Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Tăng cường thực hiện trách nhiệm xã hội nghiên cứu trường hợp Công ty cổ phần Sông Đà 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 78 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
o0o




LÊ ANH HƢNG




TĂNG CƢỜNG THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP CÔNG TY CỔ PHẦN
SÔNG ĐÀ 6









































LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH










HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
o0o





LÊ ANH HƢNG




TĂNG CƢƠNG THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP CÔNG TY CỔ PHẦN
SÔNG ĐÀ 6

Chuyên ngành : Quản trị kinh doanh
Mã số : 60 34 05



















LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH






NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HÀ VĂN HỘI



HÀ NỘI - 2014
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT i
DANH MỤC BẢNG BIỂU ii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ iii

Chƣơng 1: GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài 2
1.3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 8
1.4 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 9
1.5 Phương pháp nghiên cứu 10
1.6 Những hạn chế của nghiên cứu 10
1.7 Bố cục của luận văn 11
Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CSR 12
2.1 Lịch sử hình thành và phát triển CSR 12
2.2 Khái niệm và bản chất về CSR 14
2.3 Lợi ích của việc thực hiện CSR 18
2.4 Các nội dung thực hiện CSR 22
Chƣơng 3: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
3.1 Phương pháp tiếp cận 25
3.2 Phương pháp nghiên cứu định lượng 27
3.3 Phương pháp nghiên cứu định tính 28
3.4 Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia, phương pháp Case study 30
3.5 Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu 31
Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 32
4.1 Tổng quan về công ty cổ phần Sông Đà 6 32
4.2 Mô tả tổng quan mẫu khảo sát 34
4.3 Kết quả từ phương pháp nghiên cứu định lượng 35
4.4 Kết quả từ phương pháp nghiên cứu định tính 44
Chƣơng 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 50
5.1 Nhóm giải pháp từ phía nhà nước 50
5.2 Nhóm giải pháp từ phía Công ty cổ phần Sông Đà 6 54
5.3 Gợi ý hướng nghiên cứu trong tương lai 58
5.4 Kết luận 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO 60

DANH MỤC PHỤ LỤC 62
i

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
Nguyên nghĩa
Tiếng Anh
Tiếng Việt
CBCNV

Cán bộ công nhân viên
CSR
Corporate social responsibility
Trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp
CoC
Code of conduct
Bộ quy tắc ứng xử
ISO
International Organization for
Standardization
Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế
VCCI
Vietnam Chamber of
Commerce and Industry
Phòng thương mại và công
nghiệp Việt Nam
WTO
World Trade Organization

Tổ chức thương mại thế giới
















ii

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Số hiệu
Nội dung
Trang
Bảng 4.1
Đặc điểm mẫu khảo sát
34
Bảng 4.2
Đặc điểm về giới trên toàn Công ty
34

Bảng 4.3
Đánh giá thực hiện các chính sách tại nơi làm việc tiếp cận từ
phía người lao động
38
Bảng 4.4
Đánh giá thực hiện các chính sách về môi trường tiếp cận từ
phía người lao động
40
Bảng 4.5
Đánh giá thực hiện các chính sách thị trường tiếp cận từ phía
người lao động
41
Bảng 4.6
Đánh giá thực hiện các chính sách với cộng đồng tiếp cận từ
phía người lao động
42
Bảng 4.7
Đánh giá thực hiện các chính sách đối với giá trị doanh
nghiệp tiếp cận từ phía người lao động
43




























iii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ

Số hiệu
Nội dung
Trang
Biểu đồ 2.1
Mô hình “kim tự tháp” CSR của Carroll 1991
22
Biểu đồ 3.1
Mô hình nghiên cứu
26

Biểu đồ 4.1
Mô hình tổ chức Công ty cổ phần Sông Đà 6
33
Biểu đồ 4.2
Hiểu biết và nhận thức của người lao động về trách nhiệm
kinh tế
35
Biểu đồ 4.3
Hiểu biết và nhận thức của người lao động về trách nhiệm
pháp lý
36
Biểu đồ 4.4
Hiểu biết và nhận thức của người lao động về trách nhiệm
đạo đức
37
Biểu đồ 4.5
Hiểu biết và nhận thức của người lao động về trách nhiệm
từ thiện
37































1

Chƣơng 1
GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay CSR (corporate social responsibility – Trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp) trở thành một nội dung quan trọng và không thể thiếu trong hoạt
động quản trị chiến lược của tất cả các doanh nghiệp, dù doanh nghiệp hoạt động ở
thời điểm nào, theo thể chế kinh tế nào. Theo đó Doanh nghiệp phát triển bền vững
là những doanh nghiệp ngoài việc tạo ra lợi nhuận cho chính bản thân mình còn cần

phải tạo ra giá trị cho cộng đồng và xã hội. Muốn vậy doanh nghiệp cần phải thực
hiện tốt CSR; coi CSR là một phần trong chiến lược kinh doanh của mình.
Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức
WTO (World Trade Organization – Tổ chức thương mại thế giới); đánh dấu một
bước tiến quan trọng trong sự hội nhập với kinh tế thế giới. Hội nhập kinh tế quốc
tế là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa có nhiều cơ hội và cũng không ít
thách thức. Tham gia vào sân chơi thế giới đồng nghĩa Việt Nam phải tuân thủ
những qui định của luật pháp quốc tế trong đó việc đẩy mạnh thực hiện CSR là một
trong những vấn đề quan trọng và cấp thiết.
Không thể phủ nhận những thành quả to lớn mà cộng đồng doanh nghiệp Việt
đã đóng góp cho tăng trưởng và phát triển kinh tế, tuy nhiên trong cuộc chạy đua
của lợi nhuận và tăng trưởng, một số lượng lớn các doanh nghiệp đã bộc lộ những
mặt trái của nền kinh tế thị trường. Tình trạng các doanh nghiệp xả thải chưa qua xử
lý ra môi trường như trường hợp Vedan; hay những hành vi gian lận thương mại,
công bố sai hoặc không minh bạch về nguồn gốc sản phẩm, tính năng công dụng,
thực phẩm nhiễm độc, hàng tiêu dùng kém chất lượng…
Kết quả khảo sát gần đây do viện Khoa học lao động và xã hội tiến hành trên
24 doanh nghiệp thuộc ngành da giầy và Dệt may chỉ ra rằng, nhờ thực hiện các
chương trình CSR, doanh thu của các doanh nghiệp này đã tăng 25%; năng suất lao
động cũng tăng từ 34,2 triệu đồng lên 35,8/ 1 lao động/năm; tỷ lệ hàng xuất khẩu
tăng từ 94% lên 97%. Kết quả trên cho thấy thực hiện tốt CSR; có chiến lược phát
triển các hoạt động CSR hợp lý và dài hạn sẽ là một yếu tố quan trọng góp phần
2

