THÁCH THỨC TRONG PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC DÂN TỘC THIỂU SỐ NƯỚC TA
NHÌN TỪ TIẾP CẬN VĂN HÓA & TÂM LÝ CÁC TỘC NGƯỜI
Trịnh Thị Kim Ngọc
PGS.,TSKH., Viện Nghiên cứu Con người,
Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam
Đặt vấn đề
Một trong những vấn đề nằm trong những quan tâm hàng đầu đặt ra
cho sự nghiệp đổi mới đất nước, đó là phát triển nguồn nhân lực (NNL).
Với vai trò quyết định sự thành bại của NNL trong sự nghiệp phát triển, vấn
đề NNL luôn được đặt ra cấp thiết cho mọi thời kỳ và thời đại. Trong đó,
một mảng vấn đề luôn là nỗi trăn trở của giới nghiên cứu và hoạch định
chính sách, đó là phát triển NNL dân tộc thiểu số (DTTS) tại các địa bàn
miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ở nước ta hiện nay.
Nước ta có 54 dân tộc, ngoài người Kinh là nhóm đa số, còn 53
DTTS, sinh sống tại 53 tỉnh thành phố trên cả nước. Theo số liệu của Tổng
cục Thống kê (TCTK), năm 2009, dân số thuộc DTTS ở nước ta gồm
12.251.436 người, chiếm tỷ lệ 14,27% dân số Việt Nam.
Nhìn chung, vùng đồng bào DTTS sinh sống là vùng dân cư có tỷ lệ
nghèo cao, có đời sống vật chất và tinh thần khó khăn hơn nhiều so với các
vùng miền khác trong cả nước. Điều đó đã tác động mạnh mẽ tới thực trạng
NNL của đồng bào. Nghị quyết 52/NQCP ngày 12 tháng 6 năm 2016 về
Đẩy mạnh phát triển NNL các DTTS giai đoạn 20162020 đã nhận định rất
xác đáng rằng: NNL của các DTTS nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế. Lao
động DTTS chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp, tỷ lệ lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chủ yếu là lao động giản đơn và
chưa qua đào tạo; nhận thức, kỹ năng sống, khả năng thích ứng môi trường
mới còn hạn chế; tác phong và kỷ luật lao động của NNL các DTTS còn
1
nhiều bất cập; số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ cán bộ DTTS chưa
theo kịp sự phát triển và yêu cầu thực tiễn.
Thực trạng đó buộc chúng ta phải nhìn thẳng vào cả những thách thức
mà các DTTS nước ta đang phải đối mặt trong phát triển, và đồng thời phải
ý thức được cả những thách thức trong phát triển NNL tại các địa bàn rất
đặc thù về mặt địa lý, văn hóa – xã hội mà các DTTS nước ta đang cư trú.
Trong 53 DTTS nước ta phần lớn cư trú ở các vùng miền núi, biên
giới hải đảo…. chiếm 3/4 diện tích cả nước. Vùng trung du và miền núi
phía Bắc nước ta gồm 15 tỉnh1, với tổng diện tích là 95.264,4 km² và tổng
dân số năm (20011) là 11.290.500 người, là địa bàn sinh sống của trên 30
DTTS nước ta. Với vị trí trên tiếp giáp Trung Quốc ở phía Bắc và Lào ở phía
Tây, vùng trung du và miền núi phía Bắc chiếm vị trí đặc biệt quan trọng
trong việc giao lưu kinh tế văn hóa với các nước láng giềng anh em và
chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia. Thực tế lịch sử đã khẳng định, vùng
đồng bào các DTTS, nói chung và vùng trung du và miền núi phía Bắc nước
ta, nói riêng là những vùng giàu tài nguyên, nhưng xa xôi hẻo lánh và dân cư
thưa thớt. Từ xưa đến nay, các thế lực thù địch bên ngoài đều sử dụng địa
bàn miền núi để xâm lược, xâm nhập, phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc của dân tộc ta. Ở đó, đồng bào DTTS chính là “Tấm phên dậu”,
là “biên giới lòng dân” của Tổ Quốc và vùng DTTS đã từng là các căn cứ địa
cách mạng. Tuy nhiên, nhìn chung vùng đồng bào DTTS vẫn là vùng kinh tế
xã hội đặc biệt khó khăn. Do đó, vùng đồng bào DTTS, một mặt, họ luôn
nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng Chính phủ và của tòan thể cộng
đồng xã hội. Mặt khác, đó cũng là những thách thức lớn cho việc thu hút,
phát triển NNL cho địa bàn này.
I. Nguồn nhân lực các DTTS nước ta trong tiếp cận phát triển
Khái niệm nguồn nhân lực
Cho đến hiện nay, khái niệm nguồn nhân lực vẫn được coi là một
khái niệm mở và là khái niệm trọng tâm của công cuộc phát triển. Hiện có
1
Xét về mặt hành chính, vùng này bao gồm 15 tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Quảng
Ninh, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình. Trung tâm vùng là Thành phố Thái Nguyên; Thành phố Việt Trì.
2
rất nhiều cách tiếp cận và lý giải về nguồn nhân lực. Theo định nghĩa tổng
quan của Liên hiệp quốc thì “nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ
năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới
sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước.” Trong đó, nguồn nhân lực
có thể hiểu ở nghĩa rộng là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã
hội và nguồn lực con người cho sự phát triển. Ở góc độ hẹp hơn, NNL
được xem như là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát
triển kinh tế xã hội bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có
khả năng tham gia lao động và sản xuất xã hội.
