Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Báo cáo thực tập tốt nghiệp: Sự di chuyển lao động từ khu vực công sang khu vực tư ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.47 KB, 57 trang )

GV:Nguyễn Ngọc Tuấn

Trang  1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn chủ đề
Trong thời đại hiện nay, khi mà hầu hết các nước trên thế  giới đang hướng  
đến một nền kinh tế năng động và phát triển, nền kinh tế đa thành phần đang là một 
ưu thế.  Ở  nền kinh tế  đa thành phần đó luôn tồn tại hai khu vực: “khu vực kinh tế 
Nhà nước”( khu vực công) và khu vực kinh tế Tư nhân( khu vực tư). Trong đó, kinh tế 
nhà nước đóng vai trò chủ lực và kinh tế  tư  nhân là động lực phát triển của nền kinh 
tế. Hai khu vực kinh tế  này chính là hai nhân tố  chính đóng góp vào sự  tăng trưởng 
kinh tế, cũng như chiếm một tỉ trọng rất cao trong GDP và trong việc 
Và bao giờ cũng vậy, để phát triển kinh tế thì không thể không nói đến yếu tố 
“nguồn lao động”. Rõ ràng, đây là một yếu tố  có ảnh hưởng rất lớn. Nếu nguồn lao  
động có chất lượng cao thì quá trình phát triển kinh tế  cũng sẽ  thuận lợi và dễ  dàng 
hơn. Tuy nhiên, một thực tế đang trở thành vấn nạn hiện nay đó chính là sự di chuyển  
của các nguồn lao động, đặc biệt là nguồn lao động có chất lượng ( lực lượng tri  
thức).
Ở  phạm vi trong nước, đó chính là sự  di chuyển của lực lượng lao động từ 
khu vực này sang khu vực khác, hay từ ngành này sang ngành khác. Nổi bật nhất vẫn là  
sự di chuyển của các nguồn lực lao động từ khu vực công ( khu vực kinh tế nhà nước)  
sang khu vực tư ( khu vực kinh tế tư nhân) hoặc ngược lại.  
Có thể  hiểu vấn đề  trên là một hệ  quả  tự  nhiên của sự  phát triển. Tất cả 
chúng ta bao gồm cán bộ  công nhân viên chức đều muốn có một cuộc sống tốt đẹp 
hơn, được phát triển, đóng góp nhiều cho xã hội, vì vậy ở đây không có gì là sai khi họ 
rời khỏi nhà nước để  tạo điều kiện sống tốt hơn cho mình. Nhưng nếu việc làm này 
ngày càng phổ biến, đội ngũ cán bộ công chức hoạt động trong Nhà nước có nguy cơ 
bị  thiếu hụt hay không đảm bào chất lượng thì nó sẽ  trở  thành một vấn đề  lớn cần  
được quan tâm một cách nghiêm túc. Vì vậy chúng ta phải tự  hỏi: tại sao họ  lại  



GV:Nguyễn Ngọc Tuấn

Trang  2

chuyển từ khu vực công sang khu vực tư ? Những yếu tố nào đã tác động đến họ? Đặc 
biệt, hiện tượng này có những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực như thế nào đối với quá 
trình phát triển kinh tế của các nước đang tồn tài vấn nạn này? Để từ đó xem xét xem  
có giải pháp và chính sách nào để có thể  hạn chế hiện tượng này? Để  có câu trả  lời,  
tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu thực hiện đề  tài: “ Sự  di chuyển lao động từ  khu vực  
công sang khu vực tư ở Việt Nam” .
2. Mục tiêu nghiên cứu 
Mục tiêu nghiên cứu của bài tiểu luận nhằm hiểu một cách sâu sắc hơn các  
vấn đề cụ thể như sau:
 Cơ sở lý luận chung và thực trạng của thị trường lao động trong nước

 Phân biệt giữa khu vực Nhà nước và khu vực ngoài Nhà nước trong nền  
kinh tế. 
 Thực trạng dao động cung cầu giữa các khu vực kinh tế, cũng như những  

tác động do sự di chuyển từ khu vực Nhà nước sang các khu vực ngoài.
Trên cơ  sở  đó đưa ra một số  ý kiến đóng góp về  hạn chế  sự  di chuyển lao 
động từ khu vực công sang khu vực tư, đảm bảo cân đối giữa các khu vực kinh tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu của bài tiểu luận là thực trạng tình hình di chuyển lao  
động từ khu vực Nhà nước sang các khu vực khác và những tác động do sự  dao động 
trên đối với nền kinh tế chung. 
Phạm vi nghiên cứu: đi sâu vào thực trạng cụ  thể  tại địa bàn thành phố  Hồ 
Chí Minh
4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề  tài tôi có sử  dụng kiến thức thông qua việc  
nghiên cứu các loại tài liệu, nghiên cứu bằng các phương pháp như: phương pháp trao 


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn

Trang  3

đổi trực tiếp, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp và phương pháp phân tích  
số liệu.
5. Nguồn số liệu
Nguồn số liệu được thu thập dựa trên :
Báo cáo thường niên của Bộ  Lao Động, Thương Binh­Xã hội về  số  lao 
động di chuyển giữa các khu vực kinh tế.
Nguồn ADB do Bộ  Tài Chính cung cấp về  mức thu nhập giữa các khu 
vực kinh tế.
Các số liệu khác thu thập trên các website có liên quan.
6. Kết cấu
Với đề  tài nghiên cứu cụ  thể  về  sự  di chuyển lao động giữa khu vực Nhà  
nước sang các khu vực ngoài, đồng thời trong phạm vi nghiên cứu học tập nên bài tiểu 
luận gói gọn trong phần nội dung gồm 3 chương:
 Chương 1: Cơ sở lý luận chung.
 Chương 2: Thực trạng sự di chuyển lao động từ khu vực Nhà nước sang 

các khu vực Tư nhân.
 Chương 3: Giải pháp nhằm hạn chế  sự  di chuyển lao động từ  khu vực 

Nhà nước sang các khu vực khác.



GV:Nguyễn Ngọc Tuấn

Trang  4

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
 CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG


1. Một số khái niệm
1.1. Khu vực Nhà nước (Khu vực công)
Khu vực Nhà nước được xem là một khái niệm quan trọng trong các học  
thuyết kinh tế­chính trị. 
Xét  ở  góc độ  kinh tế thì khu vực Nhà nước là một bộ phận quan trọng trong 
nền kinh tế  thị  trường. Nó bao gồm các bộ  phận sản xuất và phân phối được tài trợ 
bởi các cơ quan Nhà nước.
Xét  ở  góc độ  chính trị  thì khái niệm “công” thường liên quan đến các hoạt 
động hoặc các đặc điểm của Nhà nước nói chung, đặc biệt là Chính phủ. Xét theo 
nghĩa này thì khu vực Nhà nước bao gồm chính quyền Trung  Ương, chính quyền địa  
phương và các doanh nghiệp Nhà nước.


