LỜI MỞ ĐẦU
1/ Lý do chọn đề tài:
Với việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt là sân chơi WTO, sự phát
triển mạnh mẽ của các nền kinh tế trong khu vực và trên trên thế giới. Đất nước ta
dần dần đổi mới sau chiến tranh và hiện nay đang có những bước tiến quan trọng
trong các lĩnh vực về văn hóa kinh tế, xã hội đặc biệt là trong sản xuất kinh doanh.
Việc cạnh tranh và phát triển là nhu cầu tất yếu của các doanh nghiệp nhà nước
lẫn tư nhân. Vì thế việc các doanh nghiệp cần có những chính sách hợp lý cũng
như xây dựng được những đội ngũ nhân viên lành nghề trình độ kỹ thuật và áp
dụng các công nghệ vào sản xuất là điều thiết yếu. Giúp được doanh nghiệp có thể
đứng vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt không những trong nước mà còn
vươn ra tầm thế giới.
Chính vì thế việc tìm kiếm lợi nhuận và thu hút được vốn – nhân tài chính là mục
tiêu hàng đầu và cũng là mối quan tâm tất yếu của các doanh nghiệp trong thời buổi
kinh tế ngày càng cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Do việc chạy theo l ợi nhu ận
được đặt lên hàng đầu mà một số doanh nghiệp đã bất chấp chất lượng sản phẩm,
làm ra những sản phẩm kém chất lượng, lỗi và gây ảnh hưởng lớn cho người tiêu
dùng. Đồng thời rất nhiều doanh nghiệp cũng không hề quan tâm đến việc sử lý
chất thải độc hại mà thải trực tiếp ra môi trường gây ảnh hưởng đến đời sống dân
cư ở các con sông, cũng như các ao hồ. Các vụ việc tiêu biểu như công ty Vedan xả
nước thải trực tiếp xuống sông thuộc tỉnh Đồng Nai, hoặc việc công ty AC Food bị
lực lượng chức năng phát hiện hơn 3600 hộp sữa kém chất lượng tại địa bàn thành
phố Cần Thơ…. Qua những vụ việc trên làm dấy lên hồi chuông báo động về chất
lượng sản phẩm cũng như trách nhiệm của các doanh nghiệp trong sản xuất kinh
doanh. Và câu hỏi được đặt ra ở đây là các doanh nghiệp ngoài việc đặt lợi ích cá
nhân vì mục tiêu làm giàu còn phải quan tâm đến trách nhiệm của doanh nghiệp đối
với xã hội và con người. Vậy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở đây là gì ?
Trong một bài báo viết cho tờ New York Times tháng 9/1970, Milton Friedman
nêu rõ: “Doanh nghiệp chỉ có một trách nhiệm duy nhất là tối đa hóa lợi nhuận, gia
tăng giá trị cổ đông, trong khuôn khổ luật chơi của thị truờng là cạnh tranh trung
thực và công bằng.” Theo ông, nguời quản lý doanh nghiệp (thành viên hội dồng
quản trị và ban giám đốc) là những nguời dại diện cho chủ sở hữu/ cổ dông đứng ra
quản lý công ty. Họ được bầu hoặc đuợc thuê để dẫn dắt công ty theo cách mà các
cổ đông muốn, đa phần là làm ra lợi nhuận càng nhiều càng tốt, dồng thời tuân thủ
các quy tắc xã hội cơ bản vốn đã được thể hiện trong luật và các nguyên tắc đạo
đức phổ biến. Ðó chính là bản chất vì lợi nhuận (forprofit) của doanh nghiệp và
nguời quản lý doanh nghiệp chỉ có trách nhiệm đối với cổ đông là người chủ sở
hữu công ty đã lựa chọn họ để làm đại diện. Do đó, nếu nguời quản lý công ty
muốn, anh ta có toàn quyền để thực hiện các trách nhiệm xã hội dựa trên nhận thức
và tình cảm của riêng mình và bằng thời gian và tiền bạc của cá nhân, nhưng không
được sử dụng nguồn lực của công ty và nhân danh công ty, nếu không được cổ
đông ủy thác để làm việc đó.
Thứ hai, công ty vốn là một chủ thể “vô tri vô giác” do con người tạo ra; do đó
công ty không thể tự nhận thức và gánh vác nghĩa vụ đạo đức vốn chỉ có con nguời
mới có. Bởi vì chỉ có từng cá nhân con nguời mới có lương tâm để nhận thức sự
việc đúng sai.
Hơn nữa, các trách nhiệm xã hội thuộc lĩnh vực của nhà nuớc, là chủ thể cung cấp
các dịch vụ công, vì lợi ích công cộng và phi lợi nhuận. Chỉ có nhà nuớc mới có đủ
thông tin để quyết định đúng đắn trong việc phân bổ các nguồn lực một cách hiệu
quả. Và cấu trúc tam quyền phân lập đã đảm bảo sự phân bổ đó được công bằng
và có kiểm soát. Trách nhiệm của doanh nghiệp là tạo ra giá trị gia t ăng, phát triển
công nghệ (bởi vì doanh nghiệp là chủ thể vì lợi nhuận duy nhất trong xã hội),
đem lại lợi nhuận, tạo ra việc làm và thu nhập cho nguời lao động. Trách nhiệm
chính của doanh nghiệp đối với nhà nước là đóng góp thuế. Và trách nhiệm của nhà
nuớc là làm sao sử dụng tiền thuế đó hiệu quả nhất vì lợi ích công cộng. Như vậy,
nếu doanh nghiệp cùng thực hiện các trách nhiệm xã hội thì sẽ có sự trùng lặp và
doanh nghiệp sẽ trở thành người vừa đóng thuế, vừa quyết dịnh việc chi tiêu khoản
thuế đó ra sao. Người quản lý doanh nghiệp khi ấy sẽ trở thành một nhân viên công
vụ hơn là một người đại diện cho lợi ích của cổ đông.
Mặt khác, kể cả khi một nguời quản lý doanh nghiệp đuợc sử dụng nguồn lực của
công ty để thực hiện trách nhiệm xã hội dựa trên phán đoán chủ quan của mình, thì
không có gì đảm bảo rằng quyết dịnh của anh ta là sáng suốt và đúng đắn cho mục
tiêu xã hội cuối cùng, vì anh ta không phải là một chuyên gia về xã hội, mà là một
chuyên gia về quản lý và kinh doanh và đó là lý do anh ta được cổ đông cử làm đại
diện và gửi gắm niềm tin trong việc quản lý doanh nghiệp. Do đó, nếu muốn thực
hiện trách nhiệm xã hội, các cổ dông có thể làm với tư cách cá nhân, tự nguyện và
tách biệt với công ty (vốn có sở hữu của cả các cổ đông khác) mà không nên thông
qua công ty và những người quản lý công ty.
Từ quan điểm này, truờng phái phản đối CSR cho rằng các chuong trình của doanh
nghiệp lấy tên “trách nhiệm xã hội” chỉ là những chuong trình PR đạo đức giả, mà
thực chất mục tiêu cuối cùng vẫn là vì lợi nhuận của doanh nghiệp mà thôi.
Những nguời ủng hộ CSR không bác bỏ toàn bộ những lập luận trên. Nhưng họ
đưa ra một lập luận khác cũng hết sức thuyết phục là bản thân công ty khi đi vào
hoạt động đã là một chủ thể của xã hội, sử dụng nguồn lực của xã hội và môi
truờng, do dó có thể tác động tiêu cực tới xã hội và môi truờng. Vì vậy, doanh
nghiệp phải có ý thức về những tác động từ hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình và có trách nhiệm với chính hành vi của mình trước xã hội. Henry Mintzberg
đã lấy ví dụ công ty Dow Chemicals quyết định bán chất Napalm cho quân đội Mỹ
dể sử dụng trong chiến tranh Việt Nam, để lại hậu quả nặng nề cho hàng triệu
nạn nhân chất dộc da cam [5]. Có thể nói bản chất của doanh nghiệp không thể chỉ
vì lợi nhuận mà doanh nghiệp ngay từ đầu đã đóng vai trò của một “công dân”
trong xã hội với tất cả nghĩa vụ và quyền lợi thích hợp của mình trong đó. Chính
khái niệm “công dân doanh nghiệp” (corporate citizenship) đã ra đời trong trào lưu
CSR này.
