Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Thực trạng của ngành giấy và giải pháp cho ngành giấy hội nhập khi Việt Nam gia nhập WTO.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.19 KB, 38 trang )

Khoa Khoa học Quản lý

Lời mở đầu
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước,mỗi Bộ,mỗi
ngành, mỗi tổ chức,doanh nghiệp đêu có những điều chỉnh,cần thiết để tận
dụng thời cơ,vượt qua thách thức mà tiến trình hội nhập mang lại.Yêu cầu
này càng trở nên cấp bách hơn khi Việt Nam đang ở ngưỡng cửa của WTO.
Trong khi cả thế giới đang nhộn nhịp trước quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, khu vực hoá.Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế.Nó mở rộng hơn sự giao lưu thương mại giữa các nước trên thế
giới.Trong quá trình hội nhập này,tất cả các ngành nghề,các lĩnh vực đều có
những thuận lợi và và bất lợi của riêng mình.Ngành giấy là ngành cơng
nghiệp nhẹ đã có nhiều đóng góp và phát triển của nền kinh tế Việt Nam
trong nhiều năm qua.Ngành giấy cũng đã cố gắng thay đổi về nhiều mặt để
tiến gần hơn đến quá trình hội nhập WTO của Việt Nam nhưng khi Việt Nam
gia nhập WTO thì ngành giấy đã có những thuận lợi và cũng có những khó
khăn nhất định.Vì vậy,em chọn đề tài này: “Thực trạng của ngành giấy và
giải pháp cho ngành giấy hội nhập khi Việt Nam gia nhập WTO” nhằm nhận
định những khó khăn cũng như thuận lợi của ngành giấy.Từ đó có thể đề ra
một số giải pháp nhằm có thể khắc phục những khó khăn mà ngành giấy gặp
phải.

1

1


Khoa Khoa học Quản lý

Chương I:Thực trạng của doanh nghiệp giấy Việt Nam trước
khi Việt Nam gia nhập WTO



1.Sơ lược về tổ chức thương mại thế giới
1.1 WTO là gì?
WTO là tên viết tắt từ tiếng Anh của Tổ chức thương mại thế giới
(World Trade Organization). WTO được thành lập theo Hiệp định thành lập
Tổ chức thương mại thế giới ký tại Marrakesh (Marốc) ngày 15/4/1994.
WTO chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995.
Có thể hình dung một cách đơn giản về WTO như sau:
- WTO là nơi đề ra những quy định:
để điều tiết hoạt động thương mại giữa các quốc gia trên quy mơ tồn
thế giới hoặc gần như tồn thế giới. Tính đến thời điểm 31/12/2005, WTO có
148 thành viên. (Xem thêm Phụ lục Danh sách các thành viên Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) ).
- WTO là một diễn đàn để các nước, các thành viên đàm phán:
Người ta thường nói, bản thân sự ra đời của WTO là kết quả của các
cuộc đàm phán. Sau khi ra đời, WTO đang tiếp tục tổ chức các cuộc đàm
phán mới. "Tất cả những gì tổ chức này làm được đều thơng qua con đường
đàm phán". Có thể nói, WTO chính là một diễn đàn để các quốc gia, các
thành viên tiến hành thoả thuận, thương lượng, nhân nhượng nhau về các
vấn đề thương mại, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ..., để giải quyết tranh chấp
phát sinh trong quan hệ thương mại giữa các bên.
- WTO gồm những quy định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế:

2

2


Khoa Khoa học Quản lý
Ra đời với kết quả được ghi nhận trong hơn 26.000 trang văn bản pháp

lý, WTO tạo ra một hệ thống pháp lý chung làm căn cứ để mỗi thành viên
hoạch định và thực thi chính sách nhằm mở rộng thương mại, tạo thêm việc
làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống nhân dân các nước thành viên. Các
văn bản pháp lý này bản chất là các "hợp đồng", theo đó các chính phủ các
nước tham gia ký kết, công nhận (thông qua việc gia nhập và trở thành thành
viên của WTO) cam kết duy trì chính sách thương mại trong khn khổ
những vấn đề đã thoả thuận. Tuy là do các chính phủ ký kết nhưng thực chất
mục tiêu của những thoả thuận này là để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp,
các nhà sản xuất hàng hoá, cung cấp dịch vụ, các nhà xuất nhập khẩu thực
hiện hoạt động kinh doanh, buôn bán của mình. (Xem thêm Phụ lục 2: Hệ
thống văn bản pháp lý của WTO).
- WTO giúp các nước giải quyết tranh chấp:
Nếu "mục tiêu kinh tế" của WTO là nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hố
thương mại hàng hố, dịch vụ, trao đổi các sáng chế, kiểu dáng, phát minh...
(gọi chung là quyền tài sản sở hữu trí tuệ) thì các hoạt động của WTO nhằm
giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại phát sinh giữa các thành
viên theo các quy định đã thoả thuận, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
công pháp quốc tế và luật lệ của WTO chính là ?mục tiêu chính trị? của
WTO. Mục tiêu cuối cùng của các mục tiêu kinh tế và chính trị nêu trên là
nhằm tới "mục tiêu xã hội" của WTO là nhằm nâng cao mức sống, tạo công
ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, phát triển bền vững, bảo vệ môi
trường.
1.2 Mục tiêu của WTO:
Hình dung đơn giản về WTO như nêu trên cũng chính là nội dung của
các mục tiêu của WTO như được ghi nhận tại Lời mở đầu của Hiệp định
thành lập WTO như sau:
3

3



Khoa Khoa học Quản lý
"Các bên ký kết Hiệp định này thừa nhận rằng: Tất cả những mối quan
hệ của họ (tức các bên ký kết thành lập ra WTO) trong lĩnh vực kinh tế và
thương mại phải được thực hiện với mục tiêu nâng cao mức sống, bảo đảm
đầy đủ việc làm và một khối lượng thu nhập và nhu cầu thực tế lớn và phát
triển ổn định; mở rộng sản xuất, thương mại hàng hoá và dịch vụ, trong khi
đó vẫn đảm bảo việc sử dụng tối ưu nguồn lực của thế giới theo đúng mục
tiêu phát triển bền vững, bảo vệ và duy trì mơi trường và nâng cao các biện
pháp để thực hiện điều đó theo cách thức phù hợp với những nhu cầu và mối
quan tâm riêng rẽ của mỗi bên ở các cấp độ phát triển kinh tế khác nhau.
(Các bên ký kết Hiệp định) thừa nhận thêm rằng: cần phải có nỗ lực
tích cực để bảo đảm rằng các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những
quốc gia kém phát triển nhất, duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương
mại quốc tế tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế của quốc gia đó;
(Các bên ký kết Hiệp định) mong muốn đóng góp vào những mục tiêu
này bằng cách tham gia vào những thoả thuân tương hỗ và cùng có lợi theo
hướng giảm đáng kể thuế và các hàng rào cản trở thương mại khác và theo
hướng loại bỏ sự phân biện đối xử trong các mối quan hệ thương mại quốc
tế;
Do đó, (Các bên ký kết Hiệp định), quyết tâm xây dựng một cơ chế
thương mại đa biên chặt chẽ, ổn định và khả thi hơn; quyết tâm duy trì
những nguyên tắc cơ bản và tiếp tục theo đuổi những mục tiêu đang đặt ra
cho cơ chế thương mại đa biên này.
1.3 Chức năng của WTO:
Theo ghi nhận tại điều III, Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế
giới, WTO có 5 chức năng sau:
-WTO tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và điều hành và
những mục tiêu khác của Hiệp định thành lập WTO, các hiệp định đa biên
4


