LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21 chứng kiến sự tăng trưởng ngoạn mục
của ngành Tài chính – Ngân hàng, trong đó ấn tượng nhất là sự phát triển của hệ
thống Ngân hàng Thương mại. Theo thời gian, hệ thống này được mở rộng về quy
mô, đa dạng về loại hình kinh doanh, phong phú về sản phẩm và chất lượng ngày
càng được nâng cao. Nếu như hình thức ngân hàng từ thời sơ khai chỉ đảm nhận vai
trò cất giữ tài sản thì ngày nay hoạt động kinh doanh của ngân hàng vô cùng phong
phú: cung cấp dịch vụ, tín dụng, đầu tư... Trong đó hoạt động tín dụng chiếm tỷ
trọng cao nhất trong tổng tài sản, mang lại nguồn thu nhập lớn nhất. Song theo lẽ
thường, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn, đây cũng chính là hoạt động mang
lại rủi ro cao nhất cho ngân hàng mà biểu hiện của nó chính là nợ xấu.
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, một số ngân hàng thương mại đã coi
chính sách mở rộng tín dụng là một giải pháp để chiếm lĩnh thị phần, thu hút khách
hàng và tìm kiếm lợi nhuận. Do vậy, năm 20092010 là giai đoạn tăng trưởng tín
dụng quá nóng của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Việc cạnh tranh giữa các ngân
hàng trở lên gay gắt, các tiêu chuẩn về cấp tín dụng bị hạ thấp để thúc đẩy tăng
trưởng. Hệ lụy của nó là những khoản nợ xấu tiềm ẩn đã lâu nay như tảng băng
chìm đã trồi lên mặt nước và trở thành vấn đề nhức nhối của ngành ngân hàng Việt
Nam. Những khoản vay không thu hồi được cả gốc và lãi đúng hạn ngày càng lớn,
tỷ lệ nợ xấu ngày càng gia tăng đặc biệt là trong lĩnh vực tín dụng bất động sản, đã
có lúc đe dọa tới tính thanh khoản của ngân hàng. Việc xử lý và hạn chế nợ xấu là
một yêu cầu cấp thiết, có vai trò sống còn của ngành ngân hàng nước ta trong suốt
những năm gần đây. Được ví như là “cục máu đông” của nền kinh tế, nợ xấu ngân
hàng đã và đang để lại những hậu quả nghiêm trọng cho sự phát triển và tăng
trưởng của toàn nền kinh tế.
Là một trong các ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất Việt Nam, Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam cũng không nằm ngoài vào
guồng quay đó. Bị đánh giá là một ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu khá cao so với các
ngân hàng có cùng quy mô liệu có phải là một dấu hiệu đi xuống của ngân hàng?
Thực tế về tình hình nợ xấu của ngân hàng trong những năm gần đây và biện pháp
mà ngân hàng sử dụng để đối phó là gì...? Để làm sáng tỏ những vấn đề này, tác
giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu trong hoạt
động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam”
1
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, chuyên đề được
kết cấu theo 03 chương như sau”
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về nợ xấu trong hoạt động tín dụng ở các
ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng nợ xấu và cá biện pháp xử lý nợ xấu tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam – Vietcombank
Chương 3: Giải pháp khắc phục nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam Vietcombank
Bài viết là thành quả của tác giả thông qua tìm hiểu thực tế tại ngân hàng và
qua các phương tiện truyền thông..., do vậy trong nội dung trình bày còn nhiều
thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự nhận xét, góp ý từ phía các thầy cô để
chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn.
Hà Nội, ngày 25 tháng 12 năm 2013
Người trình bày.
Lê Thị Duyên
2
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
Ở CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.
Tín dụng ngân hàng và rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng.
Trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì “Tín dụng là
một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng hoặc các
định chế tài chính) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong
đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất
định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi
cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.”
Như vậy, bản chất của tín dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và
lãi giữa một bên là ngân hàng và một bên là người đi vay. Đây là quan hệ chuyển
nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn theo thỏa thuận giữa hai bên. Trong hoạt động
của ngân hàng thì đây là hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận nhất nhưng cũng chứa
đựng nhiều rủi ro nhất. Có thể định nghĩa rủi ro trong hoạt động tín dụng như sau:
Theo Khoản 1 Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban
hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐNHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước: “ Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt
động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không
có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm
nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của NHTM như: hoạt động bảo
lãnh, tài trợ ngoại thương, cho thuê tài chính.
1.1.2. Các rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng.
3
Rủi ro tín
dụng
Rủi ro giao
dịch
Rủi ro lựa
chọn
Rủi ro đảm
bảo
Rủi ro danh
mục
Rủi ro
nghiệp vụ
Rủi ro nội tại
Rủi ro tập
trung
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh, rủi ro tín dụng được phân loại như sau:
Rủi ro giao dịch:
Rủi ro giao dịch là rủi ro mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong
quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay. Rủi ro giao dịch được chia là ba loại là rủi
ro lựa chọn, rủi ro bảm bảo và rủi ro nghiệp vụ.
+
Rủi ro lựa chọn: Là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích
tín dụng khi ngân hàng lựa chọn những phương án hiệu quả thấp để cho vay
+
Rủi ro đảm bảo: Là rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các
điều kiện trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, các
hình thức bảo đảm và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
+
Rủi ro nghiệp vụ: Là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và
hoạt động cho vay, bao gồm cả việc xử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật
xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
Rủi ro danh mục:
Rủi ro danh mục là loại rủi ro mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế
trong việc quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, bao gồm hai loại là rủi ro nội
tại và rủi ro tập trung.
+ Rủi ro nội tại: Là rủi ro xuất phát từ các đặc điểm riêng có, mang tính riêng
biệt bên trong mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế.
+ Rủi ro tập trung: Là loại rủi ro tín dụng do ngân hàng tập trung cho vay quá
nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong
cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế hoặc cùng một địa lý nhất định hoặc cùng một
loại hình cho vay có độ rủi ro cao
1.2.
Nợ xấu tại các Ngân hàng Thương mại
4
1.2.1. Khái niệm nợ xấu
Tín dụng là hoạt động luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, hoạt động tín dụng còn được
xem như một nghiệp vụ quản trị rủi ro để sinh lợi trong kinh doanh ngân hàng.
Điều này có thể hiểu là để kiếm được lợi nhuận từ hoạt động tín dụng các ngân
hàng buộc phải chấp nhận những tổn thất có thể gặp phải trong tương lai. Những
tổn thất này có thể là việc ngân hàng bị thất thoát vốn do không thu hồi được hoặc
không thu hồi hết những khoản tín dụng đã cấp ra . Và khi một khoản vay không
thể thu hồi hay có nguy cơ không thể thu hồi toàn bộ nợ gốc và lãi thì sẽ hình thành
nên nợ xấu của ngân hàng. Hiện nay,có nhiều quan điểm khác nhau về nợ xấu, sau
đây là một số quan điểm về nợ xấu đang được áp dụng trên thế giới và Việt Nam.
1.2.1.1.
Theo quan điểm của quốc tế
Theo một số tiêu chí của NHTW Liên minh Châu Âu: Nợ xấu trong hoạt động
kinh doanh của NHTM không chỉ có những khoản vay quá hạn thông thường không
có khả năng thu hồi theo hợp đồng mà còn có các khoản nợ chưa quá hạn nhưng
tiền ẩn các rủi ro dẫn đến việc có thể không thanh toán đầy đủ gốc và lãi cho ngân
hàng.
Theo quan điểm của Phòng thống kê – Liên hiệp quốc: Về cơ bản một
khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc trả gốc trên 90 ngày, hoặc
các khoản trả lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc
trả chậm theo thỏa thuận hoặc các khoản thanh toán đã quá hạn 90 ngày nhưng có
lý do chắc chắn đến nghi ngờ vể khả năng sẽ được thanh toán đầy đủ.