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn

Trang  5

Tóm lại, có thể  nói khu vực Nhà nước là tổng thể  các tổ  chức kinh tế, văn  
hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng…thuộc sở hữu Nhà nước do Nhà nước đầu tư, cấp 
phát tài chính toàn bộ hay bộ phận quan trọng nhất, do Nhà nước trực tiếp quản lý, tổ 
chức nhằm tạo ra những sản phẩm vật chất­tinh thần, những dịch vụ công cộng phục 

vụ đời sống nhân dân và lợi ích toàn xã hội .
1.2. Khu vực ngoài Nhà nước (Khu vực tư)
Khu vực ngoài Nhà nước  bao gồm tất cả các nhà cung cấp, các công ty, dịch 
vụ đã tồn tại ở bên ngoài khu vực Nhà nước. Hiện nay, kinh tế tư nhân được hiểu là  
một nhóm các thành phần kinh tế, bao gồm cơ sở sản xuất, hộ nông nhân cá thể  và  
tiểu chủ, hộ  sản xuất kinh doanh dịch vụ, thương mại  ở  thành thị; doanh nghiệp tu  
nhân.
Kinh tế tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, là bộ phận hợp 
thành hữu cơ quan trọng của nền kinh tế của các quốc gia và ngày càng tỏ rõ sự năng  
động cũng như tính hiệu quả của nó trong nền kinh tế thị trường.
Ba hình thức tham gia của khu vực tư nhân tồn tại đó là : cho lợi nhuận, không 
phải cho lợi nhuận và doanh nghiệp xã hội. 
Trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, khu vực kinh tế tư nhân không thể 
tránh khỏi những hạn chế nhất định. Quá trình phát triển đa dạng các thành phần kinh  
tế ngày càng được mở rộng thì tất yếu nó sẽ gây ra một số trở ngại nếu như nền kinh  
tế không được kiểm soát một cách chặt chẽ. Tuy nhiên, không thể vì thế mà chúng ta  
phủ nhận vai trò không kém phần quan trọng của khu vực kinh tế này.
2. Các tiêu chí phân biệt khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân
Có 3 tiêu chí phân biệt giữa hai khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân:
 Chế độ sở hữu
 Mục đích hoạt động
 Nguồn vốn


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn

Trang  6

 Chế độ quản lý
STT

1

Tiêu chí

Khu vực kinh tế tư nhân

Chế   độ   sở  Sở   hữu   toàn   dân   do   Nhà  Sở hữu tư nhân
hữu

2

Khu vực kinh tế Nhà nước
nước đại diện 

Mục đích hoạt  Vì lợi ích toàn dân

Vì   lợi   nhuận   của   chính 

động

doanh   nghiệp,   tổ   chức,   cá 
nhân, hộ gia đình…

3

Nguồn vốn

Thuế, ngân sách Nhà nước

Từ   nguồn   vay,   tích   lũy   tự 

có…

4

Chế   độ   quản  Chế   độ   công   quản,   mệnh  Tự  quản lý, điều hành trực 


lệnh hành chính…

tiếp hoặc gián tiếp

Khu vực Nhà nước bao gồm : Các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực 
sản xuất, khinh doanh và dịch vụ, hay doanh nghiệp công tư  hợp doanh với người  
nước ngoài…; các tổ  chức tài chính tín dụng công đặc biệt là ngân sách Nhà nước và 
các Ngân hàng Nhà nước; các tổ  chức, cơ quan làm công tác liên quan đến tài nguyên 
đất nước, khoáng sản, kết cấu hạ tầng kinh tế­xã hội; các cơ sở văn hóa­xã hội công; 
hệ thống về tổ chức các hoạt động của bộ máy Nhà nước…
Khu vực kinh tế  tư  nhân chính thức và không chính thức bao gồm : Các tổ 
chức, tổng công ty, các cá nhân cung cấp dịch vụ; các hiệp hội chuyên nghiệp, bên 
cạnh đó còn có quốc gia và các tổ  chức phi chính phủ  quốc tế  và một số  tổ  chức từ 
thiện…
Trong nền kinh tế của một quốc gia, bên cạnh khu vực kinh tế Nhà nước thì 
khu vực kinh tế tư nhân là một thành phần không thể thiếu được. Cả hai khu vực kinh  
tế  đều là hai cánh tay đắc lực, hỗ  trợ  lẫn nhau trong quá trình đưa nền kinh tế  đất 
nước đi lên.
3. Các lý thuyết về di chuyển nguồn nhân lực 


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn


Trang  7

3.1. Mô hình Lewis
Theo mô hình của Lewis, nền kinh tế  được chia thành hai khu vực đối lập  
nhau là nông nghiệp (khu vực truyền thống) và công nghiệp (khu vực hiện đại) và ông 
chủ yếu nghiên cứu quá trình di chuyển lao động giữa hai khu vực trên. Trong đó, khu 
vực nông nghiệp là khu vực lạc hậu, dư thừa lao động, có năng suất biên bằng không  
còn khu vực công nghiệp lại thiếu lao động. Vì vậy, khu vực công nghiệp phải lôi kéo  
lao động từ  nông thôn bằng cách trả  mức lương cao hơn mà theo Lewis thì mức tiền 
lương phải trả  cao hơn khoảng 30% so với mức tiền lương tối thiểu. Việc lao động  
từ  khu vực nông nghiệp chuyển sang khu vực công nghiệp không làm giảm tổng sản 
phẩm nông nghiệp.
Mô hình hai khu vực của Lewis cho thấy, mức chênh lệch tiền lương thực tế 
là nguyên nhân dẫn đến sự dịch chuyển lao động giữa hai khu vưc và nhu cầu thu hút  
lao động lao động của khu vưc công nghiệp là theo khả năng tích lũy vốn của khu vực  
này.
3.2. Mô hình Haris­Todaro
Đây là mô hình đầu tiên giải thích tại sao tình trạng thất nghiệp lại tồn tại  ở 
các nước đang phát triển và tại sao người dân từ nông thôn vẫn chuyển tới thành thị dù 
thất nghiệp ở thành thị vẫn cao. Giả định chính của mô hình là dân di cư tiềm năng là  
những người ra quyết định hợp lẽ và phản ứng theo những động cơ kinh tế. Họ quyết 
định di cư  do sự  khác biêt về  tiền lương giữa nông thôn và thành thị. Khả  năng tìm  
được việc làm ở thành thị cũng liên quan trực tiếp đến tỷ lệ việc làm ở thành thị. Như 
vậy, vấn đề di cư ra thành thị có thể mang lại lợi ích cá nhân cho người nhập cư. Nếu  
mức thu nhập của họ lớn hơn thu nhập thực tế  ở nông thôn thì họ vẫn di cư dù cho ở 
thành thị đang tồn tại tỷ lệ thất nghiệp cao. Xác suất tìm được việc ở  thành thị  tỷ  lệ 
nghịch với tỷ lệ thất nghiệp  ở thành thị. Lý thuyết di dân của Harris­ Todaro còn cho  
rằng khi chênh lệch giữa hai khu vực này tương đối lớn thì tỷ  lệ  di dân sẽ  vượt quá  
tốc độ tăng trưởng việc làm ở thành thị.