nâng cao uy tín và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường và trong tiềm thức người
tiêu dùng. Nhận thức được lợi ích to lớn mà các chương trình CSR mang lại, ngày
nay nhiều doanh nghiệp Việt đã đăng ký thực hiện CSR coi đó như là sự cam kết
của doanh nghiệp đóng góp vào sự phát triển kinh tế bền vững, hợp tác cùng người
lao động, gia đình họ, cộng đồng và xã hội nói chung để cải thiện chất lượng cuộc
sống, vừa tốt cho doanh nghiệp vừa lợi cho phát triển xã hội.

Xây dựng là ngành thu hút lực lượng lao động lớn, liên quan đến nhiều ngành
kinh tế và có rất nhiều vấn đề xã hội cũng như môi trường nghiêm trọng có khả
năng để lại những hậu quả lớn cho xã hội cần sớm được giải quyết. Tuy nhiên, việc
triển khai các hoạt động CSR một cách sâu rộng trong các doanh nghiệp ngành xây
dựng còn gặp nhiều khó khăn do hạn chế về nhận thức của lãnh đạo doanh nghiệp
và người lao động, thiếu sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật… Thêm vào đó, khủng
hoảng kinh tế và tình trạng đóng băng của thị trường bất động sản đã làm cho vấn
đề càng trở nên nghiêm trọng và cấp thiết hơn. Xuất phát từ lý do trên tác giả chọn
nghiên cứu đề tài: “Tăng cƣờng thực hiện trách nhiệm xã hội: nghiên cứu
trƣờng hợp Công ty cổ phần Sông Đà 6” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành quản
trị kinh doanh. Nghiên cứu nhằm mục đích đánh giá thực trạng, mức độ hiểu biết,
nhận thức của lãnh đạo Công ty và người lao động về CSR. Từ đó đưa ra một số
kiến nghị, đề xuất nhằm tăng cường thực hiện CSR tại Công ty trong thời gian tới.
1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
CSR là cam kết của doanh nghiệp đáp ứng các nhu cầu của tất cả các bên liên
quan trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. CSR được thể hiện thông qua
hàng loạt các quy định, quy tắc nhằm đảm bảo doanh nghiệp phát triển bền vững.
Để thực hiện điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp không những phải có trách nhiệm
trong việc ra quyết định về tài chính/kinh tế mà còn phải chịu trách nhiệm với
những hệ quả tác động đến môi trường và xã hội. Từ thập kỷ 80, CSR đã trở thành
một chủ đề được nhiều học giả nghiên cứu. Tất cả các kết quả đều cho thấy việc
kinh doanh gắn với CSR luôn có tác động tích cực đến kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Do đó CSR được xem như chiến lược quan trọng nhằm
tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp phát triển bền vững có nghĩa
ngoài mục tiêu lợi nhuận doanh nghiệp
còn phải tạo ra các giá trị cho cộng đồng và xã hội.

3

1.2.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới

Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về CSR cho thấy tầm quan
trọng của CSR đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Trong cuốn “Corporate
Social Responsibility and the Shaping of Global Public Policy“, Hardcover (Dec.
12, 2006), tác giả matthew J.Hischland đã đề cập đến các quy định kinh doanh toàn
cầu mới – sự hiểu biết của Công ty về CSR; và CSR thực hành đáp ứng lý thuyết –
quản trị toàn cầu và mạng lưới chính sách toàn cầu. Muhammad Yunus trong
“Building Social Business: The New Kind of Capitalism That Serves Humanity's
Most Pressing Needs” lại thông qua những gương điển hình của các doanh nghiệp
đã thành công nhờ biết quan tâm nhiều đến CSR. Qua đó giúp các doanh nghiệp
thấy được lợi ích mà CSR mang lại cho sự thành công của doanh nghiệp.
Oyvind Ihlen, Betteke Van Ruler, Magnus Fredriksson khi bàn về vấn đề:
Quan hệ công chúng và lý thuyết xã hội nới rộng phạm vi lý thuyết của quan hệ
công chúng trong “Public Relations and Social Theory: Key Figures and
Concepts” (Routledge Communication Series) tập trung chủ yếu vào các khái niệm
như niềm tin, tính hợp pháp, sự hiểu biết, phản xạ, cũng như về các vấn đề về hành
vi, năng lượng, và ngôn ngữ.
Carroll, A. B. (1979), A three-dimensional conceptual model of orporate
Performance, Academy of Management Review 1979, Vol.4, No.4, 497-505. Đã
cung cấp một mô hình khái niệm mô tả toàn diện các khía cạnh thiết yếu trong hoạt
động xã hội của doanh nghiệp. Đồng thời giải đáp các câu hỏi : (1) CSR bao gồm
những thành phần nào?; (2) Tổ chức phải giải quyết các vấn đề xã hội như thế nào?;
và (3) Mô hình của tổ chức đáp ứng xã hội là gì?. Hoạt động CSR đòi hỏi (1) Đánh
giá được CSR; (2) Nhận biết một cách rõ ràng các vấn đề xã hội; và (3) Lựa chọn
một triết lý kinh doanh phù hợp. Các mô hình được trình bày nhằm nỗ lực làm rõ
hơn các khía cạnh quan trọng trong khung lý thuyết điều mà sẽ giúp ích rất nhiều
cho các học giả cũng như các nhà quản lý. Ngoài ra nó cũng trình bày các khái niệm
về đạo đức và trách nhiệm thi hành khi xét thấy cần trong bối cảnh mà có lẽ sẽ dễ
chấp nhận hơn cho những người nghĩ rằng vấn đề kinh tế đã biến mất trong cuộc
4