4


Khoa Khoa học Quản lý
của WTO, cũng như cung cấp một khuôn khổ để thực thi, quản lý và điều
hành việc thực hiện các hiệp định nhiều bên;
-WTO là một diễn đàn cho các cuộc đàm phán giữa các nước thành
viên về những quan hệ thương mại đa biên trong khuôn khổ những quy định
của WTO. WTO cũng là diễn đàn cho các cuộc đàm phán tiếp theo giữa các
thành viên về những quan hệ thương mại đa biên; đồng thời WTO là một
thiết chế để thực thi các kết quả từ việc đàm phán đó hoặc thực thi các quyết
định do Hội nghị Bộ trưởng đưa ra;
-WTO sẽ thi hành Thoả thuận về những quy tắc và thủ tục điều chỉnh
việc giải quyết tranh chấp giữa các thành viên
-WTO sẽ thi hành Cơ chế rà sốt chính sách thương mại (của các nước
thành viên),
-Để đạt tới sự thống nhất cao hơn về quan điểm trong việc tạo lập các
chính sách kinh tế toàn cầu, khi cần thiết, WTO sẽ hợp tác với Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới và các cơ quan trực thuộc của nó
1.4 Những nguyên tắc, luật lệ, quy định cơ bản của WTO
Cho dù có đến gần 30.000 trang văn bản, bao gồm rất nhiều văn bản
pháp lý quy định nhiều lĩnh vực kinh tế - thương mại khác nhau như: thương
mại hàng hố, thương mại dịch vụ, đầu tư, nơng nghiệp, viễn thông, các biện
pháp kiểm dịch động - thực vật, sở hữu trí tuệ... song thực chất, tất cả các
văn bản đó đều được xây dựng và chuyển tải các nguyên tắc cơ bản của
WTO, hay nói cách khác, WTO hoạt động dựa trên một số nguyên tắc làm
nền tảng cho hệ thống thương mại thế giới là:
-Thương mại không phân biệt đối xử:
Nguyên tắc này thể hiện ở hai nguyên tắc: đối xử tối huệ quốc và đối

xử quốc gia.
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN):
5

5


Khoa Khoa học Quản lý
"Tối huệ quốc" có nghĩa là "nước (được) ưu đãi nhất", "nước (được)
ưu tiên nhất".
Nội dung của nguyên tắc này thực chất là việc WTO quy định rằng, các
quốc gia không thể phân biệt đối xử với các đối tác thương mại của mình.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: mỗi thành viên của
WTO phải đối xử với các thành viên khác của WTO một cách công bằng
như những đối tác "ưu tiên nhất". Nếu một nước dành cho một đối tác
thương mại của mình một hay một số ưu đãi nào đó thì nước này cũng phải
đối xử tương tự như vậy đối với tất cả các thành viên còn lại của WTO để tất
cả các quốc gia thành viên đều được "ưu tiên nhất". Và như vậy, kết quả là
không phân biệt đối xử với bất kỳ đối tác thương mại nào.
Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT):
“Đối xử quốc gia” nghĩa là đối xử bình đẳng giữa sản phẩm nước ngoài
và sản phẩm nội địa.
Nội dung của nguyên tắc này là hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương
tự sản xuất trong nước phải được đối xử cơng bằng, bình đẳng như nhau.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: bất kỳ một sản phẩm
nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới, trả xong thuế hải quan và các chi
phí khác tại cửa khẩu, bắt đầu đi vào thị trường nội địa, sẽ được hưởng sự
đối xử ngang bằng (không kém ưu đãi hơn) với sản phẩm tương tự được sản
xuất trong nước.
Có thể hình dung đơn giản về hai nguyên tắc nêu trên như sau: Nếu

nguyên tắc "tối huệ quốc" nhằm mục tiêu tạo sự công bằng, không phân biệt
đối xử giữa các nhà xuất khẩu hàng hoá, cung cấp dịch vụ... của các nước A,
B, C...khi xuất khẩu vào một nước X nào đó thì nguyên tắc "đãi ngộ quốc
gia" nhằm tới mục tiêu tạo sự cơng bằng, khơng phân biệt đối xử giữa hàng
hố, dịch vụ của doanh nghiệp nước A với hàng hoá, dịch vụ của doanh
6

6


Khoa Khoa học Quản lý
nghiệp nước X trên thị trường nước X, sau khi hàng hoá, dịch vụ của doanh
nghiệp nước A đã thâm nhập (qua hải quan, đã trả thuế và các chi phí khác
tại cửa khẩu) vào thị trường nước X.
-Thương mại ngày càng tự do hơn (từng bước và bằng con đường đàm
phán):
Để thực thi được mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư, mở cửa thị
trường, thúc đẩy trao đổi, giao lưu, buôn bán hàng hoá, việc tất nhiên là phải
cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan (cấm, hạn chế,
hạn ngạch, giấy phép...). Trên thực tế, lịch sử của GATT và sau này là WTO
đã cho thấy đó chính là lịch sử của q trình đàm phán cắt giảm thuế quan,
rồi bao trùm cả đàm phán dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, rồi dần dần mở
rộng sang đàm phán cả những lĩnh vực mới như thương mại dịch vụ, sở hữu
trí tuệ...
Tuy nhiên, trong q trình đàm phán, mở cửa thị trường, do trình độ
phát triển của mỗi nền kinh tế của mỗi nước khác nhau, "sức chịu đựng" của
mỗi nền kinh tế trước sức ép của hàng hố nước ngồi tràn vào do mở cửa
thị trường là khác nhau, nói cách khác, đối với nhiều nước, khi mở cửa thị
trường khơng chỉ có thuận lợi mà cũng đưa lại những khó khăn, địi hỏi phải
điều chỉnh từng bước nền sản xuất trong nước. Vì thế, các hiệp định của

WTO đã được thông qua với quy định cho phép các nước thành viên từng
bước thay đổi chính sách thơng qua lộ trình tự do hố từng bước. Sự nhượng
bộ trong cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan được thực
hiện thông qua đàm phán, rồi trở thành các cam kết để thực hiện.
- Dễ dự đoán nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch:
Đây là nguyên tắc quan trọng của WTO. Mục tiêu của nguyên tắc này
là các nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định và có thể dự báo
trước được về các cơ chế, chính sách, quy định thương mại của mình nhằm
7