GV:Nguyễn Ngọc Tuấn

Trang  8

3.3. Lý thuyết “mới” về di dân
Katz và Start (1986) giải thích quá trình di dân như  là một phương thức để 
giảm thiểu rủi ro. Tại các nước đang phát triển có sự  chênh lệch lớn  ở  nông thôn so 
với thành thị, đặc biệt là thị  trường vốn, do đó người dân muốn di cư  ra thành thị  để 
giảm thiểu những rủi ro do sự yếu kém của nông thôn mang lại.
Hai ông đưa ra khái niệm “sự thua thiệt tương đối” để phân tích hiện tượng di  
dân ở các nước đang phát triển. Một người có động cơ mạnh mẽ khi di cư từ nơi này 
sang nơi khác sẽ  nhận thấy sự thua thiệt tương đối giảm xuống và mức độ  hài lòng 
về nơi ở mới tăng lên. Động cơ sẽ không lớn nếu sự hài lòng và thua thiệt tăng lên hay 
giảm xuống cùng mức. Di dân cũng là một cách đa dạng hóa rủi ro. Khi mức thu nhập  
ở các vùng là khác nhau, một gia đình có thể giảm tổng rủi ro bằng cách gửi một thành  
viên đến một nơi khác.
4. Di chuyển lao động trên thị trường lao động Việt Nam
4.1. Các yếu tố tác động đến việc di chuyển nguồn nhân lực
Hoạt động của cung cầu lao động trên thị trường lao động thúc đẩy di chuyển 
lao động, làm thay đổi cung cầu lao động trên các loại thị trường khác nhau. Các dòng 
di chuyển lao động trên thị trường có tính quy luật, chịu sự tác động của nhiều yếu tố 
như: 
Môi trường làm việc:  ở  đâu môi trường làm việc tốt, thoải mái, giá trị 
lao động cao, phù hợp với năng lực và trình độ của mình thì ở đó thu hút lực lượng lao  
động tới.
Nhân tố  việc làm: nơi nào kiếm được việc làm dễ  dàng thì chắc chắn  
lực lượng lao động sẽ tập trung cao hơn.
Khả  năng phát triển trong tương lai: Nơi nào bảo đảm cho người lao 
động có khả năng thăng tiến dễ dàng hơn, thuận lợi cho cuộc sống trong tương lai thì  

có luồng di chuyển nhân lực đến.


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn

Trang  9

Thu nhập: Nơi nào cáo mức lương và thu nhập cao, đảm bảo cho cuộc 
sống thì lao động tập trung cao.
Điều   kiện   tự   nhiên:  Là   những  nơi   có   điều   kiện   khí   hậu   thuận   lợi,  
nguồn nước, cơ sở hạ tầng, giao thông đi lại thuận tiện…
Phong tục tập quán­sự quản lý của địa phương:  Nơi có sự quản lý dễ 
dãi, phong tục tập quán thân thiện với người từ nơi khác đến cũng là một trong những 
yếu tố thu hút dòng di chuyển đến đây nhiều.
Nguyên nhân chủ quan xuất phát từ 2 phía doanh nghiệp và người lao  
động:
 Doanh nghiệp: Doanh nghiệp có môi trường làm việc thoải mái, thân  

thiện, được sự quan tâm, chú ý nhiều từ cấp trên thì chắc chắn cũng sẽ 
thu hút một lượng lao động đến đây.
 Người lao động: vì một số lý do cá nhân, gia đình hoặc sở thích… nên  

di chuyển đến nơi khác làm việc.
4.2. Các dòng di chuyển cơ bản trên thị trường lao động trong nước
4.2.1. Dòng di chuyển lao động nông thôn đi xây dựng kinh tế mới
Trước những năm 90, dòng di chuyển dân cư  và lao động lớn nhất là dòng di 
chuyển theo các chương trình của Chính Phủ  đi xây dựng vùng kinh tế  mới  ở  miền 
núi, hải đảo, nhằm giảm bớt áp lực dân số  và lao động  ở  các vùng đồng bằng đông  
dân ít đất. Di dân và lao động khai hoang phát triển nông nghiệp, hình thành các điểm  
kinh tế  mới, nhằm khai thác hiệu quả  hơn nguồn lao động xã hội và các tiềm năng  

thiên nhiên của đất nước, gắn với củng cố và bảo vệ an ninh quốc phòng.
Dòng di chuyển này chịu tác động chủ  yếu từ  các chính sách, kế  hoạch của 
Chính Phủ, di chuyển lao động không phải do tác động của quy luật cung cầu lao  
động trên thị trường. Vì vậy, hiệu quả chung của di chuyển cung lao động và điều tiết  
cung­cầu lao động giữa các vùng, các địa phương còn thấp.


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  10
4.2.2. Dòng di chuyển lao động nông thôn đến thành thị
Trước đổi mới (1986), dòng di chuyển lao động nông thôn đến thành thị  bị 
hạn chế và số lượng không đáng kể. Những năm sau 1986, các chính sách cải cách khu 
vực nông nghiệp, xóa bỏ chế độ  bao cấp trong phân phối, tiền tệ hóa tiền lương, tốc  
độ  đô thị  hóa được đẩy nhanh, cải cách chế  độ  hộ  khẩu…đã có tác dụng thúc đẩy 
dòng di chuyển từ nông thôn nhập cư vào các thành phố làm việc.
Dòng di chuyển nông thôn đến thành thị  mang tính quy luật, do sự  chi phối  
của quy luật cung cầu lao động trên thị  trường lao động. Dòng di chuyển này có xu 
hướng phát triển nhanh trong tương lai, đặc biệt ở địa bàn đang đẩy nhanh quá trình đô  
thị hóa, công nghiệp hóa.
4.2.3. Dòng di chuyển Bắc­Nam
Dòng di chuyển lao động từ  miền Bắc vào miền Nam và từ  miền Nam ra  
miền Bắc khá phát triển từ  1991 trở  lại đây. Nguyên nhân thúc đẩy dòng di chuyển  
này  do:  mức   tiền  lương,   thu  nhập  ở   miền  Nam  cao  hơn;  tập  trung   các   khu  công  
nghiệp, khu chế xuất tại miền Nam nhiều hơn; đối với miền Bắc thì phát triển một  
số ngành nghề mới nên cũng thu hút một lượng lao động miền Nam ra làm việc.
Di chuyển lao động Bắc­Nam là hiện tượng có tính quy luật, do quan hệ cung  
cầu trên thị  trường lao động quyết định. Quy mô và mức độ  sôi động của dòng di  
chuyển lao động này phản ánh mức độ  phát triển và năng động của thị  trường lao  
động.

