Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Báo cáo tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (915.53 KB, 69 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam những năm đầu thế  kỷ  21 chứng kiến sự  tăng trưởng ngoạn mục 
của ngành Tài chính – Ngân hàng, trong đó  ấn tượng nhất là sự  phát triển của hệ 
thống Ngân hàng Thương mại. Theo thời gian, hệ thống  này được mở rộng về quy 
mô, đa dạng về loại hình kinh doanh, phong phú về  sản phẩm và chất lượng ngày 
càng được nâng cao. Nếu như hình thức ngân hàng từ thời sơ khai chỉ đảm nhận vai  
trò cất giữ tài sản thì ngày nay  hoạt động kinh doanh của ngân hàng vô cùng phong 
phú: cung cấp dịch vụ, tín dụng, đầu tư... Trong đó hoạt động tín dụng chiếm tỷ 
trọng cao nhất trong tổng tài sản, mang lại nguồn thu nhập lớn nhất. Song theo lẽ 
thường, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn, đây cũng chính là hoạt động mang  
lại rủi ro cao nhất cho ngân hàng mà biểu hiện của nó chính là nợ xấu.
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, một số  ngân hàng thương mại đã coi  
chính sách mở rộng tín dụng là một giải pháp để chiếm lĩnh thị phần, thu hút khách 
hàng và tìm kiếm lợi nhuận. Do vậy, năm 2009­2010 là giai đoạn tăng trưởng tín  
dụng quá nóng của hệ  thống ngân hàng Việt Nam. Việc cạnh tranh giữa các ngân  
hàng trở  lên gay gắt, các tiêu chuẩn về  cấp tín dụng bị  hạ  thấp để  thúc đẩy tăng  
trưởng. Hệ  lụy của nó là những khoản nợ  xấu tiềm  ẩn đã lâu nay như  tảng băng  
chìm đã trồi lên mặt nước và trở thành vấn đề nhức nhối của ngành ngân hàng Việt 
Nam. Những khoản vay không thu hồi được cả gốc và lãi đúng hạn ngày càng lớn,  
tỷ lệ nợ xấu ngày càng gia tăng đặc biệt là trong lĩnh vực tín dụng bất động sản, đã  
có lúc đe dọa tới tính thanh khoản của ngân hàng. Việc xử lý và hạn chế nợ xấu là  
một yêu cầu cấp thiết, có vai trò sống còn của ngành ngân hàng nước ta trong suốt  
những năm gần đây. Được ví như là “cục máu đông” của nền kinh tế, nợ xấu ngân  
hàng đã và đang để  lại những hậu quả  nghiêm trọng cho sự  phát triển và tăng  
trưởng của toàn nền kinh tế.
Là một trong các ngân hàng thương mại cổ  phần lớn nhất Việt Nam, Ngân 
hàng Thương mại Cổ  phần Ngoại thương Việt Nam cũng không nằm ngoài vào 
guồng quay đó. Bị  đánh giá là một ngân hàng có tỷ  lệ  nợ  xấu khá cao so với các 
ngân hàng có cùng quy mô liệu có phải là một dấu hiệu đi xuống của ngân hàng? 
Thực tế về tình hình nợ xấu của ngân hàng trong những năm gần đây và biện pháp 
mà ngân hàng sử  dụng để  đối phó là gì...? Để  làm sáng tỏ  những vấn đề  này, tác  


giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu trong hoạt  
động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam”

1


Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, chuyên đề được 
kết cấu theo 03 chương như sau”
Chương 1: Những vấn đề  cơ  bản về  nợ  xấu trong hoạt động tín dụng ở  các  
ngân hàng thương mại.
Chương 2:  Thực trạng nợ  xấu và cá biện pháp xử  lý nợ  xấu tại Ngân hàng  
Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam – Vietcombank
Chương 3:  Giải pháp khắc phục nợ  xấu trong hoạt động tín dụng tại Ngân  
hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam ­ Vietcombank
Bài viết là thành quả  của tác giả  thông qua tìm hiểu thực tế tại ngân hàng và  
qua các phương tiện truyền thông..., do vậy trong nội dung trình bày còn nhiều  
thiếu sót. Tác giả  rất mong nhận được sự  nhận xét, góp ý từ  phía các thầy cô để 
chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn.

Hà Nội, ngày 25 tháng 12 năm 2013
Người trình bày.

Lê Thị Duyên

2


CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG 

Ở CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1.

Tín dụng ngân hàng và rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.

1.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng.
Trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì “Tín dụng là  
một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng hoặc các 
định chế tài chính) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong  
đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất  
định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi  
cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.”
Như vậy, bản chất của tín dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và  
lãi giữa một bên là ngân hàng và một bên là người đi vay. Đây là quan hệ  chuyển 
nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn theo thỏa thuận giữa hai bên. Trong hoạt động 
của ngân hàng thì đây là hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận nhất nhưng cũng chứa 
đựng nhiều rủi ro nhất. Có thể định nghĩa rủi ro trong hoạt động tín dụng như sau:
Theo Khoản 1 Điều 2 Quy định về  phân loại nợ, trích lập và sử  dụng dự 
phòng  để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt  động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban 
hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ­NHNN ngày 22/4/2005 của Thống   đốc 
Ngân hàng Nhà nước:  “ Rủi ro tín dụng là khả  năng xảy ra tổn thất trong hoạt  
động ngân hàng của tổ  chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không  
có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Rủi ro tín dụng không chỉ  giới hạn  ở  hoạt động cho vay mà còn bao gồm  
nhiều hoạt   động mang tính chất tín dụng khác của NHTM như: hoạt   động bảo 
lãnh, tài trợ ngoại thương, cho thuê tài chính.

1.1.2. Các rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng.


3


Rủi ro tín 
dụng

Rủi ro giao 
dịch

Rủi ro lựa 
chọn

Rủi ro đảm 
bảo

Rủi ro danh 
mục

Rủi ro 
nghiệp vụ

Rủi ro nội tại

Rủi ro tập 
trung

Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh, rủi ro tín dụng được phân loại như sau:
­

 Rủi ro giao dịch:  


Rủi ro giao dịch là rủi ro mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong  
quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay. Rủi ro giao dịch được chia là ba loại là rủi  
ro lựa chọn, rủi ro bảm bảo và rủi ro nghiệp vụ.

+

Rủi ro lựa chọn: Là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích  

tín dụng khi ngân hàng lựa chọn những phương án hiệu quả thấp để cho vay

+

Rủi ro đảm bảo: Là rủi ro phát sinh từ  các tiêu chuẩn đảm bảo như  các 

điều kiện trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, các  
hình thức bảo đảm và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.

+

Rủi ro nghiệp vụ: Là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và 

hoạt động cho vay, bao gồm cả việc xử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật 
xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
­ Rủi ro danh mục:
Rủi ro danh mục là loại rủi ro mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế 
trong việc quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, bao gồm hai loại là rủi ro nội 
tại và rủi ro tập trung.

+ Rủi ro nội tại: Là rủi ro xuất phát từ các đặc điểm riêng có, mang tính riêng 

biệt bên trong mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế.

+ Rủi ro tập trung: Là loại rủi ro tín dụng do ngân hàng tập trung cho vay quá  
nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong 
cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế  hoặc cùng một địa lý nhất định hoặc cùng một  
loại hình cho vay có độ rủi ro cao

1.2.

Nợ xấu tại các Ngân hàng Thương mại

4


1.2.1. Khái niệm nợ xấu
Tín dụng là hoạt động luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, hoạt động tín dụng còn được  
xem như  một nghiệp vụ  quản trị  rủi ro để  sinh lợi trong kinh doanh ngân hàng. 
Điều này có thể  hiểu là để  kiếm được lợi nhuận từ  hoạt động tín dụng  các ngân  
hàng buộc phải chấp nhận những tổn thất có thể gặp phải trong tương lai. Những  
tổn thất này có thể là việc ngân hàng bị thất thoát vốn do không thu hồi được hoặc 
không thu hồi hết những khoản tín dụng đã cấp ra . Và khi một khoản vay không 
thể thu hồi hay có nguy cơ không thể thu hồi toàn bộ nợ gốc và lãi thì sẽ hình thành 
nên nợ xấu của ngân hàng. Hiện nay,có nhiều quan điểm khác nhau về nợ xấu, sau  
đây là một số quan điểm về nợ xấu đang được áp dụng trên thế giới và Việt Nam.
1.2.1.1.