tranh luận về CSR. Mô hình này được sử dụng để giúp các nhà quản lý khái niệm
hóa các vấn đề quan trọng trong hoạt động xã hội, hệ thống lại tư duy về các vấn đề
xã hội, nhằm cải thiện việc lập kế hoạch và đưa ra các nhận định chính xác trong
lĩnh vực hoạt động xã hội. Dù xét ở bất kỳ khía cạnh nào thì mô hình cũng giúp
doanh nghiệp hoàn thành các mục tiêu đề ra.
Carroll (1999) đề xuất mô hình “kim tự tháp” về CSR bao gồm trách nhiệm
kinh tế, pháp lý, đạo đức và từ thiện. Đây là mô hình có tính toàn diện và khả thi,
được sử dụng rộng rãi làm khuôn khổ cho chính sách và nghiên cứu về CSR. Thứ
nhất, trách nhiệm kinh tế thể hiện qua hiệu quả và tăng trưởng, là điều kiện tiên
quyết bởi doanh nghiệp được thành lập trước hết từ động cơ tìm kiếm lợi nhuận của
doanh nhân. Thứ hai, trách nhiệm tuân thủ pháp luật chính là một phần của bản
“khế ước” giữa doanh nghiệp và xã hội. Trách nhiệm kinh tế và pháp lý là hai bộ
phận cơ bản, không thể thiếu của CSR. Thứ ba, trách nhiệm đạo đức là những quy
tắc, giá trị được xã hội chấp nhận nhưng chưa được “mã hóa” vào văn bản luật. Và
cuối cùng, trách nhiệm từ thiện là các hoạt động mang tính từ thiện mà doanh
nghiệp thực hiện đối với cộng đồng mà không có tính vụ lợi trong đó.
Surroca, Jordi, Joseph A.Tribo & Sandra Waddock. (2010) khi tìm hiểu xem
liệu các nguồn lực vô hình có liên kết việc thực hiện CSR với hoạt động tài chính
của doanh nghiệp. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng các doanh nghiệp có thể cải thiện hiệu
suất tài chính của doanh nghiệp và thực hiện CSR bằng cách đầu tư và đổi mới, trao
quyền cho nhân viên.Các khoản đầu tư có thể mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và
các bên liên quan, giúp doanh nghiệp tiếp cận các thị trường mới, thu hút và giữ
chân người lao động tốt hơn và hiệu quả hơn. Các khoản đầu tư quan trọng có thể
còn giúp nâng cao hình ảnh thương hiệu và cho phép Công ty cạnh tranh về giá.
Nghiên cứu này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đưa các biến tài sản vô
hình khi đánh giá mối liên hệ giữa CRP (corporate responsibility performance) và
CFP (corporate responsibility performance). Nghiên cứu cũng đưa ra một số hướng
hành động cho các nhà quản lý đó là: (1) Chế tạo các sản phẩm và quy trình sáng
tạo giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường cho phép bạn dễ dàng tiếp cận thị trường
5


mới. (2) Đẩu tư vào các hoạt động CSR để nâng cao hình ảnh thương hiệu, chủ
động về giá thành và cải thiện mối quan hệ với các bên liên quan. Khi thực hiện tốt
CSR sẽ cho phép Công ty dễ dàng thương lượng các điều khoản tốt hơn với nhà
cung cấp và các tổ chức tài chính, xây dựng lòng trug thành của khách hàng. (3) Cải
thiện văn hóa Công ty bằng cách đối xử với nhân viên một cách trung thực và công
bằng. Xây dựng và ban hành các chính sách quy định về đạo đức kinh doanh, sức
khỏe và an toàn lao động, việc làm công bằng, tự do lập và tham gia các hiệp hội,
chính sách lao động và tiền lương. Văn hóa doanh nghiệp tốt tạo ra lòng trung thành
của nhân viên cao hơn, nâng cao tinh thần và năng suất lao động, giúp doanh nghiệp
thu hút được nhiều lao động có trình độ. Tất cả những lợi ích trên sẽ lần lượt cải
thiện kết quả tài chính của doanh nghiệp. (4) Tạo môi trường làm việc lành mạnh,
an toàn, chế độ phúc lợi, y tề giáo dục và các chương trình đào tạo. Đầu tư nguồn
lực giúp nâng cao vị thế nhân viên, tăng động lực và sự hài lòng, tăng năng suất lao
động. Nghiên cứu cũng còn hạn chế do cách định nghĩa về tài sản vô hình còn chưa
thống nhất, Tại các nền kinh tế khác nhau, thì biến tài sản vô hình cũng khác nhau
nên rất khó để đưa hết các biến tài sản vô hình vào trong nghiên cứu đánh giá.
Turker, D. (2009a). Measuring corporate social responsibility: A scale
development study. Journal of Business Ethics, 85, 411-427. Trong nghiên cứu của
mình Turker đã đề xuất một công cụ gồm bốn yếu tố. Nó cho phép đo mức độ nhận
thức CSR đối với các bên liên quan: xã hội, nhân viên, khách hàng và chính phủ.
Nhưng nghiên cứu này chỉ tập trung chủ yếu vào đối tượng là các chuyên gia kinh
tế trẻ, những người có trình độ học vấn cao và thực hiện công việc lao động trí óc.
1.2.2 Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Trước đây, khi đánh giá sự thành công của một doanh nghiệp, mọi người mới
chỉ dừng lại ở việc xem xét các chỉ tiêu hữu hình như doanh số, lợi nhuận, mức
lương trả cho nhân viên hay số thuế đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Trong khi
đó, những chỉ tiêu vô hình như CSR hầu như chưa được nhắc đến. Và đã có nhiều ý
kiến cho rằng, các vấn đề trách nhiệm xã hội là của Nhà nước chứ không phải của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, những năm gần đây, nhận thức về CSR đã thay đổi. Thực