4.2.4. Dòng di chuyển lao động từ  khu vực kinh tế  Nhà nước sang khu vực  

kinh tế khác.
Dòng di chuyển lao động từ khu vực Nhà nước sang các khu vực kinh tế khác 
diễn ra khá sôi động, bắt đầu trong những năm 1990­1996. Trong đó dòng di chuyển 


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  11
với quy mô lớn hơn là sang khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có nguồn vốn  
đầu tư nước ngoài. 
Từ 1986 trở lại đây, dòng di chuyển này có cường độ thấp hơn do quy mô lao  
động trong khu vực Nhà nước thu hẹp và bộ  phận lao động làm việc trong khu vực  
kinh tế Nhà nước nâng cao được tiền lương, thu nhập do các doanh nghiệp Nhà nước  
thích ứng dần với môi trường kinh doanh cơ chế thị trường, nâng cao được hiệu quả 
hoạt động.

CHƯƠNG II


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  12

THỰC TRẠNG DI CHUYỂN LAO ĐỘNG TỪ KHU VỰC NHÀ 
NƯỚC SANG KHU VỰC TƯ NHÂN


1. Ảnh hưởng của khu vực Nhà nước đến phát triển kinh tế đất nước
1.1 Vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước
Từ xưa đến nay, nền kinh tế nhà nước luôn là một thành phần kinh tế vô cùng  
quan trọng ở bất cứ một quốc gia nào. Nó tạo ra một lượng lớn của cải vật chất phục 
vụ  cho xã hội đặc biệt là các sản phẩm mang tính chất công cộng và dịch vụ  như 
đường sá, cơ sở hạ  tầng, các công trình giao thông công cộng, giáo dục, y tế… mà ở 
các thành phần kinh tế khác không hoặc rất hiếm khi tham gia vào quá trình sản xuất  

hay tạo ra.
Đại hội VI (12­1986) gắn vai trò quốc doanh với việc “chiếm tỷ trọng lớn cả 
trong sản xuất và lưu thông”; Hội nghị Trung ương 6 Khóa VI (3­1989) vẫn đặt quốc  
doanh vào vị trí chủ đạo nhưng “không cần thiết chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành,  
nghề”
 Cương lĩnh 1991 chỉ nêu gọn “Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ  đạo trong  
nền kinh tế”. Đến Chiến lược 1991 nói rõ hơn “Kinh tế  quốc dân được củng cố  và 
phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, nắm những doanh nghiệp trọng 
yếu và đảm đương những hoạt động mà các thành phần khác không có điều kiện hoặc  
không muốn đầu tư kinh doanh…Những cơ sở không cần giữ hình thức quốc doanh thì  
Nhà nước chuyển hình thức kinh doanh, hình thức sở hữu hoặc giải thể, đồng thời có 
chính sách giải quyết việc làm và đời sống cho người lao động”.
Quan điểm này một mặt tạo tiền đề  cho sự  phát triển khu vực kinh tế ngoài 
nhà nước, nhất là kinh tế  tư  nhân; mặt khác không coi vai trò chủ  đạo của kinh tế 


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  13
quốc doanh là điều mặc nhiên mà phải gắn với việc “sắp xếp lại, đổi mới công nghệ 
và tổ chức quản lý, kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế 
khác, thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà  
nước. Các xí nghiệp quốc doanh hoạt động theo nguyên tắc tự  chủ  kinh doanh, tự 
trang trãi và tích lũy trong môi trường hợp tác, cạnh tranh; Nhà nước chỉ tài trợ có hạn  
cho một số cơ sở thật sự cần thiết”.
Tuy nhiên, khu vực quốc doanh chưa thật sự đảm nhiệm được vai trò chủ đạo 
vì nhìn chung kém hiệu quả  hơn các khu vực khác, vẫn còn dựa dẫm,  ỷ  lại vào các  
chính sách ưu đãi của Nhà nước dưới nhiều hình thức và còn bị rang buộc bởi cơ chế 
“chủ quản” của cơ quan hành chính.
1.2. Ảnh hưởng tích cực của khu vực kinh tế Nhà nước
1.2.1. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Khu vực công có vai trò rất lớn trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 

Như  chúng ta đã biết, khu vực công bao gồm nhiều khu vực khác nhau trong đó bao 
gồm khu vực tài chính. Khu vực kinh tế công thông qua các khu vực khác nhau đó kể 
cả khu vực tài chính sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 
Theo quan điểm của trường phái kinh tế  mới (lý thuyết tăng trưởng kinh tế 
nội sinh), Mankiw (1992), King và Levine (1993) nhấn mạnh rằng một khu vực tài 
chính vững mạnh có thể  thúc đẩy tăng trưởng kinh tế  dài hạn, đổi mới công nghệ 
(TFP), nghiên cứu và phát triển (R&D) thông qua các kênh cung cấp tài chính cho các 
doanh nghiệp và hộ kinh tế gia đình. Hơn thế nữa, một khu vực tài chính vững mạnh  
không chỉ  giới hạn chức năng huy động các nguồn vốn trong nước mà còn có chức 
năng rất lớn tới thu hút và nâng cao hiệu quả  sử  dụng các nguồn vốn bên ngoài nền  
kinh tế  như  vốn đầu tư  trực tiếp nước ngoài (FDI) và vốn đầu tư  gián tiếp (FPI). 
Trong khi đó các nhà kinh tế  theo quan  điểm lý  thuyết ngân hàng (the  bank­based  
theory) cho rằng các ngân hàng thương mại có thể phân bổ nguồn vốn một cách hiệu 
quả, giảm thiểu các rủi ro tài chính, và tránh tạo ra các cú sốc về tài chính đối với các  


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  14
nền kinh tế  đang phát triển. Tuy nhiên, để  khu vực tài chính hoạt động hiệu quả  và 
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn thì theo các nhà nghiên cứu theo quan điểm 
Lý thuyết về luật và tài chính như Levine (1999); Rajan và Zingales (1998), cần có một  
môi trường pháp lý hiệu quả. Lý thuyết này nhấn mạnh vai trò của Ngân hàng Nhà 
nước đặc biệt là các chính sách tiền tệ trong nền kinh tế.
Như vậy, chỉ mới lấy đơn cử một khu vực nhỏ trong khu vực công là khu vực  
tài chính, chúng ta đã thấy được phần nào tầm quan trọng của nó trong quá trình thúc 
đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu thiếu đi khu vực kinh tế công này thì quá trình phát triển 
kinh tế của toàn xã hội nói chung sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
1.2.2. Bình ổn thị trường
Như  chúng ta biết thị  trường là nơi mà cầu và cung biến động không ngừng.  
Chỉ cần một chút bất ổn trong hai yếu tố này có thể dẫn đến tình trạng khủng hoảng  
hàng hóa (dư  cung hoặc dư  cầu) từ  đó làm cho giá cả  của hàng hóa có thể  tăng vọt  

hoặc giảm một cách đáng kể. Để  giúp bình  ổn tình trạng đó, khu vực công chính là 
một bộ phận quan trọng. Thông qua đặc quyền của mình trong quá trình sản xuất, khu  
vực công của nhà nước sẽ quyết định sản xuất bao nhiêu cho phù hợp với cầu của thị 
trường. 
Chẳng hạn trong tình trạng cầu tăng vọt làm cho sản phẩm cung  ứng trên thị 
trường không đủ, giá cả hàng hóa tăng lên các doanh nghiệp trong khu vực này sẽ tăng  
thêm khối lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Bên cạnh đó, khu vực công còn ổn định thị trường thông qua một số các công 
cụ  khác như  quy định giá trần, giá sàn nhằm giúp bình  ổn giá cả  các sản phẩm tránh 
tình trạng tăng đột ngột gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc tình trạng giá giảm 
nhiều làm cho các công ty sản xuất thua lỗ. Một biện phát không kém phần hiệu quả 
đó là áp dụng chế độ độc quyền  ở một số các mặt hàng hết sức cần thiết như  điện,  
nước.
1.2.3. Kiềm chế lạm phát


