà với
việc lên sàn, dẫn đến hàng hóa trên thị trường Việt Nam vẫn còn nghèo nàn, kém hấp
dẫn.Trong khi đó về phía cầu, khả năng hấp thụ của thị trường có giới hạn, số lượng nhà
đầu tư tham gia thị trường còn ít.
Nhà nước vẫn chưa ban hành đủ các thể chế pháp lý để hỗ trợ phát triển thị trường
chứng khoán, vẫn còn nhiều kẽ hở để khai thác.
Các nhà đầu tư thiếu kiến thức đầu tư căn bản, tâm lý đầu tư theo phong trào. Họ đầu
tư dựa trên yếu tố tâm lý thay vì phân tích thông tin để đưa ra quyết định. Hầu hết chúng ta
vẫn tin rằng tài chính là lĩnh vực của những suy nghĩ định lượng và rõ ràng. Sự thật thì các
nhà đầu tư không phải luôn luôn hành động một cách sáng suốt và khôn ngoan như mong đợi,
đặc biệt là các nhà đầu tư ở nước ta. Nguyên tắc cơ bản trong đầu tư chứng khoán là “mua
khi giá thấp bán khi giá cao” thì ở thị trường chứng khoán nước ta lại xảy ra điều ngược lại.
Khi giá cổ phiếu tăng thì đổ xô đi mua đẩy giá cổ phiếu cao hơn giá trị thực của nó, còn khi
giá xuống thì đổ xô nhau bán làm rớt giá thể thảm. Chứng khoán vượt quá giá trị thật nhưng
11
họ vẫn mua.Họ chấp nhận mua với giá cao vì tin rằng vì trên thị trường sẽ còn có người chấp
nhận mua với giá cao hơn.
Không chỉ có thế, trên thị trường chứng khoán Việt Nam còn xuất hiện nhưng hiện
tượng mang tính chu kỳ có thể dự báo được những hiện tượng giá có xu hướng tăng vào dịp
tết dương lịch và tết nguyên đán, giảm giá từ tháng 4 đến tháng 7, tăng giá vào phiên đầu tuần
và giảm giá vào phiên cuối tuần, mỗi lần phát hành thêm hoặc nếu là cổ phiếu thỉ giá sẽ tăng
trước ngày chốt danh sách, giá cổ phiếu trên thị trường OTC thường rẻ hơn trước khi được
niêm yết. Chính những xu hướng có thể dự đoán đó làm cho thị trường chứng khoán Việt
Nam kém hiệu quả.
Một lý do khác nữa, nhà đầu tư nước ta thường dựa vào những quy luật đó để khai
thác thông tin, tìm kiếm lợi nhuận từ mức chênh lệch mua bán trong thời gian ngắn tạo nên
hiện tượng đầu cơ chứ không còn là đầu tư nữa. Tuy nhiên khi tất cả các nhà đầu tư đều biết
khai thác các hiện tượng đã được nhận biết để kiếm lời thì giá lại trở về đúng giá trị thật của
nó, và xóa bỏ các quy luật đó.
Dễ thất thị trường chứng khoán Việt Nam không vận hành theo bất cứ quy luật nào, lý
thuyết thị trường hiệu quả hoàn toàn thất bại. Có lẽ dùng các lý thuyết cơ bản dựa trên tâm lý
con người để giải thích những bất thường trên thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ hợp lý
hơn là dùng lý thuyết thị trường hiệu quả.
Trong thị trường hiệu quả dạng yếu thì phân tích kỹ thuật không mang lại lợi nhuận
siêu ngạch nhưng phân tích cơ bản có thể áp dụng được nhưng trong thị trường chứng khoán
Việt Nam thì ngược lại.
B. LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH HÀNH VI
I.
