Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển và vai trò bảo vệ hệ sinh thái ven biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.91 KB, 3 trang )

TRAO ĐỔI - THẢO LUẬN

THIẾT LẬP HÀNH LANG BẢO VỆ BỜ BIỂN VÀ VAI TRÒ
BẢO VỆ HỆ SINH THÁI VEN BIỂN
ThS. Nguyễn Công Minh (1)
Phạm Thị Quỳnh Oanh
Hành lang bảo vệ bờ biển (HLBVBB) là khoảng cách về phía đất liền tính từ một điểm đặc trưng nào đó
trên bờ biển (giới hạn phía biển của thảm thực vật, mực nước biển cao nhất, hoặc đỉnh của cồn cát…) mà
trong phạm vi đó tất cả hoặc một số hoạt động phát triển không được phép tiến hành và việc sử dụng khu vực
này phục vụ mục đích của con người bị hạn chế. HLBVBB là một công cụ trong công tác quy hoạch bền vững
vùng bờ và có thể được sử dụng một cách độc lập, hoặc kết hợp với các công cụ khác để phục vụ mục tiêu
phát triển bền vững chung của vùng bờ. Bài viết tổng hợp, phân tích một số nguyên tắc và ví dụ về thiết lập
HLBVBB trên thế giới cũng như vấn đề bảo vệ hệ sinh thái (HST), dịch vụ HST, cảnh quan tự nhiên tại vùng
bờ, nhằm cung cấp một số cơ sở khoa học cho công tác này tại Việt Nam.

1. Phân loại HLBVBB
HLBVBB gồm 2 loại cơ bản (hành lang theo
phương thẳng đứng và theo phương ngang). Hành
lang theo phương thẳng đứng xác định chiều cao tối
thiểu so với một điểm mực nước biển tham chiếu mà
tại đó được xây dựng công trình nhằm bảo vệ các
công trình hạ tầng ven biển khỏi tác động của ngập
lụt do sóng, bão hoặc sự thay đổi mực nước biển do
sụt lún đất. Còn hành lang theo phương ngang xác
định một khoảng cách theo phương nằm ngang tính
từ một điểm tham chiếu phía biển để khoanh khu vực
chịu rủi ro nhất từ các mối nguy tại vùng bờ (sóng, xói
lở, sóng bão và nước biển dâng); đảm bảo quyền tiếp
cận công cộng, bảo vệ các giá trị văn hóa, sinh thái...
Hành lang theo phương thẳng đứng và phương ngang
có thể được sử dụng riêng rẽ hoặc kết hợp với nhau


để đạt được mục tiêu bảo vệ trước các mối nguy vùng
bờ cùng các mục tiêu gia tăng khác. Các đặc điểm của
bờ biển được lựa chọn làm điểm tham chiếu phía biển
để xác định HLBVBB có thể thay đổi theo sự thay đổi
của đường bờ, xói lở bờ biển, nước biển dâng và sự
biến mất của sinh cảnh. Do vậy, khi thiết lập HLBVBB
cần xác định rõ đặc điểm của điểm tham chiếu (điểm
tham chiếu có tính bất biến so với thời điểm thiết lập
hành lang; điểm tham chiếu sẽ phải định kỳ đánh giá
và điều chỉnh; điểm tham chiếu sẽ thay đổi cùng với
sự thay đổi của đặc điểm bờ biển).
1

2. Kinh nghiệm về phương pháp tiếp cận thiết
lập HLBVBB
HLBVBB tại các quốc gia Địa Trung Hải được quy
định tại Nghị định thư về Quản lý tổng hợp Vùng bờ
khu vực Địa Trung Hải thuộc Công ước Barcelona.
Đó là các bên tham gia sẽ thiết lập tại vùng bờ một khu
vực không cho phép các hoạt động xây dựng, tính từ
đường mực nước cao nhất mùa đông với bề rộng của
nó không nhỏ hơn 100 m; có thể điều chỉnh quy định
nêu trên với điều kiện các dự án phục vụ lợi ích công
cộng hoặc tại khu vực khó khăn về địa lý hoặc vấn đề
địa phương, đặc biệt liên quan đến mật độ dân số hoặc
nhu cầu xã hội, nơi mà hoạt động xây dựng nhà riêng,
đô thị hóa hoặc phát triển được pháp luật cho phép;
thông báo cho tổ chức các văn bản pháp luật quốc gia
về những điều chỉnh này.
Bề rộng 100 m của HLBVBB được coi là hợp lý cho