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  15
Lạm phát hiện nay đang là một vấn đề  đau đầu của hầu hết các quốc gia. 
Lạm phát có nhiều mức  độ  khác nhau.  Đây là tình trạng khối lượng tiền trên thị 
trường dư thừa trong khi khối lượng hàng hóa vẫn giữ nguyên hậu quả là giá cả  hàng  
hóa tăng nhanh. Đứng trước tình trạng đó, các doanh nghiệp trong khu vực công sẽ là 
bộ  phận chủ  lực trong việc cung  ứng thêm sản phẩm ra thị  trường, giúp  ổn định giá  
cả. 
Song song với việc làm đó, khu vực tài chính, ngân hàng của khu vực công sẽ 
là những bộ phận chủ chốt trong việc điều tiết lạm phát bằng cách sử dụng các công  
cụ như lãi suất, các công cụ thị trường tự do như bán cổ phiếu ra…để giảm bớt lượng 
tiền cung ứng trên thị trường. Theo quy luật, khi tình trạng lạm phát tăng càng cao thì 
rõ ràng nguy cơ xảy ra tình trạng suy thoái, khủng hoảng kinh tế cũng sẽ dễ dàng hơn. 
Như  vậy, nếu như  các doanh nghiệp, bộ  phận trong khu vực công không làm tốt 
nhiệm vụ, chức năng của mình và không có những biện pháp kịp thời để giải quyết thì  

nền kinh tế sẽ dễ dàng đi vào tình trạng suy thoái mà hậu quả nặng hơn là có thể gây  
ra các cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài.
1.3. Ảnh hưởng tiêu cực của khu vực kinh tế Nhà nước
1.3.1. Vấn đề chính sách, chế độ bao cấp, ưu tiên, độc quyền và bảo hộ
Có thể nói chính sự bao cấp,  ưu tiên, độc quyền và bảo hộ không hợp lý của 
nhà nước đã gây một kết quả  trái với mong đợi, biến các doanh nghiệp Nhà nước 
(DNNN)   trở   thành   “những   đứa   con   được   quá   nuông   chiều”,   luôn   nhũng   nhiễu   và 
thường tỏ ra kém cỏi khi phải đối mặt với những khó khăn, thách thức của thực tế. 
Sự bao cấp, ưu tiên, độc quyền của nhà nước là nguyên nhân cơ bản làm cho  
các DNNN không được điều hành theo đúng cơ  chế  thị  trường và hậu quả  là các 
DNNN mất sức cạnh tranh luôn phải cậy nhờ vào sức mạnh và sự  can thiệp vốn rất 
hạn hẹp của Nhà nước. Trong xu thế hội nhập, nếu không nhanh chóng xoá bỏ chế độ 
bao cấp, ưu tiên, độc quyền thì DNNN khó có thể có được sức mạnh thực sự để cạnh 
tranh có kết quả với các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế chứ chưa  


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  16
nói đến vai trò chủ đạo của nó, nghĩa là nó phải kinh doanh có hiệu quả nhất, có sức  
cạnh tranh lớn nhất và gương mẫu đi đầu trước mọi thách thức trong quá trình hội 
nhập. 
Ta có thể thấy căn bệnh độc quyền dẫn tới những phi lý về  giá cả  làm thiệt  
hại đến lợi ích người tiêu dùng và ảnh hưởng tới sự cạnh tranh và sự  phát triển lành 
mạnh của chính các doanh nghiệp nhà nước. Giá sản phẩm và dịch vụ của các công ty 
độc quyền bất hợp lý làm biết bao doanh nghiệp khốn đốn và mất sức cạnh tranh một 
cách oan uổng. Những  ưu tiên, độc quyền kiểu này chính là nguyên nhân dẫn đến  
những nghịch lý đang tồn tại như một căn bệnh di căn làm trở ngại sự phát triển bình  
thường của cả nền kinh tế. Rõ ràng là việc xoá bỏ những ưu tiên, độc quyền cho các 
DNNN không chỉ có tác dụng làm cho chính các doanh nghiệp này trở nên vững mạnh  
và có sức cạnh tranh lớn hơn mà quan trọng hơn, nó còn là một điều kiện tiên quyết 
để cho cả nền kinh tế phát triển ổn định theo những quy luật thông thường. 

1.3.2. Vấn đề đầu tư
Hiện nay,  ở  một số  nước, nhất là các nước đang phát triển trong đó có cả 
Việt Nam, có một thực trạng là  các DNNN hiện sử dụng một tỷ lệ lớn các nguồn lực  
nhưng lại tạo ra quá ít việc làm và có mức tăng năng suất lao động thấp. Đầu tư, phát  
triển sản xuất của các DNNN thiếu hiệu quả  do không gắn với thị  trường và thiếu  
chiến lược đầu tư  hợp lý. Các DNNN đầu tư  mua thiết bị, máy móc, công nghệ, lạc  
hậu hàng chục năm so với các nước phát triển nhưng trầm trọng hơn nếu các DNNN 
được đầu tư dàn trải và sai định hướng. Chúng ta chạy theo sự đầu tư dàn trải vào các 
ngành, các lĩnh vực trong khi ngân sách nhà nước khá hạn chế. 
1.3.3. Vấn đề sử dụng nhân lực và chính sách tiền lương
Tại một số nước hiện nay, nhất là ở các nước đang trong tình trạng ở các giai  
đoạn đầu của quá trình thực hiện nền kinh tế theo chế độ đa dạng hóa các thành phần  
kinh tế thì sự yếu kém của các DNNN một phần là do không thu hút được lực lượng 
lao động có chuyên môn cao. Một thực tế là ngày nay lực lượng chất xám trong đó có 