Thực vậy, nếu chỉ nhìn nhận đơn giản khi cho rằng doanh nghiệp hoạt động duy
nhất vì lợi nhuận và bù dắp lại chi phí xã hội, cung nhu “trả tiền” cho các dịch vụ
công mà doanh nghiệp huởng lợi thông qua việc đóng thuế, chúng ta sẽ thấy những
ô nhiễm môi truờng và chi phí xã hội mà doanh nghiệp gây ra có thể lớn hơn rất
nhiều lần lợi ích mà công ty này mang lại từ tiền thuế hay tạo việc làm (như
truờng hợp công ty Vedan). Doanh nghiệp không thể kêu gọi sự “trung tính” của
mình. Tất cả sự kiện của doanh nghiệp như khai trương dòng sản phẩm mới, đặt
một nhà máy, đóng cửa một chi nhánh…. đều kéo theo những hệ quả xã hội nhất
dịnh. Do đó, không thể tách rời hoàn toàn giữa tính chất kinh tế và xã hội khi nhìn
nhận bản chất và hoạt động của doanh nghiệp.
Và nguời quản lý với tư cách là người thác quản doanh nghiệp cần thực hiện các
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp vì nghĩa vụ và lợi ích của chính doanh nghiệp
mình. Trách nhiệm của họ không phải là việc quyết định điều gì tốt hay xấu cho xã
hội, mà là đáp ứng những điều mà xã hội mong muốn và trông đợi ở doanh nghiệp
như một thành viên đầy đủ trong đó. CSR chính là lực cản cuối cùng giúp giữ
doanh nghiệp không đi quá đà vì lợi ích kinh tế mà vi phạm các chuẩn mực đạo đức
(vốn không phải lúc nào cũng được thể hiện đầy đủ bằng các quy định pháp luật),
bỏ quên những tác động tiêu cực của mình đến các thành phần khác trong xã hội.
Doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội còn vì lợi ích tăng trưởng và phát triển
bền vững của chính mình. Ðiều tra của Bowman & Haire từ năm 1973 đã cho thấy
nhóm các công ty cam kết với CSR có tỷ lệ lợi nhuận trên vốn (ROE) cao hơn các
công ty khác (14.7% so với 10.2%). Khác với mô hình công ty gia đình trước kia,
doanh nghiệp hiện đại thường là các công ty cổ phần đại chúng, hoạt động đa
ngành nghề, đa quốc gia. Do đó, ngày nay doanh nghiệp không chỉ hoạt động trong
môi trường đơn nhất được giám sát bởi các cơ chế thị trường thuần túy kinh tế (giá
cả, cạnh tranh, thị truờng chứng khoán), mà còn chịu tác dộng của các cơ chế xã
hội chính trị môi trường. Ðáng chú ý, hai hệ thống này có sự tác động qua lại với
nhau. Thực tế cho thấy nguời tiêu dùng và nhà đầu tư ngày càng tính đến các tiêu
chí thành tích của công ty về đạo đức, lao động, môi trường, xã hội trong các quyết
định tiêu dùng hay đầu tư của mình. Hơn thế nữa, không chỉ liên quan đến tính
cạnh tranh, CSR còn liên quan trực tiếp đến tính bền vững của công ty. Những vụ
đổ vỡ của tập đoàn Enron, công ty kiểm toán Arthur Anderson, hoặc ngay vụ các
cây xăng gian lận bị rút giấy phép là những minh chứng rõ nét nhất cho thấy rằng
thiếu CSR, doanh nghiệp sẽ tự loại mình ra khỏi thị trường và cộng đồng doanh
nghiệp.
CSR đã trở thành một phong trào thực thụ và trưởng thành, phát triển rộng khắp
thế giới. Nếu chúng ta tra cứu các cụm từ có gốc “trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp” bằng tiếng Anh trên Google, chúng ta sẽ thấy có hơn 70 triệu lượt tìm
kiếm (chưa kể các cụm từ về CSR ở từng nước cụ thể). Hàng vạn bài báo, nghiên
cứu, sách, tạp chí, diễn đàn, trang web của các tổ chức NGOs, giới khoa học, doanh
nghiệp, tư vấn, báo chí và chính phủ bàn về chủ đề CSR.
Nguời tiêu dùng tại các nước ÂuMỹ hiện nay không chỉ quan tâm đến chất lượng
sản phẩm mà còn coi trọng cách thức các công ty làm ra sản phẩm đó, có thân thiện
với môi trường sinh thái, cộng đồng, nhân đạo, và lành mạnh. Nhiều phong trào
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và môi trường phát triển rất mạnh, chẳng hạn
như phong trào tẩy chay thực phẩm gây béo phì (fringe foods) nhằm vào các công ty
sản xuất đồ ăn nhanh, nước giải khát có ga; phong trào thương mại công bằng
FairTrade (bảo đảm điều kiện lao động và giá mua nguyên liệu của nguời sản xuất
ở các nước thế giới thứ 3), phong trào tẩy chay sản phẩm sử dụng lông thú, tẩy
chay sản phẩm bóc lột lao động trẻ em (nhằm vào công ty Nike, Gap), phong trào
tiêu dùng theo lương tâm (shopping with a conscience)…
Truớc áp lực từ xã hội, hầu hết các công ty lớn đã chủ động đưa CSR vào chương
trình hoạt động của mình một cách nghiêm túc. Hàng nghìn chương trình đã được
thực hiện như tiết kiệm năng lượng, giảm khí thải carbon, sử dụng vật liệu tái
sinh, năng luợng mặt trời, cải thiện nguồn nước sinh hoạt, xóa mù chữ, xây dựng
trường học, cứu trợ, ủng hộ nạn nhân thiên tai, thành lập quỹ và trung tâm nghiên
cứu vắcxin phòng chống Aids và các bệnh dịch khác ở các nước nhiệt đới, đang
phát triển. Có thể kể đến một số tên tuổi đi đầu trong các hoạt động này nhu TNT,
Google, Intel, Unilever, CocaCola, GE, Nokia, HSBC, Levi Strauss,
GlaxoSmithKline, Bayer, DuPont, Toyota, Sony, UTC, Samsung, Gap, BP,
ExxonMobil…. . Theo tổ chức Giving USA Foundation, số tiền các doanh nghiệp
đóng góp cho các hoạt động xã hội trên toàn thế giới lên đến 13,77 tỷ USD (năm
2005) và gần 1.000 công ty được đánh giá là “công dân doanh nghiệp tốt”. Nổi bật
là trường hợp ngân hàng Grameen do TS. Muhammad Yunus đã cung cấp tín dụng
vi mô cho 6,6 triệu người, trong đó 97% là phụ nữ nghèo ở Bangladesh vay tiền để
cải thiện cuộc sống (ông đã được trao giải Nobel hòa bình năm 2006). Hiện nay,
hầu hết các công ty đa quốc gia đều xây dựng các bộ quy tắc ứng xử (code of
conduct) có tính chất chuẩn mực áp dụng đối với nhân viên của mình trên toàn thế
giới. Lợi ích đạt được qua những cam kết CSR đã được ghi nhận. Không những
hình ảnh công ty được cải thiện trong mắt công chúng và người dân địa phương
giúp công ty tăng doanh số bán hàng hay thực hiện các thủ tục đầu tư được thuận
lợi hơn, mà ngay trong nội bộ công ty, sự hài lòng và gắn bó của nhân viên với công
ty cũng tăng lên, cũng như các chương trình tiết kiệm năng lượng giúp giảm chi phí
hoạt động cho công ty không nhỏ.
Có thể nói CSR đã có chỗ đứng khá vững chắc trong nhận thức của giới doanh
nghiệp. Một số trung tâm, viện nghiên cứu về trách nhiệm doanh nghiệp đã được
các trường đại học ở Mỹ thành lập. 78% sinh viên ngành quản trị doanh nghiệp cho
rằng chủ đề CSR nên được đưa vào các chương trình giảng dạy. Trong cuộc khảo
sát của công ty McKinsey năm 2007, 4 84% số quản trị viên cao cấp được hỏi cho
rằng việc đóng góp vào các mục tiêu xã hội của cộng đồng cần được tiến hành
song song với việc gia tăng giá trị cổ đông, trong khi chỉ có 16% cho rằng lợi nhuận
là mục tiêu duy nhất. 51% và 48% ý kiến lần lượt cho rằng môi truờng (trong số 15
vấn đề chính trị xã hội khác nhau) là vấn dề hàng dầu tập trung sự chú ý của công
luận, và có ảnh huởng tiêu cực hoặc tích cực nhất đối với giá trị cổ đông trong năm
năm tới. Khi được hỏi về ảnh huởng xấu mà các công ty lớn có thể gây ra cho cộng
đồng, 65% trả lời ô nhiễm môi truờng, 40% đặt lợi nhuận lên trên sức khỏe con
nguời, 30% gây áp lực chính trị. Về các ảnh huởng tích cực mà doanh nghiệp đem
lại thì tạo việc làm được xếp cao nhất (65%), tiến bộ khoa học công nghệ (43%),
cung cấp sản phẩm dịch vụ cho nhu cầu con nguời (41%), nộp thuế (35%).