vùng đệm bảo vệ dọc theo bờ biển Địa Trung Hải. Tuy
nhiên, giải pháp này phù hợp với việc bảo vệ các khu
vực bờ biển còn nguyên sơ hoặc khu vực được phục
hồi trong chuyển đổi sử dụng đất chứ không áp dụng
đối với khu vực đô thị và khu công nghiệp ven biển,
khu vực sử dụng mục đích hàng hải và hoạt động phát
triển truyền thống gắn với cảnh quan vùng bờ. Việc
xác định điểm tham chiếu và HLBVBB cần dựa vào
đặc điểm vật lý của bờ biển, vì các loại hình bờ biển sẽ
chịu ảnh hưởng khác nhau của quá trình vật lý. Hình

Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên - môi trường biển khu vực phía Bắc, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam
Chuyên đề IV, tháng 12 năm 2018

7


thái bờ biển của khu vực Địa Trung Hải không đồng
nhất nên chính sách về HLBVBB chỉ dựa vào tốc độ
xói lở và ảnh hưởng của các hiện tượng cực đoan sẽ
không bảo vệ hiệu quả được bờ biển Địa Trung Hải.
Để có thể xây dựng được các chính sách về
HLBVBB phù hợp với từng loại hình bờ biển, dựa trên
quy định chung của Nghị định thư, đã có những đề
xuất về yếu tố cần xem xét khi xác định điểm tham
chiếu và HLBVBB cho loại hình bờ biển của vùng
Địa Trung Hải. Đối với hình thái bờ biển cát thì việc
xác định điểm tham chiếu để thiết lập hành lang phải
dựa vào hình thái bờ biển và tính toán ảnh hưởng của
hiện tượng cực đoan, đồng thời cũng phải xem xét tốc

độ xói lở trong các kịch bản khác nhau. Đối với hình
thái bờ biển có bãi triều thì điểm tham chiếu thiết
lập hành lang tại các vực nước nửa kín ít nhất phải
dựa vào ranh giới thảm thực vật tự nhiên hoặc nếu có
đủ dữ liệu phải tính cả giới hạn của mực nước trong
trường hợp cực đoan. Đối với hình thái bờ biển đá,
điểm tham chiếu xác định hành lang có thể sử dụng
trực tiếp ranh giới thảm thực vật và việc xác định bề
rộng hành lang trong trường hợp này sẽ nhằm mục
đích bảo vệ HST, các giá trị cảnh quan, quyền tiếp cận
sử dụng của người dân. Đối với hình thái bờ biển có
công trình cứng dọc theo đường bờ sẽ có chế độ bảo
vệ riêng và không cho phép các hoạt động phát triển
trong khu vực.
Đánh giá về quy định của Nghị định thư về
HLBVBB cho thấy, việc thiết lập HLBVBB cần đặt
trong bối cảnh rộng hơn của nhiệm vụ bảo vệ bờ
biển, kết hợp các yếu tố rủi ro vùng bờ do xói lở, hiện
tượng cực đoan, chức năng của HST vùng bờ, giá trị
cảnh quan vùng bờ và quyền tiếp cận của cộng đồng.
Đồng thời, các tiêu chí thích ứng với biến đổi khí hậu
(BĐKH) cũng cần được tích hợp vào công cụ quy
hoạch. Cách tiếp cận mang tính định sẵn, chẳng hạn
đặt ra bề rộng 100 m của hành lang, có thể không phù
hợp trong các kịch bản tương lai, đặc biệt đối với loại
hình bờ biển cát và châu thổ. Vì vậy, bề rộng hành
lang 100 m có thể được coi là một biện pháp giúp tạm
ngừng các hoạt động phát triển tại vùng cần bảo vệ
trong ngắn hạn, nhưng về lâu dài cần có những đánh
giá khoa học, cụ thể cho từng khu vực với sự tham gia

của người dân để đạt được thành công của sáng kiến
về bảo vệ bờ biển.
3. Vai trò của HLBVBB
Từ việc tiếp cận vấn đề thiết lập HLBVBB của các
quốc gia nói trên, có thể khẳng định, HLBVBB là một
công cụ trong quy hoạch bền vững vùng bờ nhằm bảo
vệ công trình hạ tầng, dân sinh vùng bờ khỏi tác động