Khái quát lý thuyết
1. Nền tảng của lý thuyết tài chính hành vi
Tâm lý học: nghiên cứu hành vi và các quá trình tư duy, quá trình này bị tác
động bởi tâm lý, tư duy của con người và môi trường. Có nhiều hiệu ứng tâm lý
khác nhau có thể tác động đến các quyết định lệch lạc của nhà đầu tư
Lý thuyết thị trường hiệu quả và tài chính hành vi
GVHD: Ths. Trương Minh Tuấn
Xã hội học: nghiên cứu hành vi xã hội của con người. Nó chỉ chú trọng chủ
yếu vào sự ảnh hưởng của những mối quan hệ xã hội đối với thái độ và hành vi
con người
Tài chính: sự quan tâm chặt chẽ đối với việc quyết định giá trị và việc đưa ra
các quyết định
Lý thuyết tài chính hành vi ( Behaviriral Finance) dựa trên lập luận cơ bản là “thị
trường không luôn luôn đúng” đã đặt ra một đối trọng lớn đối với lý thuyết “ thị
trường hiệu quả”, cơ sở của các lý thuyết tài chính cơ bản trong suốt 4,5 thập kỷ
gần đây
Lý thuyết thị trường hiệu quả dựa trên niềm tin rằng luôn tồn tại một cơ chế điều
chỉnh thị trường về trạng thái hiệu quả, đó là cơ chế kinh doanh chênh lệch giá. Một
khi tồn tại hiện tượng định giá sai trên thị trường, nghĩa là giá của các công cụ (cổ
phiếu, trái phiếu, sản phẩm phái sinh, v.v…) trên thị trường tài chính không phản ánh
một cách chính xác giá trị hợp lý (dựa trên những nhân tố cơ bản), thì sẽ tồn tại cơ hội
kinh doanh chênh lệch giá, và “những nhà đầu tư hợp lý” khi tận dụng những cơ hội
này (mua tài sản bị định giá thấp, bán tài sản bị định giá quá cao chẳng hạn), sẽ góp
phần điều chỉnh thị trường về trạng thái hợp lý hay cân bằng. Ý tưởng về cơ chế điều
chỉnh kinh doanh chênh lệch giá sẽ tạo lập trạng thái “thị trường hợp lý” trở thành nền
tảng cho rất nhiều lý thuyết định giá, từ đường con thị trường hiệu quả, CAPM cho
đến Black Scholes, đến các lý thuyết tài chính quốc tế như PPP, backwardation, v.v
Lý thuyết tài chính hành vi chỉ ra rằng, cơ chế điều chỉnh đó không phải lúc nào cũng
có thể xảy ra, nghĩa là sẽ có những trường hợp những nhà đầu tư “hợp lý’ không thể
chiến thắng những nhà đầu tư “bất hợp lý” và khi đó, thị trường sẽ không hiệu quả,
hay “sai” (tức là định giá quá cao hoặc quá thấp giá cổ phiếu hay các loại sản phẩm tài
chính khác). Lý thuyết tài chính hành vi là sự phát triển kết hợp tâm lý học vào tài
chính, một phát triển khá muộn màng. Kể từ khi nhà tâm lý học người Pháp Gabriel
Tarde bắt đầu nghiên cứu về ứng dụng tâm lý học vào khoa học kinh tế từ những năm
1880, thì phải mất gần 100 năm sau, vào thập kỷ 1980, thì ứng dụng tâm lý trong tài
13
chính mới có bước phát triển đáng kể (mặc dù trước đó, vào những năm 1930, 1940,
những nghiên cứu của George Kanota cũng đặt nền tảng cho tài chính hành vi với thật
ngữ quan trọng “kỳ vọng”, nhưng những kết quả của ông khá hạn chế). Với những
tác phẩm nền tảng của Amos Tversky và Daniel Kahneman (1979), Richard H.Thaler
(1985) và đặc biệt là Robert Shiller với quyển sách nổi tiếng “Irrational Exuberance”
(2000), dự báo chính xác sự sụp đổ của thị trường cổ phiếu toàn cầu không lâu sau đó,
đã tạo bước ngoặt lớn cho những nhà nghiên cứu tài chính hành vi liên tục đưa ra các
nghiên cứu mới. Ngoài ra, còn phải kể đến một nghiên cứu quan trọng năm 1993 của
Jegadeesh và Titman mà đến nay vẫn là một thách thức cho trường phái “thị trường
hiệu quả” là hiệu ứng xu thế (momentum effect), với ngày càng nhiều phiên bản đề
xuất cách tận dụng hiệu ứng này để kiếm lợi nhuận vượt trội mà rủi ro không cao
(phiên bản mới nhất là nghiên cứu của Sagi và Seasholes vừa công bố trong năm 2007
với những kết quả không thể giải thích được bằng các mô hình thị trường hiệu quả, lý
luận dựa vào rủi ro
2. Khái niệm và Mục tiêu của Tài chính hành vi
a) Khái niệm
Lý thuyết tài chính hành vi là một phần của môn tài chính nhằm tìm ra cách hiểu và
dự đoán được các dấu hiệu của hệ thống thị trường tài chính các quyết định tâm lý.