Theo chuẩn mực quốc tế IAS: Nợ xấu là những khoản nợ quá hạn trên 90
ngày và/hoặc khả năng trả nợ nghi ngờ
Ngoài ra hiện nay còn có định nghĩa mới về nợ xấu theo chuẩn mực báo cáo
tài chính quốc tế (IFRS) và IAS 39 vừa được chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS)
công bố vào tháng 12 năm 1999 và sau 2 lần chỉnh sửa vào năm 2000 và năm 2003 và
được khuyến cáo áp dụng vào đầu năm 2005. Về cơ bản IAS 39 chỉ chú trong tới
khả năng hoàn trả của khoản vay bất luận thời gian quá hạn chưa tới 90 ngày hoặc
chưa quá hạn. Phương pháp để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng thường là
phương pháp phân tích dòng tiền tương lai hoặc xếp hạng khoản vay (xếp hạng
khách hàng). Hệ thống này được coi là chính xác về mặt lý thuyết nhưng việc áp
dụng vào thực tế gặp nhiều khó khăn. Vì vậy nó đang được ủy ban kế toán quốc tế
tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh.
5
1.2.1.2.
Theo quan điểm Việt Nam
Nợ xấu theo khoản 6, điều 2 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD ban
hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐNHNN ngày 22/4/2005 của NHNN Việt
Nam Việt Nam “ là các khoản nợ thuộc các nhóm nợ dưới tiêu chuẩn ( nhóm 3), nợ
nghi ngờ ( nhóm 4) và nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5)
Ngoài ra theo điều 13 của quyết định này cũng đề cập tới nợ xấu “Khi đến kỳ
hạn trả nợ gốc hoặc lãi, nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn và không được
điều chỉnh kì hạn nợ gốc hoặc lãi, không được gia hạn nợ gốc hoặc lãi, thì tổ chức
tín dụng chuyển toàn bộ số dư nợ này sang nợ xấu”
1.2.2. Phân loại nợ xấu
Theo Quyết định số 493/2005/QĐNHNN ngày 22/4/2005 phân loại nợ thành
5 loại theo 2 phương pháp định tính và định lượng.
* Phương pháp định lượng
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn bao gồm nợ trung hạn được đánh giá có khả
năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương
lai như các khoản bảo lãnh cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán.
Nhóm 2 Nợ cần chú ý bao gồm nợ quá hạn < 90 ngày và nợ có cấu lại thời
hạn nợ.
Nhóm 3 Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 180 ngày người nợ
cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn < 90 ngày.
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 180 360 ngày.
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn bao gồm nợ quá hạn > 360 ngày và nợ cơ
cấu thời hạn trả nợ > 180 ngày người nợ khoanh chờ chi phí xử lý.
* Phương pháp định tính
Nợ cũng được phân thành 5 nhóm tương ứng như phương pháp định lượng,
nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chưa thanh toán nợ mà căn cứ
trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro và tổ chức tín
dụng được ngân hàng nhà nước chấp nhận.
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy
đủ gốc và lãi đúng hạn.
Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ
gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
6
Nhóm 3 Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu
hồi gốc và lãi cho đến khi đến hạn.
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao g ồm n ợ được đánh là có khả năng tổ n thất cao
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả
năng thu hồi, mất vốn.
Trong đó nợ từ nhóm 3 5 là nợ xấu, các khoản nợ xấu này là yếu tố chủ yếu
gây ra rủi ro tín dụng.
1.2.3. Nguyên nhân gây ra nợ xấu
Một thực tế cho thấy rằng, cho dù quá trình xét duyệt cho vay của cán bộ tín
dụng có cẩn thận, kĩ lưỡng đến đâu đi nữa nhưng vẫn không tránh khỏi rủi ro về
nợ xấu. Vì vậy, nguyên nhân gây ra nợ xấu tại các NHTM đến từ hai phía: chủ
quan của ngân hàng và khách quan từ phía khách hàng vay vốn và tác động của môi
trường bên ngoài.
1.2.3.1. Nguyên nhân chủ quan từ phía NHTM .
Do sự yếu kém về trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng dẫn đến
không có khả năng nhận diện rủi ro. Sự sa sút về đạo đức của bộ phận quản lý và
nhân viên tín dụng, thiếu tinh thần trách nhiệm, lợi dụng quyền hạn để tư lợi.
Hiệu quả của quản trị kém, các chính sách tín dụng đặt ra không hợp lý,
không kịp thời hoặc không theo kịp với thực tế. Hệ thống truyền tải thông tin còn
chậm, chưa hoàn thiện dẫn đến việc thẩm định, phân tích bị sai lệch, đánh giá sai
về khả năng trả nợ của khách hàng và xu hướng phát triển của kinh tế
Quy trình cấp tín dụng không hợp lý: vi phạm quy tắc bốn mắt, cán bộ
tín dụng làm việc không đúng thẩm quyền, thực hiện chưa nghiêm túc hoặc chưa
đúng các quy định cho vay, đánh giá sai về khả năng sử dụng vốn và khả năng trả
nợ của khách hàng.
Hiệu quả của công tác tổ chức, kiểm tra, giám sát nội bộ của ngân hàng
còn chưa chặt chẽ, kém hoàn thiện và chưa độc lập, chưa thực hiện đúng chức
năng,nhiệm vụ hoặc cố tình sai phạm.
Chưa có sự ràng buộc nghiêm khắc về trách nhiệm đối với người thực
hiện công tác tín dụng, chế tài xử phạt chưa nghiêm hoặc kém minh bạch.
Các NHTM quá chú trọng vào mục tiêu lợi nhuận, gây nên tình trạng tăng
trưởng tín dụng nóng. Việc chạy đua lãi suất huy động đẩy lãi suất cho vay lên cao,
gây ra tâm lý thờ ơ của các doanh nghiệp mạnh khi họ có thể sử dụng nguồn vốn
7
khác rẻ hơn. Các khách hàng còn lại được đưa vào diện nghi vấn về khả năng quản
lý, kinh doanh để trả nợ cho Ngân hàng.
“ Để quá nhiều trứng vào trong một giỏ”: Các khoản cho vay của Ngân hàng
tập trung vào những lĩnh vực có độ rủi ro cao, khiến cho danh mục nợ vay thiếu đi
sự da dạng; từ đó, khả năng phân tán rủi ro của Ngân hàng sẽ giảm đi. Công tác
quản lý và đánh giá tài sản đảm bảo kém.
1.2.3.2.
Nguyên nhân khách quan từ phía khách hàng
*Nguyên nhân chủ quan của khách hàng:
Trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của khách hàng còn hạn chế, sử dụng
vốn vay không đúng mục đích, tiền vay về không có tác dụng thúc đẩy hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, dẫn đến doanh nghiệp vay vốn làm ăn kém hiệu quả,
nợ Ngân hàng tăng.
Doanh nghiệp thiếu thiện chí trả nợ, cố ý không cung cấp đầy đủ hoặc có
hành vi che giấu thông tin trong suốt quá trình xin cấp tín dụng và sử dụng vốn vay,
thực hiện việc đi vay ở nhiều tổ chức tín dụng.
Tình hình tài chính của doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch trong việc
xử lý các loại giấy tờ, sổ sách kế toán
Doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn vay quá lớn trong cấu trúc vốn của mình,
sử dụng vốn sai mục đích ... nên không có khả năng thu hồi vốn
*Nguyên nhân khách quan của khách hàng:
Doanh nghiệp vay vốn gặp rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình:
thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh…và đặc biệt là tác động của khủng hoảng kinh tế
trong khu vực và trên thế giới, do vậy việc sử dụng vốn vay không đạt hiệu quả, có
thể mất hoàn toàn vốn.
Doanh nghiệp gặp phải những đổi thay trong kinh doanh không thể lường
trước được như sự thay đổi về giá cả, nhu cầu thị trường, lạm phát, tỷ giá hối đoái,
lãi suất, sự thay đổi về môi trường pháp lý hay chính sách của Chính phủ khiến
doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn tài chính không thể khắc phục được.
1.2.4. Dấu hiệu nhận biết của nợ xấu
1.2.4.1.
Nhóm nợ xấu phát sinh từ phía khách hàng
Dấu hiệu phát sinh từ phía khách hàng bao gồm hai nhóm chính thể hiện
trong mối quan hệ giữa khách hàng với Ngân hàng và phương thức quản lý, tình
hình tài chính, hoạt động của khách hàng.