8

Chuyên đề IV, tháng 12 năm 2018

bất lợi từ thiên nhiên như xói lở bờ biển, sóng dâng
do bão, ngập lụt, BĐKH và nước biển dâng, đồng thời
bảo vệ HST, dịch vụ HST, cảnh quan vốn nhạy cảm
tại vùng bờ khỏi các tác động bất lợi từ hoạt động phát
triển.
Từ bài học rút ra trong quá trình thiết lập và quản
lý HLBVBB, người ta đã thống nhất rằng, cả 2 cách
tiếp cận này cần được lồng ghép trong một phương
pháp luận chung để xác định ranh giới HLBVBB,
nhằm đảm bảo tính bền vững của vùng bờ cả về mặt
tự nhiên, cũng như phát triển kinh tế - xã hội. Ranh
giới của HLBVBB được xác định dựa vào các điểm
tham chiếu như đã đề cập ở trên. Thực tiễn thiết lập
HLBVBB ở một số nước, khu vực cho thấy, việc áp
dụng một điểm tham chiếu chung và dùng khoảng
cách định sẵn để làm ranh giới hành lang cho tất cả
các khu vực bờ biển đã phát sinh nhiều hạn chế. Đối
với các quốc gia Địa Trung Hải, việc sử dụng đường

mực nước cao mùa đông làm điểm tham chiếu, xác
định khoảng cách 100 m cho hành lang cũng được
đánh giá là chỉ phù hợp với những khu vực có cảnh
quan và HST nguyên vẹn, chưa bị tác động. Đối với
trường hợp này, đã có những đề xuất xác định điểm
tham chiếu và bề rộng hành lang cho từng loại hình
bờ biển cụ thể.
Các nghiên cứu và thực tiễn áp dụng tại nhiều nước
cho thấy, để bảo vệ HST, dịch vụ HST, cảnh quan tự
nhiên vùng bờ có thể sử dụng công cụ HLBVBB đơn
lẻ hoặc kết hợp với các công cụ quản lý khác như: Khu
bảo tồn thiên nhiên, khu bảo vệ đa dạng sinh học, khu
vực bãi biển công cộng… đã được thực hiện ở nhiều
nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Úc...
Việc xác định ranh giới HLBVBB nhằm mục đích
bảo vệ HST, dịch vụ HST, cảnh quan tự nhiên dựa
vào các đánh giá HST, đánh giá nhu cầu bảo tồn và
tham vấn các chuyên gia. Tại nhiều nước, khu vực
như Nam Phi hoặc châu Âu, các dữ liệu đánh giá HST
và nhu cầu bảo tồn được tổng hợp, quản lý dưới dạng
dữ liệu không gian (CaeNature/SANBI của Nam Phi
và Nature 2000 Network của châu Âu) và được sử
dụng làm cơ sở cho việc xác định ranh giới HLBVBB
cho mục đích bảo vệ HST. Trong những trường hợp
này, sự tham gia của chuyên gia và khảo sát thực địa
có vai trò kiểm chứng lại các thông tin/dữ liệu đã có,
từ đó củng cố cơ sở cho việc xác định ranh giới hành
lang. Tại các nước, khu vực chưa có một cơ sở dữ liệu
không gian về HST và khu bảo tồn ven biển, cần tiến
hành đánh giá giá trị HST, dịch vụ HST và cảnh quan

tự nhiên, nhu cầu bảo tồn làm cơ sở cho việc thiết
lập HLBVBB phục vụ mục đích bảo vệ HST, dịch vụ


TRAO ĐỔI - THẢO LUẬN

HST, cảnh quan tự nhiên. Có nhiều phương pháp tiến
hành nhiệm vụ này, nhưng cần xác định phương pháp
sử dụng phù hợp với đặc điểm HST và cảnh quan tự
nhiên tại khu vực cụ thể. Ngoài ra, cũng cần tiến hành
đánh giá giá trị dịch vụ HST của các HST không nằm
trong đối tượng bảo tồn nhưng có vai trò quan trọng
khác đối với vùng bờ như bảo vệ bờ biển, tạo không
gian công cộng cho khai thác, sử dụng của cộng
đồng... Các khu bảo tồn, vườn quốc gia ven biển có
cơ chế quản lý riêng về các hoạt động phát triển, được
quy định bởi pháp luật, nhằm mục đích bảo vệ tính
toàn vẹn của HST và dịch vụ HST. Tuy nhiên, đối với
các HST không nằm trong đối tượng bảo tồn nhưng
được coi là có vai trò cung cấp các dịch vụ HST cho
vùng bờ, việc có bảo vệ hay không phụ thuộc vào mục
tiêu phát triển và tính bền vững của quy hoạch phát
triển vùng bờ. Việc thừa nhận vai trò của các HST này
là phổ biến ở nhiều nước, khu vực nhưng thực tiễn
đưa các khu vực này vào phạm vi bảo vệ trong quy
hoạch vùng bờ nói chung và HLBVBB nói riêng còn
có sự khác biệt giữa các quốc gia, phụ thuộc vào mục
tiêu phát triển vùng bờ của mỗi nước.
4. Kết luận
Một là, HLBVBB là một công cụ trong quy hoạch