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  17
nhiều sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, có xu hướng bị  thu hút về khối doanh nghiệp có 
vốn đầu tư  nước ngoài, nơi có tiền lương và thu nhập cao hơn. Về  bản chất đây là  
hiện tượng bình thường của kinh tế  thị  trường, các DNNN với tiền lương thấp hơn  
đương nhiên khó lòng thu hút được đội ngũ lao động có chất lượng cao. Kết quả là các  
DNNN vốn dĩ yếu kém càng ngày càng mất đi sức mạnh cạnh tranh về chất lượng đội 
ngũ lao động của mình.
Thực tế cũng cho thấy, các DNNN chỉ có thể thực sự có vai trò chủ đạo khi nó 
là một mô hình kinh doanh năng động, có hiệu quả, có sức cạnh tranh cao và gương  
mẫu đi đầu trong nhiệm vụ cạnh tranh và hội nhập quốc tế đầy khó khăn ngày nay. Vì 
vậy, đổi mới DNNN phải là thực hiện những giải pháp khắc phục những thiếu sót cơ 
bản kể trên chứ không thể chỉ đổi mới thông qua các giải pháp mang tính tổ chức, tình 
thế. 
1.4. Tác động của khu vực kinh tế Nhà nước đến quá trình phát triển kinh tế 

của đất nước
Ở Việt nam, trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định  
hướng xã hội chủ nghĩa, bộ phận kinh tế nhà nước (khu vực công) vẫn là bộ phận chủ 
lực và không thể  thiếu được. Cụ  thể, Tính đến 31/12/2005, cả  nước có 3067 công ty  
nhà nước (bằng 58,2% số lượng công ty nhà nước năm 2000) và 944 doanh nghiệp có 
cổ phần chi phối của Nhà nước. Tuy nhiên, có một thực tế đó là số lượng các công ty 
công ở nước ta hiện nay đang có xu hướng giảm. Quan sát bảng ở  bên dưới chúng ta  
có thể thấy được điều này:


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  18
Số  lượng doanh nghiệp Nhà nước qua các năm
7.000
6.000

6.052 6.052 5.800

5.600

5.400 5.266 5.438

5.000
4.000

4.773

4.273

3.808
3.067


3.000
2.000
1.000
0

1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Nguồn: Cục Tài chính doanh nghiệp
Quy mô vốn trung bình của một doanh nghiệp nhà nước đã được nâng lên, so  
với thời điểm 1/1/2001, vốn nhà nước tại công ty nhà nước tăng trên 50%, quy mô vốn  
của công ty nhà nước tăng 1,08 lần, đầu tư tài sản cố định tăng 15,8%/ năm. 
Kết quả sản xuất kinh doanh và các chỉ tiêu cơ bản như doanh thu, lợi nhuận,  
nộp ngân sách của cả khu vực doanh nghiệp nhà nước tiếp tục có sự tăng trưởng; cụ 
thể là: số doanh nghiệp kinh doanh có lãi chiếm 79,4%, hòa vốn chiếm 5,4% và thua lỗ 
là 15,2%; doanh thu tăng bình quân 11,2%/ năm trong giai đoạn 2001­2005, tỷ suất lợi  
nhuận trên vốn năm 2005 đạt 15,4%.
Căn cứ  tiêu chí đánh giá hiệu quả  hoạt động của công ty nhà nước, theo báo  
cáo chưa đầy đủ thì kết quả phân loại năm 2004 đối với 2.848 công ty nhà nước gồm:  
42% xếp loại A, 41% xếp loại B và 17% xếp loại C.  Đồng thời, khu vực doanh  
nghiệp nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và vẫn là “lực  
lượng quan trọng trong thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai  
và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, anh  
ninh” (Nghị quyết Trung ương ba khoá IX).


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  19
Nhìn lại hơn 20 năm đổi mới, thu nhập của nhân dân đã có bước cải thiện  
đáng kể. Năm 1995, GDP bình quân đầu người mới đạt 289 USD; năm 2005: 639 USD; 
năm 2007: 835 USD. Năm 2008, GDP bình quân theo đầu người đã đạt trên 1.000 USD.  

Với mức thu nhập này, Việt Nam vượt qua ngưỡng nước thu nhập thấp(2)…
Vai trò của bộ  phận kinh tế Nhà nước ta đối với kinh tế  càng bộc lộ  rõ nét  
trong việc ban hành, thực thi các chính sách khắc phục tình trạng suy giảm kinh tế gần  
đây. Trên cơ  sở  tiên định những diễn biến xấu có thể  xảy ra, Nhà nước đã đưa ra 8  
nhóm giải pháp cấp bách, và bằng việc tổ  chức thực hiện có hiệu quả  các giải pháp 
đó, các công ty công cùng với Nhà nước đã góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm  
phát, chỉ số giá tiêu dùng không ngừng giảm: tháng 9­2008 tăng 0,18%, tháng 10 giảm 
0,19%, tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12 giảm 0,68%. Kinh tế  vĩ mô  ổn định: thu chi 
ngân sách được cân đối; tổng thu ngân sách nhà nước vượt mức dự toán cả năm, tăng  
26,3% so với năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu đạt 62,9 tỉ USD, vượt kế hoạch đề ra;  
kim ngạch nhập khẩu đạt 80,4 tỉ  USD, tăng 28% so với năm 2007. Những thành tựu 
này có vai trò to lớn trong việc giữ vững ổn định xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho 
tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, việc phát huy vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển nền kinh  
tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa  ở  nước ta hiện nay cũng còn những hạn 
chế đáng kể:
Thể  chế kinh tế thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa còn chưa được  
xây dựng đồng bộ, vận hành suôn sẻ
Quản lý nhà nước về kinh tế còn nhiều bất cập 
Chưa có giải pháp mang tầm đột phá để  kinh tế  nhà nước thực sự  hoàn 
thành tốt chức năng chủ đạo trong nền kinh tế
Kinh tế tập thể còn rất yếu kém
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp 


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  20
Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi 
trường…
Lấy ví dụ cụ thể hơn, trong thời gian gần đây, khi mà nền kinh tế nước nhà ở 
trong tình trạng lạm phát tăng cao, Chỉ trong vòng một thời gian ngắn, việc tăng giá các 

mặt hàng liên tục đã tạo một sức ép lớn lên chỉ  số tiêu dùng (CPI), tuy nhiên chúng ta 
thấy không nhiều những nỗ lực của các DNNN trong việc bình ổn giá. Đơn cử một vài 
trường hợp: 
Chúng ta nghe đến việc các doanh nghiệp xăng dầu kêu lỗ nhưng Tổng công 
ty xăng dầu Việt Nam khi báo cáo lại có kết quả kinh doanh lãi đến vài trăm tỷ đồng.
Chúng ta nghe đến chuyện Tổng công ty Hàng không Việt Nam đề  nghị  tăng 
giá vé để  bù đắp chi phí nhưng theo thống kê thì tiền lương của các nhân viên trong 
doanh nghiệp này thuộc loại cao nhất trong các lĩnh vực kinh tế. Hay chuyện Tập đoàn  
Than Khoáng sản đề  nghị  tăng giá than vì hiện tại đang bán với giá thấp hơn giá thế 
giới nhiều nhưng nhiều công ty than niêm yết báo cáo có mức lợi nhuận lên đến 100%  
vốn điều lệ.
Trong khi Chính phủ  kêu gọi các doanh nghiệp bình  ổn giá, nỗ  lực kìm chế 
lạm phát … thì chính giá bán hàng và sản phẩm dịch vụ của các Tập đoàn, Tổng công  
ty Nhà nước lại “tiên phong” thông báo tăng giá.
Rõ ràng đây là những bất cập cần đáng lưu ý của khu vực kinh tế nhà nước  
của Việt Nam chúng ta mà chúng ta cần phải xem xét lại.