Nói cách khác, NNL là tổng thể những tiềm năng của con người
(trước hết & cơ bản nhất là tiềm năng lao động), bao hàm yếu tố thể lực,
trí lực và nhân cách của con người nhằm đáp ứng yêu cầu của một tổ chức
hoặc một cơ cấu kinh tế xã hội nhất định (Võ Xuân Tiến, 2010). NNL
còn có thể được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích luỹ
được, có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai (Beng, Fischer &
Dornhusch, 1995).
Nhiều người vẫn hay nhầm hai khái niệm nguồn nhân lực và lực
lượng lao động. Cần phải phân biệt rõ hai khái niệm này để có những luận
giải xác đáng khi phân tích. Lực lượng lao động được xác định là người lao
động đang làm việc và người trong độ tuổi lao động có nhu cầu nhưng
không có việc làm (người thất nghiệp). Nguồn nhân lực là những người đã,
đang và sẽ bổ sung vào lực lượng lao động.
Khi nói đến nguồn nhân lực, tức là nói đến vốn con người. Các yếu
tố phản ánh nguồn nhân lực được thể hiện gồm số lượng, chất lượng và cơ
cấu, trong đó a) số lượng thể hiện ở quy mô; b) chất lượng thể hiện ở sức
khoẻ, thể lực, trí tuệ, trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng, thẩm mỹ...
trong đó thể lực, trí lực, tâm lực là ba yếu tố quan trọng nhất.
Phát triển nguồn nhân lực
Đi liền với nội hàm NNL chúng ta không thể không nhắc đến khái
niệm phát triển NNL, một mảng ‘thực hành’ bấy lâu nhưng mới trở thành
3
một lĩnh vực học thuật. Trong một nghiên cứu công phu gần đây, Richard
Swanson (2009) mở rộng cách hiểu phát triển NNL như là một quá trình
khơi nguồn và phát triển chuyên môn nghiệp vụ, nhằm nâng cao khả năng
thể hiện của cá nhân, đội ngũ, quá trình sản xuất và hệ thống tổ chức.
Phát triển nguồn nhân lực chứa đựng hai thành tố cốt yếu: 1) đào tạo và
phát triển hướng đến phát triển nghiệp vụ nhân lực để nâng cao khả năng
thể hiện của cá nhân; 2) phát triển tổ chức nhằm khơi nguồn nhân lực để
thay đổi khả năng thể hiện của cá nhân.
Theo cách suy luận ‘quá trình’ này, phát triển NNL vừa được coi
như một hệ thống vừa được xem như một cuộc hành trình trang bị kiến
thức, nâng cao kỹ năng thực hành cho người lao động, nhằm mở ra cho cá
nhân những công việc mới dựa vào trên cơ sở những kỳ vọng và định
hướng tương lai của từng tổ chức. Có thể nói, phát triển NNL là tìm cách
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong mối quan hệ giữa giáo dục, đào
tạo và phát triển. Trong đó, giáo dục được hiểu là các hoạt động học tập
để chuẩn bị cho con người bước vào một nghề nghiệp, hoặc chuyển sang
một nghề mới, thích hợp hơn trong tương lai. Xuất phát từ đặc điểm này,
chúng tôi tập trung thảo luận khía cạnh giáo dục và đào tạo của phát triển
NNL các DTTS ở Việt Nam. Dưới đây là vài nét khái quát về hệ thống
chính sách của Nhà nước liên quan đến phát triển nguồn nhân lực vùng
dân tộc và miền núi.
Hình 1. Khung phân tích những thách thức của NNL DTTS
4
Khi xem xét về những cơ hội và thách thức trong NNL các DTTS,
chúng ta xem xét vốn con người của đồng bào, những vấn đề của NNL trên
trong mối quan hệ chặt chẽ với những vấn đề kinh tế xã hội nơi mà cộng
đồng các DTTS đang sinh sống. Khung phân tích đã được thể hiện theo mô
hình trên đây.
II. Một số thách thức trong phát triển NNL vùng DTTS nước ta nhìn từ
tiếp cận văn hóa tâm lý tộc người
1. Thách thức từ những điều kiện về vị trí địa lý và cơ hội tiếp cận
của cộng đồng
Nhìn về điều kiện kinh tế xã hội nói chung, chúng ta thấy, tới gần
một nửa dân số DTTS nước ta (48,6%) sống tại vùng trung du miền núi phía
Bắc. Có khoảng 30% (29,3%) sống tại các vùng Bắc trung bộ và Duyên hải
miền trung và Tây Nguyên. Như vậy, có đến gần 80% dân số của DTTS
sống tại 3 vùng miền khó khăn nhất trong cả nước. Hầu hết các tỉnh trong
ba vùng trung du miền núi phía Bắc, Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung
và Tây Nguyên không chỉ có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và vị trí địa lý
vô cùng cách trở: xa xôi hẻo lánh, núi non hiểm trở, hoặc là cũng là vùng
chịu nhiều thiên tai như bão, lũ cuốn, sạt lở núi, cũng như các hệ lụy khác
của hiện tượng biến đổi khí hậu…. nhìn chung, đây là các vùng dân cư
5
nghèo nhất trong cả nước ta.
Theo địa bàn cư trú, chúng ta thấy, Việt Nam có 13 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương có tỷ lệ người DTTS cao nhất sinh sống, trong đó có
7 tỉnh có tỷ lệ DTTS cao trên 80%, đều nằm ở khu vực trung du và miền núi
phía Bắc, là: Cao Bằng (94,25%), Hà Giang (86,75%), Bắc Kạn (86,63%),
Lạng Sơn (83,01%), Sơn La (82,39%), Lai Châu (82,02%) và Điện Biện
(81,58%)…, thì cũng đều là những địa phương nghèo so với các tình phía
Bắc. Đồng thời các địa phương nghèo, cũng thường là các địa phương có các
thứ hạng về HDI thấp nhất trong cả nước tham khảo Bảng 1 dưới đây)2.