bền vững vùng bờ, có thể được sử dụng riêng rẽ hoặc
kết hợp với các công cụ quản lý khác để đạt được mục
tiêu bảo vệ cơ sở hạ tầng vùng bờ khỏi các tác động bất
lợi từ thiên tai, bảo vệ HST, dịch vụ HST, cảnh quan tự
nhiên và quyền tiếp cận, sử dụng chung của vùng bờ.
Khi sử dụng HLBVBB để bảo vệ HST, dịch vụ HST,
cảnh quan tự nhiên, mục tiêu chính của việc thiết lập
hành lang và các tiêu chí xác định hành lang dựa vào
các phương pháp xác định nhu cầu bảo tồn, đánh giá
giá trị bảo tồn của từng khu vực cụ thể. Đồng thời, cơ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Department of Environmental Affairs and Development
Planning, 2010. Development of a Methodology for
Defining and Adopting Coastal Development Setback
Lines.
2. ConScience, 2010. On the use of setback lines for coastal
protection in Europe and the Mediterranean: Practice,
problems and perspectives.
3. Inter-American Development Bank (IDB), 2012. Coastal
Setback in Latin America and the Caribbean: A Study of

chế quản lý hành lang trong trường hợp này cũng có
những điểm khác biệt, phù hợp với mục tiêu bảo vệ.
Đối tượng bảo vệ trong trường hợp này không chỉ là
các vườn quốc gia và khu bảo tồn đã được xác định
mà còn cả các khu vực cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho
HST cần được bảo tồn (vùng đệm). Hơn nữa, không
chỉ có các HST bị đe dọa tại vùng bờ mới cần được bảo
vệ mà gồm cả các HST, khu vực khác có nguy cơ gây ô
nhiễm vùng bờ, làm suy giảm đa dạng sinh học.

Hai là, việc xác định điểm tham chiếu và phương
pháp tính toán bề rộng HLBVBB cần dựa vào mục
tiêu bảo vệ, đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, hiện
trạng hạ tầng của từng vùng bờ cụ thể. Sử dụng một
điểm tham chiếu chung cho các khu vực bờ biển khác
nhau thường không phù hợp và không mang lại hiệu
quả bảo vệ mong muốn của HLBVBB.
Ba là, việc xác định ranh giới HLBVBB nhằm mục
đích bảo vệ HST, dịch vụ HST, cảnh quan tự nhiên
dựa vào các đánh giá HST, đánh giá nhu cầu bảo tồn
và tham vấn các chuyên gia. Các dữ liệu đánh giá HST
và nhu cầu bảo tồn dạng dữ liệu không gian được sử
dụng làm cơ sở cho việc xác định ranh giới HLBVBB
cho mục đích bảo vệ HST. Trong trường hợp chưa có
một cơ sở dữ liệu không gian về HST và các khu bảo
tồn ven biển thì cần tiến hành đánh giá.
Bốn là, đánh giá giá trị dịch vụ HST của các HST
không nằm trong đối tượng bảo tồn nhưng có vai trò
quan trọng khác đối với vùng bờ như bảo vệ bờ biển,
tạo không gian công cộng cho khai thác, sử dụng tài
nguyên vùng bờ… cũng cần được tiến hành. Đối với
các HST này, việc có bảo vệ hay không phụ thuộc vào
mục tiêu phát triển và tính bền vững của quy hoạch
phát triển vùng bờ■
Emerging Issues and Trends that Inform Guidelines for
Coastal Planning and Development.
4. Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo.
5. M. Sanò, J.A. Jiménez, R. Medina, A. Stanica, A. SanchezArcilla, I. Trumbic, 2011. The role of coastal setbacks in
the context of coastal erosion and climate change. Ocean
& Coastal Management. Elsevier 2011.

6. Marcello Sanò & Marcel Marchand & Raúl Medina, 2010.
Coastal setbacks for the Mediterranean: a challenge for
ICZM. Journal of Coastal Conservation 2010.

Chuyên đề IV, tháng 12 năm 2018

9



×