 Theo quan điểm của quốc tế 

Theo một số tiêu chí của NHTW Liên minh Châu Âu: Nợ xấu trong hoạt động 
kinh doanh của NHTM không chỉ có những khoản vay quá hạn thông thường không 

có khả  năng thu hồi theo hợp đồng mà còn có các khoản nợ  chưa quá hạn nhưng 
tiền ẩn các rủi ro dẫn đến việc có thể không thanh toán đầy đủ gốc và lãi cho ngân 
hàng.
Theo  quan  điểm   của  Phòng  thống  kê   –  Liên  hiệp  quốc:  Về   cơ   bản  một 
khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc trả gốc trên 90 ngày, hoặc 
các khoản trả  lãi chưa trả  từ  90 ngày trở  lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc 
trả chậm theo thỏa thuận hoặc các khoản thanh toán đã quá hạn 90 ngày nhưng có  
lý do chắc chắn đến nghi ngờ vể khả năng sẽ được thanh toán đầy đủ.
Theo chuẩn mực quốc tế  ­ IAS: Nợ  xấu là những khoản nợ quá hạn trên 90 
ngày và/hoặc khả năng trả nợ nghi ngờ
Ngoài ra hiện nay còn có định nghĩa mới về nợ xấu theo chuẩn mực báo cáo 
tài chính quốc tế  (IFRS) và IAS 39 vừa được chuẩn mực kế  toán quốc tế  (IAS)  
công bố vào tháng 12 năm 1999 và sau 2 lần chỉnh sửa vào năm 2000 và năm 2003 và  
được khuyến cáo áp dụng vào đầu năm 2005. Về cơ  bản IAS 39 chỉ chú trong tới  
khả năng hoàn trả của khoản vay bất luận thời gian quá hạn chưa tới 90 ngày hoặc 
chưa quá hạn. Phương pháp để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng thường là  
phương pháp phân tích dòng tiền tương lai hoặc xếp hạng khoản vay (xếp hạng  
khách hàng). Hệ  thống này được coi là chính xác về  mặt lý thuyết nhưng việc áp  
dụng vào thực tế gặp nhiều khó khăn. Vì vậy nó đang được ủy ban kế toán quốc tế 
tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh.

5


1.2.1.2.

 Theo quan điểm Việt Nam 

Nợ  xấu theo khoản 6, điều 2 của Quy định về  phân loại nợ, trích lập và sử 
dụng dự phòng để xử  lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD ban 

hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ­NHNN ngày 22/4/2005 của NHNN Việt 
Nam  Việt Nam “ là các khoản nợ thuộc các nhóm nợ dưới tiêu chuẩn ( nhóm 3), nợ 
nghi ngờ ( nhóm 4) và nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5)
Ngoài ra theo điều 13 của quyết định này cũng đề cập tới nợ xấu “Khi đến kỳ 
hạn trả  nợ  gốc hoặc lãi, nếu khách hàng không trả  nợ  đúng hạn và không được 
điều chỉnh kì hạn nợ gốc hoặc lãi, không được gia hạn nợ gốc hoặc lãi, thì tổ chức 
tín dụng chuyển toàn bộ số dư nợ này sang nợ xấu”

1.2.2. Phân loại  nợ xấu
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ­NHNN ngày 22/4/2005 phân loại nợ thành 
5 loại theo 2 phương pháp định tính và định lượng.
* Phương pháp định lượng
­ Nhóm 1: Nợ  đủ  tiêu chuẩn bao gồm nợ  trung hạn được đánh giá có khả 
năng thu hồi đủ  gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ  có thể  phát sinh trong tương  
lai như các khoản bảo lãnh cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán.
­ Nhóm 2 Nợ cần chú ý bao gồm nợ quá hạn < 90 ngày và nợ có cấu lại thời 
hạn nợ.
­ Nhóm 3 Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ­180 ngày người nợ 
cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn < 90 ngày.
­ Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 180 ­ 360 ngày.
­ Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn bao gồm nợ quá hạn > 360 ngày và nợ cơ 
cấu thời hạn trả nợ > 180 ngày người nợ khoanh chờ chi phí xử lý.
* Phương pháp định tính
 Nợ cũng  được phân thành 5 nhóm tương ứng như phương pháp định lượng, 
nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chưa thanh toán nợ  mà căn cứ 
trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro và tổ chức tín 
dụng được ngân hàng nhà nước chấp nhận.
­ Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy 
đủ gốc và lãi đúng hạn.
­ Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ 

gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.

6


­ Nhóm 3 Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu  
hồi gốc và lãi cho đến khi đến hạn.
­ Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao g ồm n ợ được đánh là có khả  năng tổ n thất cao
­ Nhóm 5: Nợ  có khả  năng mất vốn, bao gồm nợ  được đánh giá là không có khả 
năng thu hồi, mất vốn.
Trong đó nợ từ nhóm 3 ­5 là nợ xấu, các khoản nợ xấu này là yếu tố chủ yếu  
gây ra rủi ro tín dụng.
1.2.3. Nguyên nhân gây ra nợ xấu
Một thực tế  cho thấy rằng, cho dù quá trình xét duyệt cho vay của cán bộ  tín 
dụng có cẩn thận, kĩ lưỡng đến đâu đi nữa nhưng vẫn không tránh khỏi rủi ro về 
nợ  xấu. Vì vậy, nguyên nhân gây ra nợ  xấu tại các NHTM đến từ  hai phía: chủ 
quan của ngân hàng và khách quan từ phía khách hàng vay vốn và tác động của môi 
trường bên ngoài.

1.2.3.1.  Nguyên nhân chủ quan từ phía NHTM . 
­

Do sự  yếu kém về  trình độ  chuyên môn của cán bộ  tín dụng dẫn đến 

không có khả năng nhận diện rủi ro. Sự sa sút về đạo đức của bộ phận quản lý và  
nhân viên tín dụng,  thiếu tinh thần trách nhiệm, lợi dụng quyền hạn để tư lợi.

­

Hiệu quả của quản trị kém, các chính sách tín dụng đặt ra không hợp lý,  


không kịp thời hoặc không theo kịp với thực tế. Hệ thống truyền tải thông tin còn  
chậm, chưa hoàn thiện dẫn đến việc thẩm định, phân tích bị  sai lệch, đánh giá sai  
về khả năng trả nợ của khách hàng và xu hướng phát triển của kinh tế

­

 Quy trình cấp tín dụng không hợp lý: vi phạm quy tắc bốn mắt, cán bộ 

tín dụng làm việc không đúng thẩm quyền, thực hiện chưa nghiêm túc hoặc chưa 
đúng các quy định cho vay, đánh giá sai về khả năng sử  dụng vốn và khả  năng trả 
nợ của khách hàng.

­

Hiệu quả của công tác tổ chức, kiểm tra, giám sát nội bộ của ngân hàng 

còn chưa chặt chẽ, kém hoàn thiện và chưa độc lập, chưa thực hiện đúng chức  
năng,nhiệm vụ hoặc cố tình sai phạm.
­

Chưa có sự ràng buộc nghiêm khắc về trách nhiệm đối với người thực 

hiện công tác tín dụng, chế tài xử phạt chưa nghiêm hoặc kém minh bạch.
­ Các NHTM quá chú trọng vào mục tiêu lợi nhuận, gây nên tình trạng tăng 
trưởng tín dụng nóng. Việc chạy đua lãi suất huy động đẩy lãi suất cho vay lên cao,  
gây ra tâm lý thờ   ơ của các doanh nghiệp mạnh khi họ có thể  sử  dụng nguồn vốn 

7



khác rẻ hơn. Các khách hàng còn lại được đưa vào diện nghi vấn về khả năng quản 
lý, kinh doanh để trả nợ cho Ngân hàng. 
­ “ Để quá nhiều trứng vào trong một giỏ”: Các khoản cho vay của Ngân hàng 
tập trung vào những lĩnh vực có độ rủi ro cao, khiến cho danh mục nợ vay thiếu đi 
sự  da dạng; từ  đó, khả  năng phân tán rủi ro của Ngân hàng sẽ  giảm đi. Công tác 
quản lý và đánh giá tài sản đảm bảo kém.
1.2.3.2.

 Nguyên nhân khách quan từ phía khách hàng 

*Nguyên nhân chủ quan của khách hàng: 
 ­ Trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của khách hàng còn hạn chế, sử dụng  
vốn vay không đúng mục đích, tiền vay về không có tác dụng thúc đẩy hoạt động 
kinh doanh của doanh nghiệp, dẫn đến doanh nghiệp vay vốn làm ăn kém hiệu quả,  
nợ Ngân hàng tăng.
 ­ Doanh nghiệp thiếu thiện chí trả  nợ, cố ý không cung cấp đầy đủ  hoặc có 
hành vi che giấu thông tin trong suốt quá trình xin cấp tín dụng và sử dụng vốn vay,  
thực hiện việc đi vay ở nhiều tổ chức tín dụng.
 ­ Tình hình tài chính của doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch trong việc  
xử lý các loại giấy tờ, sổ sách kế toán
­ Doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn vay quá lớn trong cấu trúc vốn của mình, 
sử dụng vốn sai mục đích ... nên không có khả năng thu hồi vốn 
*Nguyên nhân khách quan của khách hàng:
  ­ Doanh nghiệp vay vốn gặp rủi ro trong hoạt  động kinh doanh của mình: 
thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh…và đặc biệt là tác động của khủng hoảng kinh tế 
trong khu vực và trên thế giới, do vậy việc sử dụng vốn vay không đạt hiệu quả, có  
thể mất hoàn toàn vốn.
 ­ Doanh nghiệp gặp phải những đổi thay trong kinh doanh không thể  lường  
trước được như sự thay đổi về giá cả, nhu cầu thị trường, lạm phát, tỷ giá hối đoái, 

lãi suất, sự  thay đổi về  môi trường pháp lý hay chính sách của Chính phủ  khiến 
doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn tài chính không thể khắc phục được.
1.2.4. Dấu hiệu nhận biết của nợ xấu
1.2.4.1.