Bảng 1. Danh sách các tỉnh đông DTTS nhất
và có chỉ số HDI thấp nhất trong 10 năm 1999 2009
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
Tên Tỉnh
Tỷ lệ
DTTS
Thứ
hạng
HDI các
tỉnh
Tuyên Quang
Đắk Nông
Hòa Bình
Trà Vinh
Gia Lai
Bắc Cạn
Cao Bằng
Ninh Thuận
Lào Cai
Kon Tum
Sơn La
Yên Bái
Điện Biên
51,79
35,61
72,27
31,65
43,7
86,63
94,25
21,98
66,88
53,64
82,39
46,0
81,58
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
Chỉ số
HDI
năm
1999
Chỉ số
HDI
năm
2004
Chỉ số
HDI
năm
2009
0,624
..
0,574
0,600
0,519
0,585
0,541
0,599
0,527
0,535
0,527
0,580
....
0,651
0,629
0,629
0,653
0,584
0,623
0,596
0,629
0,608
0,576
0,588
0,620
0,580
0,684
0,681
0,681
0,668
0,667
0,666
0,658
0,655
0,644
0,641
0,641
0,631
0,600
2
Do từ năm 2010 trở lại đây, các chuyên gia UNDP tính toán và công bố HDI theo phương pháp mới có bổ
sung vào bộ công cụ tính toán tiêu chí nghèo đa chiều (Multidimensional Poverty Index) và tiêu chí bất bình
đẳng xã hội nên những nhóm nghiên cứu chúng tôi không thể tập hợp các kết quả của 2 phương pháp đo
đạc và tính toán khác nhau vào một bảng xếp hạng để so sánh với nhau giữa các thời kỳ.
6
Nguồn: Nhóm NC tổng hợp từ các Báo cáo PTCN Việt Nam
của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam và đề tài Thực trạng đời sống của các DTTS
Việt Nam của Hội đồng Dân tộc
Bên cạnh đó, các điều kiện về cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống dân
cư như điện, đường, trường, trạm, nước sạch,…. mặc dù đã được Đảng và
Nhà nước đặc biệt quan tâm xây dựng tới trên 90% các xã, bản của đồng
bào. Tuy nhiên, việc tiếp cận với những thành tựu của công cuộc đổi mới
của đồng bào còn vô cùng hạn chế.
Cơ sở hạ tầng kém, điều kiện sinh hoạt khó khăn và địa hình hiểm
trở đã làm hạn chế điều kiện và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ
bản như giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ và môi trường sống đảm
bảo ... của người dân. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng, mà
cả số lượng dân số và nguồn NNL tại các địa bàn nêu trên. Một số ví dụ
thực tế là: tính đến cuối năm 2011, chỉ có 33% người dân ở 4 tỉnh Hà Giang:
Đồng Văn, Mèo Vạc, Quảng Bạ và Yêm Minh được sử dụng nước sạch;
Tại Lai Châu, chỉ có 53% hộ gia đình sử dụng điện nối mạng quốc gia, trong
khi tỷ lệ này lên đến 100% ở một số tỉnh khác ở miền Bắc, như Vĩnh Phúc,
Hải Phòng38...
3
Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình, TCTK, 2011.
7
Một số nơi khác nguồn nước sạch rất khó khăn vì phải bơm theo giờ
đóng nối điện. Nhưng ở một số cộng đồng, vài tiếng đồng hồ có nước sạch
không kịp để bà con dự trữ nước dung lúc không có điện, mà chỉ kịp cho trẻ
em và trâu bò trong bản tắm là hết giờ. Nhiều bản có nguồn nước sạch chứa
trong bể cung của bản, nhưng dân bản cùng cả ngày mà không biết tiết
kiệm (có khi để nước chảy cả ngày) nên khi bà con đi làm về dùng nước thì
đã không còn.
Mặc dù ở hầu hết các xã vùng DTTS, kể cả các xã vùng cao, hiểm
trở đều đã có trạm y tế xã, cùng các nhân viên y tế thôn bản. Tuy nhiên,
người dân trong vùng, đặc biệt là số dân cư sống ở trên núi cao, ít có điều
kiện tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Điều này đồng bào cho là có
nhiều lý do: 1) đường xá xa xôi là trở ngại lớn cho người dân đi khám, chữa
bệnh tại cơ sở y tế. 2) Chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ của trạm y tế
xã cũng còn nhiều hạn chế: nguồn lực, trang thiết bị và hạn chế cả về chất
lượng và các phương tiện hỗ trợ đều rất thấp. Mặc dù Chính phủ đã nỗ lực
hỗ trợ tăng cường chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ sở thông qua
chính sách bố trí bác sỹ về làm việc tại các trạm xá xã. Tuy nhiên, nhiều xã
vùng cao vẫn chưa có bác sỹ, vì khó thu hút cán bộ y tế từ miền xuôi lên.
Chính sách cử tuyển gần đây cũng đã giúp các địa phương vùng DTTS
giải quyết một số khó khăn về việc thiếu cán bộ chuyên môn có trình độ đạt
chuẩn làm việc cho cấp xã. Tuy nhiên, nhiều sinh viên cử tuyển sau khi tốt
nghiệp không muốn về làm việc ở tuyến xã, họ thường ở lại ít nhất là
tuyến huyện4.
Đói nghèo trong dân cư là một đặc trưng của vùng DTTS. Ba vùng
tập trung đông DTTS đều là 3 vùng có tỷ lệ nhèo đói cao nhất ở nước ta.