6

tế, không chỉ những doanh nghiệp lớn mà ngay cả những doanh nghiệp nhỏ và vừa
vẫn đạt mục tiêu lợi nhuận trong khi vẫn thực hiện tốt trách nhiệm của mình với
cộng đồng và xã hội.
Kết quả khảo sát tại 24 doanh nghiệp thuộc hai ngành dệt may và da giày do
Viện Khoa học Lao động và Xã hội tiến hành đã chỉ ra rằng nhờ thực hiện các
chương trình CSR như: xây dựng chế độ lương, thưởng hợp lý; tạo điều kiện cho
người lao động có nơi làm việc an toàn, hợp vệ sinh; xây dựng nhà ở cho công
nhân Đã giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, đời sống người lao động được đảm
bảo. Ngoài hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp còn có lợi từ việc tạo dựng hình ảnh
với đối tác kinh doanh, sự gắn bó và hài lòng của người lao động, thu hút lao động
có chuyên môn cao. Hiện nay, việc gắn CSR với sự phát triển bền vững của doanh
nghiệp đang là một xu thế tất yếu trên đường hội nhập của doanh nghiệp, bởi CSR
mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, cho xã hội và nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Việc thực hiện tốt CSR chính là đầu tư cho chiến lược kinh doanh dài
hạn và tăng trưởng bền vững của doanh nghiệp.
Theo Giám đốc Văn phòng doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Nguyễn
Quang Vinh, khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp gặp phải khi thực hiện CSR là
do chưa hiểu đúng và thống nhất thế nào là CSR chứ không phải là chi phí để thực
hiện CSR. Thực tế, CSR không chỉ đơn thuần là thực hiện các hoạt động từ thiện
như cách hiểu của nhiều doanh nghiệp mà còn bao gồm trách nhiệm bảo đảm tăng
trưởng kinh tế hiệu quả, tuân thủ pháp luật, đạo đức kinh doanh, chia sẻ khó khăn
với cộng đồng và quan trọng hơn là vì sự tồn tại của chính doanh nghiệp đó. Chính
vì chưa hiểu rõ vai trò quan trọng cũng như lợi ích từ việc thực hiện CSR đem lại
nên nhiều doanh nghiệp đã không thực hiện nghiêm túc CSR. Điều này thể hiện rõ
ràng nhất ở các hành vi như: gian lận trong kinh doanh, sản xuất hàng kém chất
lượng, cố ý gây ô nhiễm môi trường để tối đa hóa lợi nhuận Ngoài ra, nhiều doanh
nghiệp vi phạm các quy định pháp luật về lương bổng, chế độ bảo hiểm, vấn đề an
toàn lao động cho người lao động… Những vấn đề nêu trên đã và đang gây bức xúc

lớn trong xã hội.
7

Với vai trò là thành viên tham gia trong dự án “ Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và
nhỏ thích ứng, áp dụng CSR nhằm cải thiện mối liên kết trong chuỗi cung ứng toàn
cầu, đảm bảo sản xuất bền vững”, Viện Khoa học Lao động Xã hội đã tiến hành
nghiên cứu khung pháp lý, rà soát các chính sách hiện hành có liên quan đến vấn đề
CSR trong lĩnh vực lao động. Cuộc điều tra được tiến hành với 400 doanh nghiệp
nhỏ và vừa tại Việt Nam thuộc các ngành: Da giày, dệt may và điện tử nhằm khảo
sát nhận thức, hiểu biết và thực hiện CSR tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các doanh nghiệp này bước đầu đã nhận thức
được việc đầu tư vào thực hiện CSR sẽ là cơ sở cho sự phát triển bền vững của
doanh nghiệp, ổn định lao động và tăng năng suất. Tuy nhiên quá trình thực hiện
đôi khi còn mang tính thụ động. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện
chưa có các hiểu biết đầy đủ về bản chất cũng như phương pháp áp dụng hiệu quả
các chương trình CSR. Nghiên cứu cũng đề cập đến một số rào cản, thách thức
trong quá trình thực hiện CSR ở Việt Nam. Rào cản đầu tiên đến từ sự hiểu biết
chưa đầy đủ do đó chưa có bước đi và cách làm hiệu quả; thêm vào đó là khả năng
tài chính cũng như năng lực giám sát nội bộ còn hạn chế; Một số quy định trong
luật pháp Việt Nam với các quy định của các bộ quy tắc ứng xử có sự khác biệt nên
khó vận dụng; Chưa có sự hợp tác chặt chẽ giữa các bên liên quan trong quá trình
thực hiện. Nghiên cứu cũng cho thấy vai trò của chính phủ trong việc hỗ trợ các
doanh nghiệp để có thể tiếp cận các sáng kiến về CSR, với mục đích nâng cao khả
năng cạnh tranh trong hội nhập toàn cầu. Tuy nhiên, nghiên cứu trên vẫn chưa giải
thích được cặn kẽ mối liên hệ giữa nhận thức, hiểu biết và thực hiện CSR. Thế nào
được coi là doanh nghiệp có mức độ hiểu biết và áp dụng CSR tốt? liệu có mối tương
quan nào giữa mức độ nhận thức của các doanh nghiệp với việc thực hiện CSR?
Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức trong nghiên cứu của mình với nhan đề
“CSR – một số vấn đề lí luận và yêu cầu đổi mới trong quản lý nhà nước đối với
CSR ở Việt Nam”. Tác giả đã tiếp cận CSR từ góc độ kinh nghiệm quốc tế trong

lĩnh vực này nhờ đó thấy được những vấn đề tồn tại mà Việt Nam phải đối mặt.
Nghiên cứu nhằm giải quyết một số câu hỏi lớn là: (1) Một công ty cần phải làm
8

những gì để có thể được xã hội đánh giá là một công ty tốt và phát triển bền vững?
(2) Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước tới đâu? Luật nên quy định trách
nhiệm của doanh nghiệp đến mức độ nào thì hợp lý? Và (3) Phải chăng người tiêu
dùng ở các nước đang phát triển như Việt Nam có quá ít quyền, dễ bị tổn thương,
hoặc họ cũng không ý thức được đầy đủ và sử dụng hết các quyền và phương tiện
của mình để bảo vệ những lợi ích chính đáng của họ? Từ đó đưa ra giải pháp để giải
quyết các vấn đề tồn tại, đổi mới tư duy trong quản lý nhà nước.
Ngoài ra, tại Việt Nam, còn có thể kể đến một số sách, bài báo tiêu biểu nghiên
cứu về CSR. Trong “Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp - Động lực cho sự phát
triển”, Hoàng Long (2007) đã chứng minh tầm quan trọng của CSR với sự phát
triển xã hội: chú ý phát triển cơ sở hạ tầng cứng và mềm, giao thông vận tải, nhất là
các hành lang kinh tế, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, các ngành dịch vụ
then chốt như tài chính – ngân hàng, viễn thông, các nguồn năng lượng mới và tái
tạo được. Lê Thanh Hà (2006) lại tiếp cận CSR từ vấn đề tiền lương của doanh
nghiệp. Nghiên cứu “Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong vấn đề tiền lương”,
Báo Lao động xã hội, số 290, ngày 15/05/2006 đề cập đến vai trò của tiền lương
như: các mức lương vừa thể hiện vị trí, công việc vừa thể hiện sự chia sẻ lợi ích
giữa các tổ chức, các doanh nghiệp và người lao động vừa thể hiện sự phát triển
nghề nghiệp của mỗi cá nhân người lao động.
Đạo đức kinh doanh và CSR rõ ràng là những vấn đề không thể thiếu trong
sản xuất, kinh doanh. Đó là tài sản quý giá góp phần quan trọng quyết định sự thành
bại của mỗi doanh nghiệp. Hồng Minh (2007) cho rằng thật khó mà thuyết phục
doanh nghiệp thực hiện tốt các vấn đề đạo đức và trách nhiệm bằng những luận cứ
dựa trên lợi ích kinh tế trước mắt. Nguyễn Mạnh Quân (2004) trong Giáo trình
“Đạo đức kinh doanh và văn hoá doanh nghiệp” thì lại coi CSR là một hệ thống các
giá trị, chuẩn mực, phương pháp tư duy ảnh hưởng lớn tới hành động của các thành