7


Khoa Khoa học Quản lý
tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngồi có thể
hiểu, nắm bắt được lộ trình thay đổi chính sách, nội dung các cam kết về
thuế, phi thuế của nước chủ nhà để từ đó doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạch
định kế hoạch kinh doanh, đầu tư của mình mà khơng bị đột ngột thay đổi
chính sách làm tổn hại tới kế hoạch kinh doanh của họ. Nói cách khác, các
doanh nghiệp nước ngoài tin chắc rằng hàng rào thuế quan, phi thuế quan
của một nước sẽ không bị tăng hay thay đổi một cách tuỳ tiện. Đây là nỗ lực
của hệ thống thương mại đa biên nhằm yêu cầu các thành viên của WTO tạo
ra một môi trường thương mại ổn định, minh bạch và dễ dự đoán.
Nội dung của nguyên tắc này bao gồm các công việc như sau:
Về các thoả thuận cắt giảm thuế quan:
Bản chất của thương mại thời WTO là các thành viên dành ưu đãi,
nhân nhượng thuế quan cho nhau. Song để chắc chắn là các mức thuế quan
đã đàm phán phải được cam kết và không thay đổi theo hướng tăng thuế
suất, gây bất lợi cho đối tác của mình, sau khi đàm phán, mức thuế suất đã
thoả thuận sẽ được ghi vào một bản danh mục thuế quan. #ây gọi là các mức

thuế suất ràng buộc. Nói cách khác, ràng buộc là việc đưa ra danh mục ấn
định các mức thuế ở mức tối đa nào đó và khơng được phép tăng hay thay
đổi theo chiều hướng bất lợi cho các doanh nghiệp nước ngồi. Một nước có
thể sửa đổi, thay đổi mức thuế đã cam kết, ràng buộc chỉ sau khi đã đàm
phán với đối tác của mình và phải đền bù thiệt hại do việc tăng thuế đó gây
ra.
Về các biện pháp phi thuế quan:
Biện pháp phi thuế quan là biện pháp sử dụng hạn ngạch hoặc hạn chế
định lượng khác như quản lý hạn ngạch. Các biện pháp này dễ làm nảy sinh
tệ nhũng nhiễu, tham nhũng, lạm dụng quyền hạn, bóp méo thương mại, gây
khó khăn cho doanh nghiệp, làm cho thương mại thiếu lành mạnh, thiếu
8

8


Khoa Khoa học Quản lý
minh bạch, cản trở tự do thương mại. Do đó, WTO chủ trương các biện pháp
này sẽ bị buộc phải loại bỏ hoặc chấm dứt.
để có thể thực hiện được mục tiêu này, các hiệp định của WTO yêu
cầu chính phủ các nước thành viên phải công bố thật rõ ràng, công khai
("minh bạch") các cơ chế, chính sách, biện pháp quản lý thương mại của
mình. #ồng thời, WTO có cơ chế giám sát chính sách thương mại của các
nước thành viên thông qua Cơ chế rà sốt chính sách thương mại.
-Tạo ra mơi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn:
Trên thực tế, WTO tập trung vào thúc đẩy mục tiêu tự do hoá thương
mại song trong rất nhiều trường hợp, WTO cũng cho phép duy trì những quy
định về bảo hộ. Do vậy, WTO đưa ra nguyên tắc này nhằm hạn chế tác động
tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh khơng bình đẳng như bán phá giá, trợ
cấp...hoặc các biện pháp bảo hộ khác.

Để thực hiện được nguyên tắc này, WTO quy định trường hợp nào là
cạnh tranh bình đẳng, trường hợp nào là khơng bình đẳng từ đó được phép
hay khơng được phép áp dụng các biện pháp như trả đũa, tự vệ, chống bán
phá giá...
-Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế bằng cách dành ưu đãi
hơn cho các nước kém phát triển nhất:
Các nước thành viên, trong đó có các nước đang phát triển, thừa nhận
rằng tự do hoá thương mại và hệ thống thương mại đa biên trong khn khổ
của WTO đóng góp vào sự phát triển của mỗi quốc gia. Song các thành viên
cũng thừa nhận rằng, các nước đang phát triển phải thi hành những nghĩa vụ
của các nước phát triển. Nói cách khác, "sân chơi" chỉ là một, "luật chơi" chỉ
là một, song trình độ "cầu thủ" thì khơng hề ngang nhau. Trong khi đó, hiện
số thành viên của WTO là các nước đang phát triển và các nước đang trong
quá trình chuyển đổi nền kinh tế chiếm hơn 3/ 4 số nước thành viên của
9

9


Khoa Khoa học Quản lý
WTO. Do đó, WTO đã đưa ra nguyên tắc này nhằm khuyến khích phát triển
và cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi
bằng cách dành cho những nước này những điều kiện đối xử đặc biệt và
khác biệt để đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của các nước này vào hệ
thống thương mại đa biên.
Để thực hiện nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển,
các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi những linh hoạt và ưu đãi nhất
định trong việc thực hiện các hiệp định của WTO. Chẳng hạn, WTO cho
phép các nước này một số quyền và không phải thực hiện một số quyền cũng
như một số nghĩa vụ hoặc cho phép các nước này một thời gian linh động

hơn trong việc thực hiện các hiệp định của WTO, cụ thể là thời gian quá độ
thực hiện dài hơn để các nước này điều chỉnh chính sách của mình. Ngoài ra,
WTO cũng quyết định các nước kém phát triển được hưởng những hỗ trợ kỹ
thuật ngày một nhiều hơn.
2..Lợi ích của doanh nghiệp khi Việt Nam gia nhập WTO
2.1 Mở rộng thị trường,tăng cường khả năng tiếp cận thị trường cho doanh
nghiệp
Gia nhập Việt Nam sẽ thực sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới vì
WTO là tổ chức có 148 thành viên (tính đến 10/2005) chiếm trên 85%tổng
thương mại hàng hoá và khoảng 90% tổng thương mại dịch vụ tồn cầu.Gí
nhập WTO,ngồi việc được đối sử bình đẳng trong quan hệ thương mại như
tất cả các thành viên khác của WTO,Việt Namcòn được hưởng những ưu đãi
thương mại cho một nước đang phát triển ở trình độ thấp.Với những lợi thế
do WTO mang lại,Việt Nam sẽ có điều kiện để tăng cường tiếp cận thị
trường của các nước thành viên WTO,mở rộng thị trường xuất khẩu những
mặt hàng Việt Nam có tiềm năng,có lợi thế,và một khi xuất khẩu tăng

10

10


Khoa Khoa học Quản lý
cưiừng sẽ tạo đầu ra cho sản xuất trong nước,mang lại sự tăng trưởng cho
sản xuất trong nước,tạo thêm niều công ăn việc làm.
- Tăng số lượng thị trường xuất khẩu hàng hoá cho doanh nghiệp:
Nhờ tư cách thành viên của WTO,doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất
khẩu vào toàn bộ 148 nước thành viên của WTO với mức thuế ưu đãi thay vì
chỉ có một số thị trường truyền thống(Nga,Đông Âu) và một số thị trường
mới khai thác (Mỹ,Nhật Bản,EU).Nừu nhớ lại rằng,giá trị xuất khẩu acủa