Cũng từ đó các bộ tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm cũng như môi trường đã ra
đời nhằm bảo vệ người tiêu dùng cũng như góp phần đảm bảo môi trường sống
cho con người.Do đó các bộ tiêu chuẩn về ISO 9000,9001ISO 14000…đã được rất
nhiều doanh nghiệp hiện đã và đang áp dụng cho công ty của mình. Vậy nội dung
chính cũng như những yêu cầu chủ yếu của những bộ tiêu chuẩn như ISO 9000 –
14000 là gì? Cách thực hiện nó và áp dụng ở Việt Nam hiện nay có gì khó khăn
cũng như thuận lợi phù hợp với luật pháp cũng như những yêu cầu của xã hội Việt
Nam hay không.
Vì thế em muốn tìm hiểu và đánh giá khách quan về 2 bộ tiêu chuẩn trên như là
điển hình được các doanh nghiệp hiện đang áp dụng có hiệu quả ra sao ở Việt
Nam. Và cũng là lý do để em chọn đề tài: “ Nghiên cứu đánh giá bộ tiêu chuẩn ISO
9000 và 1 phần nhỏ bộ tiêu chuẩn ISO 14000 được áp dụng ở Việt Nam có những
mặc tích cực cũng như những thiếu xót cần phải khắc phục”.
Nội dung của chuyên đề này chủ yếu xoáy quanh các vấn đề sau:
_ Giới thiệu bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000.
_ Phân tích đánh giá việc áp dụng tại Việt Nam
_ Những ưu khuyết điểm cần.
phục.
_ Kết luận – kiến nghị đánh giá thực trạng cũng như các biện pháp khắc
2/ Đối tượng phạm vi tìm hiểu – nghiên cứu:
2.1/ Đối tượng nghiên cứu:
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 – ISO 14000.
Các văn bản luật do nhà nước Việt Nam ban hành có liên quan.
2.2/ Phạm vi:
Tại Việt Nam trong khoảng thời gian từ đầu tháng 4 đến 12/5/2010.
2.3/ Giới thiệu bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000.
a/ Bộ tiêu chuẩn ISO 9000.
Bộ Tiêu chuẩn ISO 9000 qui tụ kinh nghiệm của Quốc tế trong lĩnh vực quản lý và
đảm bảo chất lượng trên cơ sở phân tích các quan hệ giữa người mua và người
cung cấp (nhà sản xuất).
I. Ý nghĩa của Bộ Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000
Bộ Tiêu chuẩn ISO 9000 qui tụ kinh nghiệm của Quốc tế trong lĩnh vực quản lý và
đảm bảo chất lượng trên cơ sở phân tích các quan hệ giữa người mua và người
cung cấp (nhà sản xuất). Đây chính là phương tiện hiệu quả giúp các nhà sản xuất
tự xây dựng và áp dụng hệ thống bảo đảm chất lượng ở cơ sở mình, đồng thời
cũng là cũng là phương tiện để bên mua có thể căn cứ vào đó tiến hành kiểm tra
người sản xuất, kiểm tra sự ổn định của sản xuất và chất lượng trước khi ký hợp
đồng. ISO 9000 đa ra các chuẩn mực cho một hệ thống chất lượng và có thể áp
dụng rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. ISO 9000 Hướng
dẫn các tổ chức cũng như các doanh nghiệp xây dựng một mô hình quản lý thích
hợp và văn bản hoá các yếu tố của hệ thống chất lượng theo mô hình đã chọn.
II. cấu trúc của Bộ Tiêu chuẩn ISO 9000
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000:2000 bao gồm nhiều tiêu chuẩn. Trong đó tiêu chuẩn chính
ISO 9001: Hệ thống quản lý chất lượng, các yêu cầu, nêu ra các yêu cầu đối với hệ
thống quản lý chất lượng mà doanh nghiệp cần phải đáp ứng. Ngoài ra còn các tiêu
chuẩn hỗ trợ và Hướng dẫn thực hiện, bao gồm:
∙ISO 9000: thuật ngữ và định nghĩa
∙ISO 9004: Hướng dẫn cải tiến hiệu quả
∙ISO 19011: Hướng dẫn đánh giá hệ thống quản lý
ISO 9001 là tiêu chuẩn chính nêu ra các yêu cầu đối với hệ thống chất lượng và bao
quát đầy đủ các yếu tố của hệ thống quản lý chất lượng. Doanh nghiệp khi xây
dựng hệ thống theo tiêu chuẩn này cần xác định phạm vi áp dụng tuỳ theo hoạt
động thực tế của doanh nghiệp.
ISO 9001: 2000 quy định các yêu cầu đối với một hệ thống quản lý chất lượng cho
các tổ chức cần chứng tỏ khả năng cung cấp một cách ổn định sản phẩm thoả mãn
các yêu cầu của khách hàng. Tiêu chuẩn ISO 9001:2000 đã được sắp xếp lại d ới
dạng tiện dụng cho người sử dụng với các từ vựng dễ hiểu đối với doanh nghiệp
trong tất cả các lĩnh vực. Tiêu chuẩn này dùng cho việc chứng nhận và cho các mục
đích cá biệt khác khi tổ chức muốn hệ thống quản lý chất lượng của mình được
thừa nhận.
Tiêu chuẩn bao gồm 5 phần, quy định các hoạt động cần thiết phải xem xét trong
khi triển khai hệ thống chất lượng. 5 phần trong ISO 9001: 2000 quy định những gì
một tổ chức phải làm một cách nhất quán để cung cấp các sản phẩm đáp ứng các
yêu cầu của khách hàng và yêu cầu pháp định, chế định được áp dụng. Thêm vào đó,
tổ chức phải tìm cách nâng cao sự thoả mãn của khách hàng bằng cách cải tiến hệ
thống quản lý của mình.
ISO 9004: 2000 được sử dụng nhằm mở rộng hơn những lợi ích đạt được từ ISO
9001: 2000 không những đối với bản thân tổ chức mà còn đối với tất cả các bên liên
quan đến hoạt động của tổ chức. Các bên liên quan bao gồm nhân viên, chủ sở hữu,
các người cung ứng của tổ chức, và rộng hơn là cả xã hội.
ISO 9001: 2000 và ISO 9004 : 2000 đã được xây dựng nh là một cặp thống nhất của
bộ tiêu chuẩn để làm thuận tiện hơn trong việc sử dụng. Sử dụng tiêu chuẩn theo
cách này sẽ làm chúng ta có thể liên kết nó với các hệ thống quản lý khác (ví dụ
như Hệ thống quản lý môi trường), hoặc những yêu cầu cụ thể trong một số lĩnh
vực (ví dụ nh: ISO/TS/6949 trong ngành công nghiệp ô tô) và giúp cho việc đạt
được sự công nhận thông qua các chương trình chứng nhận quốc gia.
Cả ISO 9004: 2000 và ISO 9001: 2000 thống nhất về bố cục và từ vựng nhằm giúp
tổ chức chuyển một cách thuận tiện từ ISO 9001: 2000 sang ISO 9004: 2000 và ng
ợc lại. Cả hai tiêu chuẩn đều sử dụng phương pháp tiếp cận quá trình. Các quá
trình được xem như bao gồm một hay nhiều hoạt động có liên kết, có yêu cầu
nguồn lực và phải được quản lý để đạt được đầu ra quy định trước. Đầu ra của
một quá trình có thể trực tiếp tạo thành đầu vào của một quá trình tiếp theo và sản
phẩm cuối cùng thờng là kết quả của một mạng l ới hoặc một hệ thống các quá
trình.
Để cho bộ ISO 9000 duy trì được tính hiệu lực, những tiêu chuẩn này được xem xét
định kỳ (khoảng 5 năm một lần) nhằm cập nhật những phát triển mới nhất trong
lĩnh vực quản lý chất lượng và thông tin phản hồi từ người sử dụng. Ban kỹ thuật
của Tổ chức tiêu chuẩn hoá Quốc tế ISO/TC 176 bao gồm các chuyên gia từ các
doanh nghiệp và tổ chức trên toàn thế giới theo dõi việc áp dụng các tiêu chuẩn để
xác định những cải tiến cần thiết nhằm thoả mãn những đòi hỏi và mong muốn của
người sử dụng và đa vào phiên bản mới.