2. Ảnh hưởng của khu vực tư nhân đến phát triển kinh tế đất nước
2.1. Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân
Ngày nay, khu vực kinh tế  tư    nhân, trong đó có các hộ  kinh doanh thương  
mại, các công ty tư  nhân đã có vị  trí, tiếng nói trong hệ  thống doanh nghiệp, doanh  


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  21
nhân Việt Nam. Theo thống kê, hiện có khoảng 3 triệu hộ  sản xuất kinh doanh, hơn  
23.000 công ty tư nhân so với vài ba ngàn tổ hợp công ty tư nhân cách đây gần 20 năm  
về  trước, từ  thành phần kinh tể  nhỏ  bé đóng góp vào GDP không đáng kể  ngày nay 
khu vực này đóng góp trên 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Trên con đường đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực kinh tế tư nhân  
Việt Nam ngày càng thể hiện vai trò to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế đất  

nước thông qua khả năng tạo việc làm, thiết lập mạng lưới phân phối rộng khắp, thúc  
đẩy sự sáng tạo và cạnh tranh của nền kinh tế, năng động, linh hoạt, biết tận dụng cơ 
hội đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
Khu vực kinh tế tư nhân nói chung trong đó có các doanh nghiệp thương mại 
nói riêng rất linh hoạt trong sản xuất, dịch vụ  kinh doanh, đáp  ứng nhanh nhạy nhu  
cầu của thị  trường, góp phần rất quan trọng bảo đảm cung cầu hàng hóa trên thị 
trường làm cho thị trường đa dạng hơn, phong phú hơn. Các chủ doanh nghiệp tư nhân  
đa phần là trẻ, có trình độ, có kiến thức, tiếp cận với thị  trường nhanh, tiếp thu công 
nghệ, kinh nghiệm nghề  nghiệp để  lập nghiệp tốt, nhiều doanh nghiệp tư  nhân đã  
thành đạt trong kinh doanh, trong hoạt động sản xuất nhập khẩu, và đã mạnh dạn có ý  
kiến đóng góp cho các cơ  quan hoạch định chính sách liên quan đến lĩnh vực dịch vụ 
thương mại như  luật thương mại sửa đổi, pháp lệnh chống bán phá giá, luật cạnh 
tranh, luật doanh nghiệp ... và những nghị  định, quyết định của Chính Phủ  điều hành  
hoạt động thương mại trong thời kỳ  thực thi các cam kết trong WTO  đặc biệt là 
những quyết định liên quan đến cơ chế thủ tục hành chính, các lĩnh vực thuế quan liên 
quan đến từng lĩnh vực cụ  thể  trong hoạt động thương mại dịch vụ  trong thời gian  
vừa qua.
Khu vực kinh tế tư nhân nói chung và các doanh nghiệp thương mại nói riêng 
ngày nay đã trở thành đối tác quan trọng trong liên doanh, liên kết, hợp tác kinh doanh 
dịch vụ  của hệ  thống doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, là cầu 
nối giữa sản xuất với thị trường trong và ngoài nước, thực hiện hội nhập kinh tế quốc  


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  22
tế và khu vực. Quan trọng hơn khu vực này nói chung và các doanh nghiệp thương mại  
thực sự  là cầu nối nền kinh tế  Việt Nam với nền kinh tế  thế  giới và khu vực. Khi 
tổng kim ngạch XNK vào Việt Nam đạt đến từ  1,3 đến 1,5 lần tổng sản phẩm quốc  
nội (GDP) thì vai trò hệ thống khu vực kinh tế tư nhân nói chung và các doanh nghiệp  
thương mại nói riêng cũng giữ một vị trí quan trọng nó quyết định tốc độ tăng trưởng 
GDP và là nhân tố  quan trọng bình  ổn thị  trường kiềm chế  lạm phát như  giai đoạn 

hiện nay.
Khu vực kinh tế  tư  nhân ngày nay đã trở  thành lực lượng quan trọng trong 
việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đồng thời khu vực kinh  
tế tư nhân cũng là môi trường khách quan, phản ánh trung thực tính thực thi, hiệu quả, 
hiệu lực của các chủ trương, chính sách kinh tế Việt Nam trong mỗi giai đoạn cụ thể. 
Từ  đó các cơ  quan hoạch định chính sách rút ra những kết luận để  thay đổi, điều  
chỉnh, bổ  sung chính sách của mình cho phù hợp với thực tế, nhằm ngày càng tạo ra  
hành lang pháp lý tốt hơn giúp khu vực kinh tế  tư  nhân phát triển nhanh hơn, hoạt  
động có hiệu quả  hơn, đóng góp lớn hơn cho chủ  trương xây dựng Việt Nam thành 
quốc gia dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Với tình trạng tăng nhanh như  vậy của khu vực tư, có phải thật sự  khu vực 
này đang đóng góp rất nhiều cho quá trình phát triển kinh tế? bên cạnh mặt tích cực  
của nó, nó còn tồn tại những hạn chế nào? Để giải quyết những câu hỏi đó, chúng ta  
cần tìm hiều cụ  thể  về  những  ảnh hưởng tích cực cũng như  những  ảnh hưởng tiêu 
cực của nó đối với quá trình phát triển kinh tế.
2.2. Ảnh hưởng tích cực của khu vực kinh tế tư nhân
2.2.1. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm tình trạng độc quyền, góp phần 
bình ổn thị trường, kiềm chế lạm phát
Song song với khu vực kinh tế  nhà nước, khu vực kinh tế  tư  nhân cũng đã  
đóng góp không ít vào tỉ  trọng GDP của các nước hiện nay (đóng góp trên 48% tổng  


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  23
sản phẩm quốc nội năm 2010). Với cơ cấu kinh tế năng động, lực lượng lao động dồi  
dào, khu vực tư đã góp phần làm ra một lượng lớn của cải cho xã hội, số lượng hàng  
hóa, mặt hàng trở nên phong phú và đa dạng hơn. Bên cạnh đó, với sự ra đời lớn mạnh  
của mình, các công ty, doanh nghiệp tư nhân đã cạnh tranh khốc liệt đối với các doanh  
nghiệp công cũng như cạnh tranh với nhau trong nội bộ khu vực tư. Chính điều đó đã  
là động lực rất lớn thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng nâng cao cải tiến kỹ 
thuật, công nghệ, đổi mới trang thiết bị cũng như nghiên cứu, chế tạo ra các sản phẩm  