Việt Nam hiện chiếm 1/2 giá trị tổng sản phẩm quốc nội(GDP)thì sẽ thấy rõ
lợi ích to lớn của việc mở rộmh không gian thương mại,mở rộng thị trường
xuất khẩu cho các doanh nghiệp Việt Nam.Một quy mô sản xuất hàng xuất
nhập khẩu phát triển lên đến một mức nào đó,nếu khơng giải quyết được bài
tốn đầu ra,doanh nghiệp giấy khó lịng phát triển,chứ chưa nói đến phát
triển bền vững.
-Tăng số lượng hàng hoá xuất khẩu ra các nước:
Nhờ thành quả đàm phán cắt giảm thuế quan và loại bỏ dần các hàng rào
phi thuế quan trong lịch sử 50 qua của WTO đến nay,doanh nghiệp Việt
Nam sẽ được hưởng lợi từ việc xuất khẩu vào các thị trường các nước thành
viên của WTO với mức thuế đánh vào hàng nhập khẩu thấp.Nêú không là
thành viên của WTO,chắc chắn doang nghiệp Việt Nam khơng thể xuất khẩu
hàng hố sang các nước đang là thành viên WTO.Bởi lẽ,các nước này cần ưu
tiên,hay nói đúng hơn,thực hiện quy chế đãi ngộ tối huệ quốc với các thành
viên WTO;cịn trong khi đó họ có thể phân biệt đối sử với hàng hố Việt
Nam thể hiện qua việc họ có thể đánh thuế caovào hàng hoá xuất khẩu của
Việt Nam hoặc sử dụng các biện pháp phi thuế quan để ngăn trở hàng hoá
Việt Nam.Do vậy,nếu được hưởng mức thuế xuát nhập khẩu thấp,sẽ tạo điều
kiện cho hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam có mức giá cạnh tranh được
với việc mở rộng không gian thương mại,mở rộng thị trường xuất khẩu,mức
11

11


Khoa Khoa học Quản lý
thuế nhập khẩu thấp cũng sẽ giúp doanh nghiệp có cơ hội thúc đẩy sự xâm
nhập hàng hố của mình vào các nước thành viên WTO.
Ngồi ra,doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng cơ hội từ những quy
định của WTO về ưu đãi cho các nước đang phát triển để tăng lượng xuất

khẩu,chẳng hạn,các mặt hàng sơ chế khi xuất khẩu sang các nước phát triển
sẽ được hưởng mức thuế đánh vào hàng nhập khẩu thấp,hoặc khơng có
thuế,hoặc hưởng chế độ của hệ thống ưu đãI thuế quan phổ cập(GSP)…Khi
tham gia WTO,doanh nghiệp Việt Nam cũng được hưởng lợi từ quy chế
miễn trừ quy định cấm trợ cấp xuất khẩu đối với các nước đang phát triển có
thu nhập dưới 1.000USD/người/năm.
-Tạo cơ hội sản xuất và xuất khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các
nghành mà Việt Nam có ưu thế cạnh tranh:
Doanh nghiệp Việt Nam được hưởng cơ hội này từ hai bình diện:
+ Một là do những quy định của WTO.
+ Hai la do ưu thế cạnh tranh về giá cả,chi phí đem lại.
- Đối với những cơ hội do quy định của WTO đem lại:
Đối với hàng nông sản:
Vốn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của các nước đang phát triển,nơi
mà công nghiệp chế biến chưa phát triển,trình độ chế biến thấp.ở những
nước này, tỷ trọng hàng nơng sản xuất khẩu cịn chiếm ở mức cao,do đó,nếu
bị đánh thuế cao,số kượng xuất khẩu sẽ không đựoc nhiều,chắc chắn ảnh
hưởng đến tổng sản lượng xuẩt khẩu,làm giảm doanh thu xuất khẩu.Nhưng
khi vào WTO,các nước đang phát triển,trong đó có Việt Nam,sẽ được hưởng
những thành quả nhờ những vòng đàm phán đa phương trước đó của WTO
về nơng nghiệp.Chẳng hạn,ở vịng đàm phán Doha,các nước thành viên
WTO cam kết đàm phán toàn diện về tất cả vấn đề của Hiệp định nông
12

12


Khoa Khoa học Quản lý
nghiệp,bao gồm việc tăng trưởng tiếp cận thị trường(mở rộng hạn ngạch
thuế quan và giảm leo thang thuế quan đối với sản phẩm chế biến) giảm và

loại bỏ mọi dạng trợ cấp xuất khẩu,giảm đáng kể hỗ trợ trong nước.Tuy
nhiên,WTO cũng quy định:các nước đang phát triển không phải đưa ra các
cam kết về giảm trợ cáp xuất khẩu(các nước công nghiệp phát triển phảI cắt
giảm 36%nguồn ngân sách dành cho trợ cấp xuất khẩu nông phẩm trong
vịng 6 năm,các nước phát triển nói chung phảI cắt giảm 24%trong vịg 10
năm).Việt Nam cũng khơng cắt giảm hỗ trợ trong nước đối với nông dân(các
nước phát triển phảI cắt giảm 20%mức hỗ trợ trong nước trong thời gian 6
năm,các nước đang phát triển khác là 13,3%trong vòng 10 năm).Theo hiệp
định nông nghiệp,các hạn chế về số lượng trong đó có gạo,nơng sản khác sẽ
dược chuyển thành thuế quan và cắt giảm dần.Do đó,nếu trở thành thành
viên WTO,Việt Nam sẽ có khả năng mở rộng xuất khẩu gạo và các mặt
hàng nông sản khác sang các thị trường mới.Mặt khác,các sản phẩm nông
sản xuất khẩu của các nước không phải là thành viên sẽ phải chịu thuế suất
cao do việc thuế quan hoá của các thành viên.
- Đối với những cơ hội do ưu thế cạnh tranh về giá cả,chi phí đem lại:
Khi tham gia vào WTO, doanh nghiệp Việt Nam sẽ tham gia vào sự
phân công lao động, sản xuất trong thị trường mang tính tồn cầu.Doanh
nghiệp Việt Nam sẽ có ưu thế do giá cả rẻ,chi phí thấp(do lương nhân cơng
thấp). Chẳng hạn, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều ưu thế về các mặt
hàng sử dụng tay nghề truyền thống,sử dụng lao động rẻ(ví dụ lao động
nông nhàn,lao động học vấn thấp nên lương công nhân thấp),nguyên liệu sẵn
có trong nước như hàng mây tre, thủ cơng mỹ nghệ,đồ gỗ…); khí hậu nhiệt
đới cho phép trồng được những loại cây cà phê, hạt tiêu cao su, thanh
long,dừa…;hoặc các mặt hàng mang tính truyền thơng,là đặc sản của địa
phương,vùng miền(phở,mỳ tôm,gia vị,mực khô,cá khô…).Một số mặt hàng
13

13



Khoa Khoa học Quản lý
tuy sư dụng nguyên liệu nhập khẩu như dệt may,da dày…song cũng có thể
tận dụng ưu thế chi phí lao động rẻ,tiền lương thấp.Đồng thời,đây cũng là
những mặt hàng mà đến nay nhiều nước phát triển không tập trung sản xuất
nữa…
2.2 Nâng cao vị thế trong quan hệ thương mại quốc tế và bình đẳng trong
giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
- Tiếp cận bình đẳng vào thị trường các nước thành viên:
Các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng các quy định chỉ dành cho các
thành viên của WTO,qua đó hàng hố của các doanh nghiệp Việt Nam được
tiếp cận bình đẳng vào các thị trường của 148 thành viên WTO mà không bị
chèn ép,đối xử khơng bình đẳng như khi chưa là thành viên WTO.Đặc
biệt,đối với những quy định chỉ danh cho thành viên của WTO,nếu Việt
Nam là thành viên của WTO,hàng hoá dịch vụ của Việt Nam cũng sẽ được
đối xử bình đẳng trên thị trường quốc tế.Ví dụ,một nước khi đã là thành viên
của WTO, có quyền được áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng đối với
các hàng nhập khẩu của nước khác chưa phải là thành viên trong việc thực
hiện Hiệp định nơng nghiệp.Trong khi đó các quy định này không áp dụng
đối với các nước chưa phải là thành viên WTO.Ngoài ra,một số cường quốc
thương mại vẫn tiếp tục duy trì các biện pháp phân biệt đối xử đối với các
nước với cáI gọi là”thương mại nhà nước” hay các nước co nền kinh tế thị
trường,các nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.Các biện pháp này sẽ
không được áp dụng đối với các nước thành viên WTO.
- Bảo hộ sản xuất trong nước theo các khuôn khổ quy định của WTO:
Các doanh nghiệp Việt Nam thơng qua các hiệp hội của mình hoặc
thơng qua cơ quan quản lý nhà nước về thương mại (Cục quản lý cạnh tranh
…) để kiến nghị Chính phủ áp dụng các biện pháp bảo vệ sản xuất trong
nước. Chẳng hạn , với tư cách là thành viên WTO, doanh nghiệp có thể kiến
14