 Nhóm nợ xấu phát sinh từ phía khách hàng 

Dấu hiệu phát sinh từ  phía khách hàng bao gồm hai nhóm chính thể  hiện  
trong  mối quan hệ  giữa khách hàng với Ngân hàng và phương thức quản lý, tình 
hình tài chính, hoạt động của khách hàng. 

8


Thứ  nhất:   Có những biểu hiện không bình thường trong mối quan hệ  giữa  
khác hàng với Ngân hàng như:
 ­ Khách hàng nợ tìm mọi cách để lần tránh, không cho tiếp xúc liên lạc được  
hoặc rất nhiều lần hứa và cam kết nhưng không thanh toán.
 ­ Khách hàng gây khó khăn cho Ngân hàng trong quá trình kiểm tra theo định 
kỳ hoặc đột xuất. Doanh nghiệp cố trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu 
hoặc không có các báo cáo về  lưu chuyển tiền tệ mà không có sự  giải thích minh  
bạch, thuyết phục. 
 .­ Đề nghị gia hạn, điều chỉnh định kỳ hạn nợ nhiều lần không rõ lý do hoặc  
thiếu các căn cứ thuyết phục mang tính khách quan về việc gia hạn hay điều chỉnh  
kỳ hạn nợ
.­ Có sự sút giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại Ngân hàng; xuất 
hiện những thay đổi bất thường ngoài dự  kiến và không giải thích được trong tốc  
độ và tổng mức lưu chuyển tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng.
­ Mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu vay các khoản vượt quá nhu cầu  
dự kiến.Chấp nhận sử dụng các nguồn vốn vay với giá cao với mọi điều kiện.

­ Tài sản đảm bảo không đủ  tiêu chuẩn, giá trị  tài sản bị giảm sút so với định 
giá khi cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, bán, trao đổi hoặc đã  
biến mất hoặc không còn tồn tại.
Thứ hai: Xuất hiện các dấu hiệu bất thường liên quan tới phương pháp quản  
lý 
           Những dấu hiệu này tác động trực tiếp tới chất lượng khoản tín dụng 
nhưng với tốc độ chậm hơn. Chúng không dễ nhận diện nếu thiếu sự quản lý chặt 
chẽ của cán bộ tín dụng, bao gồm:
­ Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến  
khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng. Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ 
thanh toán hay mức độ hoạt động của khách hàng
.­ Xuất hiện ngày càng nhiều các chi phí bất hợp lý như  sự  gia tăng đột biến  
trong chi phí quảng cáo, tập trung quá nhiều chi phí để  gây  ấn tượng như  thiết bị 
văn phòng hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền….
­ Thay đối thường xuyên tổ  chức của ban điều hành. Xuất hiện mâu thuẫn 
trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá trình quản lý.  

9


­ Do áp lực nội bộ, doanh nghiệp phải tung ra thị trường các sản phẩm, dịch 
vụ  quá sớm khi các sản phẩm chưa đạt được các điều kiện cần thiết hoặc đặt ra 
những hạn mức thời gian, doanh số không hợp lý

 ­ Thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh bất ngờ xảy ra và có ảnh hưởng đến lĩnh vực  
kinh doanh của khách hàng.
1.2.4.2.

 Nhóm các dấu hiệu phát sinh từ phía ngân hàng 


Rủi ro có thể phát sinh từ phía khách hàng nhưng cũng có thể là bắt nguồn từ 
phía Ngân hàng. Nếu là rủi ro do Ngân hàng gây ra thì ta có thể nhận thấy thông qua 
một số các dấu hiệu như sau:
 ­ Có sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách 
hàng.
 ­ Cấp tín dụng dựa trên các cam kết không chắc chắn và thiếu tính đảm bảo 
của khách hàng về việc duy trì một khoản tiền lớn hoặc các lợi ích do khách hàng 
đem lại từ khoản tín dụng được cấp.
 ­ Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt qua khả năng và năng lực kiểm 
soát của Ngân hàng.
 ­ Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra chẳng hạn như sáp 
nhập, thay đổi địa vị pháp lý từ chi nhánh lên công ty con hạch toán độc lập...
 ­ Soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng tín dụng mập mờ, không 
rõ ràng, không rõ lịch hoàn trả đối với từng khoản vay; cán bộ tín dụng cố ý thoả 
hiệp các nguyên tắc tín dụng với khách hàng mặc dù biết có rủi ro tiềm ẩn, hồ sơ 
còn thiếu về mặt pháp lý để chứng minh cho khoản nợ là phù hợp, thiếu hóa đơn, 
chứng từ.
 ­ Cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho các khách hàng không thuộc phân 
đoạn ưu tiên
. ­ Có khuynh hướng cạnh tranh thái quá: giảm thấp lãi suất hoặc phí dịch vụ 
hay giữ chân khách hàng bằng các khoản tín dụng mới để họ không quan hệ với tổ 
chức tín dụng khác...
1.2.5. Ảnh hưởng của nợ xấu tới các ngân hàng
1.2.5.1. Tác động của nợ xấu tới hoạt động của các ngân hàng
­ Nợ xấu ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng: Không thu hồi đủ 
vốn đã bỏ ra cho vay khiến ngân hàng bị giảm lợi nhuận, thua lỗ do bị thâm hụt 
nguồn vốn. Đến một mức nào đó ngân hàng không thể trả tiền cho người gửi tiền 

10



khi đến hạn. Nếu trình trạng này kéo dài liên tục thì ngân hàng lâm vào trình trạng 
mất khả năng thanh toán
­ Nợ xấu cao làm giảm uy tín của ngân hàng  dẫn đến việc thu hút nguồn vốn 
để phục vụ kế hoạch mở rộng kinh doanh khó khăn và hạn chế khả năng cho vay 
của ngân hàng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả kinh doanh.
­ Nợ xấu làm giảm lợi nhuận của ngân hàng do ngân hàng phải vay mượn các 
nguồn vốn với chi phí cao để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Nợ xấu cao cũng làm 
cho vòng tuần hoàn vốn chậm lại, giảm hiệu quả sử dụng vốn dẫn đến giảm lợi 
nhuận.
­ Nợ xấu có thể làm phá sản ngân hàng và làm giảm khả năng hội nhập 
1.2.5.2.Tác động tới khách hàng.
­ Nợ xấu là gánh nặng buộc người vay phải giải quyết trong tình trạng tài 
chính không tốt, tạo áp lực trả nợ cho doanh nghiệp, do đó có thể dẫn đến việc sản 
xuất kinh doanh bị đình đốn, chất lượng kém dẫn đến giảm doanh thu, ngừng sản 
xuất hoặc đưa ra những quyết định kinh tế sai lầm..
­ Người vay không hoàn trả nợ đúng hạn, mang lại nợ xấu cho ngân hàng dẽ 
mất uy tín, mất điểm trong hệ thống xếp hạng tín dụng của NHTM. Điều này ảnh 
hưởng nghiêm trọng tới việc tìm nguồn vốn tài trợ sau này của người đi vay.
­ Việc không thanh toán được món nợ vay của NHTM, người đi vay còn đứng 
trước nguy cơ bị thanh lý tài sản thế chấp, cầm cố hoặc phải chịu trách nhiệm 
trước pháp lý, có thể rơi vào tình trạng phá sản hoặc bị tước quyền kinh doanh.
1.2.5.3. Tác động của nợ xấu tới nền kinh tế
     Theo các chuyên gia phân tích kinh tế, nhìn chung nợ xấu có những tác động 
chính ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế và làm ảnh hưởng đến hoạt động của 
các Ngân hàng thương mại như: 

­

Nợ xấu cao khiến ngân hàng lâm vào khả năng mất khả năng thanh toán 


sẽ gây tâm lý hoang mang cho người gửi tiền gây ra hiệu ứng rút tiền hàng loạt. 
Hoạt động ngân hàng lại mang tính hệ thống, một ngân hàng đổ vỡ sẽ kéo theo sự 
đổ vỡ của hàng loạt ngân hàng khác. Các chủ thể trong nền kinh tế tham gia vào 

11


quá trình thanh toán trong và ngoài nước thông qua hệ thống ngân hàng sẽ mất niềm 
tin vào uy tín ngân hàng điều này sẽ dẫn tới việc giảm sút đầu tư ảnh hưởng tới 
tăng trưởng kinh tế.
­