Tài chính hành vi gần như bao gồm cả hành vi con người và hiện tượng thị trường và
sử dụng các kiến thức có được từ ngành tâm lý học và lý thuyết tài chính (Fromlet,
2001).
+ Tài chính hành vi là lĩnh vực nghiên cứu hành vi của các nhà đầu tư trên cơ sở
những nguyên tắc tâm lý trong quá trình ra quyết định đầu tư
Tài chính hành vi nghiên cứu mối quan hệ giữa yếu tố tâm lý và kinh tế tài chính
Tài chính hành vi cố gắng giải thích việc các nhà đầu tư diễn giải và phản ứng như
thế nào với thông tin để ra quyết định đầu tư
Các nhà đầu tư không phải luôn luôn phản ứng “hợp lý”,do đó tài chính hành vi nghiên
cứu hành vi của các nhà đầu tư dẫn đến các trường hợp bất thường trên thị trường
chứng khoán
Lý thuyết thị trường hiệu quả và tài chính hành vi
GVHD: Ths. Trương Minh Tuấn
+ Tài chính hành vi cho rằng giá thị trường có sự khác biệt so với giá trị nội tại của
cổ phiếu
b) Mục tiêu của Tài chính hành vi
Giải thích các mô hình lý luận của nhà đầu tư, bao gồm quá trình diễn biến
cảm xúc và mức độ ảnh hưởng của chúng đến quyết định đầu tư
Nỗ lực giải thích ba câu hỏi cái gì, tại sao, như thế nào trong quá trình đưa ra quyết
định đầu tư
Nghiên cứu thị trường tài chính nhằm giải thích những hiện tượng bất thường
của thị trường.
Điều kiện tồn tại lý thuyết tài chính hành vi:
II.
Các mô hình được đề xuất bởi lý thuyết tài chính hành vi sẽ có thể đúng nếu trên thị
trường tồn tại một trong ba điều kiện cơ bản sau. Nếu cả ba đều tồn tại, lý thuyết tài
chính hành vi dự báo rằng việc định giá sai không những là tồn tại, mà còn là rất đáng
kể (lớn hoặc đến mức nghiêm trọng) và kéo dài. Ba điều kiện đó bao gồm:
Tồn tại hành vi không hợp lý
Hành vi bất hợp lý mang tính hệ thống
Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường tài chính
1. Hành vi không hợp lý
a) Tự tin thái quá (overconfidence) : Được xem như là niềm tin mù quáng vào những lập
luận, đánh giá theo cảm tính cũng như khả năng nhận thức của một ai đó. Nếu họ tin
rằng cổ phiếu của những Cty họ tin tưởng là cổ phiếu tốt, cố gắng tìm kiếm những
thông tin để ủng hộ cho nhận định và quyết định của mình và đánh giá sai lầm cổ phiếu
b) Hai xu hướng mà các nhà đầu tư thường gặp phải :
+ Prediction overconfidence: thường đưa vào kế hoạch đầu tư của mình các khoảng tin
cậy quá nhỏ. Họ đã đánh giá thấp những rủi ro trong danh mục đầu tư của mình.