8
Thứ nhất: Có những biểu hiện không bình thường trong mối quan hệ giữa
khác hàng với Ngân hàng như:
Khách hàng nợ tìm mọi cách để lần tránh, không cho tiếp xúc liên lạc được
hoặc rất nhiều lần hứa và cam kết nhưng không thanh toán.
Khách hàng gây khó khăn cho Ngân hàng trong quá trình kiểm tra theo định
kỳ hoặc đột xuất. Doanh nghiệp cố trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu
hoặc không có các báo cáo về lưu chuyển tiền tệ mà không có sự giải thích minh
bạch, thuyết phục.
. Đề nghị gia hạn, điều chỉnh định kỳ hạn nợ nhiều lần không rõ lý do hoặc
thiếu các căn cứ thuyết phục mang tính khách quan về việc gia hạn hay điều chỉnh
kỳ hạn nợ
. Có sự sút giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại Ngân hàng; xuất
hiện những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong tốc
độ và tổng mức lưu chuyển tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng.
Mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu vay các khoản vượt quá nhu cầu
dự kiến.Chấp nhận sử dụng các nguồn vốn vay với giá cao với mọi điều kiện.
Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định
giá khi cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, bán, trao đổi hoặc đã
biến mất hoặc không còn tồn tại.
Thứ hai: Xuất hiện các dấu hiệu bất thường liên quan tới phương pháp quản
lý
Những dấu hiệu này tác động trực tiếp tới chất lượng khoản tín dụng
nhưng với tốc độ chậm hơn. Chúng không dễ nhận diện nếu thiếu sự quản lý chặt
chẽ của cán bộ tín dụng, bao gồm:
Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến
khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng. Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ
thanh toán hay mức độ hoạt động của khách hàng
. Xuất hiện ngày càng nhiều các chi phí bất hợp lý như sự gia tăng đột biến
trong chi phí quảng cáo, tập trung quá nhiều chi phí để gây ấn tượng như thiết bị
văn phòng hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền….
Thay đối thường xuyên tổ chức của ban điều hành. Xuất hiện mâu thuẫn
trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá trình quản lý.
9
Do áp lực nội bộ, doanh nghiệp phải tung ra thị trường các sản phẩm, dịch
vụ quá sớm khi các sản phẩm chưa đạt được các điều kiện cần thiết hoặc đặt ra
những hạn mức thời gian, doanh số không hợp lý
Thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh bất ngờ xảy ra và có ảnh hưởng đến lĩnh vực
kinh doanh của khách hàng.
1.2.4.2.
Nhóm các dấu hiệu phát sinh từ phía ngân hàng
Rủi ro có thể phát sinh từ phía khách hàng nhưng cũng có thể là bắt nguồn từ
phía Ngân hàng. Nếu là rủi ro do Ngân hàng gây ra thì ta có thể nhận thấy thông qua
một số các dấu hiệu như sau:
Có sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách
hàng.
Cấp tín dụng dựa trên các cam kết không chắc chắn và thiếu tính đảm bảo
của khách hàng về việc duy trì một khoản tiền lớn hoặc các lợi ích do khách hàng
đem lại từ khoản tín dụng được cấp.
Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt qua khả năng và năng lực kiểm
soát của Ngân hàng.
Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra chẳng hạn như sáp
nhập, thay đổi địa vị pháp lý từ chi nhánh lên công ty con hạch toán độc lập...
Soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng tín dụng mập mờ, không
rõ ràng, không rõ lịch hoàn trả đối với từng khoản vay; cán bộ tín dụng cố ý thoả
hiệp các nguyên tắc tín dụng với khách hàng mặc dù biết có rủi ro tiềm ẩn, hồ sơ
còn thiếu về mặt pháp lý để chứng minh cho khoản nợ là phù hợp, thiếu hóa đơn,
chứng từ.
Cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho các khách hàng không thuộc phân
đoạn ưu tiên
. Có khuynh hướng cạnh tranh thái quá: giảm thấp lãi suất hoặc phí dịch vụ
hay giữ chân khách hàng bằng các khoản tín dụng mới để họ không quan hệ với tổ
chức tín dụng khác...
1.2.5. Ảnh hưởng của nợ xấu tới các ngân hàng
1.2.5.1. Tác động của nợ xấu tới hoạt động của các ngân hàng
Nợ xấu ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng: Không thu hồi đủ
vốn đã bỏ ra cho vay khiến ngân hàng bị giảm lợi nhuận, thua lỗ do bị thâm hụt
nguồn vốn. Đến một mức nào đó ngân hàng không thể trả tiền cho người gửi tiền
10
khi đến hạn. Nếu trình trạng này kéo dài liên tục thì ngân hàng lâm vào trình trạng
mất khả năng thanh toán
Nợ xấu cao làm giảm uy tín của ngân hàng dẫn đến việc thu hút nguồn vốn
để phục vụ kế hoạch mở rộng kinh doanh khó khăn và hạn chế khả năng cho vay
của ngân hàng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả kinh doanh.
Nợ xấu làm giảm lợi nhuận của ngân hàng do ngân hàng phải vay mượn các
nguồn vốn với chi phí cao để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Nợ xấu cao cũng làm
cho vòng tuần hoàn vốn chậm lại, giảm hiệu quả sử dụng vốn dẫn đến giảm lợi
nhuận.
Nợ xấu có thể làm phá sản ngân hàng và làm giảm khả năng hội nhập
1.2.5.2.Tác động tới khách hàng.
Nợ xấu là gánh nặng buộc người vay phải giải quyết trong tình trạng tài
chính không tốt, tạo áp lực trả nợ cho doanh nghiệp, do đó có thể dẫn đến việc sản
xuất kinh doanh bị đình đốn, chất lượng kém dẫn đến giảm doanh thu, ngừng sản
xuất hoặc đưa ra những quyết định kinh tế sai lầm..
Người vay không hoàn trả nợ đúng hạn, mang lại nợ xấu cho ngân hàng dẽ
mất uy tín, mất điểm trong hệ thống xếp hạng tín dụng của NHTM. Điều này ảnh
hưởng nghiêm trọng tới việc tìm nguồn vốn tài trợ sau này của người đi vay.
Việc không thanh toán được món nợ vay của NHTM, người đi vay còn đứng
trước nguy cơ bị thanh lý tài sản thế chấp, cầm cố hoặc phải chịu trách nhiệm
trước pháp lý, có thể rơi vào tình trạng phá sản hoặc bị tước quyền kinh doanh.
1.2.5.3. Tác động của nợ xấu tới nền kinh tế
Theo các chuyên gia phân tích kinh tế, nhìn chung nợ xấu có những tác động
chính ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế và làm ảnh hưởng đến hoạt động của
các Ngân hàng thương mại như:
Nợ xấu cao khiến ngân hàng lâm vào khả năng mất khả năng thanh toán
sẽ gây tâm lý hoang mang cho người gửi tiền gây ra hiệu ứng rút tiền hàng loạt.
Hoạt động ngân hàng lại mang tính hệ thống, một ngân hàng đổ vỡ sẽ kéo theo sự
đổ vỡ của hàng loạt ngân hàng khác. Các chủ thể trong nền kinh tế tham gia vào
11
quá trình thanh toán trong và ngoài nước thông qua hệ thống ngân hàng sẽ mất niềm
tin vào uy tín ngân hàng điều này sẽ dẫn tới việc giảm sút đầu tư ảnh hưởng tới
tăng trưởng kinh tế.
Nợ xấu tăng cao làm hạn chế khả năng cho vay của ngân hàng trong khi
cầu của các chủ thể là rất lớn dẫn đến sự trì trệ của nền kinh tế.
Mặt khác, tỷ lệ nợ xấu cao thể hiện sự kém hiệu quả trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng, gây sự thiếu tin tưởng vào công chúng. Dân chúng không
đem tiền gửi ngân hàng nữa làm cho tỷ lệ huy động vốn thấp, lượng vốn nhàn rỗi
trong dân cư tăng gây lãng phí vốn.