viên trong doanh nghiệp.
1.3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là xem xét, đánh giá mức độ hiểu biết và nhận
thức và thực hiện CSR tại Công ty cổ phần Sông Đà 6. Nhằm giải quyết các câu hỏi
nghiên cứu:
9

(1) Tại sao CSR lại có vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp trong nền
kinh tế?
(2) CBCNV Công ty cổ phần Sông Đà 6 đã có nhận thức, hiểu biết và thực thi
CSR trong các hoạt động sản xuất kinh doanh như thế nào?
(3) Trong thời gian tới Công ty cần có những giải pháp gì để tăng cường thực
hiện CSR?
Từ kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tác giả đưa ra một số đề xuất,
kiến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước, Công ty cổ phần Sông Đà 6 nhằm
giúp Công ty tăng cường việc thực hiện CSR trong tương lai.
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã nêu ở trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề
tài là:
- Làm rõ những khái niệm, bản chất về CSR; lợi ích của việc thực hiện tốt
CSR đối với bản thân doanh nghiệp, người lao động, người tiêu dùng, cộng đồng và
xã hội.
- Phân tích, đánh giá mức độ nhận thức và hiểu biết về CSR tại Công ty cổ
phần Sông Đà 6 tiếp cận từ phía ban lãnh đạo và người lao động tại Công ty.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện CSR tại Công ty cổ phần Sông Đà 6
– tiếp cận từ khía cạnh người lao động.
- Kiến nghị và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thực hiện CSR tại
Công ty cổ phần Sông Đà 6.
1.4 Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động CSR tại Công ty cổ phần Sông Đà 6

Địa điểm nghiên cứu: Công ty cổ phần Sông Đà 6 – Tòa nhà TM, Khu đô
thị Văn Khê, Phường La Khê, Quận Hà Đông, Thành Phố Hà Nội.
Thời gian tiến hành nghiên cứu:
- Chuẩn bị, thu thập tài liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu, thiết kế đề
cương, công cụ nghiên cứu: tháng 5 năm 2013.
- Khảo sát, phát phiếu, phỏng vấn và thu thập dữ liệu: tháng 7 – 10 năm 2013.
10

- Tập hợp và xử lý số liệu: tháng 10-12 năm 2013.
- Hoàn thành luận văn và tiến hành bảo vệ tháng 03 năm 2014.
1.5 Phƣơng pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng quan tài liệu (Desk study).
- Phương pháp nghiên cứu sử dụng các thông tin có sẵn: đây là các thông tin
dựa trên các báo cáo thường niên của Công ty (báo cáo tài chính, báo cáo quản trị,
báo cáo kiểm toán …).
- Phương pháp nghiên cứu thực địa: Phỏng vấn trực tiếp người lao động hiện
đang làm việc tại trụ sở Công ty cổ phần Sông Đà 6 theo bảng hỏi.
- Phương pháp phỏng vấn sâu đối với ban lãnh đạo Công ty theo các bảng
câu hỏi bán cấu trúc.
- Sử dụng phần mềm SPSS 16 để nhập dữ liệu, kết quả khảo sát, và xử lý các
kết quả thu về từ phiếu điều tra.
(Cách thức sử dụng các phương pháp nghiên cứu trên để triển khai luận văn
sẽ được trình bày chi tiết ở chương 3)
1.6 Những hạn chế của nghiên cứu
Trong nghiên cứu định lượng (bảng hỏi) đối với người lao động hiện đang làm
việc tại trụ sở chính của Công ty vẫn tồn tại một số vấn đề liên quan đến chất lượng
của cuộc khảo sát nghiên cứu. Đó là một số CBCNV (cán bộ công nhân viên) Công
ty chưa thể trả lời được câu hỏi của cuộc điều tra do thiếu kiến thức. Hoặc ngay cả
khi không hiểu câu hỏi điều tra họ vẫn thực hiện cuộc điều tra bằng cách đánh dấu
ngẫu nhiên dựa theo ý nghĩ chủ quan của bản thân.

Trong nghiên cứu định tính (phỏng vấn sâu), đối tượng phỏng vấn là những
người làm công tác quản lý, lãnh đạo tại Công ty. Những đối tượng này có đặc thù
công việc vô cùng bận rộn do đó việc sắp xếp bố trí thời gian, địa điểm phỏng vấn
gặp nhiều khó khăn. Đồng thời do vai trò quản lý nên nhiều khi các câu trả lời của
họ có phần thiên vị, nói tốt cho doanh nghiệp. Hơn nữa, một vài người có thể không
muốn trả lời những câu phỏng vấn mà họ không có kiến thức và về các vấn đề mà
họ cho là nhạy cảm. Và do đó một số người có thể từ chối dành thời gian để trả lời
các câu hỏi phỏng vấn (Amstrong & Kolter, 2007).
11

Thời gian và kinh phí sử dụng cho nghiên cứu cũng còn hạn chế nên qui mô
mẫu còn nhỏ, chưa mang tính đại diện cho cả ngành xây dựng, chưa dùng qui mô
hồi qui để ước lượng được tác động của việc thực hiện CSR đến kết quả hoạt động
của doanh nghiệp.
Việc tiếp cận với nguồn thông tin tại doanh nghiệp còn hạn chế do Công ty
ngại cung cấp, đặc biệt là các thông tin về tài chính do đó khó xác định được chính
xác lượng kinh phí doanh nghiệp sử dụng cho việc thực hiện CSR.
1.7 Bố cục của luận văn
Bố cục của luận văn bao gồm có 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý luận về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu.
Chương 5: Kết luận và kiến nghị.