ISO/TC176 sẽ tiếp tục kết hợp các yếu tố đảm bảo chất lượng, quản lý chất
lượng, những sáng kiến trong các ngành cụ thể và các chương trình chứng nhận
chất lượng khác nhau trong bộ tiêu chuẩn ISO 9000.
Cam kết của ISO với việc duy trì động lực ISO 9000 thông qua các xem xét, cải tiến
và hợp lý hoá các tiêu chuẩn đảm bảo sự đầu tư của tổ chức vào ISO 9000 hôm nay
sẽ tiếp tục mang lại những hiệu quả trong tương lai.
III. Các bước áp dụng ISO 9000
Việc áp dụng ISO 9000 đối với một doanh nghiệp sẽ được tiến hành theo 9 bước:
Bước 1: Tìm hiểu tiêu chuẩn và xác định phạm vi áp dụng. Bước đầu tiên khi bắt
tay vào việc xây dựng và áp dụng hệ thống chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 là
phải thấy được ý nghĩa của nó trong việc duy trì và phát triển tổ chức. Lãnh đạo
doanh nghiệp cần định Hướng cho các hoạt động của hệ thống chất lượng, xác
định mục tiêu và phạm vi áp dụng để hỗ trợ cho các hoạt động quản lý của mình
đem lại lợi ích thiết thực cho tổ chức.
Bước 2: Đào tạo cho cán bộ lãnh đạo các thành viên, cần phải phổ biến để nhân
viên nhận thức đúng, đủ về ISO 9000 vì sự tham gia tích cực và hiểu biết của mọi
thành viên trong công ty đối với ISO 9000 giữ vai trò quyết định.
Bước 3: Lập ban chỉ đạo thực hiện dự án ISO 9000:2000. Việc áp dụng ISO 9000
có thể xem như là một dự án lớn, vì vậy các Doanh nghiệp cần tổ chức điều hành
dự án sao cho có hiệu quả. Nên có một ban chỉ đạo ISO 9000 tại doanh nghiệp, bao
gồm đại diện lãnh đạo và đại diện của các bộ phận nằm trong phạm vi áp dụng
ISO 9000. Cần bổ nhiệm đại diện của lãnh đạo về chất lượng để thay lãnh đạo
trong việc chỉ đạo áp dụng hệ thống quản lý ISO 9000 và chịu trách nhiệm trước
lãnh đạo về các hoạt động chất lượng.
Bước 4: Đánh giá thực trạng của doanh nghiệp và so sánh với tiêu chuẩn. Đây là
bước thực hiện xem xét kỹ lưỡng thực trạng của doanh nghiệp để đối chiếu với
các yêu cầu trong tiêu chuẩn ISO 9000, xác định xem yêu cầu nào không áp dụng,
những hoạt động nào tổ chức đã có, mức độ đáp ứng đến đâu và các hoạt động nào
chưa có để từ đó xây dựng nên kế hoạch chi tiết để thực hiện. Sau khi đánh giá
thực trạng, công ty có thể xác định được những gì cần thay đổi và bổ sung để hệ
thống chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn.
Bước 5: Thiết kế và lập văn bản hệ thống chất lượng theo ISO 9000. Thực hiện
những thay đổi hoặc bổ sung đã xác định trong đánh giá thực trạng để hệ thống
chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn ISO 9000. Cần xây dựng và hoàn chỉnh tài liệu
theo yêu cầu của tiêu chuẩn, ví dụ:
∙Xây dựng sổ tay chất lượng
∙Lập thành văn bản tất cả các quá trình và thủ tục liên quan
∙Xây dựng các Hướng dẫn công việc, quy chế, quy định cần thiết.
Bước 6: áp dụng hệ thống chất lượng theo ISO 9000
Công ty cần áp dụng hệ thống chất lượng đã thiết lập để chứng minh hiệu lực và
hiệu quả của hệ thống. Trong bước này cần thực hiện các hoạt động sau:
∙Phổ biến cho tất cả mọi cán bộ công nhân viên trong công ty nhận thức về ISO
9000.
∙Hướng dẫn cho cán bộ công nhân viên thực hiện theo các quy trình, thủ tục đã
được viết ra.
∙Phân rõ trách nhiệm ai sử dụng tài liệu nào và thực hiện theo đúng chức năng
nhiệm vụ mà thủ tục đã mô tả.
∙Tổ chức các cuộc đánh giá nội bộ về sự phù hợp của hệ thống và đề ra các hoạt
động khắc phục đối với sự không phù hợp.
Bước 7: Đánh giá nội bộ và chuẩn bị cho đánh giá chứng nhận. Việc chuẩn bị cho
đánh giá chứng nhận bao gồm các bước sau:
∙Đánh giá trước chứng nhận: Đánh giá trước chứng nhận nhằm xác định xem hệ
thống chất lượng của công ty đã phù hợp với tiêu chuẩn chưa và có được thực hiện
một cách có hiệu quả không, xác định các vấn đề còn tồn tại để khắc phục. Việc
đánh giá trước chứng nhận có thể do chính công ty thực hiện hoặc do tổ chức bên
ngoài thực hiện.
∙Lựa chọn tổ chức chứng nhận: Tổ chức chứng nhận hay đánh giá của bên thứ ba là
tổ chức đã được công nhận cho việc thực hiện đánh giá và cấp chứng nhận phù hợp
với tiêu chuẩn phù hợp ISO 9000. Về nguyên tắc, mọi chứng chỉ ISO 9000 đều có
giá trị nh nhau không phân biệt tổ chức nào tiến hành cấp. Công ty có quyền lựa
chọn bất kỳ tổ chức nào để đánh giá và cấp chứng chỉ.
Bước 8: Tiến hành đánh giá chứng nhận. Tổ chức chứng nhận đã được công ty lựa
chọn tiến hành đánh giá chứng nhận chính thức hệ thống chất lượng của công ty.
Bước 9: Duy trì hệ thống chất lượng sau khi chứng nhận. ở giai đoạn này cần tiến
hành khắc phục các vấn đề còn tồn tại phát hiện quan đánh giá chứng nhận và tiếp
tục thực hiện các hoạt động theo yêu cầu của tiêu chuẩn để duy trì và cải tiến
không ngừng hệ thống chất lượng của công ty.
b/ Bộ tiêu chuẩn ISO 14000
Giới Thiệu BỘ TIÊU CHUẨN VỀ HỆ THỐNG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG ISO
14000
ISO 14001 là tiêu chuẩn quốc tế được ban hành bởi Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc
tế, là một trong bộ gồm nhiều tiêu chuẩn có chuỗi số 140XX. ISO 14001 “Hệ
thống quản lý môi trường Các yêu cầu và hướng dẫn sử dụng” là tiêu chuẩn được
công nhận rộng rãi nhất và là tiêu chuẩn duy nhất được sử dụng cho mục đích
chứng nhận. Ngoài ISO 14001, bộ tiêu chuẩn ISO 14000 còn bao gồm hơn 20 tiêu
chuẩn, hướng dẫn, báo cáo kỹ thuật dùng để đánh giá tổ chức và đánh giá sản
phẩm, chúng cũng có thể chia thành các nhóm đối tượng nhỏ hơn như sau:
Để được chứng nhận, tổ chức không nhất thiết phải đáp ứng đầy đủ các chỉ tiêu
môi trường cụ thể được nêu ra trong tiêu chuẩn ngay tại thời điểm chứng nhận, tuy
nhiên họ cần chứng minh rằng đã nhận biết được các khía cạnh môi trường có ý
nghĩa và có kế hoạch nhằm đáp ứng được các mục tiêu cải tiến liên tục mà họ đã
thiết lập, phải chứng minh đang có các hoạt động cụ thể để đạt được các mục tiêu
này. Bởi vì đây là một tiêu chuẩn quản lý nên tổ chức không phải vượt qua một
mức độ nào đó về môi trường trước khi được chứng nhận theo ISO 14001.