Tóm lại:
Tác động của nợ xấu là rất lớn, nó không chỉ ảnh hưởng tới riêng một ngân
hàng, một ngành nghề mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. Đặc biệt là tính
hệ thống của ngành ngân hàng khiến cho hậu quả của nợ xấu lan nhanh hơn, tác
động mạnh, lâu dài và khó xử lý. Hệ thống ngân hàng là huyết mạnh của nền kinh
tế do đó thiệt hại của nó sẽ ảnh hưởng tới tất cả các ngành nghề còn lại, gây suy
giảm kinh tế dẫn đến khủng hoảng, lạm phát, nghèo đói và tệ nạn xã hội. Từ
những hậu quả nghiêm trọng đó, việc phòng ngừa và xử lý nợ xấu ngày càng trở
nên cấp bách. Chính phủ, nhà nước và bản thân các NHTM cùng các chủ thể kinh tế
khác cần phải có các biện pháp triệt để và tức thì để xử lý “cục máu đông” đang
lớn dần này.
1.3.
Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số nước trên thế giới và bài học từ
Việt Nam
1.3.1. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số nước trên thế giới
Nợ xấu là “cục máu đông” mà nhiều nền kinh tế trên thế giới bị “nhiễm” với
các mức độ khác nhau và mỗi quốc gia có đơn thuốc trị bệnh khác nhau, phụ thuộc
vào đặc điểm của mỗi nước.
Hai cường quốc kinh tế Hoa Kỳ, Trung Quốc từng “gánh” khoản nợ xấu cao
ngất ngưởng. Theo ngân hàng Phát triển châu Á – ADB, năm 2003, Trung Quốc có
bốn NHTM quốc doanh lớn nhất với tổng tài sản khoảng 15.200 tỷ Nhân dân tệ ,
chiếm khoảng 55% tổng tài sản của hệ thống tài chính đã lâm vào tình trạng nợ xấu
vượt mức giới hạn cho phép. Điều này không mấy khác so với tình trạng cho “vay
dưới chuẩn” (vay với mức độ rủi ro cao) của các ngân hàng ở Hoa Kỳ giai đoạn
trước khủng hoảng kinh tế tài chính 2008.
12
Trước thực trạng nợ xấu tăng đột biến , cả hai nước đều tung chính sách
chứng khoán hóa các khoản nợ xấu của các NHTM. Đây được xem là chính sách ưu
tiên và trọng tâm trong chuỗi giải pháp của hai nước. Ngân hàng trung ương Trung
Quốc PBC đã thành lập 4 công ty quản lý tài sản, có trách nhiệm xử lí nợ xấu cho
một số NHTM quốc doanh. Các công ty này chịu sự quản lý và chỉ đạo đồng thời
của Bộ Tài chính và liên hệ chặt chẽ với các NHTM. Các công ty này đã mạnh dạn
cho chứng khoán hóa các khoản nợ của NHTM và mua lại chúng nhằm thổi vốn vào
tình trạng cạn kiệt của các ngân hàng.
Trong khi đó, Bộ Tài chính, Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC) và
Cục Dự trữ liên bang (FED) của Hoa Kỳ đã cho ra đời ngân quỹ (dưới dạng các gói
tiền 200 tỷ USD, 500 tỷ USD hay thậm chí là 700 tỷ USD) nhằm bảo lãnh cho việc
chứng khoán hóa các khoản nợ xấu.
Đây là hai động thái giống nhau về bản chất, chính là mua cổ phiếu ưu đãi –
mua cổ phiếu với mức lợi tức không phụ thuộc vào lợi nhuận và cũng không được
tham gia điều hành ngân hàng – do các NHTM phát hành nhằm tạo vốn cho các
NHTM đang lâm nợ có thể tái cấu trúc. Đồng thời, đây là cách tối ưu hóa việc chia
nhỏ rủi ro tín dụng của NHTM đến các nhà đầu tư thị trường chứng khoán.
Bên cạnh đó, hai cường quốc này còn áp dụng biện pháp mua lại nợ xấu cho
các NHTM. Các khoản nợ xấu sẽ được phân loại và được các công ty nợ xấu hoặc
các tổ chức tương tự mua lại. Động thái này một mặt tạo vốn cho các NHTM để
hoạt động trong thời gian cấp bách, một phần khiến các nhà đầu tư lạc quan hơn,
kích thích kênh đầu tư tạo cơ hội cho nền kinh tế tái hoạt động. Để bổ trợ cho giải
pháp này, các công ty nợ xấu còn giúp những NHTM yếu kém giải quyết các vấn
đề thanh khoản tạm thời nhằm tạo động lực cho việc tái cấu trúc hệ thống.
Cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng xảy ra tại Cộng hòa Ireland vào cuối
năm 2008 và đầu năm 2009, đã để lại số lượng lớn các khoản nợ xấu. Để đối phó
với cuộc khủng hoảng ngày càng trở nên nghiêm trọng, Chính phủ Ireland đã đưa ra
sáng kiến thành lập công ty mua bán nợ quốc gia (NAMA) năm 2009 nhằm lành
mạnh hệ thống ngân hàng. Trong giai đoạn đầu, NAMA đã mua hoặc chuyển
nhượng tài sản nợ trị giá 71 tỷ bảng Anh từ 850 con nợ và hơn 11.000 khoản nợ
được thế chấp bằng 16.000 công trình bất động sản. Để có được các khoản nợ này,
NAMA đã phát hành chứng khoán do chính phủ bảo lãnh cho 5 đơn vị thành viên
của mình. NAMA có nhiệm vụ hoạt động làm sao đem lại kết quả kinh doanh tốt
nhất cho nhà nước từ những tài sản mua được. Ở vào thời kỳ đầu, NAMA đã mua
được 11.500 khoản vay nợ liên quan đến đất đai và nhà cửa từ 5 định chế nêu trên
13
và tiếp theo sau đó là xây dựng mối quan hệ sâu rộng với các con nợ để hiểu rõ
thêm hoạt động kinh doanh của họ và bắt đầu xây dựng một chiến lược trả nợ.
Giai đoạn cuối cùng và lâu dài nhất là đề ra một loạt các cột mốc cắt giảm nợ
nhằm hoàn tất việc chi trả đầy đủ nghĩa vụ của cả các con nợ và các khoản vay
của NAMA vào năm 2019.
Nhiều nước ở châu Á như Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan đã
thành lập công ty quản lý tài sản tập trung để xử lý nợ, thu hồi và cơ cấu lại các
khoản nợ xấu của ngân hàng. Một đặc điểm chung của các công ty này là tất cả
đều được Chính phủ tài trợ vốn, tổ chức tập trung hơn là sử dụng mô hình chỉ dựa
vào ngân hàng. Hầu hết các công ty quản lý tài sản ở các nước châu Á chỉ hoạt
động trong một số năm nhất định. Các công ty này cũng có quyền hạn đặc biệt để
cắt giảm một số thủ tục pháp lý. Thái Lan thực hiện xử lý nợ xấu bằng 3 giải pháp
cơ bản. Các giải pháp này bao gồm:
Bơm vốn trực tiếp.
Thành lập công ty quản lý tài sản AMC (Asset Management Company)
Trung gian tái cơ cấu nợ CDRC (Corporate Debt Restructuring Committee)
Trong đó AMC là một trong những giải pháp mà Thái Lan đã áp dụng khá
hiệu quả từ thời kỳ khủng hoảng cho đến nay.
Đối với các khoản vay có thế chấp không còn khả năng trả nợ, AMC thực
hiện tịch thu tài sản thế chấp và bán thanh lý để hoàn phần vốn vay dựa trên nguyên
tắc chia sẻ lờilỗ. Đối với các khoản vay mà AMC nhận thấy còn khả năng trả nợ,
AMC đã chủ động phối hợp với các cơ quan đại diện cho các khu vực kinh tế để
đưa ra các giải pháp khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh của các khu vực
đó, tạo nguồn vốn trả nợ. Và chỉ sau vài năm, hết quý 2/2003 số nợ xấu được AMC
giải quyết đạt 73,46% tổng số nợ cần xử lý. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng
thương mại Thái Lan giảm rõ rệt xuống từ gần 13% năm 2003 xuống 10% năm
2004 và đến quý 4/2011 ở mức không quá 4%.
Bên cạnh đó, một giải pháp được các các nước sử dụng là gắn giải quyết nợ
xấu với tái cấu trúc ngân hàng và tái cấu trúc kinh tế. Biện pháp này được đánh giá
là mang tính cơ bản, vì ngoài vấn đề xử lý nợ xấu nó còn giúp ngăn chặn nợ xấu
gia tăng.