+ Certainty overconfidence : quá tự tin vào đánh giá của mình => thường đầu tư quá
nhiều và không đa dạng hóa danh mục đầu tư
15
c) Phụ thuộc vào kinh nghiệm hay thuật toán : Các kinh nghiệm, hay quy tắc học được
giúp chúng ta dễ dàng và nhanh chóng hơn trong việc ra quyết định nhưng trong một số
trường hợp, dựa dẫm quá nhiều vào các quy tắc đôi khi sẽ dẫn đến sai lầm, đặc biệt là
khi các điều kiện bên ngoài thay đổi
d) Lệch lạc do tình huống điển hình : Thường được diễn tả một cách đơn giản là xu
hướng không quan tâm nhiều đến những nhân tố dài hạn, mà thường đặt nhiều quan
tâm đến những tình huống điển hình ngắn hạn. Thường đánh giá xác suất xảy ra của
những sự kiện trong tương lai dựa vào mức độ “tương tự” với một tình huống điển
hình nào đó, thường chỉ quan tâm đến một tình huống điển hình của một giai đoạn
ngắn thay vì quan tâm đến một mẫu hình điển hình trong một giai đoạn dài
e) Bảo thủ : Khi điều kiện thay đổi người ta có xu hướng chậm phản ứng với những thay
đổi đó, và gắn nhận định của mình với tình hình chung trong một giai đoạn dài trước
đó. Hiệu ứng này (gắn với kinh nghiệm dài hạn) là ngược lại với hiệu ứng lệch lạc do
tình huống điển hình (đặt nặng vào các tình huống điển hình ngắn hạn). Phối hợp 2
hiệu ứng này có thể giúp giải thích hiện tượng phản ứng chậm trên thị trường chứng
khoán
f)
Định nghĩa hẹp : Cô lập một khái niệm, phân tích một vấn đề trong một khuôn khổ
hạn hẹp, tách biệt, và cố gắng đưa ra quyết định tối ưu cho khuôn khổ hạn hẹp ấy,
thay vì cho toàn cục àphương pháp này có thể hữu ích trong vài trường hợp giới hạn về
nguồn lực, thời gian nhưng có thể đưa đến sai lầm
g) Tính toán bất hợp lý : Đây là một dạng của định nghĩa hẹp. Chúng ta có xu hướng tách
riêng các quyết định mà đúng ra phải được kết hợp lại với nhau vào các tài khoản ảo
trong trí tưởng tượng và tối đa hoá lợi ích từng tài khoản àđôi khi đưa ra các quyết định
nhìn tưởng là hợp lý, mà thật ra là sai lầm
2. Hành vi bất hợp lý mang tính hệ thống
Nếu chỉ một nhà đầu tư đơn lẻ có hành vi không hợp lý, thì ảnh hưởng lên giá CP trên
thị trường là không đáng kể (cho dù là một tổ chức đầu tư lớn thì ảnh hưởng cũng rất hạn
Lý thuyết thị trường hiệu quả và tài chính hành vi
GVHD: Ths. Trương Minh Tuấn
chế nếu chỉ đơn độc một mình). Chỉ khi hành vi không hợp lý là mang tính hệ thống
(nghĩa là một nhóm nhiều nhà đầu tư cùng có một hành vi không hợp lý như nhau) thì việc
định giá sai sẽ xuất hiện và có thể bắt đầu kéo dài
Lý thuyết tài chính hành vi cho rằng tính lệch lạc (bất hợp lý) trong hành vi là khá phổ
biến đối với nhiều nhà đầu tư, nó tạo thành “hiệu ứng bầy đàn”, khiến cho giá một số
cổ phiếu không phản ánh giá trị “thực” (hay “hợp lý”) của chúng. Như vây, hiệu ứng bầy
đàn sẽ không tốt cho thị trường trong trường hợp chúng ta xem hiệu ứng bầy đàn là tất
cả đều hành động theo một mẫu hình hành vi lệch lạc, không hợp lý, thấy ai làm sao thì
làm vậy. Là hiện tượng các nhà đầu tư đi theo hoặc bị tác động bởi hành động của số