Tuy nhiên, có một thực tế là, tỷ lệ giảm nghèo chủ là tỷ lệ của lãnh đạo địa
phương các cấp cùng bà con phấn đấu trong cuộc sống cam go. Còn bà con
ta không thích được thoát nghèo. Bởi quen tâm lý dựa dẫm, đồng bào sợ
rằng sau khi thoát nghèo, họ không còn nhận được các chính sách hỗ trợ cao
4
TCTK, 2010, Báo cáo Điều tra Mức sống hộ gia đình và Bộ Y tế (2008) , Báo cáo chung tổng quan của
ngành y tế. Năm 2008.
8
nhất của Đảng và Nhà nước.
3. Thách thức trong cơ hội tìm việc làm của lao động
Với địa bàn chủ yếu là rừng núi, lao động trong vùng DTTS nước ta
chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông – lâm nghiệp, đặc biệt là 2 vùng có số
lượng và tỷ lệ DTTS cao nhất cả nước là Trung du miền núi phía Bắc, nơi
có trên 75% lao động làm nông nghiệp. Trong khi tỷ lệ này lực lượng này
trên cả nước chỉ là 51,9%. Chưa nói đến việc nông nghiệp của đồng bào ta
chủ yếu đang dừng lại ở mô hình nông nghiệp nương rẫy, tự cung tự cấp,
phụ thuộc rất hiều vào thòi tiết, nên chất lượng và hiệu quả kinh tế từ đó
chưa cao.
Ở các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, cũng như với các ngành nghề
có chuyên môn kỹ thuật cao thì lực lượng lao động này chưa tiếp cận được
và nếu có thì số lượng cũng rất hiếm, chất lượng cũng rất thấp. Mặc dù,
Nhà nước đã ban hành Thông tư 58/2017, là nhà nước sẽ hỗ trợ (đóng bảo
hiểm xã hội thay) cho các đơn vị sử dụng lao động là người DTTS tối đa là
5 năm/người lao động. Đồng thời, Ban Quản lý nhiều khu chế xuất và công
nghiệp ở các tỉnh thành đã đề nghị các doanh nghiệp ưu tiên gia tăng cơ hội
việc làm cho người DTTS với nhiều ưu đãi của địa phương. Tuy nhiên,
trình độ tiếp thu thông tin kỹ thuật, trau dồi nâng cao tay nghề, theo yêu cầu
sản xuất của các doanh nghiệp, thì lao động là người DTTS nhìn chung vẫn
chưa đáp ứng được và vì vậy tỷ lệ lao động tham gia các doanh nghiệp
trong nước và liên doanh đều rất hiếm hoi. Trong bối cảnh cạnh tranh vi ệc
làm của lao động trẻ đang ngày một khốc liệt, nên việc làm của lao động
người DTTS thường là những việc làm có thu nhập chưa cao.
Bảng 2. Cơ cấu dân số DTTS theo ngành nghề làm việc
các vùng trong cả nước trong đó có vùng DTTS
T ỷ l ệ %
Nhóm dân số
Cả
Miền núi
Duyên hải
Tây
nước
phía Bắc miền Trung
nguyên
9
Theo ngành
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
51,9
21,5
26,5
75,0
9,9
15,1
58,5
17,5
24,0
73,4
7,9
18,6
78,44
64,81
76,33
6,26
7,31
5,93
0,85
0,56 (ĐBSCL)
0,76
Theo nghề
Nghề nông & nghề đơn
giản
Ngành nghề có CMKT 22,37%
cao và trung bình
lao
động
có
CMKT
Lao động quản lý
Nhìn lại ở các địa phương là trung tâm công nghiệp lớn, các khu chế
suất quy mô, hiện đại với hàng vài chục ngàn công nhân, thì cũng rất ít phần
trăm lao động người DTTS tìm được cơ hội việc làm tại đó. Riêng tỉnh Đắk
Lắk là một điểm sáng về giải quyết việc làm cho lao động là người DTTS.
Theo số liệu thống kê của Sở LĐTB&XH tỉnh Đắc Lắc, riêng năm 2016
đã tỉnh giải quyết việc làm cho khoảng 26.850 người, trong đó lao động là
người dân tộc thiểu số là 8.600 người. Tiền lương và thu nhập của người
lao động khoảng từ 3,5 4,5 triệu đồng/người/tháng. Tuy nhiên, do trình độ
học vấn, nghề nghiệp, nhận thức chính trị và tác phong công nghiệp của lao
động là nguwoif DTTS còn nhiều hạn chế….Số người lao động bị mất việc
làm hàng năm vẫn còn cao hơn các đối tượng khác…..5
Riêng đối với đội ngũ cán bộ (làm công tác lãnh đạo, quản lý ở địa
phương) tỷ lệ này ở vùng DTTS chiếm tỷ lệ không thấp hơn so với các
Tham khảo. Công nhân lao động dân tộc thiểu số trong các doanh nghiệp tỉnh Đắk Lắk: Ý thức chấp
hành kỷ luật lao động và tác phong công nghiệp còn kém. />quanhelaodong509/congnhanlaodongdantocthieusotrongcacdoanhnghieptinhdaklakythuc
chaphanhkyluatlaodongvatacphongcongnghiepkem183161.tld
5
10
vùng khác (0,92%). Có được kết quả này, phần nào nhờ chính sách ưu tiên
nhân lực thuộc các DTTS tham gia công tác quản lý dân cư ở địa bàn, nên tỷ
lệ này có cao hơn. Tuy nhiên, chất lượng NNL cũng đang là vấn đề nan giải.