Đối với Nhật Bản, họ tập trung nhiều hơn vào việc tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng. Không giống với một số nước, toàn bộ số tiền thành lập Tập đoàn Tái thiết
công nghiệp Nhật Bản (IRCJ) là của các ngân hàng chứ không phải từ nhà nước.
Cách làm của IRCJ là lựa chọn các tập đoàn, công ty cần phải tái thiết, sau đó sẽ
14
tách đơn vị ấy thành nhiều phòng, ban và đánh giá hiệu quả hoạt động của từng
phòng, ban. Nếu một ban không sinh lời, tập đoàn có thể bán ban đó kèm chiết khấu
dựa vào giá trị tài sản sau khi định giá. Cuối cùng, nguồn lực sẽ được một cách có
chọn lọc vào những phòng, ban làm ăn có lãi hoặc có sức cạnh tranh.
1.3.2. Đánh giá thực tế xử lý nợ xấu tại Việt Nam
Nợ xấu không chỉ là vấn đề riêng có của Việt Nam mà nhiều quốc gia lớn,
nhỏ trên thế giới cũng đã và đang đối phó với vấn đề này. Có quốc gia thành công ,
có quốc gia gặp phải thất bại, khó khăn trong thời gian đầu... Các hình thức được
dùng để xử lý nợ xấu rất đa dạng nhưng chủ yếu vẫn là phương pháp mua bán nợ
thông qua thành lập các công ty Quản lý tài sản (AMC), chứng khoán hóa các khoản
cho vay...
Hiện nay, công tác xử lý nợ xấu của Việt Nam mới đi được những bước nhỏ đầu
tiên, chủ yếu là qua hai biện pháp chính: các NHTM tự xử lý nợ xấu của mình thông
qua các biện pháp phát mại tài sản, cơ cấu nợ, giãn nợ... và thực hiện mua bán nợ
thông qua các Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản – VAMC trực thuộc NHNN
và AMC trực thuộc các NHTM.
Tuy nhiên VAMC này mới bắt đầu chính thức đi vào hoạt động trong vào
ngày 26/07/2013 và các quy chế hoạt động, trong đó các ngân hàng có nợ xấu/tổng
dư nợ trên 3% sẽ bắt buộc phải bán nợ xấu cho VAMC. Tuy nhiên, ngay cả các
ngân hàng lớn có tỷ lệ nợ xấu dưới mức an toàn cũng đua nhau xin bán nợ cho
AMC.Cụ thể, Agribank cho biết sẽ bán khoảng 5.00010.000 tỷ đồng nợ xấu cho
VAMC từ nay đến cuối năm 2013.Vietcombank dự kiến bán khoảng 1.000 tỷ đồng
nợ xấu, đại diện MHB cũng cho biết trong quý 4/2013 ngân hàng này sẽ bán khoảng
500 tỷ đồng nợ xấu và đến hết năm 2014 sẽ bán khoảng 1.500 tỷ đồng nợ xấu cho
VAMC.Ngoài ra, BIDV cũng đang lên danh sách và dự kiến chốt danh sách nợ xấu
bán cho VAMC vào cuối tháng 10/2013, SCB cũng chuẩn bị kế hoạch bán nợ xấu
lần 2 sau khi đã bán hơn 1.000 tỷ đồng cho VAMC. Điều này cho thấy khả năng tự
xử lý nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam là quá kém và không khả thi.
Do VAMC mới chỉ vừa được đưa vào hoạt động nên các quy định mua bán nợ
xấu còn lỏng lẻo và chưa hoàn thiện, khả năng tài chính còn yếu trong khi nhu cầu
bán nợ xấu từ các ngân hàng là rất lớn. Cơ chế xin cho tại Việt Nam cùng với tình
trạng thiếu công bằng trong các hoạt động thực tế, sự ảnh hưởng của lợi ích
nhóm... hiện nay cũng đặt ra một câu hỏi lớn về tính minh bạch của VAMC. Liệu
khi đưa VAMC vào hoạt động thì tổ chức này có thực hiện đúng vai trò ban đầu, vì
15
lợi ích chung hay chỉ hướng tới phục vụ lợi ích một nhóm thiểu số hoặc lại là một
miếng bánh béo bở trong tình trạng tham ô, tham nhũng hiện nay.
Về công tác tự xử lý nợ xấu của các NHTM, một trong những nguyên nhân
khiến khả năng các ngân hàng không có khả năng xử lý nợ xấu là ảnh hưởng từ sự
đóng băng của thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán suy yếu, nền kinh
tế tăng trưởng chậm, hàng tồn kho lên cao. Các ngân hàng cho vay lại quá phụ
thuộc vào tài sản thế chấp. Do vậy, các ngân hàng khó có thể thu hồi nợ xấu thông
qua phát mại tài sản .Thêm nữa, bản thân cơ cấu tín dụng của các ngân hàng thời
gian trước cũng đầu tư quá nóng vào lĩnh vực bất động sản, nên khi thị trường này
đóng băng thì tỷ lệ nợ xấu không chỉ lên cao mà còn khó có khả năng thu hồi cả gốc
và lãi. Tình trạng sở hữu chéo khiến cho mục đích cấp vốn ban đầu bị bóp méo,
ngân hàng không quản lý được vốn hoặc bị chi phối bởi các mục đích bên ngoài của
một nhóm cá nhân. Hệ thống thông tin nội bộ giữa các ngân hàng cũng không có sự
liên kết nên trong những năm vừa qua sảy ra nhiều vụ việc nhiều ngân hàng cùng
cho vay dựa trên 1 TSĐB ví dụ như sự kiện 7 ngân hàng cùng tranh chấp một kho
cà phê gần đây. Những cơ chế thiếu minh bạch , lỏng lẻo trên đã đẩy ngân hàng vào
thế bị động trong việc thu hồi nợ xấu.
Nợ xấu ở bản thân các ngân hàng đã tiềm tàng từ lâu nhưng còn bị che giấu
hoặc bị đánh giá sai lệch so với thực tế. Việc tăng trưởng tín dụng nóng trong
những năm 20092010 đã để lại hệ lụy là nợ xấu bùng phát dữ dội vào năm 2011
đến nay. Và cho dù nợ xấu có đang bùng nổ thì bản thân công tác đánh giá nợ xấu
hiện giờ của các ngân hàng còn cách xa so với thực tế. Nợ xấu vẫn còn là tảng băng
chìm vẫn chưa nổi lên hết và là một mối đe dọa vẫn còn treo lơ lửng phía trước.
Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi từ những biện pháp xử lý nợ xấu từ các
nước đi trước. Nhưng trước khi triển khai những biện pháp mạnh mẽ trực tiếp xử
lý nợ xấu thì Chính phủ, NHNN và các NHTM cần có những biện pháp để hạn chế
nợ xấu thông qua tái cấu trúc nền kinh tế, minh bạch thủ tục cho vay, xử lý rứt
điểm tình trạng sở hữu chéo và lợi ích nhóm..... Đặc biệt, cần có những biện pháp
để phá băng thị trường bất động sản, xử lý hàng tồn kho, phục hồi thị trường chứng
khoán... để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và mở lối thoát cho các doanh nghiệp.
Như vậy, để xử lý “cục máu đông” nợ xấu cần sự phối hợp chặt chẽ và thống nhất
giữa các cơ quan chức năng và mọi thành phần kinh tế để ngành ngân hàng nói riêng
và nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng phục hồi và phát triển.
16
CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG NỢ XẤU VÀ CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM –
VIETCOMBANK
2.1.
Giới thiệu về Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Vietcombank
2.1.1.1. Thông tin chung:
Tên giao dịch:
+ Tên công ty viết bằng tiếng Việt: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM.