Nợ xấu tăng cao làm hạn chế khả năng cho vay của ngân hàng trong khi 

cầu của các chủ thể là rất lớn dẫn đến sự trì trệ của nền kinh tế.
­

Mặt khác, tỷ lệ nợ xấu cao thể hiện sự kém hiệu quả trong hoạt động 

kinh doanh của ngân hàng, gây sự thiếu tin tưởng vào công chúng. Dân chúng không 
đem tiền gửi ngân hàng nữa làm cho tỷ lệ huy động vốn thấp, lượng vốn nhàn rỗi 
trong dân cư tăng gây lãng phí vốn.
Tóm lại:
Tác động của nợ  xấu là rất lớn, nó không chỉ   ảnh hưởng tới riêng một ngân 
hàng, một ngành nghề mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ  nền kinh tế. Đặc biệt là tính 
hệ  thống của ngành ngân hàng khiến cho hậu quả  của nợ  xấu lan nhanh hơn, tác  
động mạnh, lâu dài và khó xử lý. Hệ thống ngân hàng là huyết mạnh của nền kinh 
tế do đó thiệt hại của nó sẽ  ảnh hưởng tới tất cả  các ngành nghề  còn lại, gây suy 
giảm kinh tế  dẫn đến khủng hoảng, lạm phát, nghèo đói và tệ  nạn xã hội. Từ 

những hậu quả  nghiêm trọng đó, việc phòng ngừa và xử  lý nợ  xấu ngày càng trở 
nên cấp bách. Chính phủ, nhà nước và bản thân các NHTM cùng các chủ thể kinh tế 
khác cần phải có các biện pháp triệt để  và tức thì để  xử  lý “cục máu đông” đang  
lớn dần này.

1.3.

Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số nước trên thế giới và bài học từ 
Việt Nam

1.3.1. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số nước trên thế giới
Nợ xấu là “cục máu đông” mà nhiều nền kinh tế trên thế giới bị “nhiễm” với 
các mức độ khác nhau và mỗi quốc gia có đơn thuốc trị  bệnh khác nhau, phụ  thuộc 
vào đặc điểm của mỗi nước.
Hai cường quốc kinh tế Hoa Kỳ, Trung Quốc từng “gánh” khoản nợ xấu cao 
ngất ngưởng. Theo ngân hàng Phát triển châu Á – ADB, năm 2003, Trung Quốc có  
bốn NHTM quốc doanh lớn nhất với tổng tài sản khoảng 15.200 tỷ  Nhân dân tệ  ,  
chiếm khoảng 55% tổng tài sản của hệ thống tài chính đã lâm vào tình trạng nợ xấu  
vượt mức giới hạn cho phép. Điều này không mấy khác so với tình trạng cho “vay  
dưới chuẩn” (vay với mức độ  rủi ro cao) của các ngân hàng  ở  Hoa Kỳ  giai đoạn  
trước khủng hoảng kinh tế tài chính 2008.

12


Trước thực trạng nợ  xấu tăng đột biến , cả  hai nước đều tung chính sách 
chứng khoán hóa các khoản nợ xấu của các NHTM. Đây được xem là chính sách ưu 
tiên và trọng tâm trong chuỗi giải pháp của hai nước. Ngân hàng trung ương Trung 
Quốc PBC đã thành lập 4 công ty quản lý tài sản, có trách nhiệm xử lí nợ  xấu cho  
một số  NHTM quốc doanh. Các công ty này chịu sự  quản lý và chỉ  đạo đồng thời  

của Bộ Tài chính và liên hệ chặt chẽ với các NHTM. Các công ty này đã mạnh dạn 
cho chứng khoán hóa các khoản nợ của NHTM và mua lại chúng nhằm thổi vốn vào 
tình trạng cạn kiệt của các ngân hàng.
Trong khi đó, Bộ Tài chính, Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC) và  
Cục Dự trữ liên bang (FED) của Hoa Kỳ đã cho ra đời ngân quỹ (dưới dạng các gói 
tiền 200 tỷ USD, 500 tỷ USD hay thậm chí là 700 tỷ USD) nhằm bảo lãnh cho việc  
chứng khoán hóa các khoản nợ xấu.
Đây là hai động thái giống nhau về bản chất, chính là mua cổ phiếu ưu đãi – 
mua cổ phiếu với mức lợi tức không phụ thuộc vào lợi nhuận và cũng không được 
tham gia điều hành ngân hàng – do các NHTM phát hành nhằm tạo vốn cho các  
NHTM đang lâm nợ có thể tái cấu trúc. Đồng thời, đây là cách tối ưu hóa việc chia  
nhỏ rủi ro tín dụng của NHTM đến các nhà đầu tư thị trường chứng khoán.
Bên cạnh đó, hai cường quốc này còn áp dụng biện pháp mua lại nợ xấu cho 
các NHTM. Các khoản nợ xấu sẽ được phân loại và được các công ty nợ xấu hoặc  
các tổ  chức tương tự  mua lại. Động thái này một mặt tạo vốn cho các NHTM để 
hoạt động trong thời gian cấp bách, một phần khiến các nhà đầu tư  lạc quan hơn,  
kích thích kênh đầu tư tạo cơ hội cho nền kinh tế tái hoạt động. Để bổ trợ cho giải  
pháp này, các công ty nợ  xấu còn giúp những NHTM yếu kém giải quyết các vấn  
đề thanh khoản tạm thời nhằm tạo động lực cho việc tái cấu trúc hệ thống.
Cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng xảy ra tại Cộng hòa Ireland vào cuối  
năm 2008 và đầu năm 2009, đã để lại số lượng lớn các khoản nợ xấu. Để  đối phó 
với cuộc khủng hoảng ngày càng trở nên nghiêm trọng, Chính phủ Ireland đã đưa ra 
sáng kiến thành lập công ty mua bán nợ  quốc gia (NAMA) năm 2009 nhằm lành 
mạnh   hệ   thống   ngân   hàng.   Trong   giai   đoạn   đầu,   NAMA   đã   mua   hoặc   chuyển  
nhượng tài sản nợ  trị  giá 71 tỷ  bảng Anh từ  850 con nợ  và hơn 11.000 khoản nợ 
được thế chấp bằng 16.000 công trình bất động sản. Để có được các khoản nợ này, 
NAMA đã phát hành chứng khoán do chính phủ  bảo lãnh cho 5 đơn vị  thành viên 
của mình. NAMA có nhiệm vụ  hoạt động làm sao đem lại kết quả  kinh doanh tốt  
nhất cho nhà nước từ những tài sản mua được. Ở vào thời kỳ đầu, NAMA đã mua  
được 11.500 khoản vay nợ liên quan đến đất đai và nhà cửa từ  5 định chế nêu trên  


13


và tiếp theo sau đó là xây dựng mối quan hệ  sâu rộng với các con nợ  để  hiểu rõ  
thêm hoạt động kinh doanh của họ  và bắt đầu xây dựng một chiến lược trả  nợ.  
Giai đoạn cuối cùng và lâu dài nhất là đề  ra một loạt các cột mốc cắt giảm nợ 
nhằm hoàn tất việc chi trả  đầy đủ  nghĩa vụ  của cả  các con nợ  và các khoản vay 
của NAMA vào năm 2019.
Nhiều nước  ở  châu Á như  Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan đã  
thành lập công ty quản lý tài sản tập trung để  xử  lý nợ, thu hồi và cơ  cấu lại các 
khoản nợ  xấu của ngân hàng. Một đặc điểm chung của các công ty này là tất cả 
đều được Chính phủ tài trợ vốn, tổ chức tập trung hơn là sử dụng mô hình chỉ dựa  
vào ngân hàng. Hầu hết các công ty quản lý tài sản  ở  các nước châu Á chỉ  hoạt  
động trong một số năm nhất định. Các công ty này cũng có quyền hạn đặc biệt để 
cắt giảm một số thủ tục pháp lý. Thái Lan thực hiện xử lý nợ xấu bằng 3 giải pháp 
cơ bản. Các giải pháp này bao gồm:
­ Bơm vốn trực tiếp.
­ Thành lập công ty quản lý tài sản AMC (Asset Management Company) 
­ Trung gian tái cơ cấu nợ CDRC (Corporate Debt Restructuring Committee)
Trong đó AMC là một trong những giải pháp mà Thái Lan đã áp dụng khá  
hiệu quả từ thời kỳ khủng hoảng cho đến nay.
Đối với các khoản vay có thế  chấp không còn khả  năng trả  nợ, AMC thực  
hiện tịch thu tài sản thế chấp và bán thanh lý để hoàn phần vốn vay dựa trên nguyên 
tắc chia sẻ lời­lỗ. Đối với các khoản vay mà AMC nhận thấy còn khả năng trả nợ,  
AMC đã chủ  động phối hợp với các cơ  quan đại diện cho các khu vực kinh tế  để 
đưa ra các giải pháp khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh của các khu vực  
đó, tạo nguồn vốn trả nợ. Và chỉ sau vài năm, hết quý 2/2003 số nợ xấu được AMC 
giải quyết đạt 73,46% tổng số nợ cần xử lý. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng  
thương mại Thái Lan giảm rõ rệt xuống từ  gần 13% năm 2003 xuống 10% năm 