Việc thiết lập HTQLMT có thể giúp cho tổ chức tạo được lòng tin với các bên hữu
quan:
Có sự cam kết của lãnh đạo để đáp ứng các điều khoản của chính sách, mục
đích và mục tiêu của tổ chức;
Có thể đưa ra chứng cứ về sự quan tâm hợp lý và sự phù hợp với các yêu
cầu, luật định;
Thiết kế của hệ thống kết hợp chặt chẽ với quá trình cải tiến liên tục, chú
trọng vào phòng ngừa hơn là khắc phục;
Những lợi ích tiềm tàng gắn liền với HTQLMT có hiệu quả bao gồm:
Đảm bảo cho khách hàng những cam kết về quản lý môi trường;
Duy trì tốt được những quan hệ với công chúng/cộng đồng;
Thoả mãn chuẩn cứ của người đầu tư và cải tiến sự tiếp cận với vốn;
Có được hợp đồng bảo hiểm với chi phí hợp lý;
Nâng cao uy tín và thị phần;
Đáp ứng được chuẩn cứ chứng nhận của người cung cấp;
Cải tiến việc kiểm soát chi phí;
Hạn chế được các rắc rối về pháp lý;
Chứng tỏ được sự quan tâm hợp lý;
Bảo toàn được nguyên vật liệu và năng lượng đầu vào;
Tạo thuận lợi cho việc xin giấy phép và uỷ quyền;
Tăng cường sự phát triển và chia sẻ các giải pháp về môi trưòng;
Cải thiện các mối quan hệ giữa công nghiệp chính phủ.
Một lợi ích khi áp dụng hệ thống quản lý môi trường mà đôi khi các tổ chức không
dễ dàng nhận ra, đó là tiết kiệm chi phí. Bởi vì mục tiêu của quản lý môi trường
không chỉ là xử lý chất thải đạt yêu cầu (biện pháp cuối đường ống) mà còn là
giảm thiểu phát thải và sử dụng có hiệu quả tài nguyên, bao gồm cả việc tái sử
dụng. Những yếu tố này hoàn toàn có thể tính ra bằng tiền để cho thấy lợi ích thiết
thực của việc áp dụng một cách có hiệu quả hệ thống quản lý môi trường.
2.4/ Tìm hiểu phân tích đánh giá việc áp dụng những ưu khuyết
điểm.
ISO 9000 là phương tiện hiệu quả giúp các nhà sản xuất tự xây dựng và áp dụng
hệ thống bảo đảm chất lượng ở cơ sở mình đồng thời cũng là phương tiện để bên
mua có thể căn cứ vào đó kiểm tra người sản xuất, kiểm tra sự ổn định của sản
xuất và chất lượng sản phẩm trước khi kí hợp đồng. ISO 9000 đưa ra các chuẩn
mực cho một hệ thống chất lượng và có thể áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực
sản xuất kinh doanh và dịch vụ. ISO 9000:2008 được áp dụng rộng rãi tại nhiều
quốc gia vì nó có những ưu thế vượt trội hơn hẳn so với các hệ thống chất lượng
khác:
a) Chất lượng quản trị có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản
phẩm, dịch vụ. Mối quan hệ giữa chất lượng quản trị với chất lượng
sản phẩm, dịch vụ là mối quan hệ nhân quả. Việc áp dụng ISO 9000
là nhằm mục đích tạo ra những sản phẩm và dịch vụ có chất lượng
ổn định, phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Bộ tiêu chuẩn tập
chung hướng dẫn các tổ chức doanh nghiệp thiết lập và duy trì một
hệ thống quản trị bài bản, chặt chẽ với sự phân bổ trách nhiệm,
quyền hạn từng thành viên với đầy đủ các quy trình, thủ tục hướng
dẫn các công việc… nhằm hạn chế các sai xót có ảnh hưởng đến
chất lượng sản phẩm. Một hệ thống quản trị hoàn hảo như vậy tất
yếu sẽ tạo ra những sản phẩm và dịch vụ có chất lượng ổn định đáp
ứng được nhu cầu của khách hàng.
VD: Một doanh nghiệp may có quy mô sản xuất rất lớn với hàng ngàn
công nhân, với thiết bị máy móc và công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, hệ
thống quản trị của doanh nghiệp thì hết sức lỏng lẽo, nhiều người
trong doanh nghiệp không biết rõ chức năng và nhiệm vụ của mình là
gì, nhiều bộ phận không có sự phối hợp làm việc, ngay cả những
thành phần lao động trực tiếp cũng không được hướng dẫn công việc
cụ thể. Không có những thủ tục, quy trình nghiên cứu và soạn thảo
cẩn thận để mọi người đọc hiểu và tuân thủ khi làm việc. Kết quả là
sản phẩm làm ra có chất lượng không đồng đều, tỉ lệ khuyết tật và
phế phẩm cao. Mặc khác khi có sản phẩm khuyết tật,phế phẩm cũng
không thể tìm ra nguyên nhân là do khâu nào, do ai vì không giải quyết
kiểm soát toàn bộ quá trình. Ngoài ra khâu dịch vụ trong giai đoạn
phân phối và tiêu thụ hàng cũng luôn gây phiền lòng cho khách hàng vì
thiếu
sự
phối
hợp
đồng
bộ.
Một doanh nghiệp khác có quy mô nhỏ hơn, máy móc trang thiết bị
không lấy gì làm hiện đại nhưng lại có một hệ thống quản trị chặt
chẽ khoa học. Mỗi thành viên trong doanh nghiệp đều hiểu rõ nhiệm
vụ và công việc của mình, luôn có sự phối hợp và hổ trợ lẫn nhau
trong công việc. Mọi quá trình đều được quy định trình tự thực hiện
bằng các thủ tục. Ngay cả những công nhân đứng máy cũng đều có
các hướng dẫn công việc cụ thể. Việc kiểm soát được thực hiện ở
từng công đoạn nhỏ trong suốt quá trình sản xuất, kinh doanh. Nhờ
vậy, sản phẩm làm ra chắc chắn sẽ có chất lượng ổn định và khách
hàng sẽ tin tưởng, nhận hàng, có thể sẽ không cần phải kiểm tra để
loại bỏ sản phẩm khuyết tật.
b) Cần phải làm đúng ngay từ đầu không nên làm việc theo kiểu sai đâu
sửa đó do đó sẽ làm tăng năng suất và hạ giá thành sản phẩm. Đây là
triết lý đơn giản nhất, quan trọng nhất của bộ tiêu chuẩn. Việc làm
đúng ngay từ đầu không chỉ tiết kiệm được thời gian, chi phí cho khâu
sửa sai và làm lại… mà còn giúp giảm thiểu bỏ hẳn khâu kiểm tra,
thử nghiệm cuối cùng vốn rất khó thực hiện đầy đủ và gây nhiều tốn
kém. Trong sản xuất, nếu thiết kế không đúng ngay từ đầu, không
xuất phát từ nhu cầu của khách hàng và người tiêu dùng để thiết kế
sản phẩm thì sẽ dẫn đến sản xuất ra những sản phẩm không phù
hợp, những sản phẩm sẽ phải bỏ đi hoặc tồn đọng. Bộ ISO 9000
khuyên chúng ta nên thiết kế cẩn thận toàn bộ quá trình kinh doanh
trong suốt vòng đời sản phẩm như:
Thiết kế quá trình điều tra marketinh.
Thiết kế các mẫu sản phẩm và loại hình dịch vụ.
Thiết kế thẩm định chọn mẫu sản phẩm.
Thiết kế quá trình sản xuất thử.
Thiết kế công nghệ và sản xuất.
Thiết kế quảng cáo mạng lưới phân phối.
Thiết kế quá trình bán hàng và dịch vụ sau bán.
Làm đúng ngay từ đầu chỉ có thể thực hiện tốt nếu các nhà quản trị
biết dự báo tương đối chính xác nhu cầu thị trường, xu thế tiêu dùng,
thị
hiếu
khách
hàng….
VD: Về việc thường xuyên đào bới đường xá trong thành phố. Do
không biết cách làm đúng ngay từ đầu nên biết bao con đường vừa
mới rải nhựa xong chưa được bao lâu đã bị đào xới lên để đặt đường
ống nước, sau khi lấp không lâu lại phải đào lên để đi cáp điện
thoại… . Lãng phí tiền của,công sức có thể lên tới hàng chục tỉ đồng.