+ Tên công ty viết bằng tiếng anh: JOINT STOCK COMMERCIAL BANK
FOR FOREIGN TRADE OF VIET NAM
+ Tên giao dịch: VIETCOMBANK
+ Tên viết tắt: VCB
Giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp:
+ Mã số doanh nghiệp: 01001124
+ Đăng kí lần đầu ngày 02/6/2008, Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh số
0103024468 do Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội cấp ngày 02/6/2008. Đăng kí
thay đổi lần thứ 7 ngày 10/01/2012
Vốn điều lệ ( Vốn đầu tư của chủ sở hữu) : Hai mươi ba nghìn
một trăm bảy mươi bốn tỷ một trăng bảy mươi triệu bảy trăm sáu mươi nghìn
đồng
Mã cổ phiếu: VCB
Mệnh giá cổ phần: 10.000 đồng
Tổng số cổ phần: 2.317.417.076
Trụ sở chính: 198 Trần Quang Khải, Phường Lý Thái Tổ, Quận
Hoàn Kiến, Tp. Hà Nội, Việt Nam
Website: www.vietcombank.com.vn
2.1.1.2.
Lịch sử hình thành:
Vietcombank tiền thân là Sở Quản lý Ngoại hối thuộc Ngân hàng Quốc gia
Việt Nam được thành lập ngày 20/01/1955 theo Nghị định 443/TTg của Thủ tướng
Chínhphủ. Năm 1961, Sở Quản lý Ngoại hối được đổi tên thành Cục ngoại hối
17
thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Nghị định 171/CP ngày 26/10/1961 của
Hội đồng Chính Phủ. Cơ quan này vừa là một cục, vụ thuộc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam thực hiện chức năng tham mưu, nghiên cứu chính sách quản lý nhà nước
trong lĩnh vực ngoại hối, đồng thời tiến hành các hoạt động nghiệp vụ kinh doanh
của một ngân
hàng thương mại đối ngoại.
Giai đoạn 19631975:
Ngày 01/04/1963, Vietcombank chính thức khai trương hoạt động theo Nghị
định số 115/CP ngày 30/10/1962 do Hội đồng Chính phủ ban hành trên cơ sở tách ra
từ Cục Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong giai đoạn 1963
– 1975, thời kỳ chiến tranh chống Mỹ ác liệt, Vietcombank đã đảm đương thành
công nhiệm vụ lịch sử lớn lao là một ngân hàng thương mại đối ngoại duy nhất tại
Việt Nam, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế miền Bắc, đồng thời hỗ trợ chi
viện cho chiến trường Miền Nam.
Để tiếp nhận nguồn vốn viện trợ ngoại tệ, tháng 4/1965 theo chỉ thị của Bộ
Chính trị, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thành lập một tổ chức chuyên trách
nghiệp vụ thanh toán đặc biệt với bí danh B29 tại Vietcombank. Ra đời với một cơ
cấu tổ chức rất gọn nhẹ, B29 hoạt động đơn tuyến và bảo mật đến mức tối đa
được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Thường vụ Trung ương
Cục Miền Nam. Với trên 10 người hoạt động trong thời gian 10 năm, Quỹ Ngoại tệ
đặc biệt B29 đã tham gia vận chuyển và chuyển khoản một lượng lớn ngoại tệ, chi
viện cho chiến trường miền Nam.
Giai đoạn 19761990:
Thời kì này, Vietcombank đã trở thành ngân hàng đối ngoại duy nhất của Việt
Nam trên cả 3 phương diện: Nắm giữ ngoại hối của quốc gia, thanh toán quốc tế,
cung ứng tín dụng xuất nhập khẩu. Sau 1975, Vietcombank tiếp quản hệ thống
ngân hàng của chế độ cũ, tham gia đàm phán giảm, hoãn thành công nợ Nhà nước
tại Câu lạc bộ Paris, London. Trong điều kiện bị bao vây cấm vận kinh tế,
Vietcombank tiếp tục nhận viện trợ, tìm kiếm các nguồn vay ngoại tệ, đẩy mạnh
thanh toán quốc tế để phục vụ sự nghiệp khôi phục đất nước sau chiến tranh và
xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội.
Giai đoạn 19912007:
Vietcombank đã chính thức chuyển từ ngân hàng chuyên doanh đối ngoại trở
thành một ngân hàng thương mại nhà nước có hệ thống mạng lưới trên toàn quốc
và quan hệ ngân hàng đại lý trên khắp thế giới. Vietcombank cũng là ngân hàng đầu
18
tiên triển khai và hoàn thành Đề án tái cơ cấu (2000 2005)mà trọng tâm là nâng cao
năng lực tài chính, quản trị điều hành, đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm, dịch
vụ ngân hàng hiện đại, đóng góp cho sự ổn định và phát triển kinh tế, đồng thời tạo
dựng uy tín đối với cộng đồng tài chính khu vực và toàn cầu..
Giai đoạn 20072012:
Năm 2007, VCB tiên phong cổ phần hóa trong ngành ngân hàng và thực hiện
thành công phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng. Ngày 02/6/2008, VCB đã
chính thức hoạt động theo mô hình ngân hàng thương mại cổ phần. Ngày 30/6/2009,
VCB niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán TP. HCM. Tháng 09/2011
VCB ký kết Hợp đồng cổ đông chiến lược với Mizuho Corporrate Bank. Đến nay,
VCB đã trở thành NHTM có tổng tài sản gần 20 tỷ đô la Mỹ, có quy mô lợi nhuận
hàng đầu Việt Nam trong nhiều lĩnh vực như thanh toán xuất nhập khẩu, kinh
doanh ngoại tệ, thẻ...
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Vietcombank
Vietcombank hiện được tổ chức hoạt động theo mô hình trong đó ngân hàng
thương mại giữ vai trò là mảng hoạt động kinh doanh chính, hoạt động như một
công ty mẹ; các hoạt động tài chính và phi tài chính khác có vai trò như các công ty
con.
Cơ cấu bộ máy quản lý của Vietcombank
19
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ gồm có 1 Chủ tịch và 7 thành viên:
1. Ông NGUYỄN HÒA BÌNH : Chủ tịch HĐQT
2. Ông NGUYỄN PHƯỚC THANH : Ủy viên HĐQT, Tổng Giám đốc
3. Ông NGUYỄN ĐĂNG HỒNG : Ủy viên HĐQT
4. Ông LÊ ĐẮC CÙ : Ủy viên HĐQT
5. Ông NGUYỄN DANH LƯƠNG : Ủy viên HĐQT, kiêm Phó TGĐ
6. Ông YAKUTA ABE : Ủy viên HĐQT, kiêm Phó TGĐ
7. Bà LÊ THỊ KIM NGA : Ủy viên HĐQT
8. Bà LÊ THỊ HOA : Ủy viên HĐQT
BAN KIỂM SOÁT gồm có 1 Trưởng Ban Kiểm soát và 3 thành viên:
1. Bà TRƯƠNG LỆ HIỀN : Trưởng Ban Kiểm soát
2. Bà VŨ THỊ BÍCH VÂN : Thành viên Ban Kiểm soát
3. Bà LA THỊ HỒNG MINH : Thành viên Ban Kiểm soát
4. Bà ĐỖ THỊ MAI HƯƠNG : Thành viên Ban Kiểm soát
BAN ĐIỀU HÀNH gồm có 1 Tổng Giám đốc và 8 phó Tổng Giám đốc:
1. Ông NGUYỄN PHƯỚC THANH : Tổng Giám đốc
2. Ông NGUYỄN DANH LƯƠNG : Phó Tổng Giám đốc
3. Ông YUTAKA ABE : Phó Tổng Giám đốc
4. Ông NGUYỄN VĂN TUÂN : Phó Tổng Giám đốc
5. Ông PHẠM QUANG DŨNG : Phó Tổng Giám đốc
6. Ông PHẠM THANH HÀ : Phó Tổng Giám đốc
7. Ông ĐÀO HẢO : Phó Tổng Giám đốc
8. Bà TRƯƠNG THỊ THÚY NGA : Phó Tổng Giám đốc
9. Ông ĐÀO MINH TUẤN : Phó Tổng Giám đốc
Bà PHÙNG NGUYỄN HẢI YẾN : Kế toán trưởng
2.1.3. Hoạt động tín dụng tại Vietcombank hiện nay.
Trong bối cảnh nhiều khó khăn, VCB đã bám sát các chỉ tiêu đã đề ra và các
diễn biến của thị trường. Năm 2012, với phần vốn mới từ cổ đông chiến lược
Mizuho Corporate, vốn điều lệ của VCB đã lên mức 23.174 tỷ đồng. Tính đến thời
điểm cuối năm, dư nợ cho vay khách hàng của VCB đạt mức tăng 15,16% so với
năm 2011, cao hơn tốc độ tăng trưởng của toàn ngành, huy động vốn từ nền kinh tế
tăng trưởng 25,76% và tổng tài sản tăng trưởng 13,02% so với năm 2011. Lợi nhuận
trước thuế hợp nhất năm 2012 đạt 5.765 tỷ đồng, tăng 1,17% so với năm 2011. Bên
cạnh duy trì các chỉ tiêu tăng trưởng và hiệu quả, VCB luôn đảm bảo duy trì các hệ
20
số an toàn hoạt động theo quy định của NHNN, tích cực kiểm soát chất lượng tín
dụng, xử lý nợ xấu và thu hồi công nợ.