2004 và đến quý 4/2011 ở mức không quá 4%.
Bên cạnh đó, một giải pháp được các các nước sử dụng là gắn giải quyết nợ 
xấu với tái cấu trúc ngân hàng và tái cấu trúc kinh tế. Biện pháp này được đánh giá  
là mang tính cơ  bản, vì ngoài vấn đề  xử  lý nợ  xấu nó còn giúp ngăn chặn nợ  xấu 
gia tăng.
Đối với Nhật Bản, họ tập trung nhiều hơn vào việc tái cơ cấu hệ thống ngân 
hàng. Không giống với một số nước, toàn bộ  số  tiền thành lập Tập đoàn Tái thiết  
công nghiệp Nhật Bản (IRCJ) là của các ngân hàng chứ  không phải từ  nhà nước. 
Cách làm của IRCJ là lựa chọn các tập đoàn, công ty cần phải tái thiết, sau đó sẽ 

14


tách đơn vị   ấy thành nhiều phòng, ban và đánh giá hiệu quả  hoạt động của từng 
phòng, ban. Nếu một ban không sinh lời, tập đoàn có thể bán ban đó kèm chiết khấu 
dựa vào giá trị tài sản sau khi định giá. Cuối cùng, nguồn lực sẽ được một cách có  
chọn lọc vào những phòng, ban làm ăn có lãi hoặc có sức cạnh tranh.
1.3.2. Đánh giá thực tế xử lý nợ xấu tại Việt Nam
Nợ  xấu không chỉ  là vấn đề  riêng có của Việt Nam mà nhiều quốc gia lớn, 
nhỏ trên thế giới cũng đã và đang đối phó với vấn đề này. Có quốc gia thành công ,  
có quốc gia gặp phải thất bại, khó khăn trong thời gian đầu... Các hình thức được  
dùng để xử lý nợ xấu rất đa dạng nhưng chủ yếu vẫn là phương pháp mua bán nợ 
thông qua thành lập các công ty Quản lý tài sản (AMC), chứng khoán hóa các khoản  
cho vay...
Hiện nay, công tác xử lý nợ xấu của Việt Nam mới đi được những bước nhỏ  đầu  
tiên, chủ yếu là qua hai biện pháp chính: các NHTM tự xử lý nợ xấu của mình thông  
qua các biện pháp phát mại tài sản, cơ cấu nợ, giãn nợ... và thực hiện mua bán nợ 
thông qua các Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản – VAMC trực thuộc NHNN  
và AMC trực thuộc các  NHTM. 
Tuy nhiên   VAMC này mới bắt đầu chính thức đi vào hoạt động trong vào  

ngày 26/07/2013 và các quy chế hoạt động, trong đó các ngân hàng có nợ  xấu/tổng 
dư  nợ  trên 3% sẽ  bắt buộc phải bán nợ  xấu cho VAMC. Tuy nhiên, ngay cả  các  
ngân hàng lớn có tỷ  lệ  nợ  xấu dưới mức an toàn cũng đua nhau xin bán nợ  cho 
AMC.Cụ  thể, Agribank cho biết sẽ  bán khoảng 5.000­10.000 tỷ  đồng nợ  xấu cho  
VAMC từ nay đến cuối năm 2013.Vietcombank dự kiến bán khoảng 1.000 tỷ đồng 
nợ xấu, đại diện MHB cũng cho biết trong quý 4/2013 ngân hàng này sẽ bán khoảng 
500 tỷ đồng nợ xấu và đến hết năm 2014 sẽ bán khoảng 1.500 tỷ đồng nợ xấu cho  
VAMC.Ngoài ra, BIDV cũng đang lên danh sách và dự kiến chốt danh sách nợ xấu 
bán cho VAMC vào cuối tháng 10/2013, SCB cũng chuẩn bị  kế  hoạch bán nợ  xấu 
lần 2 sau khi đã bán hơn 1.000 tỷ đồng cho VAMC.  Điều này cho thấy khả năng tự 
xử lý nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam là quá kém và không khả thi.
Do VAMC mới chỉ vừa được đưa vào hoạt động nên các quy định mua bán nợ 
xấu còn lỏng lẻo và chưa hoàn thiện, khả năng tài chính còn yếu trong khi nhu cầu  
bán nợ xấu từ các ngân hàng là rất lớn. Cơ chế xin­ cho tại Việt Nam cùng với tình 
trạng  thiếu công bằng  trong các  hoạt  động  thực  tế,  sự   ảnh  hưởng  của  lợi  ích 
nhóm... hiện nay  cũng đặt ra một câu hỏi lớn về tính minh bạch của VAMC. Liệu  
khi đưa VAMC vào hoạt động thì tổ chức này có thực hiện đúng vai trò ban đầu, vì 

15


lợi ích chung hay chỉ hướng tới phục vụ lợi ích một nhóm thiểu số hoặc lại là một 
miếng bánh béo bở trong tình trạng tham ô, tham nhũng hiện nay.
Về  công tác tự  xử  lý nợ  xấu của các NHTM, một trong những nguyên nhân 
khiến khả năng các ngân hàng không có khả năng xử lý nợ xấu là ảnh hưởng từ sự 
đóng băng của thị  trường bất động sản, thị  trường chứng khoán suy yếu, nền kinh 
tế  tăng trưởng chậm, hàng tồn kho lên cao. Các ngân hàng cho vay lại quá phụ 
thuộc vào tài sản thế chấp. Do vậy, các ngân hàng khó có thể thu hồi nợ xấu thông  
qua phát mại tài sản .Thêm nữa, bản thân cơ cấu tín dụng của các  ngân hàng thời  
gian trước cũng đầu tư quá nóng vào lĩnh vực bất động sản, nên khi thị  trường này 

đóng băng thì tỷ lệ nợ xấu không chỉ lên cao mà còn khó có khả năng thu hồi cả gốc  
và lãi. Tình trạng sở  hữu chéo khiến cho mục đích cấp vốn ban đầu bị  bóp méo, 
ngân hàng không quản lý được vốn hoặc bị chi phối bởi các mục đích bên ngoài của  
một nhóm cá nhân. Hệ thống thông tin nội bộ giữa các ngân hàng cũng không có sự 
liên kết nên trong những năm vừa qua sảy ra nhiều vụ  việc nhiều ngân hàng cùng 
cho vay dựa trên 1 TSĐB ví dụ như  sự kiện 7 ngân hàng cùng tranh chấp một kho  
cà phê gần đây. Những cơ chế thiếu minh bạch , lỏng lẻo trên đã đẩy ngân hàng vào 
thế bị động trong việc thu hồi nợ xấu.
Nợ  xấu  ở  bản thân các ngân hàng đã tiềm tàng từ  lâu nhưng còn bị  che giấu  
hoặc bị  đánh giá sai lệch   so với thực tế. Việc tăng trưởng tín dụng nóng trong  
những năm 2009­2010 đã để  lại hệ  lụy là nợ  xấu bùng phát dữ  dội vào năm 2011 
đến nay. Và cho dù nợ xấu có đang bùng nổ thì bản thân công tác đánh giá nợ xấu 
hiện giờ của các ngân hàng còn cách xa so với thực tế. Nợ xấu vẫn còn là tảng băng  
chìm vẫn chưa nổi lên hết và là một mối đe dọa vẫn còn treo lơ lửng phía trước.
Việt Nam hoàn toàn có thể  học hỏi từ  những biện pháp xử  lý nợ  xấu từ  các  
nước đi trước. Nhưng trước khi triển khai những biện pháp mạnh mẽ  trực tiếp xử 
lý nợ xấu thì Chính phủ, NHNN và các NHTM cần có những biện pháp để hạn chế 
nợ  xấu thông qua tái cấu trúc nền kinh tế, minh bạch thủ  tục cho vay, xử  lý rứt  
điểm  tình trạng sở hữu chéo và lợi ích nhóm..... Đặc biệt, cần có những biện pháp  
để phá băng thị trường bất động sản, xử lý hàng tồn kho, phục hồi thị trường chứng 
khoán... để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và mở lối thoát cho các doanh nghiệp. 
Như vậy, để xử lý “cục máu đông” nợ xấu cần sự phối hợp chặt chẽ và thống nhất 
giữa các cơ quan chức năng và mọi thành phần kinh tế để ngành ngân hàng nói riêng 
và nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng phục hồi và phát triển.

16


CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG NỢ XẤU VÀ CÁC BIỆN PHÁP  XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI  NGÂN 

HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM – 
VIETCOMBANK

2.1.