Nhưng các nhà quản lý lại nói không sao chỉ cần rút “kinh nghiệm” và
“sửa sai”.
c) Tăng tính cạnh tranh của công ty: có được một hệ thống quản lý chất
lượng phù hợp tiêu chuẩn ISO 9000 sẽ đem đến cho doanh nghiệp lợi
thế cạnh tranh vì thông qua việc chứng nhận hệ thống quản lý chất
lượng phù hợp với ISO 9000 doanh nghiệp sẽ có bằng chứng đảm
bảo với khách hàng là các sản phẩm họ sản xuất phù hợp với chất
lượng mà họ đã cam kết.
d) Tăng uy tín của công ty về đảm bảo chất lượng: áp dụng quản lý chất
lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 sẽ cung cấp bằng chứng khách quan
để chứng minh chất lượng sản phẩm, dịch vụ của công ty và chứng
minh cho khách hàng thấy rằng rằng các hoạt động của công ty đều
được kiểm soát.
e)
\
ISO 14000
Điều kiện cần để áp dụng ISO 14000 và các bước thực hiện
Để đảm bảo việc áp dụng ISO
14000 đạt hiệu quả, khi tham gia
xây dựng doanh nghiệp cần ít
nhất 4 điều kiện và thực hiện 16
bước cơ bản sau:
ĐIỀU KIỆN CẦN ĐỂ ÁP
DỤNG ISO 14000:
1. Định hướng và quyết tâm của lãnh đạo doanh nghiệp:
Tìm hiểu và nắm vững nội dung cơ bản của bộ tiêu chuẩn ISO 14000.
Xác định yêu cầu của tiêu chuẩn và mức độ đáp ứng của doanh nghiệp.
Quyết tâm và chỉ đạo chặt chẽ quá trình triển khai áp dụng ISO 14000.
Hoạch định chính sách, mục tiêu và cam kết về môi trường.
Cung cấp đủ nguồn lực cần thiết để đào tạo và triển khai.
2. Thành viên của Doanh nghiệp – Yếu tố quyết định:
Hiểu được ý nghĩa, mục đích của quản lý môi trường.
Ý thức được trách nhiệm của mình trong công việc được giao.
Chấp hành nghiêm chỉnh các qui định đối với công việc cụ thể.
3. Trình độ công nghệ, thiết bị:
Có khả năng kiểm soát các thông số ảnh hưởng đến môi trường.
Đáp ứng các qui định của nhà nước, của ngành.
4. Chuyên gia tư vấn:
Có khả năng và kinh nghiệm trong triển khai tư vấn áp dụng ISO 14000.
Có công nghệ tư vấn bài bản, chuyên nghiệp, phù hợp, hiệu quả và có tính
thuyết phục.
Có lực lượng chuyên gia có năng lực và kinh nghiệm thực tế trong lĩnh vực
về Môi trường
CÁC BƯỚC THỰC HIỆN ISO 14000:
1. Xác định nhu cầu của doanh nghiệp.
2. Khảo sát thực tế, đánh giá hiện trạng và tác động môi trường của doanh
nghiệp.
3. Thành lập Ban môi trường và ban dự án ISO.
4. Thống nhất chương trình hành động.
5. Tiến hành đào tạo ISO 14000 cho Ban ISO và các cán bộ chủ chốt tham gia
dự án.
6. Hướng dẫn xây dựng hệ thống tài liệu.
7. Xây dựng hệ thống tài liệu, thủ tục.
8. Đánh giá, sửa chữa, phê duyệt tài liệu, thủ tục.
9. Triển khai vận hành hệ thống theo tài liệu biên soạn và hướng dẫn của
chuyên gia tư vấn.
10. Đào tạo chuyên gia đánh giá nội bộ.
11. Tiến hành đánh giá nội bộ hệ thống.
12. Thu thập thông tin và chọn nơi đánh giá chứng nhận.
13. Đánh giá thử hệ thống.
14. Hoàn chỉnh hệ thống, chuẩn bị cho đánh giá chứng nhận.
15. Đánh giá chứng nhận.
16. Hướng dẫn duy trì và cải tiến hệ thống sau chứng nhận.
Do sự phát triển mạnh mẽ của công cuộc đô thị hóa và
công nghiệp hóa, do phải cạnh tranh trong đấu thầu
với các công ty sản xuất vật liệu xây dựng cũng như
đấu thầu cung cấp vật liệu cho các công ty xây dựng
nước ngoài, hoạt động áp dụng và chứng nhận ISO
9000, ISO 14000 trong ngành sản xuất và kinh doanh
vật liệu xây dựng diễn ra khá sớm và chiếm một tỷ lệ
khá cao so với các ngành hàng, sản phẩm khác.
Lợi ích của việc áp dụng và chứng nhận ISO 9000
và
ISO
14000
Xây dựng và áp dụng thành công hệ thống quản lý chất
lượng, môi trường theo ISO 9000, ISO 14000, doanh
nghiệp
có
thể:
+ Giảm giá thành sản phẩm do sử dụng hợp lý
nguồn lực, giảm tỷ lệ tiêu hao nguyên liệu, giảm chi
phí xử lý sản phẩm hỏng và xử lý chất thải, hạn chế sự cố thiết bị, tai nạn nghề
nghiệp
và
sự
cố
môi
trường.
+ Đáp ứng yêu cầu của luật định, thực hiện trách nhiệm pháp lý của Giám đốc
có liên quan đến chất lượng, môi trường, an toàn và vệ sinh.
+ Thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng về chất lượng sản phẩm,
dịch vụ, đạo đức kinh doanh, ý thức bảo vệ môi trường và bảo vệ quyền lợi người
tiêu
dùng.
+ Gia tăng cơ hội cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế thông qua
việc khẳng định khách quan và uy tín của tổ chức chứng nhận cũng như tổ chức
công
nhận.
+ Tạo niềm tin, sự gắn bó và tự hào trong cán bộ, nhân viên, góp phần nâng cao
năng suất lao động và phát huy sáng kiến cải tiến.
+ Đem lại lòng tin và dễ dàng nhận được sự ủng hộ từ các nhà đầu tư, cơ quan
quản lý nhà nước, các tổ chức tài chính, bảo hiểm và cộng đồng dân cư.
+ Dễ dàng thâm nhập thị trường quốc tế, trở thành đối tác của các các công ty
hàng đầu thế giới nhờ cơ chế thừa nhận song phương, đa phương của các tổ chức
chứng
nhận
và
công
nhận.
+ Đem lại nhiều thời gian và trí tuệ cho Người đứng đầu trong việc định hướng
chiến lược và phát triển nhờ giảm thời gian dùng cho việc chỉ đạo các công việc sự
vụ
hàng
ngày.
+ Thay đổi nếp nghĩ, nếp làm, nếp giao tiếp và truyền đạt thông tin của tất cả
mọi người trong doanh nghiệp, từ người lãnh đạo cao nhất đến người lao động
thấp nhất, xây dựng văn hóa doanh nghiệp.
+ Làm nền tảng cho việc chứng nhận chất lượng sản phẩm cho các sản phẩm
cụ thể phục vụ cho công tác đấu thầu, kêu gọi đầu tư qua thị trường chứng
khoán,...
Việc áp dụng ISO 9000 và ISO 14000 trong ngành sản xuất và kinh doanh vật
liệu
xây
dựng
ở
Việt
Nam
Tại Việt Nam, do sự phát triển mạnh mẽ của công cuộc đô thị hóa và công
nghiệp hóa, do phải cạnh tranh trong đấu thầu với các công ty sản xuất vật liệu
xây dựng cũng như đấu thầu cung cấp vật liệu cho các công ty xây dựng nước
ngoài, hoạt động áp dụng và chứng nhận ISO 9000, ISO 14000 trong ngành sản
xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng diễn ra khá sớm và chiếm một tỷ lệ khá cao
so với các ngành hàng, sản phẩm khác. Ngoài ra, các đơn vị sản xuất vật liệu xây
dựng còn là những đơn vị rất chú trọng đến chứng nhận sản phẩm hợp chuẩn theo
tiêu chuẩn quốc gia TCVN, nước ngoài (ASTM, JIS, BS, GOST...) và ISO.
Với ISO 14000, các đơn vị được chứng nhận trong ngành sản xuất và kinh doanh
vật liệu xây dựng chủ yếu là các công ty Xi măng.
Với ISO 9000, số doanh nghiệp được chứng nhận trong ngành sản xuất và kinh
doanh vật liệu xây dựng chiếm khoảng 23% trong tổng số gần 1000 doanh nghiệp,
tập trung chủ yếu vào các công ty sản xuất xi măng, thép, gạch ngói, bê tông,...