12

Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CSR


2.1 Lịch sử hình thành và phát triển CSR
Khi bàn về CSR rất nhiều học giả cho rằng khái nhiệm CSR lần đầu tiên xuất
hiện vào năm 1953 trong cuốn sách “Trách nhiệm xã hội của doanh nhân” của
H.R.Browen. Định nghĩa của Bowen tạo ra một cuộc thảo luận sâu sắc về CSR
trong nửa đầu của thế kỷ XX. Bởi ảnh hưởng sâu rộng trong nghiên cứu của mình,
Ông được trao danh hiệu: "Cha đẻ của CSR" (Caroll 1999).
Giai đoạn những năm 1950, đây là giai đoạn hình thành các khái niệm về
CSR. Giai đoạn này chú trọng cả hai bản qui phạm pháp luật và đạo đức kinh
doanh, Đạo đức kinh doanh nhấn mạnh trong môi trường kinh doanh. Hoạt động từ
thiện và phúc lợi của Công ty cũng xuất hiện trong giai đoạn này.
Các học giả khác cũng xem xét CSR là một trong những mục tiêu quan trọng
cho các doanh nghiệp. Peter Drucker là một trong những người đầu tiên giải quyết
một cách rõ ràng vấn đề CSR. Trong cuốn sách Thực tiễn quản lý năm 1954, ông
chỉ ra rằng “trách nhiệm xã hội đầu tiên của các nhà quản lý doanh nghiệp liên
quan đến việc tạo ra lợi nhuận ", (Joyner & Payne 2002).
Những năm 1960 chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc trong nỗ lực hình thành
nhận thức và định nghĩa về CSR. Sự tăng trưởng của CSR dẫn đến một sự thay đổi
xã hội tích cực: giá trị đạo đức và xã hội được ưu tiên hơn các giá trị kinh tế. Davis,
Frederick và Walton là 3 học giả nổi tiếng người Đức, những người có những quan
điểm giống nhau về CSR khi cho rằng việc quản lý doanh nghiệp phải nhằm tới
mục tiêu dài hạn, các quyết định quản trị cần phải được mở rộng không chỉ dừng lại
ở lợi ích doanh nghiệp mà còn phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội (Carroll, 2008).
Davis (1960) định nghĩa CSR là quyết định kinh doanh, phản ánh các mục tiêu dài
hạn của một tổ chức và khách hàng tiềm năng có trách nhiệm với xã hội hơn là lợi
ích kinh tế. Theo ông CSR là có liên quan với những kết quả đạo đức (Davis 1967)
Ngoài ra, Frederick (1960) cho rằng "CSR nên bao hàm việc bố trí các nguồn nhân
13

lực, vật lực cho mục đích xã hội rộng lớn, không chỉ đơn thuần là vì lợi ích nhỏ hẹp
của bản thân một số cá nhân hay doanh nghiệp”. (Frederick theo Carroll 1999, p.

271). Walton (1967, trích dẫn trong Carroll, 2008) nói thêm rằng các hành động
CSR nên mang tính tự nguyện, thường xuyên và các tổ chức nên tham gia, không vì
mục đích kinh tế; ngay cả khi việc đó có thể phát sinh chi phí.
Đầu những năm 1970 xuất hiện một vài quan điểm hoài nghi về CSR. Tạp chí
New York Times đăng một bài viết của Milton Friedman trong đó ông tuyên bố
rằng "có một và chỉ một CSR – sử dụng nguồn lực của mình và tham gia vào các
hoạt động được thiết kế nhằm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp miễn là tuân thủ
theo các quy tắc của luật chơi "(Friedman, 1970)
Trong suốt những năm 1970 xuất hiện thuật ngữ CSP (corporate social
performance). CSP mô tả 3 mức độ công ty tham gia vào CSR (Hodgetts, 2001) bao
gồm: nghĩa vụ xã hội (social obligation), trách nhiệm xã hội (social responsibility)
và đáp ứng xã hội (social responsiveness).
Vào những năm 1980 và 1990 các thuật ngữ về CSR trước đó vẫn được tiếp
tục sử dụng, đây là giai đoạn mà các nghiên cứu về CSR tập trung vào bổ xung và
hoàn thiện. Các chủ đề nghiên cứu trong giai đoạn này ít tập trung về định nghĩa mà
chủ yếu xét đến tính bền vững xã hội. Các chủ đề bổ xung quan trọng có thể kể đến
trong giai đoạn này là: lý thuyết các bên liên quan, đạo đức kinh doanh, phát triển
bền vững, quyền con người,… Lý thuyết các bên liên quan có thể là chủ đề quan
trọng nhất trong các chủ đề bổ xung. Lý thuyết này cho rằng nên xem xét không chỉ
những cá nhân và nhóm người có cổ phần trong các Công ty, mà còn phải xét đến
bất kỳ cá nhân hoặc nhóm có "cổ phần" trong Công ty (Mele, 2008), điều gần đây
đã trở thành một trong những khía cạnh chính của CSR. Giai đoạn này cũng bắt đầu
với một quan điểm thú vị trong nghiên cứu của Jones (1980) khi ông cho rằng CSR
là tự nguyện và việc thực hiện CSR không phải là một kết quả, mà là một quá trình.
Carroll (1991) sau khi xem xét lại bốn phần trước định nghĩa về CSR của
mình đã mô tả các danh mục theo thứ tự như một kim tự tháp. Bằng cách làm như
vậy, CSR đã được giả định về các mức độ khác nhau của nó. Ngoài việc phát triển
14

các kim tự tháp, Carroll tiếp tục đề xuất một sự phù hợp tự nhiên giữa các cổ đông