Giới thiệu về Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam 

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Vietcombank

2.1.1.1.  Thông tin chung: 
Tên giao dịch: 
+ Tên   công   ty   viết   bằng   tiếng   Việt:   NGÂN   HÀNG   THƯƠNG   MẠI   CỔ 
PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM.
+ Tên công ty viết bằng tiếng anh: JOINT STOCK COMMERCIAL BANK  
FOR FOREIGN TRADE OF VIET NAM
+ Tên giao dịch: VIETCOMBANK

+ Tên viết tắt: VCB
 Giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp:
+ Mã số doanh nghiệp: 01001124

+ Đăng kí lần đầu ngày 02/6/2008, Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh số 
0103024468 do Sở  Kế  hoạch và Đầu tư  TP Hà Nội cấp ngày 02/6/2008. Đăng kí 
thay đổi lần thứ 7 ngày 10/01/2012
Vốn điều lệ  ( Vốn đầu tư  của chủ  sở  hữu) : Hai mươi ba nghìn  
một trăm bảy mươi bốn tỷ  một trăng bảy mươi triệu bảy trăm sáu mươi nghìn  
đồng
Mã cổ phiếu: VCB
Mệnh giá cổ phần: 10.000 đồng
Tổng số cổ phần: 2.317.417.076

Trụ  sở  chính: 198 Trần Quang Khải, Phường Lý Thái Tổ, Quận 
Hoàn Kiến, Tp. Hà Nội, Việt Nam
Website: www.vietcombank.com.vn
2.1.1.2.

 Lịch sử hình thành: 

Vietcombank tiền thân là Sở  Quản lý Ngoại hối thuộc Ngân hàng Quốc gia 
Việt Nam được thành lập ngày 20/01/1955 theo Nghị định 443/TTg của Thủ  tướng 
Chínhphủ. Năm 1961, Sở  Quản lý Ngoại hối được đổi tên thành Cục ngoại hối  

17


thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Nghị định 171/CP ngày 26/10/1961 của  
Hội đồng Chính Phủ. Cơ quan này vừa là một cục, vụ  thuộc Ngân hàng Nhà nước 
Việt Nam thực hiện chức năng tham mưu, nghiên cứu chính sách quản lý nhà nước 
trong lĩnh vực ngoại hối, đồng thời tiến hành các hoạt động nghiệp vụ  kinh doanh 
của một ngân 
hàng thương mại đối ngoại.
Giai đoạn 1963­1975:
Ngày 01/04/1963, Vietcombank chính thức khai trương hoạt động theo Nghị 
định số 115/CP ngày 30/10/1962 do Hội đồng Chính phủ ban hành trên cơ sở tách ra  
từ Cục Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong giai đoạn 1963 
– 1975, thời kỳ  chiến tranh chống Mỹ  ác liệt, Vietcombank đã đảm đương thành 
công nhiệm vụ lịch sử lớn lao là một ngân hàng thương mại đối ngoại duy nhất tại  
Việt Nam, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế miền Bắc, đồng thời hỗ trợ chi 
viện cho chiến trường Miền Nam.
Để  tiếp nhận nguồn vốn viện trợ  ngoại tệ, tháng 4/1965 theo chỉ  thị  của Bộ 
Chính trị, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thành lập một tổ  chức chuyên trách  

nghiệp vụ thanh toán đặc biệt với bí danh B29 tại Vietcombank. Ra đời với một cơ 
cấu tổ  chức rất gọn nhẹ, B29 hoạt động đơn tuyến và bảo mật đến mức tối đa 
được đặt dưới sự  chỉ  đạo trực tiếp của Bộ  Chính trị  và Thường vụ  Trung  ương 
Cục Miền Nam. Với trên 10 người hoạt động trong thời gian 10 năm, Quỹ Ngoại tệ 
đặc biệt B29 đã tham gia vận chuyển và chuyển khoản một lượng lớn ngoại tệ, chi 
viện cho chiến trường miền Nam.
Giai đoạn 1976­1990:
 Thời kì này, Vietcombank đã trở thành ngân hàng đối ngoại duy nhất của Việt  
Nam trên cả  3 phương diện: Nắm giữ ngoại hối của quốc gia, thanh toán quốc tế,  
cung  ứng tín dụng xuất nhập khẩu. Sau 1975, Vietcombank tiếp quản hệ  thống  
ngân hàng của chế độ  cũ, tham gia đàm phán giảm, hoãn thành công nợ  Nhà nước  
tại   Câu   lạc   bộ   Paris,   London.   Trong   điều   kiện   bị   bao   vây   cấm   vận   kinh   tế,  
Vietcombank tiếp tục nhận viện trợ, tìm kiếm các nguồn vay ngoại tệ, đẩy mạnh  
thanh toán quốc tế  để  phục vụ  sự  nghiệp khôi phục đất nước sau chiến tranh và  
xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội.
Giai đoạn 1991­2007: 
Vietcombank đã chính thức chuyển từ  ngân hàng chuyên doanh đối ngoại trở 
thành một ngân hàng thương mại nhà nước có hệ  thống mạng lưới trên toàn quốc 
và quan hệ ngân hàng đại lý trên khắp thế giới. Vietcombank cũng là ngân hàng đầu  

18


tiên triển khai và hoàn thành Đề án tái cơ cấu (2000­ 2005)mà trọng tâm là nâng cao 
năng lực tài chính, quản trị điều hành, đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm, dịch 
vụ ngân hàng hiện đại, đóng góp cho sự ổn định và phát triển kinh tế, đồng thời tạo 
dựng uy tín đối với cộng đồng tài chính khu vực và toàn cầu..
Giai đoạn 2007­2012:
Năm 2007, VCB tiên phong cổ  phần hóa trong ngành ngân hàng và thực hiện  
thành công phát hành cổ  phiếu lần đầu ra công chúng. Ngày 02/6/2008, VCB đã 

chính thức hoạt động theo mô hình ngân hàng thương mại cổ phần. Ngày 30/6/2009, 
VCB niêm yết cổ  phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán TP. HCM. Tháng 09/2011 
VCB ký kết Hợp đồng cổ  đông chiến lược với Mizuho Corporrate Bank. Đến nay,  
VCB đã trở thành NHTM có tổng tài sản gần 20 tỷ đô la Mỹ, có quy mô lợi nhuận 
hàng đầu Việt Nam trong nhiều lĩnh vực như  thanh toán xuất nhập khẩu, kinh  
doanh ngoại tệ, thẻ...
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Vietcombank
Vietcombank hiện được tổ  chức hoạt động theo mô hình trong đó ngân hàng 
thương mại giữ  vai trò là mảng hoạt động kinh doanh chính, hoạt động như  một  
công ty mẹ; các hoạt động tài chính và phi tài chính khác có vai trò như  các công ty 
con.
 Cơ cấu bộ máy quản lý của Vietcombank

19


­ HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ gồm có 1 Chủ tịch và 7 thành viên:
1. Ông NGUYỄN HÒA BÌNH   : Chủ tịch HĐQT
2. Ông NGUYỄN PHƯỚC THANH   : Ủy viên HĐQT, Tổng Giám đốc
3. Ông NGUYỄN ĐĂNG HỒNG   : Ủy viên HĐQT
4. Ông LÊ ĐẮC CÙ   : Ủy viên HĐQT
5. Ông NGUYỄN DANH LƯƠNG   : Ủy viên HĐQT, kiêm Phó TGĐ
6. Ông YAKUTA ABE   : Ủy viên HĐQT, kiêm Phó TGĐ
7. Bà LÊ THỊ KIM NGA   : Ủy viên HĐQT 
8. Bà LÊ THỊ HOA   : Ủy viên HĐQT
­ BAN KIỂM SOÁT gồm có 1 Trưởng Ban Kiểm soát và 3 thành viên:
1. Bà TRƯƠNG LỆ HIỀN   : Trưởng Ban Kiểm soát
2. Bà VŨ THỊ BÍCH VÂN   : Thành viên Ban Kiểm soát
3. Bà LA THỊ HỒNG MINH   : Thành viên Ban Kiểm soát
4. Bà ĐỖ THỊ MAI HƯƠNG   : Thành viên Ban Kiểm soát

­ BAN ĐIỀU HÀNH gồm có 1 Tổng Giám đốc và 8 phó Tổng Giám đốc:
1. Ông NGUYỄN PHƯỚC THANH   : Tổng Giám đốc
2. Ông NGUYỄN DANH LƯƠNG   : Phó Tổng Giám đốc
3. Ông YUTAKA ABE   : Phó Tổng Giám đốc
4. Ông NGUYỄN VĂN TUÂN   : Phó Tổng Giám đốc
5. Ông PHẠM QUANG DŨNG   : Phó Tổng Giám đốc
6. Ông PHẠM THANH HÀ  : Phó Tổng Giám đốc
7. Ông ĐÀO HẢO   : Phó Tổng Giám đốc
8. Bà TRƯƠNG THỊ THÚY NGA  : Phó Tổng Giám đốc
9. Ông ĐÀO MINH TUẤN   : Phó Tổng Giám đốc
Bà PHÙNG NGUYỄN HẢI YẾN  : Kế toán trưởng