Trong hoạt động tín dụng nói riêng, VCB kịp thời nắm bắt xu hướng của nền
kinh tế để tăng trưởng tín dụng VNĐ. Dư nợ cho vay và ứng trước khách hàng đến
cuối năm 2012 đạt 241.163 tỷ đồng, tăng 31.745 tỷ đồng ( xấp xỉ +15,2%) so với
cuối năm 2011. Phân theo loại tiền,dư nợ tín dụng VNĐ đạt 166.040 tỷ đồng tăng
21,1% so với cuối năm 2011, trong khi dư nợ tín dụng ngoại tệ đạt 75.123 tỷ đồng,
tương ứng tăng 3,9% so với cuối năm 2011.
Theo kì hạn, tín dụng ngắn hạn đạt 149.537 tỷ đồng tăng 21,3% so với cuối
năm 2011. Trong khi đó tín dụng trung – dài hạn đạt 91.626 tỷ đồng tăng 6,4% so
với cuối năm 2011. Đến thời điểm 31/12/2012, VCB đã trích đủ dự phòng rủi ro
theo kết quả phân loại nợ của NHNN quy định. Theo báo cáo kiểm toán hợp nhất
số dư Quỹ dự phòng rủi ro đến thời điểm 31/12/2012 là 5.293 tỷ đồng trong đó có
1.735 tỷ đồng dành cho dự phòng chung, 3.558 tỷ đồng cho dự phòng cụ thể.
Với cho vay trên thị trường liên ngân hàng, dư nợ cho vay/gửi tại các TCTD
đến cuối năm 2012 đạt 65.713 tỷ đồng, giảm 39.292 tỷ ( xấp xỷ 37.4 tỷ) so với
cuối năm 2011. Tín dụng trên thị trường liên ngân hàng giảm một phần do thanh
khoản của các ngân hàng tốt hơn năm 2012, một phần do VCB kiểm soát chặt chẽ
hơn trong cho vay để hạn chế rủi ro.
Như vậy, năm 2012 VCB là điểm sáng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
nói chung và lĩnh vực tín dụng nói riêng. Bên cạnh việc đẩy mạnh hoạt động kinh
doanh, VCB cũng chú trọng thực thi tốt những chỉ đạo của Chính phủ và của
NHNN, góp phần tích cực vào ổn định kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ, an sinh xã
hội.. Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng với xu hướng khôi phục nền
kinh tế thế giới và nền kinh tế Việt Nam, VCB cam kết sẽ nỗ lực quyết tâm đưa
VCB vượt qua khó khăn, nắm bắt cơ hội, tiếp tục phát triển bền vững và mạnh mẽ
hơn nữa trong những năm tiếp theo.
2.2.
Thực trạng nợ xấu tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương
Việt Nam
Nợ xấu của hệ thống ngân hàng năm 2012 tăng đột biến cả về con số tuyệt
đối và tương đối, gấp nhiều lần so với các năm trước. Thực tế không phải nợ xấu
mới phát sinh năm năm nay mà được tích lũy trong một thời gian dài. Nợ xấu có xu
hướng tăng bắt đầu từ năm 2007 và đặc biệt được chú ý từ cuối năm 2011 vì tốc độ
tăng rất nhanh.
21
Biểu đồ 2.1. Tỷ lệ nợ xấu của ngành ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2004
2013
5.00%
4.67%
4.50%
4.00%
3.50%
3.00%
2.50%
4.08%
2.90%
3.50%
3.20% 3.30%
2.00%
1.50%
2.00%
3.40%
2.20%
2.60%
1.00%
0.50%
0.00%
Dec-04 Dec-05 Dec-06 Dec-07 Dec-08 Dec-09 Dec-10 Dec-11 Dec-12 Apr-13
Tỷ lệ nợ xấu
Nguồn: Khảo sát ngành ngân hàng Việt Nam 2013 – KPMG.com
Năm 2008 nợ xấu tăng đột biến là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
kinh tế tới Việt Nam. Khó khăn của nền kinh tế, trong hoạt động của mỗi ngân
hàng đang dần thể hiện ở xu hướng gia tăng của nợ xấu. Nếu trong năm 2007, đa
số thành viên khối quốc doanh chỉ trên dưới 3%, khối cổ phần phổ biến dưới 2%,
thì năm 2008 dự kiến sẽ có nhiều trường hợp có nợ xấu trên 5%. Cuối năm 2008,
một số ngân hàng lớn đã chính thức công bố tỷ lệ nợ xấu thực tế hoặc mục tiêu
kiểm soát từ 5% đến hơn 6%. Tuy nhiên, nhiều thành viên chưa có động lực để
công bố và cập nhật số liệu liên quan. Liên quan đến vấn đề nợ xấu, sự suy giảm
mạnh của thị trường bất động sản và chứng khoán là những lo ngại nổi bật trong
năm 2008, ảnh hưởng đến chất lượng và quan hệ tín dụng của các ngân hàng
thương mại. Năm 2009 khi nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi, chất lượng nợ được
cải thiện, nợ xấu giảm xuống mức 2,0%. Nhưng liền những năm sau đó từ 2009 tới
nay, nợ xấu liên tục gia tăng mà không có dấu hiệu suy giảm đặc biệt là từ năm
2011 tốc độ gia tăng mạnh hơn. Đây là một diễn biến không mấy tích cực cho
ngành ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Vietcombank trong những năm gần đây có tỷ nợ xấu thường cao hơn các
ngân hàng có cùng quy mô. Nguyên nhân được lý giải là do VCB đã tiến hành điều
chỉnh phân loại nợ theo Quyết định 493//2005/QĐNHNN... Ngoài ra cũng phải kể
đến sự khác biệt trong diễn biến tăng giảm nợ xấu của VCB có phần khác so với
toàn ngành:
Bảng 2.1. Tỷ lệ nợ xấu của VCB giai đoạn 20092013
Năm
2009
2010
22
2011
2012
9/2013
Nợ nhóm 35
(Triệu đồng)
Tỷ lệ nợ xấu(%)
3.498.684
5.147.552
4.257.959
5.791.307
7.437.692
2.47%
2.83%
2.03%
2.40%
2.98%
Nguồn: Tổng hợp báo cáo tài chính của VCB 20092013
Có thể nhận thấy rằng nợ xấu của VCB những năm gần đây biến động theo
đồ thi hình Sin. Nợ xấu năm 2010 của VCB tăng mạnh so với năm 2009, nhưng đến
năm 2011 lại hạ thấp xuống mức 2,03% . Đến năm 2012 nợ xấu của VCB tăng nhẹ
lên mức 2,40% và tăng mạnh trong 9 tháng đầu năm 2013, sắp vượt ngưỡng an toàn.
Nguyên nhân khiến cho nợ xấu của VCB có nhiều biến động trái chiều như vậy là
do sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Sau đây là chi tiết thực
trạng và nguyên nhân dẫn đến sự biến động của nợ xấu VCB trong các năm từ
2009 đến 2013.