Chính sách ưu tiên DTTS cũng được thực hiện trong việc tuyên
truyền bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp. Trong tổng số các đại
biểu Quốc hội khóa XII (493 người), có 87 đại biểu là người DTTS (tỷ lệ
17,7%), thuộc 32/53 thành phần dân tộc. Ở cấp địa phương, tỷ lệ DTTS
tham gia Hội đồng nhân dân các cấp còn cao hơn. Tại nhiệm kỳ 2010 2015
tỷ lệ này là 20,53% ở cấp tỉnh, 20,18% ở cấp huyện và 24,4% ở cấp xã6.
Tỷ lệ thành viên ủy ban nhân dân các cấp là người DTTS có thấp hơn,
tương ứng bằng 10,9% (cấp tỉnh), 11,32% (cấp huyện), 17,9% (cấp xã).
Điển hình có tỉnh như Cao Bằng tỷ lệ thành viên là DTTS tham gia ủy ban
nhân nhân đạt gần 100%. Thực tế này cho thấy tỷ lệ người dân tộc tham gia
hội đồng nhân dân các cấp (tính cơ cấu được ưu tiên) cao hơn tỷ lệ người
DTTS tham gia vào ủy ban nhân dân (trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp
vụ và năng lực quản lý được ưu tiên)7.
Hình 2: Cơ cấu ngành nghề làm việc theo vùng
6
Ủy ban Dân tộc. (2010). “Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số (DTTS) và đề
xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN”.
7
Ủy ban Dân tộc. (2010). Tài liệu đã dẫn
11
4. Thách thức về chất lượng NNL người DTTS từ góc độ trí lực
Một trong những chỉ báo cơ bản nhất của chất lượng dân số và
NNL là tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ, thì tỷ lệ này ở các
tỉnh trung du & miền núi phía Bắc vẫn là các tỉnh có tỷ lệ người lớn biết
chữ thấp nhất trong cả nước. Trong đó hầu hết là các tỉnh miền núi phía
Bắc (bảng 3 dưới đây).
Bảng 3: Tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên tại một số tỉnh
miền núi, đông dân tộc sinh sống
ĐVT:%
T
T
Khu vực, đơn vị hành
chính
Trung toàn quốc
Chung
Nam
Nữ
93,5
95,8
91,4
Chênh
lệch
4,4
Ba vùng có tỷ lệ biết chữ thấp nhất
Trung bình vùng miền núi
87,3
I
phía Bắc
88,27
II Trung bình Vùng Tây
nguyên
91,6
II Trung bình Vùng ĐB sông
Cửu Long
I
10 tỉnh có tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ thấp nhất
1
2
3
4
5
6
7
Lai Châu
Hà Giang
Điện Biên
Sơn La
Lào Cai
Gia Lai
Cao Bằng
57,4
65,5
67,6
75,2
77,5
80,5
82,2
71,9
76,1
80,7
86,7
84,7
86,6
87,2
42,7
55,1
54,8
63,8
70,6
74,5
77,4
29,2
21,0
25,9
22,9
14,1
12,1
9,8
Nguồn: Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009
Bảng trên cho thấy, trung bình từ 14 20% dân số là người DTTS có
tuổi 15 trở lên không biết chữ và không hiểu được 1 câu đơn giản của tiếng
Việt. Với điều kiện ngôn ngữ bất cập, họ không thể nghe được tiếng Việt,
mà toàn bộ thông tin chủ yếu bằng tiếng Việt, thì thông tin về khoa học
12
công nghệ và kinh tế xã hội đến với bà con người DTTS cực kỳ khó khăn.
Thực tế ghi nhận tại một số tỉnh 3 miền Tây Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây
Nam Bộ cho thấy: các đối tượng mù chữ phần lớn là người cao tuổi, có tâm
lý ngại đi học, cho nên việc vận động họ đến lớp là vô cùng khó khăn. Tuy
nhiên, giờ đây ngay cả thanh niên của nhiều gia đình có hoàn cảnh khó khăn,
lại là lao động chính, nên họ cũng không có thời gian học tập. Đáng chú ý,
tại vùng biên giới Tây Bắc, tỷ lệ người DTTS trong độ tuổi từ 15 đến 60
không biết đọc, biết viết hiện chiếm trên 21% số dân. Nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này là do các ban chỉ đạo phổ cập giáo dục tại cấp xã, cấp huyện,
nhất là ở những xã biên giới, xã đặc biệt khó khăn chưa thật sự chú trọng,
quan tâm công tác xóa mù chữ và ngăn ngừa hiện tượng tái mù. Số người mù
chữ, tái mù chữ ở các xã này rất cao, công tác xóa mù chữ không đạt hiệu
quả như yêu cầu của các đề án phát triển đặt ra.
Khi người mù chữ ở nhiều DTTS chiếm tỷ lệ cao, đồng nghĩa với
việc một số lượng đáng kể của lực lương lao động không thể tiếp cận
thông tin từ báo chí, sách vở…. Nguồn thông tin chỉ đến với bà con qua phát
thanh, truyền hình, qua tuyên truyền miệng của cán bộ địa phương trong các
buổi tuyên truyền, tập huấn, hướng dẫn.v.v... Song, thực tế trong nhiều năm
qua, không chỉ truyền thông trên các phương tiện nghe nhìn, mà cả tuyên
truyền trực tiếp vẫn chưa mang lại hiệu quả mong muốn cho nhiều nhóm
người DTTS.