14


Khoa Khoa học Quản lý
nghi Chính phủ tiến hành điều tra về mức gây phương hại của hàng nhập
khẩu để thực hiện áp dụng thuế đối kháng hoặc chống bán phá giá theo quy
định của Hiệp định về chống bán phá giá và thuế đối kháng; thực hiện điều
tra để áp dụng thuế chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam; áp
dụng các biện pháp tự vệ trong trường hợp nhập khẩu hàng hố nước ngồi
vào Việt Nam quá mức, gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong
nước…
-Sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của
WTO để giải quyết tranh chấp trong thương mại, tránh bị các nước lớn chèn
ép khi xảy ra tranh chấp thương mại quốc tế:
Doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận, sử dụng hệ thống giảI quyết
tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO để giải quyết tranh chấpỉtong
thương mại, tránh bị các nước lớn chèn ép khi xảy ra tranh chấp thương mại
quốc tế. Ví dụ, nếu trước kia các quy định của GATT còn nhiều hạn chế với
đặc trưng là thiếu cơ chế đảm bảo cho các nghị quyết được thực hiện thì ở
WTO, được xem như một “ Liên hợp quốc” trong lĩnh vực thương mại quốc
tế, mà trong đó mỗi quốc gia thành viên đều có một phiếu bầu, cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO đã đảm bảo mục tiêu công bằng hơn, thống nhất
và chắc chắn hơn; đảm bảo một quy trình, thủ tục và thời gian biểu chặt chẽ
cho việc giải quyết tranh chấp; đảm bảo có được kết luận đúng cho tranh
chấp.
2.3 Hưởng lợi từ các chính sách cải cách trong nước
- Nhờ gia nhập WTO, tham gia vào một “sân chơi” chung trên phạm
vi toàn cầu, WTO mang lại một cơ hội toàn diện về thị trường hàng hoá, thị
trường dịch vụ, thị trường vốn và thị trường lao động. Với một không gian
kinh tế mới rộng lớn hơn nhiều, với hệ thống cơ chế chính sách, luật pháp

minh bạch, có thể tiên liệu được, thơng qua sự phân cơng lao động tồn cầu,
15

15


Khoa Khoa học Quản lý
việc gia nhập WTO hay nói rộng hơn là tham gia vào q trình tồn cầu hoá
sẽ giúp Việt Nam thúc đẩy các cải cách kinh tế trong nước, làm sâu sắc hơn
các thành quả của cải cách.
- Nhờ việc Việt Nam tham gia vào WTO, thực thi chính sách mở cửa
thị trường, tự do hố thương mại, nền kinh tế trong nước sẽ phảI cải cách,
mở cửa, táI cơ cấu. Nền hành chính sẽ được cải cách nhằm đáp ứng các yêu
cầu công khai, minh bạch, dễ dự đoán của “luật chơi quốc tế”, bộ máy quản
lí hành chính nhà nước sẽ trở nên gần dân hơn, trở thành một nền hành chính
phục vụ dân, phục vụ doanh nghiệp, làm cho môi trường kinh doanh thơng
thống, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp, đồng thời giảm thiểu các chi
phí tốn kém của doanh nghiệp trong quá trình gia nhập, tiếp cận và tham gia
thị trường.
- Một khi các cam kết khi gia nhập WTO được thực hiện, một mặt quá
trình mở cửa, tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại, đầu tư minh bạch hố
chính sách sẽ dần đáp ứng u cầu của luật chơI quốc tế, mặt khác tạo điều
kiện cho chúng ta bổ sung những nguồn lực mà trong nước còn thiếu, cịn
yếu như vốn, cơng nghệ, kỹ năng quản lý. Các nhà sản xuất, kinh doanh
trong nước sẽ được đặt trong môi trường cạnh tranh, năng động hơn; tiếp
cận với công nghệ, trình độ, chất lượng quốc tế.
Kết quả là các nhân tố nói trên sẽ tạo ra động lực quan trọng giảI phóng
sức sản xuất trong nước, thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả, hợp lý các nguồn
tiềm năng sẵn có của chúng ta như tài nguyên, lao động, nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế. Mike Moore, Cựu tổng giám đốc WTO ( trong chuyến

thăm Việt Nam 11/4/2005) đã từng nói: WTO sẽ tạo ra mơI trường kinh
doanh minh bạch hơn, dễ tiên đoán hơn và hạn chế tham nhũng cho bản thân
các nước thành viên. Kinh nghiệm 50 năm qua đã chứng minh rằng những
nước có mức sống cao nhất là những quốc gia theo đuổi chính sách tự do
16

16


Khoa Khoa học Quản lý
hố thương mại. MơI trường kinh doanh lành mạnh sẽ tạo ra những doanh
nhân sẵn sàng đối mặt với cạnh tranh chứ không phảI kiếm lời từ sự trợ giúp
của Chính phủ hay lợi dụng những hạn chế, bảo hộ của nhà nước.
2.4 Tăng thu hút vốn đầu tư nước ngồi
-Về khía cạnh thị trường:
Khi tham gia vào hệ thống phân cơng lao động tồn cầu, tham gia vào
thị trường toàn cầu rộng lớn, Việt Nam trở thành địa điểm hấp dẫn các nhà
đầu tư nước ngoài muốn tận dụng cơ hội đầu tư vào các nghành, lĩnh vực tạo
ra hàng hoá để xuất khẩu hoặc phục vụ các nhà xuất khẩu. Đồng thời, khi
các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, sẽ tạo ra thị trường tiêu thụ hàng
hoá của các doanh nghiệp trong nước sản xuất ra (mà các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài mua để làm nguyên liệu của họ); tạo ra thị trường làm
thuê, nhận gia cônh, chế tác, cung cấp linh kiện, cung cấp lao động cho các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, tạo việc làm cho các doanh nghiệp
trong nước.
- Về khía cạnh pháp lý:
Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế nói vhung và tham gia WTO nói
riêng,thực chất Việt Nam đã chấp nhận thực hiện các cam kết quốc tế về mở
cửa thị trường,thực hiện thuận lợi hoá,tự do hoá thương mại và đầu tư giữa
các quốc gia.Việc thực hiện các cam kết này cũng đồng nghĩa với việc Việt