mới…Và từ đó, đời sống xã hội không ngừng được đổi mới và nâng cao. 
Nếu trong công cuộc cạnh tranh khốc liệt đó, doanh nghiệp nào không chịu 
chạy theo cho phù hợp với xu thế của thị  trường thì tất nhiên, doanh nghiệp đó sẽ  bị 
bỏ lại xa phía sau. Cái kết cục xấu nhất cho sự trì trệ này chính là tình trạng phá sản  
của hàng loạt các doanh nghiệp. Hơn thế, trong quá trình cạnh tranh với các doanh  
nghiệp công, các công ty tư  nhân đã góp phần giải quyết bớt tình trạng độc quyền ở 
một số loại mặt hàng mà các công ty nhà nước đang nắm giữ. Trên cơ  sở  đó, sẽ  làm 
cho giá cả hàng hóa của một số loại mặt hàng được giảm bớt, tránh tình trạng tăng giá  
quá cao của các công ty độc quyền.
2.2.2. Giải quyết tình trạng thất nghiệp 
Trong nền kinh tế hiện nay, khi mà trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng phát 
triển, đòi hỏi một lực lượng lao động ngày càng có chuyên môn kỹ  thuật cao hơn, cơ 
cấu lao động trên thế  giới ngày càng biến đổi mạnh. Bên cạnh đó, nền kinh tế  thị 
trường hoạt động diễn biến vô cũng phức tạp, lạm phát diễn ra nhiều nơi…thì quá  
trình thất nghiệp ngày càng diễn ra dễ dàng hơn. Chỉ cần một biến động nhỏ  trên thị 
trường, cũng có thể dẫn đến tình trạng công nhân bị sa thải, thất nghiệp và rõ ràng, khi  
quá trình thất nghiệp diễn ra quá phức tạp thì nó gây ra những hậu quả không ích cho 
xã hội, không chỉ về mặt kinh tế mà còn về các mặt khác như ảnh hướng văn hóa,nảy  
sinh các tệ nạn xã hội…


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  24
Trong bối cảnh đó, khu vực tư  là một thành phần quan trọng trong việc giải  
quyết vấn đề  thất nghiệp cũng như  quá trình cắt giảm nhân công. Với số  lượng các 
công ty công ngày càng tăng nhanh  ở  các nước hiện nay, các thành phần kinh tế  ngày  
càng được đa dạng hóa, nhu cầu lao động sẽ tăng lên một cách đáng kể. Bên cạnh đó,  
bản thân người lao động cũng có nhiều chọn lựa hơn cho công việc của mình, không 
phải nhất thiết tập trung vào khu vực kinh tế công. 
Trên thị  trường lao động, hàng năm, Việt Nam có khoảng 1,4 đến 1,5 triệu 
người gia nhập. Nhưng các doanh nghiệp nhà nước cũng chỉ  cung cấp chưa tới 7% 

tổng số việc làm, do đó, sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân là khả năng duy nhất có  
thể giải quyết công ăn việc làm cho người dân và mở lối ra cho lao động dư dôi ở khu 
vực  nông nghiệp,   đặc  biệt là  phụ  nữ  trẻ  . Trong giai  đoạn 2000­2004,  các  doanh  
nghiệp nhà nước chỉ tiếp nhận 5% trên tổng số 4 triệu lao động gia tăng, trong khi đó 
có 60% lao động được thu nhận bởi các doanh nghiệp tư nhân trong nước, 25% bởi các  
hộ  kinh doanh và các doanh nghiệp tư  nhân không đăng ký, và 12% bởi các doanh  
ngiệp FDI . Như thế, rõ ràng nó sẽ giải quyết rất nhiều cho vấn đề  thất nghiệp, một  
trong những vấn đề không kém phần nan giải của các quốc gia hiện nay.
2.2.3. Mở rộng cơ hội phát triển kinh tế thông qua sự hợp tác với nhau
Ngày   nay,   khi   mà   xu   hướng   toàn   thế   giới   đang   hướng   đến   một   thế   giới  
phẳng, không có biên giới giữa các quốc gia, loại hình các công ty tư nhân xuyên quốc 
gia đang trở nên khá phổ biến. Với loại hình này, các công ty tư nhân đã góp phần rất  
lớn trong việc tạo ra một lượng lớn của cải vật chất cho toàn xã hội. Các công ty này,  
dưới nhiều hình thức phát triển đa dạng như : hợp tác giữa các nhà cung cấp với nhau,  
giữa các nhà phân phối với nhau, hay mô hình franchise, hệ  thống các công ty xuyên  
quốc gia cũng đã góp phần rất lớn trong việc gia tăng thu nhập cũng như  của cải của  
người nghèo. 
Có thể dễ dàng lý giải cho điều này vì với một hệ thống phân phối lớn và sâu 
tới nhiều khu vực khắp nơi, các loại mô hình này có thể dễ dàng biết được nhu cầu, 


GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  25
của cải cũng như khả năng của người nghèo và từ  đó có thể  đáp ứng cho họ dễ hơn, 
từ  đó quá trình gắn kết giữa kinh doanh và người nghèo cũng thuận tiện hơn. Bên 
cạnh đó, các công ty này còn có các chiến lược bổ  sung ( complementary strategies), 
góp phần trong việc gia tăng thu nhập đầu người, cải thiện đời sống của người dân  
thông qua các chương trình huấn luyện, xây dựng các đơn vị  chức năng của công ty 
trong các tổ chức phi chính phủ, chính phủ, các tổ chức kinh doanh ở địa phương. Các 
công ty này, thông qua việc đầu tư cho xã hội, các tổ chức gây quỹ cho các hoạt động 
này cũng đã góp phần rất lớn trong việc cải thiện đời sống của dân nghèo, tăng thu  

nhập đầu người. 
2.3. Ảnh hưởng tiêu cực của khu vực kinh tế tư nhân
2.3.1. Vấn đề khó khăn trong cải tiến do thiếu vốn
Hiện nay kinh tế tư nhân (KTTN) đang gặp phải một cản trở rất lớn đến sự 
phát triển sản xuất kinh doanh và là hiện tượng phổ  biến đối với toàn bộ  các doanh  
nghiệp thuộc khu vực KTTN đó là tình trạng thiếu vốn để  sản xuất và mở  rộng sản 
xuất. Quy mô của doanh nghiệp hầu hết là nhỏ, một số  ít có quy mô vừa, số  có quy  
mô lớn rất ít. Thực tế  những năm gần đây. Chỉ  tiêu hiệu quả  của doanh nghiệp tư 
nhân rất thấp, tỷ  suất lợi nhuận/ vốn rất thấp quá xa so với lãi suất ngân hàng, đặc 
biệt là của khu vực hộ cá thể  còn thấp hơn nữa, chủ  yếu là gia công (nếu sản xuất) 
hoặc đại lý (nếu bán hàng) nên lấy công làm lãi là chính. Điều này chứng tỏ khả năng  
tích tụ và huy động vốn của KTTN trong toàn xã hội còn thấp. Hầu hết, lượng vốn tự 
có của các doanh nghiệp chỉ  đáp  ứng từ  20% đến 30% yêu cầu. Các doanh nghiệp 
thiếu vốn dẫn đến việc họ không có điều kiện đầu tư khoa học công nghệ hiện đại. 
Nhiều nhà doanh nghiệp ban đầu có ý định phát triển sản xuất nhưng do thiếu 
vốn nên đã gặp nhiều khó khăn lúng túng trong việc triển khai và nhiều khi họ  phải 
hủy bỏ hợp đồng đã ký với đối tác. Điều đó giải thích tại sao khu vực KTTN thường 
tập trung vào lĩnh vực thương mại dịch vụ, những ngành nghề đòi hỏi vốn ít, thời gian 


×