Trong khi đó, bên cạnh các yếu tố đặc thù về điều kiện tự nhiên và
kinh tếxã hội, vấn đề giáo dục, đặc biệt tình trạng bỏ học nổi lên như một
thực tế cấp bách tại cùng đồng bào DTTS. Một nghiên cứu việc học tập của
học sinh DTTS địa bàn ba tỉnh nghiên cứu cho thấy,tính từ năm 2004 trở lại
đây4 hiện tượng học sinh DTTS bỏ học diễn ra ngày càng phổ biến. Đáng
chú ý là số lượng học sinh DTTS qua các bậc học ngày một giảm dần khi
các cấp học tăng lên. Kết quả nghiên cứu trường hợp về tiếp cận giáo dục
của học sinh DTTS tại Yên Bái, Hà Giang và Điện Biên do Viện nghiên cứu
phát triển kinh tế xã hội, thực hiện năm 2010 cho thấy: tại Điện Biên, tỷ lệ
học sinh từ 64,82% bậc tiểu học xuống 27,31% bậc trung học cơ sở và chỉ
13
còn 7,87% bậc trung học phổ thông. Có nghĩa xu hướng chung ở khu vực
miền núi phía Bắc là bậc học càng cao thì tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số lại
càng thấp8.
Biểu 1: Học sinh các DTTS tại ba tỉnh nghiên cứu năm 2004 (%)
70
60
50
40
Tiểu học
30
THCS
20
THPT
10
0
Hà Giang
Điện Biên
Yên Bái
Nguồn: Số học sinh phổ thông thuộc các
DTTS phân theo địa phương năm 2010. TCTK
Kết quả nghiên cứu này đã cho nhận xét tương tự như nhiều công
trình cứu khác về tình hình giáo dục vùng DTTS khu vực Tây Nguyên mà các
nhà nghiên cứu khác đã công bố (xem Trương Huyền Chi, 2010). Nghiên cứu
tại 3 tỉnh Hà Giang, Yên Bái và Điện Biên cho thấy tỷ lệ này dường như
không được cải thiện trong suốt thời gian từ 2004 đến năm 2010. Đối chiếu
với số liệu thống kê tại thời điểm 2010, số lượng học sinh đến trường thậm
chí còn giảm đi tại một số tỉnh như Hà Giang từ 128,955 em (năm 2004) đến
năm 2010 xuống còn 120,410; Yên Bái từ 93,734 giảm còn 76,064 học sinh.
Trong đó, tỷ lệ học sinh bậc tiểu học của Hà Giang từ 55,92% xuống
34,24% và giảm tiếp còn 9,84% tại bậc phổ thông trung học. Tình hình Yên
Bái cũng không khả quan hơn khi tỷ lệ học sinh đi học từ 54% xuống 34,40
và đến cấp 3 thì tỷ lệ học sinh chỉ còn 10,61%.
Tham khảo công trình. Học không được hay học để làm gì? Trải nghiệm của thanh thiếu niên các DTTS
tại 3 tình Yên Bái, Hà Giang và Điện Biên. Công bố tháng 12/2011.
8
14
Con số này thực sự đáng lưu tâm bởi nó dường như không thể hiện
tương thích với nỗ lực không ngừng từ phía Nhà nước và các cơ quan chức
năng về hỗ trợ giáo dục cho đồng bào DTTS trong mấy năm trở lại đây.
Hình như, tình hình học sinh bỏ học có vẻ như không đi đôi với mức độ ưu
đãi, hỗ trợ ngày càng tăng từ các chính sách của Chính phủ và các địa
phương. Nhà nước quan tâm xây dựng trường lớp kiên cố cho học sinh,
nhưng ở nhiều cộng đồng, các em không muốn học. Buổi sáng, nhờ có cô
giáo đến tìm từng nhà đón học sinh đến lớp, thì lớp có học trì. Tuy nhiên, ở
nhiều lớp bản, sau giờ ra chơi là trong lớp chỉ còn 1 vài em, bởi chúng lấy lý
do “cái bụng đói quá về ăn miếng cơm nguội …. hoặc lý do không đi học vì
được cha mẹ lên nương phải đi giúp họ ….”9.
Tổng kết một số nghiên cứu đã có việc việc học con chữ của học
sinh DTTS thật nhọc nhằn: ở nhiều cộng đồng xu hướng bỏ học của thanh
thiếu niên DTTS đang gia tăng. Trong một lớp học đa dân tộc, nếu một vài
em ở nhóm lớn (nhóm đông người) nghỉ học, nhiều em khác sẽ bắt chước
nghỉ theo ngay. Ví dụ: nhóm Pà Thẻng ở một vài trường Hà Giang, chẳng
hạn, khi có vài bạn bỏ học, chúng theo nhau bỏ học luôn. Trong khi đó,
nhóm thiểu số nhưng ít người hơn thì các em có vẻ kiên tâm học tập hơn.
Thêm nữa, ngay giữa các địa bàn và tộc người nghiên cứu cũng có tỷ
lệ học sinh bỏ học ở các cấp khác nhau. Chẳng hạn ở cộng đồng người
Hmông và Dao tỷ lệ học sinh học hết cấp 1 bỏ học là khá phổ biến, do hai
địa bàn này chỉ có điểm trường từ lớp 1 đến lớp 5 xây dựng tại thôn bản.
Trong khi đó, tỷ lệ học sinh người Thái và người Pà Thẻn lại theo được hết
cấp 2 và tỷ lệ nghỉ học cấp 3 là khá cao. Một nguyên nhân do trường cấp 3
ở trên huyện, cách nhà khoảng 12km. Việc đi lại học tập của phần lớn các
em không ở lại bán trú luôn gặp nhiều khó khăn.