Nam(hoặc bất cứ một quốc gia nào muốn gia nhập WTO) cần phải có một hệ
thống luật pháp minh bạch,phù hợp với thơng lệ của WTO,bao gồm cả về
thương mại hoá,thương mại dịch vụ,đầu tư và sở hưu trí tuệ.Hệ thống luật
pháp và hệ thống cơ chế chính sách minh bạch,tiên liệu được sẽ làm tăng
tính hấp dẫncủa mơi trường đầu tư,kinh doanh ở Việt Nam.
2.5 Tiếp thu công nghệ,kỹ năng quản lý,quản trị kinh doanh,tiếp thị,xây
dung thương hiệu của nước ngoài
17

17


Khoa Khoa học Quản lý
- Khi tham gia WTO,tham gia thị trường tồn cầu,các luồng vốn đầu tư
khoa học cơng nghệ,nguồn nhân lực trong nước có cơ hội giao lưu,tham gia
vào sự phân cơng lao động tồn cầu .Trong sự giao lưu và phân cơng,phân
cơng lại mang tính thị trường như vậy,tất yếu thị trường trong nước được
tiếp nhận những yếu tố tiên tiến,vuợt trội về công nghệ,khoa học quản lý,tiếp
thị,đồng thời nguồn nhân lực trong nước được đào tạo,được cọ xát,học hỏi
tiếp thu những thành quả,tinh hoa của các nền kinh tế phát triển hơn.
-Trực tiếp hơn,thông qua quá trình đầu tư của các nhà đầu tư nước
ngồi(khi họ đem theo vốn,đem theo bí quyết,cơng nghệ sản xuất
mới,phương thức tổ chức các kênh phân phối,tiếp thị,cách thức xây
dựngthương hiệu,quảng bá nhãn hiệu hàng hoá,sản phẩm…vào Việt
Nam),các doanh nghiệp trong nước nói chung và đội ngũ lãnh đạo,quản
lý,nhân viên nói riêng có thể học hỏi,rút tỉa,mơ phỏng các cơng nghệ sản
xuất,dịch vụ của nước ngoài;đồng thời rèn luyện,học hỏi được kỹ năng,kỹ
xảo,bí quyếtvề quản lý doanh nghiệp,về tiếp thị,xây dung và quảng bá
thương hiệu…
3. Những bất lợi của doanh nghiệp giấy khi Việt Nam gia nhập WTO

3.1 Mất cân đối năng lực sản xuất bột giấy
Chưa có lúc nào tình hình bột giấy lại căng thẳng như lúc này. Giá
nguyên liệu bột giấy tăng liên tục, bình quân trên 120 USD/tấn so với đầu
năm, nhưng giá bán hầu như không tăng. Những doanh nghiệp chủ động
được bột giấy có khả năng sẽ thắng to, trong đó có thể kể hàng đầu là Giấy
Bãi Bằng. Hiện nay, đơn vị này gần như chủ động hoàn toàn nguyên liệu sản
xuất giấy in, giấy viết.
Kế đến, Giấy Tân Mai có dây chuyền sản xuất bột DIP (sản xuất bột
giấy từ giấy in báo cũ có khử mực) nên chủ động được nguồn bột giấy in
báo.
18

18


Khoa Khoa học Quản lý
Thêm vào đó, Tân Mai cũng đã đưa nguyên liệu bột cây keo tai tượng
vào thay thế bột gỗ thơng, góp phần giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng
cạnh tranh đối với mặt hàng giấy báo khi thuế nhập khẩu giấy in báo từ các
nước trong khu vực giảm từ 40% vào năm 2003 xuống cịn 5% trong năm
nay.
Cơng ty Giấy Sài Gịn cũng có dây chuyền sản xuất bột giấy từ giấy
phế nên chủ động nguồn bột cho sản xuất giấy carton và giấy vệ sinh… Một
số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cũng đang có những dây chuyền
sản xuất bột giấy từ giấy phế, có khả năng cạnh tranh tốt hơn. Tuy nhiên,
năng lực sản xuất bột giấy của các doanh nghiệp này cũng chưa đủ để cung
ứng cho sản xuất và vẫn còn phải nhập khẩu thêm bột giấy.
Trong khi đó, đa phần các nhà máy giấy khác mới đầu tư hoặc không
chủ động được nguồn bột giấy đều rơi vào tình trạng căng thẳng, sản phẩm
làm ra có giá thành cao, nếu bán với giá thị trường sẽ bị thua lỗ nặng. Do

ngành giấy chưa đầu tư được một nhà máy sản xuất bột giấy lớn nào đáng kể
để cung cấp cho toàn ngành, phần lớn các doanh nghiệp phải nhập khẩu nên
phụ thuộc hoàn toàn vào giá thế giới, mỗi năm phải nhập khẩu bình quân
130.000-150.000 tấn bột.
3.2 Chưa làm chủ được công nghệ
Hiệp hội Giấy Việt Nam cho biết, riêng nhu cầu nhập khẩu giấy bao bì
cơng nghiệp, giấy tráng phấn chiếm 36,84% (175.000 tấn), giấy làm lớp mặt
carton sóng chiếm 18,69%, giấy làm lớp sóng carton chiếm 29,27%, giấy
duplex (một mặt hoặc hai mặt trắng) chiếm 5,7%, giấy làm bao xi măng
chiếm 9,5%. Như vậy, nhu cầu giấy tráng phấn rất lớn. Vừa qua, đầu tư vào
sản xuất giấy tráng phấn có Cơng ty Giấy Việt Trì, Cơng ty Giấy Bình An và
Cơng ty Giấy Hải Phòng…

19

19


Khoa Khoa học Quản lý
Đây được xem là đầu tư đúng hướng nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước. Tuy nhiên, hầu hết các mặt hàng giấy tráng phấn chưa được sản
xuất ổn định, sản phẩm làm ra chưa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước là
một tổn thất rất lớn. Ngồi dự án của Cơng ty Giấy Hải Phịng mới đưa vào
hoạt động nên chưa có đánh giá chuẩn xác, hai dự án giấy Việt Trì và giấy
Bình An đã trở thành gánh nặng tài chính do thiết bị đầu tư không hiệu quả,
không khai thác hết năng lực đã đầu tư.
Theo nhận xét của một số chuyên gia, nguyên nhân chủ yếu là do các
doanh nghiệp chưa làm chủ được cơng nghệ, chưa có kinh nghiệm sản xuất
mặt hàng này và thị trường sản phẩm chưa ổn định. Thậm chí đến nay,
ngành giấy trong nước vẫn chưa làm chủ được công nghệ sản xuất giấy làm

lớp giữa sóng carton (về nguyên tắc dễ hơn làm giấy mặt) và trong năm qua
phải nhập khẩu trên 139.000 tấn, cịn sản phẩm sản xuất trong nước bán
khơng được.
Khơng chỉ có vậy, đối với mặt hàng giấy in và giấy viết, trong những
năm qua giấy Bãi Bằng, Tân Mai, Đồng Nai đã chủ động được công nghệ
sản xuất. Tuy nhiên, có nhiều dự án đầu tư của tư nhân sản xuất mặt hàng
này nhưng mới chỉ chú trọng thiết bị mà chưa làm chủ được công nghệ,
khiến cho sản phẩm làm ra không tiêu thụ được. Đến nay, nhiều doanh
nghiệp tư nhân trong số này đang có nguy cơ phá sản vì khơng trả được nợ
và gây ơ nhiễm mơi trường nghiêm trọng.
3.3 Đầu tư quy mô quá nhỏ
Trong 20 năm qua, năng lực ngành giấy được tăng lên gấp đôi, từ
100.000 tấn/năm lên gần 1 triệu tấn/năm (thực tế sản xuất được khoảng
800.000 tấn/năm). Tính ra, với 300 doanh nghiệp trong ngành, quy mơ bình
qn khoảng 3.000 tấn/năm/nhà máy thì khơng thể nào mang lại hiệu quả.
Khơng những thế, các chun gia cịn cho rằng quy mơ này sẽ gây hậu quả
20