2.1.3. Hoạt động tín dụng tại Vietcombank hiện nay.
Trong bối cảnh nhiều khó khăn, VCB đã bám sát các chỉ  tiêu đã đề  ra và các 
diễn biến của thị  trường. Năm 2012, với phần vốn mới từ  cổ  đông chiến lược  
Mizuho Corporate, vốn điều lệ của VCB đã lên mức 23.174 tỷ đồng. Tính đến thời  
điểm cuối năm, dư  nợ  cho vay khách hàng của VCB đạt mức tăng 15,16% so với  
năm 2011, cao hơn tốc độ tăng trưởng của toàn ngành, huy động vốn từ nền kinh tế 
tăng trưởng 25,76% và tổng tài sản tăng trưởng 13,02% so với năm 2011. Lợi nhuận 
trước thuế hợp nhất năm 2012 đạt 5.765 tỷ đồng, tăng 1,17% so với năm 2011. Bên 
cạnh duy trì các chỉ tiêu tăng trưởng và hiệu quả, VCB luôn đảm bảo duy trì các hệ 

20


số  an toàn hoạt động theo quy định của NHNN, tích cực kiểm soát chất lượng tín  
dụng, xử lý nợ xấu và thu hồi công nợ.
Trong hoạt động tín dụng nói riêng, VCB kịp thời nắm bắt xu hướng của nền  
kinh tế để tăng trưởng tín dụng VNĐ. Dư nợ cho vay và ứng trước khách hàng đến 
cuối năm 2012 đạt 241.163 tỷ  đồng, tăng 31.745 tỷ  đồng ( xấp xỉ  +15,2%) so với  

cuối năm 2011. Phân theo loại tiền,dư nợ tín dụng VNĐ đạt 166.040 tỷ  đồng tăng  
21,1% so với cuối năm 2011, trong khi dư nợ tín dụng ngoại tệ đạt 75.123 tỷ đồng, 
tương ứng tăng 3,9% so với cuối năm 2011. 
Theo kì hạn, tín dụng ngắn hạn đạt 149.537 tỷ  đồng tăng 21,3% so với cuối 
năm 2011. Trong khi đó tín dụng trung – dài hạn đạt 91.626 tỷ  đồng tăng 6,4% so  
với cuối năm 2011. Đến thời điểm 31/12/2012, VCB đã trích đủ  dự  phòng rủi ro  
theo kết quả phân loại nợ  của NHNN quy định. Theo báo cáo kiểm toán hợp nhất  
số dư Quỹ dự phòng rủi ro đến thời điểm 31/12/2012 là 5.293 tỷ  đồng trong đó có  
1.735 tỷ đồng dành cho dự phòng chung, 3.558 tỷ đồng cho dự phòng cụ thể.
Với cho vay trên thị  trường liên ngân hàng, dư  nợ  cho vay/gửi tại các TCTD 
đến cuối năm 2012 đạt 65.713 tỷ  đồng, giảm 39.292 tỷ  ( xấp xỷ  ­37.4 tỷ) so với  
cuối năm 2011. Tín dụng trên thị  trường liên ngân hàng giảm một phần do thanh  
khoản của các ngân hàng tốt hơn năm 2012, một phần do VCB kiểm soát chặt chẽ 
hơn trong cho vay để hạn chế rủi ro.
Như vậy, năm 2012 VCB là điểm sáng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng 
nói chung và lĩnh vực tín dụng nói riêng. Bên cạnh việc đẩy mạnh hoạt động kinh  
doanh,   VCB   cũng   chú   trọng   thực   thi   tốt   những  chỉ   đạo   của   Chính   phủ   và   của  
NHNN, góp phần tích cực vào ổn định kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ, an sinh xã 
hội.. Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng với xu hướng khôi phục nền 
kinh tế  thế  giới và nền kinh tế Việt Nam, VCB cam kết sẽ nỗ lực quyết tâm đưa 
VCB vượt qua khó khăn, nắm bắt cơ hội, tiếp tục phát triển bền vững và mạnh mẽ 
hơn nữa trong những năm tiếp theo.
2.2.

Thực trạng nợ xấu tại Ngân hàng  Thương mại cổ phần Ngoại thương  
Việt Nam
Nợ  xấu của hệ  thống ngân hàng năm 2012 tăng đột biến cả  về  con số  tuyệt 

đối và tương đối, gấp nhiều lần so với các năm trước. Thực tế không phải nợ xấu 
mới phát sinh năm năm nay mà được tích lũy trong một thời gian dài. Nợ xấu có xu 

hướng tăng bắt đầu từ năm 2007 và đặc biệt được chú ý từ cuối năm 2011 vì tốc độ 
tăng rất nhanh.

21


Biểu đồ 2.1.  Tỷ lệ nợ xấu của ngành ngân hàng Việt Nam giai đoạn  2004­
2013
5.00%

4.67%

4.50%
4.00%
3.50%
3.00%
2.50%

4.08%
2.90%

3.50%

3.20% 3.30%

2.00%
1.50%

2.00%


3.40%
2.20%

2.60%

1.00%
0.50%
0.00%
Dec-04 Dec-05 Dec-06 Dec-07 Dec-08 Dec-09 Dec-10 Dec-11 Dec-12 Apr-13

Tỷ lệ nợ xấu
Nguồn: Khảo sát ngành ngân hàng Việt Nam 2013 – KPMG.com

Năm 2008 nợ  xấu tăng đột biến là do  ảnh hưởng   của cuộc khủng hoảng 
kinh tế  tới Việt Nam.  Khó khăn của nền kinh tế, trong hoạt động của mỗi ngân 
hàng đang dần thể hiện  ở xu hướng gia tăng của nợ  xấu. Nếu trong năm 2007, đa 
số thành viên khối quốc doanh chỉ trên dưới 3%, khối cổ  phần phổ biến dưới 2%,  
thì năm 2008 dự  kiến sẽ có nhiều trường hợp có nợ  xấu trên 5%. Cuối năm 2008, 
một số  ngân hàng lớn đã chính thức công bố  tỷ  lệ  nợ  xấu thực tế  hoặc mục tiêu  
kiểm soát từ  5% đến hơn 6%. Tuy nhiên, nhiều thành viên chưa có động lực để 
công bố và cập nhật số liệu liên quan. Liên quan đến vấn đề nợ xấu, sự  suy giảm  
mạnh của thị  trường bất động sản và chứng khoán là những lo ngại nổi bật trong 
năm 2008,  ảnh hưởng  đến chất lượng và  quan hệ  tín dụng của các ngân hàng 
thương mại. Năm 2009 khi nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi, chất lượng nợ  được 
cải thiện, nợ xấu giảm xuống mức 2,0%. Nhưng liền những năm sau đó từ 2009 tới 
nay, nợ  xấu liên tục gia tăng mà không có dấu hiệu suy giảm đặc biệt là từ  năm  
2011 tốc độ  gia tăng mạnh hơn. Đây là một diễn biến không mấy tích cực cho 
ngành ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Vietcombank   trong những năm gần đây có tỷ  nợ  xấu thường cao hơn các  
ngân hàng có cùng quy mô. Nguyên nhân được lý giải là do VCB đã tiến hành điều 

chỉnh phân loại nợ  theo Quyết định 493//2005/QĐ­NHNN... Ngoài ra cũng phải kể 
đến sự khác biệt trong diễn biến tăng­ giảm nợ xấu của VCB có phần khác so với 
toàn ngành:
Bảng 2.1. Tỷ lệ nợ xấu của VCB giai đoạn 2009­2013
Năm

2009

2010

22

2011

2012

9/2013


Nợ nhóm 3­5
(Triệu đồng)
Tỷ lệ nợ xấu(%)

3.498.684

5.147.552

4.257.959

5.791.307


7.437.692

2.47%

2.83%

2.03%

2.40%

2.98%

Nguồn: Tổng hợp báo cáo tài chính của VCB 2009­2013

Có thể nhận thấy rằng nợ xấu của VCB những năm gần đây biến động theo 
đồ thi hình Sin. Nợ xấu năm 2010 của VCB tăng mạnh so với năm 2009, nhưng đến  
năm 2011 lại hạ thấp xuống mức 2,03% . Đến năm 2012 nợ xấu của VCB tăng nhẹ 
lên mức 2,40% và tăng mạnh trong 9 tháng đầu năm 2013, sắp vượt ngưỡng an toàn. 
Nguyên nhân khiến cho nợ xấu của VCB có nhiều biến động trái chiều như vậy là  
do sự  tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ  quan. Sau đây là chi tiết thực  
trạng và nguyên nhân dẫn đến sự  biến động của nợ  xấu VCB trong các năm từ 
2009 đến 2013.