Khi nghiên cứu tại 3 tỉnh Hà Giang, Yên Bái và Điện Biên cho thấy,
một thực tế là nhiều phụ huynh không muốn cho con đi học bởi, có đi học
cũng chỉ về làm nương, làm rẫy…. Nếu có bạn này bạn kia…. trong lớp
Kết quả nghiên cứu về PTCN của Dân tộc Chứt ở miền Trung Việt Nam do Quỹ Nafosted tài trợ. Viện
Nghiên cứu Con người. 2015 – 2016.
9
15
chuyên tâm học tập bởi họ còn có bố làm ở xã, có anh làm ở huyện….. họ có
cơ hội xin được việc làm….10
4. Thách thức về mặt thể lực của nguồn nhân lực vùng DTTS
Chất lượng NNL phải được tính đến từ khi đứa trẻ mới hình thành.
Dựa vào một số chỉ báo chính như tỷ lệ suy dinh dưỡng, tỷ suất chết trẻ
em, tình trạng bệnh tật và tuổi thọ bình quân…, chúng ta có cơ sở để đánh
giá về chất lượng (về mặt thể chất, thể lực) của NNL của DTTS chưa cao.
Thứ nhất, tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em vùng DTTS còn cao.
Mặc dù, tỷ lệ này có giảm so với thập niên trước, nhưng tỷ lệ này vẫn cao
so với mức trung bình của cả nước 3 tiêu thức đo lường: suy dinh dưỡng
cân nặng/độ tuổi, suy dinh dưỡng chiều cao/tuổi và suy dinh dưỡng cân
nặng/chiều cao (Xem bảng 4).
Bảng 4: Một số chỉ số về thể lực nguồn nhân lực vùng DTTS
Đơn vị: %
Nhóm dân số
Cả nước
Trung du và miền
núi phía Bắc
Tây Nguyên
Mảng
La Hủ
Cờ Lao
Tày
Thái
Mường
Khmer
H’Mông
Các DTTS khác
Tỷ lệ SDD cân Tỷ suất chết Tuổi thọ bình quân
nặng trẻ <5T
trẻ em < 1
(tuổi)
tuổi
19,9
16
72,8 (nam: 70,2, nữ:
75,6)
25,9
24,5
70 (nam: 67,2, nữ:
73)
27,4
27,3
69,1 (nam: 66,3; nữ:
72,2)
40,03
73,0
53,6
44,0
85
51,0
47,7
68
54,0
23,3
70,3
27,1
69,2
22,2
68
18
69,5
45,5
61,3
32,0
64,9
Tham khảo công trình. Học không được hay học để làm gì? Trải nghiệm của thanh thiếu niên các DTTS
tại 3 tình Yên Bái, Hà Giang và Điện Biên. Công bố tháng 12/2011.
10
16
Nguồn: Kết quả điều tra dân số và nhà ở năm 2009; Dự án bảo tồn và
phát triển kinh tế xã hội các dân tộc Mảng, La Hủ, CốngỦy ban nhân
dân tỉnh Lai Châu năm 2010; Dự án bảo tồn và phát triển kinh tế xã hội
các dân tộc Cờ Lao Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang năm 2010
Đối với một số nhóm DTTS số rất ít người tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ
em còn cao hơn rất nhiều như ở dân tộc Mảng 40,03%, La Hủ 44%, Cờ
Lao 47,37%... Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi của trẻ em dưới 24 tháng
trong các nhóm DTTS có giảm, từ 35% (1998) xuống còn 33% (2006), nhưng
lại tăng lên đối với nhóm trẻ em từ 24 tháng trở lên, từ 54% (1998) lên 57%
(2006). Ngược lại, tỷ lệ suy dinh dưỡng thể gầy còm của trẻ em dưới 24
tháng trong các nhóm DTTS tăng lên, từ 13% năm 1998 lên 18% năm 2006,
và giảm đi đối với nhóm trẻ em từ 24 tháng trở lên, từ 11% năm 1998 xuống
còn 10% năm 200611.
Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi cũng ở mức cao, trong đó một số
tỉnh tại 2 vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên có tỷ suất chết trẻ em
dưới 1 tuổi cao hơn gấp đôi, thậm chí gần gấp ba mức trung bình trong cả
nước, như Lai Châu (47,7%), Điện Biên (39,7%), Hà Giang (37,5%), Kon
Tum (38,2%)… (Bảng 3 ở trên). Đây là một trong những nguyên nhân chính
gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển về thể chất, trí tuệ… của NNL vùng
DTTS rất ít người trong hiện tại và tương lai.
Nguyên nhân của những vấn đề trên có thể thấy rõ, là lối sống, thói
quen, tập tục của các cộng đồng DTTS. Thách thức trong phát triển NNL
trong DTTS từ tiếp cận kinh tế là chuyện không còn phải bàn cãi. Tuy
nhiên, những thách thức từ tiếp cận văn hóa và ý thức tộc người của cộng
đồng cũng khá nam giải, mà trong chủ đề này, thiết nghĩ chúng tôi không
thể không đề cập.
1) Nạn tảo hôn
Hộp 4: Tảo hôn ở huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu
Nhiều học sinh nghỉ học thường là để lấy vợ lấy chồng. Người Dao,
11
TCTK, 2010, Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009.
17
Bản Hua Bon, xã Phúc Khoa, tỉnh Lai Châu là nơi có 100% người Mông sinh
sống. Hầu hết phụ nữ đã kết hôn trước 16 tuổi, có trường hợp kết hôn từ năm
13 tuổi. Số con bình quân của một phụ nữ ở bản là 5 đến 6 con. Ở xã Hố Mít,
huyện Tân Uyên, nơi đồng bào dân tộc Mông sinh sống tình trạng tảo hôn cũng
xảy ra phổ biến, hầu hết nữ giới kết hôn trước 16 tuổi, thậm chí con của các
đồng chí lãnh đạo cũng tảo hôn. Trên địa bàn vùng cao, đồng bào dân tộc không
làm giấy khai sinh, vì thế chính quyền không có cơ sở để xử lý các cặp vợ chồng
tảo hôn.