2.2.1. Nợ xấu của VCB năm 2009.
Trong năm 2009, VCB đã theo đuổi chính sách tăng trưởng tín dụng bền
vững, coi trọng việc nâng cao chất lượng tín dụng . Dư nợ tín dụng là 141.621 tỷ
đồng tăng 26,5% so với năm 2008 và xấp xỉ mức tăng trưởng của ngành là 38%. Đây
có thể nói là một mức tăng trưởng khá nóng. Yếu tố chính làm nên tăng trưởng tín
dụng năm 2009 chính là chính sách nới lỏng tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, cùng
lúc đó chính phủ đưa ra biện pháp kích thích tài khóa khiến nhu cầu đối với các
khoản vay tăng cao, tăng trưởng GDP năm 2009 được hỗ trợ. Phần lớn tiền được
cho vay với lãi suất thấp theo chương trình hỗ trợ lãi suất của chính phủ. Có 4 ngân
hàng thương mại của nhà nước bao gồm Ngân hàng Nông nghiệp (Agribank), Ngân
hàng đầu tư phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
(Vietcombank) và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam
(Vietinbank). Nhóm ngân hàng này tiếp tục thống trị hệ thống ngân hàng Việt Nam,
cung cấp tới 51% tổng số các khoản vay trong toàn hệ thống tính đến hết tháng
9/2009 (con số này năm 2008 là 52% và năm 2007 là 54%). Nhóm ngân hàng này
cung cấp tới 2/3 trong số các khoản vay hỗ trợ lãi suất và vì thế bảo vệ được thị
phần.
Với mức tăng trưởng tín dụng quá nóng này, Fitch Ratings cho rằng các ngân
hàng Việt Nam sẽ đương đầu với nhiều khó khăn liên quan đến chất lượng tài sản
và vốn, tăng trưởng tín dụng cao sẽ dẫn đến chất lượng các khoản vay đi xuống,
các quy định thường lỏng lẻo hơn khi ngân hàng mở rộng quá nhanh. Chất lượng
khách hàng vay vốn (borrower quality) có thể đi xuống một khi chương trình kích
cầu được rút đi, lãi suất cơ bản tăng hay đồng nội tệ giảm giá. Khi đó, nguồn vốn
23
khổng lồ mà các ngân hàng bơm ra trong năm 2009 sẽ phải đương đầu với mức rủi
ro rất lớn.
Tính đến 31/12/2009 tỷ lệ nợ xấu của VCB là 2,47% thấp hơn nhiều so với
mức 4,61% vào cuối năm 2008, thấp hơn mức dự kiến mà Đại hội đồng cổ đông
cho phép là 3,5%..Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn thuộc loại cao so với các ngân hàng khác,
đặc biệt là các ngân hàng có cùng quy mô như Vietinbank (0.66%). Cụ thể mức tăng
trưởng của từng nhóm nợ là:
Bảng 2.2. Mức tăng trưởng của các nhóm nợ của VCB năm 2009.
Phân loại nợ
Nợ đủ tiêu chuẩn
Nợ cần chú ý
Nợ dưới tiêu chuẩn
Nợ nghi ngờ
Nợ có khả năng mất
vốn
Tổng dư nợ
31/12/2009
( Triệu VNĐ)
130.008.700
8.033.742
440.649
394.977
2.663.058
31/12/2008
( Triệu VNĐ)
104.592.600
3.061.320
921.191
813.087
3.467.767
Tăng trưởng
(%)
24%
162%
52%
51%
23%
141,621,126
112.792.965
26%
Nguồn: Báo cáo thường niên của VCB năm 2009
.
Như vậy, nợ xấu năm 2009 của VCB giảm mạnh so với năm 2008 là do nợ
nhóm 3,4 và 5 đồng loạt giảm mạnh, trong đó nợ nhóm 3 và 4 tăng tới hơn 50%.
Ngoài ra, nợ nhóm 2 tăng tới 162% cũng góp phần làm giảm tỷ lệ nợ xấu của VCB.
Nguyên nhân là trong năm này, VCB đã tích cực áp dụng các biện pháp thu hồi nợ
với số tiền được ghi nhận vào khoản mục thu nhập bất thường là 148 tỷ đồng.
Thực hiện trích lập dự phòng đầy đủ với mức dự phòng chung là 1.072 tỷ đồng
tăng tới 40,8%. Ngoài ra VCB đã sử dụng các biện pháp đảm bảo an toàn tín dung
như: cơ cấu lại danh mục đầu tư, củng cố quan hệ khách hàng,áp dụng kỹ thuật
hiện đại vào quản trị danh mục đầu tư, kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng.
Cũng phải kể đến yếu tố khách quan khiến nợ xấu 2009 của VCB thấp hơn so vơi
năm trước là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào Việt Nam
khiến cho nợ xấu tăng bất thường vào năm 2008. Tuy nhiên vào nửa cuối 2009 nền
kinh tế đã gượng dậy với mức tăng trưởng tương đối cao so với các nước trong khu
vực (5,32%) trong khi vẫn giữ được mức lạm phát ở mức thấp (6,25%). Khi nền
kinh tế có dấu hiệu phục hồi lại, các doanh nghiệp đầu tư có hiệu quả nên nâng
cao khả năng trả nợ, chất lượng tín dụng của VCB do đó cũng được nâng cao góp
phần làm giảm tỷ lệ nợ xấu.
Nợ xấu của hệ thống Ngân hàng là hệ quả tất yếu của quá trình tăng trưởng
tín dụng quá nóng trong những năm qua, cộng với cơn sốt cho vay bất động sản,
24
chứng khoán ồ ạt trong thời kì 20062007. Được biết, trong 10 năm trở lại đây, mặc
dù Ngân hàng Nhà nước thường xuyên yêu cầu các Ngân hàng thương mại phải hạn
chế tăng trưởng tín dụng không quá cao nhưng thực tế tăng trưởng vẫn trên 20%;
năm 2007 tăng trưởng tín dụng tới 51,39%; năm 2009 là 37,7%; năm 2010 là 29,8%...
Việc cho vay ồ ạt cùng với chính sách cho vay lỏng lẻo những năm trước đã để lại
nhiều hệ lụy, trong đó có nợ xấu. tăng trưởng tín dụng của SHB cũng không nằm
ngoài các con số đó.
Sự phát triển ồ ạt của hệ thống ngân hàng thương mại cũng là một nguyên
nhân gia tăng nợ xấu (cả nước có khoảng 100 ngân hàng). Sự ra đời của ngân hàng
dễ dàng, thậm chí không đạt tiêu chuẩn về vốn ban đầu đã thúc đẩy các ngân hàng
nhỏ tìm mọi cách tăng vốn huy động, thúc đẩy tín dụng bằng cách nới lỏng tiêu
chuẩn cho vay, cho vay dễ dãi, thiếu các điều kiện bảo đảm cần thiết… cũng làm
cho nợ xấu gia tăng. Nợ xấu gia tăng nay có nguyên nhân từ thực trạng kinh tế và
chính sách thắt chặt tín dụng. Lạm phát tăng cao, những điều chỉnh về tỉ giá, tăng
giá nhiều nguyên nhiên vật liệu khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Chính
sách thắt chặt tiền tệ khiến lãi suất huy động và cho vay đều tăng cao bồi thêm
những khó khăn cho doanh nghiệp, Ngân hàng cho vay lãi suất cao cũng hướng đồng
tiền chuyển vào các lĩnh vực có yếu tố rủi ro cao, chỉ những lĩnh vực đó mới có cơ
hội lãi cao khiến nợ xấu tiềm ẩn và dễ bục phát.
2.2.2. Nợ xấu của VCB năm 2010.
Trong năm 2010, VCB đã tiến hành điều chỉnh phân loại nợ theo điều 6 và 7
của Quyết định 493//2005/QĐNHNN. Theo nhận định của VCB, việc thay đổi
phương thức phân loại nợ đã làm cho tỷ lệ nợ xấu năm 2010 tăng mạnh so với năm
2009 và đạt mức 2.83%. .
Nếu như năm 2009 tất cả các nhóm nợ 3,4 và 5 đều giảm thì năm nay, VCB
phải đối mặt với sự tăng trưởng bất thường của nợ nhóm 3 tăng tới 164% trong khi
nợ nhóm 2 có xu hướng tăng chậm lại. Điều này đã đẩy tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư
nợ tăng lên:
Bảng 2.3. Mức tăng trưởng của các nhóm nợ của VCB năm 2010.
Phân loại nợ
Nợ đủ tiêu chuẩn
Nợ cần chú ý
Nợ dưới tiêu chuẩn
31/12/2010
31/12/2009
Tăng trưởng (%)
( Triệu VNĐ)
( Triệu VNĐ)
155.563.351 130.008.700
20%
16.103.00 8.033.742
100%
3
1.164.35 440.649
164%
3
25