2.2.1. Nợ xấu của VCB năm 2009.
Trong năm 2009, VCB  đã theo đuổi chính sách tăng trưởng tín dụng bền 
vững, coi trọng việc nâng cao chất lượng tín dụng . Dư  nợ  tín dụng là 141.621 tỷ 
đồng tăng 26,5% so với năm 2008 và xấp xỉ mức tăng trưởng của ngành là 38%. Đây 
có thể nói là một mức tăng trưởng khá nóng.  Yếu tố chính làm nên tăng trưởng tín 
dụng năm 2009 chính là chính sách nới lỏng tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, cùng 

lúc đó chính phủ  đưa ra biện pháp kích thích tài khóa khiến nhu cầu đối với các  
khoản vay tăng cao, tăng trưởng GDP năm 2009 được hỗ  trợ. Phần lớn tiền được 
cho vay với lãi suất thấp theo chương trình hỗ trợ lãi suất của chính phủ. Có 4 ngân 
hàng thương mại của nhà nước bao gồm Ngân hàng Nông nghiệp (Agribank), Ngân 
hàng  đầu  tư   phát  triển   Việt   Nam  (BIDV),   Ngân  hàng  Ngoại  thương  Việt  Nam 
(Vietcombank)   và   Ngân   hàng   Thương   mại   Cổ   phần   Công   Thương   Việt   Nam  
(Vietinbank). Nhóm ngân hàng này tiếp tục thống trị hệ thống ngân hàng Việt Nam,  
cung cấp tới 51% tổng số  các khoản vay trong toàn hệ  thống tính đến hết tháng 
9/2009 (con số  này năm 2008 là 52% và năm 2007 là 54%). Nhóm ngân hàng này 
cung cấp tới 2/3 trong số các khoản vay hỗ trợ  lãi suất và vì thế  bảo vệ  được thị 
phần.
Với mức tăng trưởng tín dụng quá nóng này, Fitch Ratings cho rằng các ngân 
hàng Việt Nam sẽ đương đầu với nhiều khó khăn liên quan đến chất lượng tài sản  
và vốn, tăng trưởng tín dụng cao sẽ  dẫn đến chất lượng các khoản vay đi xuống, 
các quy định thường lỏng lẻo hơn khi ngân hàng mở  rộng quá nhanh. Chất lượng 
khách hàng vay vốn (borrower quality) có thể  đi xuống một khi chương trình kích 
cầu được rút đi, lãi suất cơ bản tăng hay đồng nội tệ giảm giá. Khi đó, nguồn vốn  

23


khổng lồ mà các ngân hàng bơm ra trong năm 2009 sẽ phải đương đầu với mức rủi  
ro rất lớn.
Tính đến 31/12/2009 tỷ lệ nợ xấu của VCB là 2,47% thấp hơn nhiều so với  
mức 4,61% vào cuối năm 2008, thấp hơn mức dự  kiến mà Đại hội đồng cổ  đông 
cho phép là 3,5%..Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn thuộc loại cao so với các ngân hàng khác, 
đặc biệt là các ngân hàng có cùng quy mô như Vietinbank (0.66%). Cụ thể mức tăng 
trưởng của từng nhóm nợ là:
Bảng 2.2. Mức tăng trưởng của các nhóm nợ của VCB năm 2009.
Phân loại nợ

Nợ đủ tiêu chuẩn
Nợ cần chú ý
Nợ dưới tiêu chuẩn
Nợ nghi ngờ
Nợ   có   khả   năng   mất 
vốn
Tổng dư nợ

31/12/2009
( Triệu VNĐ)
        130.008.700 
             8.033.742 
                440.649 
                394.977 
             2.663.058 

31/12/2008
( Triệu VNĐ)
      104.592.600 
           3.061.320 
              921.191 
              813.087 
           3.467.767 

Tăng trưởng 
(%)
24%
162%
­52%
­51%

­23%

        141,621,126 

      112.792.965 

26%

Nguồn: Báo cáo thường niên của VCB năm 2009



Như  vậy, nợ xấu năm 2009 của VCB giảm mạnh so với năm 2008 là do nợ 

nhóm 3,4 và 5 đồng loạt giảm mạnh, trong đó nợ  nhóm 3 và 4 tăng tới hơn 50%.  
Ngoài ra, nợ nhóm 2 tăng tới 162% cũng góp phần làm giảm tỷ lệ nợ xấu của VCB.  
Nguyên nhân là trong năm này, VCB đã tích cực áp dụng các biện pháp thu hồi nợ 
với số  tiền được ghi nhận vào khoản mục thu nhập bất thường là 148 tỷ  đồng.  
Thực hiện trích lập dự  phòng đầy đủ  với mức dự  phòng chung là 1.072 tỷ  đồng 
tăng tới 40,8%. Ngoài ra VCB đã sử  dụng các biện pháp đảm bảo an toàn tín dung 
như: cơ  cấu lại danh mục đầu tư, củng cố  quan hệ  khách hàng,áp dụng kỹ  thuật  
hiện đại vào quản trị  danh mục đầu tư, kiểm soát chặt chẽ  chất lượng tín dụng. 
Cũng phải kể đến yếu tố khách quan khiến nợ xấu 2009 của VCB thấp hơn so vơi  
năm trước là  ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế  thế  giới vào Việt Nam 
khiến cho nợ xấu tăng bất thường vào năm 2008. Tuy nhiên vào nửa cuối 2009 nền  
kinh tế đã gượng dậy với mức tăng trưởng tương đối cao so với các nước trong khu  
vực (5,32%) trong khi vẫn giữ  được mức lạm phát ở  mức thấp (6,25%).  Khi nền 
kinh tế  có dấu hiệu phục hồi lại, các doanh nghiệp đầu tư  có hiệu quả  nên nâng 
cao khả năng trả nợ, chất lượng tín dụng của VCB do đó cũng được nâng cao góp 
phần làm giảm tỷ lệ nợ xấu.

Nợ xấu của hệ thống Ngân hàng là hệ quả tất yếu của quá trình tăng trưởng  
tín dụng quá nóng trong những năm qua, cộng với cơn sốt cho vay bất động sản, 

24


chứng khoán ồ ạt trong thời kì 2006­2007. Được biết, trong 10 năm trở lại đây, mặc 
dù Ngân hàng Nhà nước thường xuyên yêu cầu các Ngân hàng thương mại phải hạn 
chế  tăng trưởng tín dụng không quá cao nhưng thực tế  tăng trưởng vẫn trên 20%; 
năm 2007 tăng trưởng tín dụng tới 51,39%; năm 2009 là 37,7%; năm 2010 là 29,8%...  
Việc cho vay ồ ạt cùng với chính sách cho vay lỏng lẻo những năm trước đã để lại  
nhiều hệ  lụy, trong đó có nợ  xấu. tăng trưởng tín dụng của SHB cũng không nằm 
ngoài các con số đó.
Sự  phát triển  ồ   ạt của hệ  thống ngân hàng thương mại cũng là một nguyên 
nhân gia tăng nợ xấu (cả nước có khoảng 100 ngân hàng). Sự ra đời của ngân hàng  
dễ dàng, thậm chí không đạt tiêu chuẩn về vốn ban đầu đã thúc đẩy các ngân hàng  
nhỏ  tìm mọi cách tăng vốn huy động, thúc đẩy tín dụng bằng cách nới lỏng tiêu 
chuẩn cho vay, cho vay dễ dãi, thiếu các điều kiện bảo đảm cần thiết… cũng làm  
cho nợ  xấu gia tăng. Nợ  xấu gia tăng nay có nguyên nhân từ  thực trạng kinh tế  và 
chính sách thắt chặt tín dụng. Lạm phát tăng cao, những điều chỉnh về  tỉ  giá, tăng 
giá nhiều nguyên nhiên vật liệu khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Chính 
sách thắt chặt tiền tệ  khiến lãi suất huy động và cho vay đều tăng cao bồi thêm 
những khó khăn cho doanh nghiệp, Ngân hàng cho vay lãi suất cao cũng hướng đồng 
tiền chuyển vào các lĩnh vực có yếu tố rủi ro cao, chỉ những lĩnh vực đó mới có cơ 
hội lãi cao khiến nợ xấu tiềm ẩn và dễ bục phát.
2.2.2. Nợ xấu của VCB năm 2010.
Trong năm 2010, VCB đã tiến hành điều chỉnh phân loại nợ  theo điều 6 và 7 
của   Quyết  định  493//2005/QĐ­NHNN.   Theo  nhận  định  của   VCB,   việc   thay  đổi 
phương thức phân loại nợ đã làm cho tỷ lệ nợ xấu năm 2010  tăng mạnh so với năm 
2009  và đạt mức 2.83%. . 

Nếu như  năm 2009 tất cả  các nhóm nợ  3,4 và 5 đều giảm thì năm nay, VCB  
phải đối mặt với sự tăng trưởng bất thường của nợ nhóm 3 tăng tới 164% trong khi  
nợ nhóm 2 có xu hướng tăng chậm lại. Điều này đã đẩy tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư 
nợ tăng lên:
Bảng 2.3. Mức tăng trưởng của các nhóm nợ của VCB năm 2010.
Phân loại nợ
Nợ đủ tiêu chuẩn
Nợ cần chú ý
Nợ dưới tiêu chuẩn

31/12/2010
31/12/2009
Tăng trưởng (%)
( Triệu VNĐ)
( Triệu VNĐ)
        155.563.351        130.008.700 
20%
           16.103.00            8.033.742 
100%

             1.164.35               440.649 
164%


25


×