Trong số những doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất vật liệu xây dựng được
chứng nhận, không ít doanh nghiệp đã áp dụng tích hợp và được chứng nhận nhiều
hệ thống quản lý đồng thời với chứng nhận các sản phẩm mang nhãn hiệu thương
mại khác nhau. Chẳng hạn, Công ty TNHH LUSK Xi măng Thừa Thiên Huế đã
được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000, OHSAS 18000 (tiêu
chuẩn Hệ thống quản lý an toàn và sức khỏe nghề nghiệp) và 7 tiêu chuẩn sản
phẩm (TCVN và ASTM). Khá nhiều công ty khác như Công ty Xi măng Hoàng
Thạch, Công ty Xi măng CHINFON Hải Phòng, Công ty Xi măng Hà Tiên 2 Cần
Thơ, Công ty Xi măng Hoàng Mai, Công ty Xi măng Sài Sơn,... đã được chứng nhận
cho cả ISO 9000, ISO 14000 và sản phẩm.
Tiêu chuẩn hệ thống quản lý nói chung, tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000 nói
riêng đã trở thành những công cụ quản lý hữu hiệu và không thể thiếu trong quá
trình phát triển và hội nhập của hầu hết những doanh nghiệp có tên tuổi ở Việt
Nam. Vì thế việc xây dựng, áp dụng, chứng nhận, duy trì, cải tiến và chứng nhận
lại theo các tiêu chuẩn sau mỗi chu kỳ 3 năm đã trở thành thường lệ với khá nhiều
doanh
nghiệp
Việt
Nam.
Cùng với áp dụng và chứng nhận theo các tiêu chuẩn quản lý hệ thống, việc
chứng nhận chất lượng sản phẩm cũng đang trở nên phổ biến hơn trong các ngành,
kể cả ngành vật liệu xây dựng, bởi lẽ, các doanh nghiệp đã dần hiểu ra rằng cái
đích cuối cùng của các nhà sản xuất vẫn là khẳng định đẳng cấp của chất lượng
sản phẩm, còn hệ thống quản lý chỉ là công cụ hỗ trợ mà thôi.
VD:
Doanh nghiệp… vừa áp dụng ISO...! đó là câu giới thiệu được nhiều doanh
nghiệp đưa ra như một niềm tự hào. Tuy nhiên, liệu ISO có đem lại hiệu quả quản
lý thực sự? Đó là câu hỏi không dễ trả lời.
Vào buổi sáng cách đây 6 tháng, Giám đốc công ty A đang phải đứng trước lựa
chọn quan trọng tiếp tục duy trì việc áp dụng ISO 9000 hay dừng. Chỉ vài phút
trước, Phó Giám đốc kinh doanh vừa rất bức xúc phàn nàn với ông về việc nhân
viên phòng kinh doanh không tập trung vào làm gói thầu rất quan trọng của công ty
mà ngay chiều đó phải nộp. Trong khi đó, thư ký nhóm làm thầu lại... đi lo hoàn
thiện hồ sơ các dự án đã triển khai trước đó để chuẩn bị cho đợt đánh giá giám sát
vào ngày hôm sau. Theo Phó Giám đốc kinh doanh, các thủ tục của ISO đang cản
trở tiến độ thực hiện các công việc của kinh doanh. Không những vậy, ông này
thẳng thắn: Công ty nên dừng việc áp dụng ISO!
Theo ông giám đốc, đây không phải lần đầu tiên cán bộ của công ty phàn nàn về
các phiền hà do việc áp dụng ISO 9000 đem lại. Phòng kinh doanh phàn nàn rằng
các thủ tục ISO quá rườm rà, mất thời gian mà không có giá trị gia tăng nào. Phòng
kỹ thuật lại cho rằng thủ tục ISO làm giảm sự sáng tạo cản trở mọi người trong
việc thay đổi phương pháp làm việc. Phòng vật tư từ khi áp dụng ISO luôn phải
làm thêm giờ vì phải điền dữ liệu vào rất nhiều sổ khác nhau để đủ hồ sơ cho đánh
giá ISO. Đại diện lãnh đạo về chất lượng cũng phàn nàn vì thỉnh thoảng lại phải
giải quyết các tranh cãi của xưởng sản xuất và phòng KCS. Cả hai đơn vị cùng
kiểm tra chất lượng sản phẩm, phòng KCS quyết định là lô hàng sản xuất không
đạt nhưng xưởng sản xuất cũng kiểm tra trong quá trình sản xuất và thấy rằng theo
tiêu chí của xưởng đề ra thì lô hàng vẫn đạt yêu cầu.
Rõ ràng, có rất nhiều ý kiến cho rằng việc áp dụng ISO đem lại nhiều rắc rối và
phiền hà. Tuy nhiên, Giám đốc công ty thấy rằng việc áp dụng ISO cũng đã đem lại
nhiều lợi ích cho công ty. Nếu như trước đây, hồ sơ thầu thường xuyên có sai sót,
có khi dẫn tới thua thầu chỉ vì những sai sót nhỏ thì từ khi chuẩn hóa quá trình lập
và kiểm tra hồ sơ thầu, không còn sai sót phát sinh và tỷ lệ thắng thầu đã cao hơn.
Cũng từ khi áp dụng ISO 9000, nhân viên mới được tuyển dụng dễ dàng thực hiện
công việc theo đúng yêu cầu vì đã có các hướng dẫn cụ thể cho từng bước thực
hiện công việc. Mỗi khi có sự cố về chất lượng, phân xưởng sản xuất có thể tìm
ra nguyên nhân rất nhanh chóng để tìm giải pháp khắc phục nhờ tra cứu lại các sổ
sách theo dõi quá trình sản xuất. Nhờ đó, chất lượng sản phẩm đã được ổn định
hơn và số lần xảy ra sự cố giảm đi trông thấy. Cũng nhờ áp dụng ISO 9000 mà
công ty có nhiều thông tin phản hồi của khách hàng về chất lượng sản phẩm và
nhờ đó, nhiều sáng kiến cải tiến sản phẩm đã được triển khai và đem lại hiệu quả
kinh
tế.
Làm thế nào để vẫn giữ được các lợi ích của việc áp dụng ISO và giảm thiểu
phiền hà do ISO đem lại? Giám đốc công ty đem câu hỏi này đi hỏi lãnh đạo các
công ty đã áp dụng ISO và các đơn vị tư vấn và có được các lời khuyên khá trái
ngược nhau. Có lãnh đạo đã quyết định bỏ áp dụng ISO ngay sau khi gặp những
rắc rối và cản trở do ISO đem lại. Có lãnh đạo khuyến khích cán bộ kiên trì, bỏ
thêm một chút thời gian để cố gắng giữ được chứng chỉ ISO. Và cũng có lãnh đạo
đã bỏ thời gian, công sức để tìm hiểu gốc rễ vấn đề và tìm giải pháp khắc phục.
Kinh nghiệm thành công được các đồng nghiệp này chia sẻ đã giúp Giám đốc công
ty A tìm ra giải pháp để trả lời câu hỏi trên. Ông đã cùng các cán bộ quản lý công ty
xây dựng kế hoạch thực hiện trong vòng 4 tháng để cải cách toàn diện hệ thống
ISO của công ty. Việc đầu tiên là đưa toàn bộ các tài liệu ISO và các tài liệu phục
vụ quản lý của công ty lên mạng nội bộ, đơn giản hóa thủ tục sửa đổi các tài liệu
đã phê duyệt, giúp cán bộ nhân viên dễ dàng tìm hiểu và cải tiến các bước thực
hiện công việc khi có nhu cầu. Tiếp theo là rà soát lại toàn bộ thủ tục đã ban hành,
áp dụng các công cụ của sản xuất tiết kiệm (Lean manufacturing) để làm đơn giản
hóa các bước thực hiện công việc trong thủ tục và tạo sự phối hợp công việc giữa
các đơn vị một cách mạch lạc. Các biểu mẫu được số hóa dần để các dữ liệu liên
quan tới toàn bộ quá trình kinh doanh, mua hàng, sản xuất, kiểm tra chất lượng sản
phẩm được đưa lên mạng giúp quá trình phân tích dữ liệu, dự báo sản xuất, phát
hiện các vấn đề về chất lượng được thực hiện nhanh và đồng bộ, giảm thiểu việc
lưu hồ sơ giấy với dữ liệu vừa không chính xác vừa khó phân tích. Tất cả các công
việc cải tiến đều đi kèm chính sách khen thưởng đối với cán bộ tích cực tham gia
và có nhiều sáng kiến được áp dụng.