20


Khoa Khoa học Quản lý
nghiêm trọng, vì với quy mơ vài nghìn tấn/năm, quản lý theo kiểu gia đình
thì chất lượng sản phẩm sẽ rất thấp, chi phí giá thành cao, ơ nhiễm mơi
trường sẽ rất nặng nề.
Bên cạnh đó, do thiếu nguyên liệu bột giấy, hiện nay đã xuất hiện một số
nhà máy bột giấy có cơng suất 1.000-2.000 tấn/năm, phân bổ rải rác ở khắp
các vùng núi nên sẽ khơng hiệu quả, vì quy mơ q nhỏ sẽ không khai thác
hiệu quả nguồn tài nguyên nguyên liệu, gây ô nhiễm môi trường (không có
hệ thống thu hồi hóa chất, xử lý nước thải, chất thải…), vận chuyển bột đến

nhà máy xeo giấy quá xa nên chi phí sẽ tăng lên.
Vấn đề hiện nay chính là chúng ta đã bắt đầu hội nhập, thuế nhập khẩu
giấy từ các nước trong khu vực đã giảm, trong khi thực trạng ngành giấy cịn
ngổn ngang và lạc hậu. Vậy thì ngành giấy phải làm gì để điều chỉnh những
dự án hiện có và định hướng chiến lược phát triển trong những năm tới.
Trong đó, khơng chỉ định hướng xây dựng các vùng nguyên liệu tập
trung để xây dựng các nhà máy bột giấy tẩy trắng; đầu tư sản xuất nguyên
liệu bột xơ dài (từ tre nứa) và bột giấy phi gỗ (rơm ra, cây bơng, đay...) để
sản xuất giấy bao bì.Theo các chun gia, nhất thiết phải có lộ trình loại bỏ
dần các nhà máy quy mô nhỏ dưới 30.000 tấn/năm, đồng thời buộc xây dựng
nhà máy mới phải có quy mơ lớn, cơng nghệ hiện đại để có hệ thống xử lý
các tác nhân gây ơ nhiễm mơi trường…Bên cạnh đó, cũng phải lưu ý đến
khuyến cáo của Hiệp hội Giấy Việt Nam, không nên tiếp tục đầu tư vào sản
phẩm giấy in và giấy viết trong vài năm tới vì cơng suất đã bão hịa. Làm
được những điều này, ngành giấy trong nước mới đủ năng lực cạnh tranh và
không gây lãng phí tài sản xã hội trong q trình đầu tư phát triển ngành.
3.4 Sức cạnh tranh rất yếu
Hạn chế cạnh tranh lớn nhất của các nhà máy giấy hiện nay là suất đầu
tư quá lớn nhưng công nghệ lại lạc hậu, năng suất thấp, sản phẩm còn đơn
điệu về chủng loại và giá thành cao. Ngành giấy đang phải đối đầu với tình
trạng thiếu bột giấy nghiêm trọng, kéo dài suối gần 4 năm qua, nhất là bột
21

21


Khoa Khoa học Quản lý
hóa tẩy dùng cho sản xuất các loại giấy cao cấp. Các nhà máy giấy phụ
thuộc quá nhiều vào nguồn bột giấy nhập khẩu. Mỗi năm, Việt Nam phải
nhập khẩu hơn 150.000 tấn bột giấy trong khi đó nguồn nguyên liệu dồi dào

trong nước để sản xuất bột giấy thì chưa khai thác được là bao.
Nhiều doanh nghiệp cho rằng, ngành giấy đã lỡ mất cơ hội đầu tư các
nhà máy sản xuất bột giấy quy mơ lớn trong vịng 8 năm qua, nhất là bột hóa
tẩy dùng cho sản xuất các loại giấy cao cấp mà ngun nhân chính là sự trì
trệ trong chính sách đầu tư và báo cáo khả thi của nhiều dự án bột giấy
khơng có tính khả thi, ngân hàng khơng cho vay tiền.
Điển hình là 2 dự án: Dự án Nhà máy bột giấy Kon Tum đã được chuẩn
bị từ trước năm 2000, dự kiến sẽ hoạt động vào năm 2003 với công suất
150.000 tấn bột tẩy trắng/năm nhưng đã bị ngưng triển khai, nhiều doanh
nghiệp sản xuất giấy ở phía Nam đã "vỡ mộng" khi tin tưởng trơng chờ vào
bột giấy giá rẻ sản xuất trong nước.
Dự án thứ hai là Nhà máy giấy Thanh Hóa với cơng suất 50.000 tấn bột
và 60.000 tấn giấy/năm (từ 2003 - 2009) và từ năm 2010 sẽ nâng lên
150.000 tấn bột và 150.000 tấn giấy/năm. Thế nhưng, khởi công từ tháng
2/2003 đến nay vẫn nằm hoang vu và mãi đầu tháng 3/2006, các bộ, ngành,
Tổng công ty giấy Việt Nam mới thống nhất điều chỉnh dự án.Trong khi đó,
nhiều nhà máy sản xuất bột hóa khơng tẩy từ gỗ tre, nứa có quy mơ nhỏ phải
ngừng sản xuất vì nước thải gây ô nhiễm môi trưng, ngành giấy càng thiếu
bột trầm trọng hơn.

Chương II: Giải pháp cho doanh nghiệp giấy Việt Nam khi
Việt Nam gia nhập WTO
Hiện nay, ngành Giấy nước ta đang gặp nhiều khó khăn, trước mắt là
để hội nhập, Việt Nam phải cắt giảm thuế đối với mặt hàng bột và giấy nhập
khẩu từ các nước ASEAN theo lộ trình CEPT/AFTA vào tháng 7/2003. Làm
22