đông có thể là hợp lý hoặc bất hợp lý. Tin tưởng rằng nếu có rất nhiều người cùng thực
hiện một việc gì đó thì việc đó chắc chắn đúng
Bình thường, nhà đầu tư cá nhân có thể rất bình tĩnh và sáng suốt, vậy mà cũng có lúc
họ lại bị áp đảo bởi những cảm xúc tiêu cực khi các nhà đầu tư khác hành động theo một
cách thức phổ biến nào đó. Sự sợ hãi bị “bỏ rơi” hay thất bại khi bạn bè, người thân,
hàng xóm của họ có thể kiếm tiền một cách nhanh chóng, đã đưa đến sức mạnh áp đảo
của đám đông
Hiệu ứng bầy đàn thể hiện tương đối rõ nét nhất là ở trong giai đoạn đầu thị trường
mới thành lập biểu hiện qua giá của đa số các cổ phiếu đều lên hoặc đều xuống, sự biến
động này không phản ánh hoạt động sản xuất kinh doanh mà chủ yếu do yếu tố tâm lý
nhà đầu tư.
3. Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường tài chính
Lý thuyết thị trường hiệu quả tin rằng nếu tồn tại định giá sai thì sẽ tồn tại cơ hội để
kinh doanh chênh lệch giá thu lợi nhuận, và chính hành vi kinh doanh chênh lệch giá sẽ
điều chỉnh giá trên thị trường về cân bằng. Nhưng nếu tồn tại định giá sai, mà lại không
thể thực hiện kinh doanh chênh lệch giá để tận dụng các khoản lợi nhuận này thì như
thế nào? Và tại sao lại không thể thực hiện kinh doanh chênh lệch giá khi có định giá sai
Một giải thích được chấp nhận rộng rãi trong trường phái tài chính hành vi là có 2 dạng
+ Định giá sai thường xuyên xảy ra và có thể kinh doanh chênh lệch giá được
Định giá sai không thường xảy ra, kéo dài và không thể kinh doanh chênh lệch giá được
(nói một cách khác, khó mà xác định được khi nào mức định giá sai đã đạt tới giới hạn
trên hay dưới và điều chỉnh lại). Nếu tham gia “chỉnh sửa” kiểu định giá sai dạng 2 thì rất
dễ rơi vào trạng thái “tiền mất, tật mang”
17
Barberis và Thales (2003) chỉ ra rằng: “Kinh doanh chênh lệch giá không thể xảy ra vì
có những tài sản về lý thuyết là có tính thay thế lẫn nhau hoàn hảo và có thể kinh doanh
chênh lệch giá 2 tài sản đó, nhưng thực tế thì không như vậy, do đó tạo ra rủi ro tăng
thêm cho hoạt động kinh doanh chênh lệch giá (vốn được xem là rủi ro thấp đến mức phi
rủi ro). Ngoài ra, chi phí thực hiện các chiến lược hưởng chênh lệch giá và sự tồn tại của
các giao dịch của những nhà đầu tư không hợp lý (gọi là noise trading) cũng ngăn cản
điều này”
Những hạn hế này không hề có những điều chỉnh tức thời như người ta kỳ vọng, mà
thườngkéo dài nhiều năm (nhất là ở các nước châu Á đang phát triển). Đây là dấu hiệu
của giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá
4. Quan điểm của tài chính hành vi
Tài chính học hành vi là lĩnh vực tài chính sử dụng các lý thuyết cơ bản dựa
trên tâm lý con người để giải thích những bất thường trên thị trường tài chính
(Suy thoái năm 1929 & 1987, khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997, bong bóng trên
thị trường chứng khoán Trung Quốc, Việt Nam,…..), mà các lý thuyết trước đây
không giải thích được (như lý thuyết thị trường hiệu quả).