Kết quả sau 4 tháng triển khai kế hoạch cải tiến toàn diện hệ thống ISO, giám
đốc công ty đã có thể rất hài lòng vì thay cho các lời phàn nàn trước đây là các ý
kiến khen ngợi về các giá trị gia tăng do hệ thống ISO đem lại. Đồng thời, mọi cán
bộ nhân viên đều tích cực cải tiến thêm các quy trình thực hiện công việc để hiệu
quả cao hơn.
ISO chỉ thực sự hiệu quả nếu doanh nghiệp áp dụng một cách triệt để
Như vậy, ISO 9000 nếu sử dụng khéo léo sẽ đem lại hiệu quả to lớn cho công
tác quản lý doanh nghiệp. Ngược lại, nếu áp dụng nửa vời thì có thể có tác động
tiêu cực không nhỏ.
Nhược điểm lớn nhất của ISO 9000 là nó giết chết tính sáng tạo của hàng triệu
người lao động chỉ vì người ta phải chú tâm tuân thủ các tiêu chuẩn trong sản xuất
hàng ngày. Điều thứ 2 là sẽ xảy ra điều gì nếu hầu hết các doanh nghiệp đều được
chứng nhận ISO 9000. Câu hỏi này chưa cần phải trả lời ngay lúc này vì chúng ta
chỉ mới áp dụng và chứng nhận ISO 9000 được hơn 10 năm nay. Nhưng không phải
vì thế mà chúng ta không nghĩ đến một thực tế có thể diễn ra trong những năm tới;
các nhà sản xuất cùng ngành nghề đều được chứng nhận ISO 9000. Giả sử hiện
nay chúng ta có 20 công ty xây dựng hàng đầu. Một số công ty trong đó được chứng
nhận ISO 9000 sẽ có lợi thế trong đấu thầu xây dựng. Nhưng nếu sau 5 năm nữa
hầu hết 20 công ty đều có chứng nhận ISO 9000 thì sẽ không tạo ra lợi thế cạnh
tranh cho những doanh nghiệp có nó như hiện nay nữa.
Mặc dù các tiêu chuẩn của hệ thống môi trường và cấp nhãn hiệu môi trường ISO
có thể hoà hợp các tiêu chuẩn đơn phương khác nhau, song chúng không giải quyết
được tất cả các vấn đề mà các nước đang phát triển đang gặp phải. Các chi phí cho
việc tuân thủ có lẽ sẽ được giảm xuống tới một mức độ nào đó song nó vẫn còn là
một trở ngại đáng kể cho phần lớn các công ty tại các nước đang phát triển. Vấn
đề thiếu hoặc chưa có các cơ sở cấp chứng chỉ, công nghệ thích hợp cũng như kiến
thức cần thiết và trình độ chuyên môn phù hợp không thể giải quyết được bằng
cách đưa ra các tiêu chuẩn quốc tế.
Hiện nay, kiến thức khoa học về việc làm thế nào để cân đong được các tác
động môi trường khác nhau hoặc đánh giá được tác động môi trường của sản phẩm
là chưa thể có được. Do vậy, việc quyết định là một sản phẩm này thân thiện hơn
về mặt môi trường so với sản phẩm kia trong cùng một loại sẽ được dựa vào ở
một mức độ nào đó các đánh giá giá trị. Thiếu kiến thức khoa học không thể giải
quyết được bằng các tiêu chuẩn, mặc dù một cơ chế quốc tế như quy trình xây
dựng tiêu chuẩn của Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế có thể đẩy mạnh các hoạt động
nghiên cứu trong lĩnh vực này trong tương lai.
CD 14001 đã được soạn thảo ra theo cách thức là nhường quyền giải thích cho
người sử dụng (như các nhà tư vấn và đăng ký) là những người có ảnh hưởng lớn
tới thương mại quốc tế. Một vấn đề còn lại cần giải quyết đó là làm thế nào ISO
có thể đảm bảo rằng các nhà đăng ký trở nên khách quan và độc lập với các nhà đề
ra các quy định, các cơ quan thẩm quyền địa phương, và những người xin đăng ký.
ISO 9000 đã bị phê phán là nó bị thương mại hoá quá mức và để ngỏ để cho các nhà
tư vấn lạm dụng. Nếu điều tương tự xảy ra với ISO 14000, thì sự việc thậm chí là
nghiêm trọng hơn vì các vấn đề môi trường tác động mạnh hơn đến những người
chịu tác động so với các vấn đề về chất lượng.
CD 14001 không đưa ra các chỉ tiêu hoạt động môi trường bắt buộc. Nó chỉ yêu
cầu các công ty thực hiện tuân theo luật pháp môi trường quốc gia.
Do vậy, mức độ hoạt động môi trường đã được thực hiện sẽ bị ràng buộc với
các yêu cầu của quy chế tại bất kỳ nước nào xét đến. Điều rõ ràng là thậm chí đối
với việc thực hiện ISO 14001 trong một đất nước mà các luật pháp không đủ mạnh
và kém hiệu lực sẽ tụt hậu hơn so với các công ty tại các nước có các quy chế phát
triển cao hơn. Các chính phủ của các quốc gia vì vậy có một vai trò quan trọng
trong việc tăng cường các luật môi trường của mình. Giả sử các quy chế khác nhau
ở mỗi nước, cấp chứng chỉ ISO 14001 không thể sử dụng để đánh giá hoạt động
môi trường của công ty. Nó đơn giản chỉ là một biện pháp cam kết của công ty đáp
ứng các yêu cầu của nước mà công ty đó hoạt động tại đó. Về việc hợp tác giữa
các nước, các tiêu chuẩn ISO 14000 không thể đảm bảo được là các tiêu chuần cao
nhất được áp dụng cho các hoạt động của họ trên quy mô toàn cầu.
3/M
ột số kiến nghị
Nhà nước tập trung hoàn thiện luật và tính hiệu lực trong việc thực thi luật. Các
trách nhiệm ngoài luật (đạo đức, từ thiện), cơ chế tự nguyện cần được khuyến
khích vì đó là sự tương tác giữa doanh nghiệp và xã hội. Nhà nước chỉ nên gián tiếp
tác động thông qua các cơ chế như NGOs, hiệp hội, mạng lưới cộng đồng, giáo
dục, nâng cao ý thức người dân.
Đồng thời qua quá trình áp dụng các tiêu chuẩn đó, tìm ra được những thiếu xót,
những lỗ hổng của các tiêu chuẩn đó từ đó rút ra được những kinh nghiệm, sửa đổi
bổ sung cũng như hoàn thiện hơn về các bộ tiêu chuẩn.
Nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp trong việc thực hiện cũng như phát huy
đóng góp những thiếu xót cho nhà nước để sửa đổi hoàn thiện hơn cho các bộ tiêu
chuẩn. Nhà nước cần giám sát chặt chẽ việc thực hiện cũng như quản lý chặt chẽ
trong việc cấp phép và xác định các tiêu chuẩn nhằm sử phạt răn đe những tổ chức
cá nhân vi phạm gây thiệt hại cho đất nước.
Việc thực hiện các bộ tiêu chuẩn trên dựa trên sự công bằng bình đẳng và lợi ích
lâu dài cho đất nước, nên tránh việc kiểm tra giám sát qua loa…. Đồng thời khuyến
khích các doanh nghiệp thực hiện, có những chính sách khuyến khích và động viên
họ.
4/ Kết luận
Nhìn chung qua việc phân tích áp dụng của các doanh nghiệp cũng như việc thực
hiện thì nhận thấy còn nhiều thiếu xót bất cập. Trên thực tế không đem lại nhiều
lợi ích cho tổ chức xét trên các mặt cũng như vẫn chưa đáp ứng được về chất
lượng sản phẩm và ảnh hưởng đến môi trường. Mở ra những hướng nghiên cứu
mới trong việc đo lường ảnh hưởng của việc thực hiện ISO với từng chỉ tiêu về
hiệu quả làm cơ sở cho việc nghiên cứu hiệu quả việc áp dụng – điều chỉnh các
chỉ tiêu ISO tại Việt Nam sau này. Ngoài ra, còn thức tỉnh các tổ chức xem xét kỹ
lưỡng trước khi quyết định thực hiện hệ thống quản lý chất lượng theo ISO. Giúp
Việt Nam đứng vững và phát triển trong nền kinh tế thị trường hiện nay mà vẫn
đảm bảo đời sống sức khỏe và lợi ích cho các cá nhân con người trên lãnh thổ Việt
Nam.
Qua đây em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Ngọc Tuấn đã tận tình hướng dẫn
và cung cấp tài liệu tham khảo để em có thể thực hiện tốt chuyên đề này.