22



Khoa Khoa học Quản lý
thế nào để phát huy tối đa nội lực, nhằm giảm chi phí, nâng cao chất lượng
và năng suất để tồn tại và cạnh tranh khi tham gia hội nhập.
4.1 Quy hoạch vùng nguyên liệu
Quy hoạch điều chỉnh phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam và
vùng nguyên liệu giấy đến 2010, tầm nhìn 2020 của Tổng cơng ty giấy Việt
Nam có mục tiêu kế thừa Quy hoạch tổng thể phát triển, đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 160/1998/QĐ-TTg ngày 4-9-1998;
dựa trên kết quả của phân tích, đánh giá tổng hợp hiện trạng và nguồn lực
phát triển của ngành công nghiệp giấy Việt Nam, từ đó xây dựng một hệ
thống mục tiêu, quan điểm, giải pháp, phát triển vùng nguyên liệu giấy, đáp
ứng nhu cầu phát triển bền vững của ngành trong giai đoạn tới.
Hiện trạng ngành công nghiệp giấy Việt Nam sau bảy năm thực hiện Quy
hoạch tổng thể vẫn còn nhiều điểm chưa đáp ứng yêu cầu, chưa tạo nên
những chuyển biến rõ rệt trong quá trình phát triển, nhất là ở hai khâu sản
lượng giấy và công suất sản xuất bột giấy. Trong năm 2005, sản lượng giấy
đạt 850.000 tấn nhưng sản lượng bột giấy mới chỉ đạt 288.000 tấn. Trong đó,
cơng suất của các DN thuộc Tổng công ty giấy Việt Nam chỉ đạt 325.000 tấn
giấy, chiếm 27,9% tỷ trọng công suất chung và 135.000 tấn bột giấy, chiếm
43,3%, cịn lại là đóng góp của cơng nghiệp địa phương, các công ty cổ
phần, doanh nghiệp tư nhân và các khu vực kinh tế khác. Theo đánh giá,
những dự án đầu tư và phát triển của ngành công nghiệp giấy ở khâu sản
xuất bột giấy là chưa đạt yêu cầu.
Hiện trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Về mặt bằng cơ sở vật
chất, chỉ có hai đơn vị trong ngành giấy (Bãi Bằng và Tân Mai) là sở hữu
công nghệ và thiết bị tương đối hiện đại, trong đó, Cơng ty giấy Bãi Bằng là
đơn vị duy nhất sản xuất bột giấy tẩy trắng cao, nhưng mới chỉ đạt cơng suất
80.000 tấn bột giấy hóa học/năm, cịn Nhà máy giấy Tân Mai chỉ sản xuất
23


23


Khoa Khoa học Quản lý
bột cơ nhiệt. Do sản lượng không đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất, hằng năm,
Công ty giấy Bãi Bằng phải nhập 15.000 tấn bột giấy hóa học tẩy trắng để
sản xuất loại giấy cao cấp đáp ứng yêu cầu in ấn các ấn phẩm sử dụng lâu
dài như sách, sách giáo khoa... Khắc phục những hạn chế này, Nhà nước đầu
tư 1.107 tỷ đồng chủ yếu là vốn vay nước ngồi cho q trình nâng cấp đồng
bộ dây chuyền sản xuất của công ty.
Một nguyên nhân khác tác động trực tiếp đến sản suất của ngành giấy là
nhu cầu về nguyên liệu sản xuất bột giấy thiếu. Theo nghiên cứu khảo sát,
hiện nay mỗi năm, riêng Công ty giấy Bãi Bằng cần tới 350.000 tấn tre, gỗ,
nứa... để làm nguyên liệu. Trong khi đó, đến năm 2005 mới đạt 218.000 tấn
nguyên liệu/năm, không tương ứng với nhu cầu tiêu thụ giấy được dự báo là
sẽ tăng bình qn từ 10 đến 11%/năm. Mới đây, Chính phủ đã giao Tổng
công ty giấy tập trung phát triển dự án đầu tư một dây chuyền sản xuất bột
giấy trắng thương phẩm công suất 250.000 tấn/năm tại Nhà máy giấy Bãi
Bằng và dự án xây dựng Nhà máy bột giấy Thanh Hóa cơng suất 50.000 tấn
bột giấy và 60.000 tấn giấy bao gói/năm, theo đó nhu cầu nguyên liệu dự
kiến sẽ tăng lên 1,5 triệu tấn/năm sau khi các dự án này hoàn thành. #ể khắc
phục sự mất cân đối giữa sản xuất giấy và sản xuất bột giấy, đáp ứng nhu
cầu nguyên liệu cung cấp cho sản xuất bột giấy đạt 600.000 tấn vào năm
2010 và 1,8 triệu tấn vào năm 2020, khơng thể khơng có sự điều chỉnh, quy
hoạch chi tiết đối với các vùng nguyên liệu.
4.2 Đầu tư tăng sản lượng giấy và bột giấy
Là đơn vị sản xuất có quy mơ lớn nhất của Tổng công ty, Nhà máy giấy
Bãi Bằng trong nhiều năm qua đã không ngừng đổi mới công nghệ nâng
công suất giấy và bột giấy, chú trọng thực hiện mục tiêu phát triển vùng
nguyên liệu. Từ thiết kế ban đầu với sản lượng 55 nghìn tấn giấy/năm, qua

giai đoạn nâng cấp hiện nay nhà máy sản xuất 100 nghìn tấn/năm. Theo ơng
24

24


Khoa Khoa học Quản lý
Đỗ Xuân Trụ, Phó Tổng giám đốc cơng ty, hiện Bãi Bằng đang triển khai
chương trình nâng cấp toàn bộ dây chuyền sản xuất dựa trên ba tiêu chí quan
trọng là: Nâng sản lượng bột giấy và giấy; Nâng chất lượng giấy từ độ trắng
80% ISO lên 95% ISO; Bổ sung công nghệ xử lý nước thải bằng phương
pháp sinh học đạt tiêu chuẩn thải quốc gia nhằm giảm ô nhiễm môi trường.
Để đạt được mục tiêu trên, Bãi Bằng cần đầu tư hơn 1.107 tỷ đồng,
chủ yếu bằng vốn vay nước ngoài. Đây là một chương trình đầu tư mở rộng
dây chuyền sản xuất rất lớn. Để thực hiện hiệu quả dự án trên vấn đề quyết
định vẫn là phát triển nhanh và vững chắc vùng ngun liệu.
Hiện Cơng ty giấy Bãi Bằng có 16 lâm trường trực thuộc Tổng công ty
Giấy Việt Nam với tổng diện tích đất được giao quản lý sử dụng là hơn 60
nghìn ha, diện tích đất rừng trồng ngun liệu có 32 nghìn ha. Hằng năm các
lâm trường này cung cấp cho Bãi Bằng 60% nhu cầu nguyên liệu, còn lại là
thu mua từ các hộ dân và lâm trường trực thuộc địa phương. #ến nay vùng
nguyên liệu chủ yếu ở bảy tỉnh phía bắc: Hà Giang, Yên Bái, Tuyên Quang,
Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Sơn La, Lào Cai. #ể bảo đảm nguồn cung cấp nguyên
liệu ổn định nhà máy đã thực hiện nhiều chính sách phát triển vùng nguyên
liệu, hạn chế tình trạng khủng hoảng thừa hoặc thiếu nguyên liệu như trước
đây. Đồng thời, công ty từng bước cải tiến việc thu mua nguyên liệu theo
hướng thuận lợi cho người trồng rừng và DN kinh doanh gỗ nguyên liệu.
Việc tổ chức thu mua đã đơn giản hóa các thủ tục. Các lâm trường có thể
trực tiếp giao dịch với nhà máy, khơng cần phải có các giấy phép bắt buộc
như trước kia. Hộ trồng nguyên liệu cũng có thể ký hợp đồng trực tiếp với

nhà máy với thủ tục đơn giản, chỉ cần xác nhận của UBND xã và giấy chứng
minh nhân dân. Do thủ tục thuận lợi, tạo mọi điều kiện cho người trồng
rừng mua bán dễ dàng, nên khâu khai thác nguyên liệu khá ổn định. Các
vùng nguyên liệu phát triển nhanh thông qua những biện pháp có tính
25

25


×