CSR. Về cơ bản, lý thuyết cổ đông (Freeman 1984) cá nhân hoá CSR bởi nhóm cổ
đông được quy định cụ thể, những người cần được xem xét trong các hoạt động
kinh doanh. Đây cũng là cách để thay đổi quan điểm CSR từ cấp độ tổ chức thành
cấp độ cá nhân. Phát triển nổi bật của CSR trong giai đoạn này là cuộc tranh luận
toàn cầu về phát triển bền vững. Định nghĩa về phát triển bền vững do Ủy ban Môi
trường và phát triển Thế giới thường được trích dẫn trong các quan điểm về CSR,
theo đó:
“Phát triển có nghĩa là chỉ tập trung thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hiện tại mà
không cam kết đảm bảo nguồn tài nguyên cho những thế hệ trong tương lai. Còn
phát triển bền vững là không chỉ đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội đơn
thuần mà còn cam kết, đảm bảo nhu cầu của những người nghèo và thừa nhận giới
hạn về nguồn tài nguyên thiên nhiên của thế giới”. (Ủy ban Môi trường và Phát
triển Thế giới, năm 1987).
Thế kỷ 21, CSR đã trở thành một khái niệm quan trọng trong học viện và giới
kinh doanh. CSR đã được tranh luận trong nền kinh tế toàn cầu và tập trung vào các
tập đoàn đa quốc gia. Do đó, một cái nhìn tích hợp của CSR trong kinh doanh là cần
thiết, nó bao gồm: kinh tế, môi trường, phúc lợi xã hội và cộng đồng. Với trường
hợp phá sản của Enron, Windsor (2001) đã cho rằng hoạt động tài chính không bao
giờ cô lập với CSR trong một môi trường kinh doanh cạnh tranh toàn cầu.
McWilliams và Siegel (2001) cũng tin rằng CSR có thể đem lại lợi ích hiệu suất
hoạt động tài chính và nhiều bên liên quan đồng thời họ quan niệm CSR là một
nguồn tài nguyên chiến lược hơn là một mối đe dọa đến lợi nhuận.
2.2 Khái niệm và bản chất về CSR
2.2.1 Khái niệm CSR
Thuật ngữ CSR xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1953 khi H.R.Bowen công bố
cuốn sách của mình với nhan đề “Trách nhiệm xã hội của doanh nhân” (Social
Responsibilities of the Businessmen) (1953) nhằm mục đích tuyên truyền và kêu
gọi người quản lý tài sản không làm tổn hại đến các quyền và lợi ích của người
15


khác, kêu gọi lòng từ thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại do các doanh nghiệp làm
tổn hại cho xã hội. Tuy nhiên, từ đó đến nay, thuật ngữ CSR đang được hiểu theo
nhiều cách khác nhau. Một số người xác định “CSR hàm ý nâng hành vi của doanh
nghiệp lên một mức phù hợp với các quy phạm, giá trị và kỳ vọng xã hội đang phổ
biến”. Một số người khác hiểu CSR bao gồm sự mong đợi của xã hội về kinh tế,
luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ chức tại một thời điểm nhất định”
Theo công ty Tài chính Quốc tế: “CSR là cam kết của doanh nghiệp đang hoạt
động góp phần phát triển kinh tế bền vững thông qua việc làm với người lao động,
gia đình họ, cộng đồng địa phương và xã hội nói chung nhằm cải thiện cuộc sống
bằng những cách có lợi cho việc kinh doanh và cho sự phát triển”.
Năm 2003 khi Việt Nam tham gia vào chương trình “ Tăng cường sự tham gia
của chính phủ các nước đang phát triển về CSR” do Ngân hàng thế giới tiến hành
tại một số nước như Campuchia, Trung Quốc, Việt Nam… Khái niệm về CSR được
hiểu một cách khái quát và đầy đủ hơn. Theo đó,
“CSR là khái niệm mà ở đó các tổ chức coi trọng lợi ích của xã hội bằng cách
chịu trách nhiệm về tác động của các hoạt động của mình đối với khách hàng, nhà
cung cấp, người lao động, cổ đông, cộng đồng và các bên liên quan khác, cũng như
môi trường. Trách nhiệm này được coi là vượt qua cả trách nhiệm tuân thủ luật
pháp và xem như các tổ chức tự nghuyện tiến hành thêm các biện pháp nhằm cải
thiện chất lượng cuộc sống cho người lao động và gia đình của họ cũng như cho
cộng đồng địa phương và xã hội nói chung.”
Nói cách khác, doanh nghiệp muốn phát triển bền vững luôn phải tuân theo
những chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền
lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên và phát triển cộng
đồng. CSR được thể hiện một cách cụ thể trên các yếu tố, các mặt, như: (1) Bảo vệ
môi trường; (2) Đóng góp cho cộng đồng xã hội; (3) Thực hiện tốt trách nhiệm với
nhà cung cấp; (4) Bảo đảm lợi ích và an toàn cho người tiêu dùng; (5) Quan hệ tốt
với người lao động; (6) Đảm bảo lợi ích cho cổ đông và người lao động trong doanh
16


nghiệp. Trong đó, bốn yếu tố đầu tiên thể hiện trách nhiệm bên ngoài của doanh
nghiệp, còn hai yếu tố cuối thể hiện trách nhiệm bên trong, nội tại của doanh nghiệp.
Bohdanowicz và Zientara (2008) trong nghiên cứu của mình đã đề xuất:
“ CSR, trên thực tế chính là thái độ của doanh nghiệp đối với các bên liên
quan như người lao động, người tiêu dùng và xã hội nói chung hoặc thế hệ tương
lai. Do vậy, có rất nhiều khía cạnh liên quan đến CSR. Một mặt doanh nghiệp cần
tập trung vào đối xử công bằng với người lao động, nhà cung cấp và khách hàng,
mặt khác cần nỗ lực hỗ trợ cộng đồng địa phương, giúp đỡ các tổ chức từ thiện và
thúc đẩy xây dựng môi trường bền vững”.
Định nghĩa này đã chạm đến tính bền vững vì nó đề cập đến trách nhiệm của
doanh nghiệp đối với thế hệ tương lai. Phát triển môi trường bền vững cũng được đề
cập đến nhưng chỉ dừng ở mức thúc đẩy, chưa phải là các hành động. Định nghĩa
này cũng nhấn mạnh rằng CSR cần đi xa hơn, không chỉ dừng lại ở việc đối phó
trách nhiệm đạo đức với các bên liên quan mà cần có các nỗ lực hành động nhằm
nâng cao hơn nữa lợi ích cho các bên liên quan. Định nghĩa này được sử dụng cho
mục đích nghiên cứu vì nó áp dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời
thừa nhận các kiến thức liên quan và tập trung vào CSR. Các khía cạnh về CSR nêu
trong định nghĩa sẽ được làm rõ hơn trong mục bản chất CSR ở mục tiếp theo.
2.2.2 Bản chất của CSR
Theo cách hiểu truyền thống, các Công ty chỉ theo đuổi một mục tiêu duy nhất
là tạo ra lợi nhuận. Nhưng các khái niệm về CSR chỉ ra rằng các doanh nghiệp cần
phải có trách nhiệm lớn hơn, không chỉ giới hạn ở lợi ích bản thân doanh nghiệp.
CSR cho rằng có nhiều khía cạnh tác động đến hoạt động của doanh nghiệp. Cần
hiểu rõ những khía cạnh này khi nỗ lực lập kế hoạch CSR cho Công ty bạn. Với tư
cách là một trong những chủ thể của nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đã sử
dụng các nguồn lực của xã hội, khai thác các nguồn lực tự nhiên và trong quá trình
đó, họ gây ra những tổn hại không tốt đối với môi trường tự nhiên. Vì vậy, ngoài việc
đóng thuế, doanh nghiệp còn phải có trách nhiệm đối với môi trường, cộng đồng,
người lao động, v.v…Theo đó bản chất của CSR bao gồm 5 khía cạnh cơ bản sau:
17