Tài chính hành vi là một lĩnh vực nghiên cứu về kinh tế thực nghiệm, được xem là
trường phái khá mới so với các trường phái tài chính học truyền thống, và dựa trên lập
luận cơ bản là “thị trường không luôn luôn đúng”.
Tài chính hành vi giúp giải thích các mô hình lý luận của nhà đầu tư, bao gồm quá
trình diễn biến cảm xúc và mức độ ảnh hưởng của chúng đến quyết định đầu tư, trả
lời ba câu hỏi cái gì, tại sao, như thế nào khi đưa ra quyết định đầu tư.
5. Nhược điểm của tài chính hành vi
Lý thuyết tài chính hành vi nhìn chung không phải là một trường phái tài chính chính
thống (mặc dù thường bị các nhà nghiên cứu thuộc trường phái thị trường hiệu quả, dẫn
đầu là Fama đả kích). Lý thuyết này còn ở dạng sơ khai, còn tồn tại nhiều vấn đề gây
tranh cãi chưa có những cơ sở và nguyên lý vững chắc như lý thuyết chính thống hiện
đại như rủi ro tỷ suất sinh lợi, thị trường hiệu quả, kinh doanh chệnh lệch giá), và
là một sự bổ sung hơn là tách biệt khỏi lý thuyết tài chính chính thống.
Các kết quả bất thường về lợi nhuận dài hạn dễ thay đổi khi sử dụng các phương phap
́
nghiên cưu khac nhau.
́
́
Lý thuyết thị trường hiệu quả và tài chính hành vi
GVHD: Ths. Trương Minh Tuấn
Tính ngẫu nhiên, tính đại diện của các mẫu trong mô hình tài chính hành vi.
Không thể mô tả hoàn toàn những khoản lợi nhuận kỳ vọng.
Bất cứ giai đoan lây m
́ ẫu nào cũng tạo ra những sai lêch có tính hệ thống từ những dự
báo của mô hình.
Khi những điều kiện bên ngoài thay đổi, có thể ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu
Tài liệu tham khảo
A.Lý thuyết thị trường hiệu quả:
1. Paul Samuelson A, Kinh tế học, Nhà xuất bản Tài chính (2007) (I.1,2,3,II)
2. Fama, Eugene.F.(1970), Efficient capital markets: A review of theory and
empirical work. Journal of Finance, 25, pp. 383417( along with Sharpe and
Schwartz comments) (III)
3. Vị thế của thị trường cổ phiếu Việt Nam trên thế giới, Ths Hồ Việt Tiến, Tạp
chí phát triển kinh tế, số 179, tháng 9/2005 (IV)
B.Lý thuyết tài chính hành vi:
TÀI CHÍNH HÀNH VI: TÂM LÝ HỌC, RA QUYẾT ĐỊNH, VÀ THỊ TRƯỜNG
Tác giả: Lucy F.Ackert, Richard Deaves. Biên dịch: Lê Đạt Chí, Trần Thị Hải
Lý, Hoàng Th
ị Phương – NXB: Kinh tế tp.hcm(4,5)
Barberis, N.. & R. Thaler,(2003). A surey og be havioral finance ,Handbook
of the Economics of finance, North Holland , Amsterdam.(3)
Barberis, B..& T..., Odean (2001) , Boy will be boys: Gender,
overconfidence, and common stock investment. Quality jounal of
Economics 116: 261292(1,2)
/>vi58585/
Benartzi, S & R, Thaler (2001) “Native diversification strategies in
defined contribution savings plan “ American Economic Revew 91:7998(1)
19