Khía cạnh môi trường (The environmental dimension)
Khía cạnh môi trường của CSR đề cập đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp tác động đối với môi trường. Mục tiêu hướng đến của một Công ty trách
nhiệm xã hội là tham gia vào các hoạt động kinh doanh có lợi cho môi trường.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu ra của sản phẩm luôn tồn tại
sản phẩm không mong muốn, sản phẩm này tác động xấu đến môi trường do đó
doanh nghiệp phải có biện pháp nhằm giảm thiểu tối đa các tác động xấu đến môi
trường. Như sử dụng vật liệu tái chế, cải tiến công nghệ để tiết kiệm năng lượng,
các chất thải được xử lý triệt để trước khi thải ra môi trường….
Khía cạnh xã hội (The social dimension)
Khía cạnh xã hội của CSR nhìn nhận mối quan hệ giữa công việc kinh doanh
và xã hội như một thể thống nhất. Khi giải quyết các khía cạnh xã hội, Doanh
nghiệp nên cố gắng sử dụng công việc kinh doanh của mình để mang lại lợi ích cho
xã hội. Doanh nghiệp có thể thực hiện tốt điều này bằng cách tạo môi trường kinh
doanh công bằng, tham gia vào các chương trình phát triển cộng đồng, tạo công ăn
việc làm và sử dụng các nguồn lực của mình để làm từ thiện,…
Khía cạnh kinh tế (The economic dimension)
Khía cạnh kinh tế đề cập đến việc đảm bảo rằng có một lợi ích kinh tế công
bằng cho tất cả các bên liên quan. Nó nhấn mạnh vào vai trò của CSR trong việc
giúp doanh nghiệp phát triển bền vững. Vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp là cần
nhận ra những tác động tài chính tiềm tàng để từ đó có những hành động nhằm cân
bằng giữa mục tiêu lợi nhuận và thực hiện tốt CSR.
Khía cạnh các bên liên quan (The stakeholder dimension)
Bản chất của quan điểm này cho rằng các Doanh nghiệp nên thực hiện trách
nhiệm của mình lớn hơn các nhóm liên quan chủ chốt trong đó bao gồm nhân viên,
khách hàng, nhà cung cấp, cộng đồng và xã hội. Các bên liên quan là tất cả các chủ
thể chịu tác động từ hành động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Khi xem xét
khía cạnh các bên liên quan của CSR, hãy xem xét cách những quyết định kinh
doanh của bạn ảnh hưởng như thế nào đến các nhóm này. Một ví dụ là Doanh

18

nghiệp có thể tăng doanh thu bằng việc tăng giờ làm của nhân viên, nhưng cũng
phải xem xét đến tác động của nó đối với người lao động, không phải chỉ vì lợi ích
của Công ty.
Khía cạnh tự nguyện (The voluntariness dimension)
Đây là những hành động mà Doanh nghiệp không bị yêu cầu hay bắt buộc
phải thực hiện. Những hành động này dựa trên hệ tư tưởng, giá trị đạo đức mà
Doanh nghiệp đang theo đuổi, Cái mà Doanh nghiệp cho là đúng và nên làm. Ví dụ
việc thay thế các bao gói nilong, túi bóng kính sang sản phẩm hữu cơ dễ phân hủy
là điều doanh nghiệp nên làm ngay cả khi doanh nghiệp bạn không bị bắt buộc phải
thực hiện điều đó.
2.3 Lợi ích của việc thực hiện CSR
Thực tế đã cho thấy thực hiện tốt CSR sẽ mang lại nhiều lợi ích to lớn cho bản
thân doanh nghiệp, người lao động, người tiêu dùng, cộng đồng và xã hội. Nhưng
những tranh cãi xung quanh việc ủng hộ hay không ủng hộ CSR vẫn luôn tồn tại. Dưới
đây tác giả xin được liệt kê một số lợi ích chính mà việc thực hiện CSR mang lại.
2.3.1 Lợi ích của việc thực hiện CSR đối với doanh nghiệp
Thực hiện tốt CSR có thể giúp doanh nghiệp nâng cao giá trị thương hiệu và
uy tín, hấp dẫn các nhà đầu tư, tăng doanh thu, người lao động gắn bó và cống hiến
hết mình cho doanh nghiệp, tạo lợi thế cạnh tranh lớn cho doanh nghiệp…
Dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn
CSR giúp các doanh nghiệp đáp ứng với các nhu cầu mới và những yêu cầu từ
phía các ngân hàng, hãng bảo hiểm và các nhà đầu tư. Những nhu cầu này chính là
động lực giúp cho các doanh nghiệp cam kết thực hiện CSR tốt hơn khi mà cộng đồng
tài chính thực sự coi trọng những rủi ro và cơ hội mà các vấn đề về CSR mang lại.
Tăng cường năng lực cạnh tranh
Nghiên cứu mới đây từ Đan Mạch cho thấy, có hai lĩnh vực mà CSR có thể
mang lại lợi nhuận về tài chính có thể đo lường được cho doanh nghiệp là môi
trường (giảm chi phí năng lượng hoặc xử lý chất thải) và đổi mới (kinh doanh bắt

nguồn từ việc đổi mới nhằm mang lại lợi ích cho xã hội). Nghiên cứu cũng chỉ ra

×