(Nguồn: Phỏng vấn các cán bộ huyện Tân Uyên )
Pà Thẻng (Yên Bái) thường lấy vợ lấy chồng ở độ tuổi 1415 thường do cha
mẹ sắp đặt. Xuất phát từ nhu cầu thiếu người lao động bên nhà trai muốn
lấy thêm lao động về làm hơn là việc xây dựng hạnh phúc cho con cái. Một
số gia đình khi hỏi vợ cho con, ‘cô dâu’ vẫn đang học lớp 7, lớp 8. Khi hỏi
cưới, gia đình nhà trai hay cam kết cưới về vẫn cho con dâu học tiếp.
Nhưng thực tế, sau khi về nhà chồng, cô gái không được đi học nữa mà chỉ
ở nhà làm nội trợ. Nhà gái cũng ít khi thắc mắc bởi họ cho rằng con mình
thuộc về gia đình người chồng quản lý.
Vấn đề tảo hôn của người Hmông khác biệt ở chỗ việc lấy chồng
lấy vợ sớm thường do tự các em đề xuất. Đến tuổi trưởng thành, các em
được tự do tìm hiểu yêu đương và được quyền đề xuất mong muốn lấy vợ,
lấy chồng. Bởi lẽ theo quan niệm người Hmông, con gái 1617 tuổi mà chưa
lấy chồng xem như ‘ế.’ Các em thường thông báo với cha mẹ việc kết hôn
của mình và chờ gia đình định ngày tổ chức. phần đa các em học sinh người
Thái đều học hết cấp 2, nhiều em học lên cấp 3, khi đi học ít bị cha mẹ ép
lấy chồng sớm. Độ tuổi kết hôn của người Thái hiện nay từ 18 đến 20. Mặc
dù nhà nước ban hành luật hôn nhân và gia đình, không cho phép nam hay nữ
chưa đến tuổi quy định được phép kết hôn, trên thực tế, người dân vẫn tổ
chức cưới hỏi nhưng không đăng ký để tránh phiền phức pháp lý. Vấn đề là
ở chỗ phong tục của người Hmông, người Dao hay người Pà Thẻn thường
dựng vợ gả chồng từ 14 15 tuổi và điều này được thôn bản công nhận là
“hợp thức” so với phong tục tập quán truyền thống địa phương.
18
Tuổi thọ của người DTTS cũng thấp hơn so với tuổi thọ bình quân
chung của dân số cả nước. Mức độ chênh lệch giữa tuổi thọ của nam giới
và nữ giới cũng cao hơn so với mặt bằng chung. Nhiều địa phương đông
đồng bào DTTS sinh sống có tuổi thọ bình quân rất thấp như: Lai Châu
63,8 tuổi, Lào Cai 65,8 tuổi, Hà Giang 66,3 tuổi,… Đối với một số dân
tộc ít người, đang cư trú trong các địa bàn đặc biệt khó khăn như Mảng, La
Hủ, Cống, Cờ Lao, Pu Péo, Rơmăm, Ơ Đu, Chứt… tuổi thọ bình quân thấp
tới mức báo động (thường chỉ khoảng 50 55 tuổi, trong đó tuổi thọ của
nam giới thấp hơn nữ giới rất nhiều)12.
Trong khi tuổi thọ của DTTS còn thấp, trong khi tình trạng sinh đẻ
chưa được kiểm soát là một trong những nguyên nhân làm cho cơ cấu dân
số ở độ tuổi dưới khá 15 cao (chúng ta còn gọi là dân số trẻ) và trên 15 tuổi
thấp hơn so với cả nước. Trong mọi hoàn cảnh, dân số trẻ luôn được coi là
một tín hiệu tốt cho phát triển NNL. Tuy nhiên, do thể lực và trí lực của lớp
người trẻ còn nhiều hạn chế mặc nhiên sẽ làm suy giảm chất lượng NNL
vùng DTTS trong tương lai. Trong khi đó, sự nghiệp phát triển luôn đòi hỏi
ở chất lượng NNL ngày một cao.
Thứ ba Về chiều cao và cân nặng trung bình của thanh niên DTTS
trong độ tuổi 18 22 tại các vùng miền núi và DTTS cũng thấp hơn nhiều so
với thanh niên ở các vùng khác trong cả nước.
Hộp 2. Sau 50 năm nữa thanh niên Việt Nam mới có chiều cao
bằng
thanh niên Nhật bản hiện nay
Theo một điều tra mới do Bộ Y tế công bố năm 2016 cho thấy, chiều cao
trung bình của phụ nữ Việt Nam đang ở mức khiêm tốn là 152,6 cm, trong khi đàn
ông cao hơn một chút, ở mức 162,4 cm. Về cân nặng, các chị em có trọng lượng
trung bình là nặng 51,2 kg, trong khi các anh em nặng bình quân nặng 58,1 kg13.
Căn cứ vào các nguồn dữ liệu được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau trên trang
12
Bob Baulch và các tác giả viện Hàn lâm KHXH Việt Nam(2009), Nghèo ở các dân tộc thiểu số tại Việt
Nam
13
Đây là kết quả nằm trong nội dung điều tra quốc gia yếu tố nguy cơ bệnh không lây nhiễm do Bộ Y tế
tiến hành từ tháng 810/2015 với sự tham gia của gần 4.000 người trong độ tuổi từ 1869 tại 63 tỉnh thành.
19
Averageheight.co cùng các thống kê khác để đưa ra bản đồ chiều cao người dân
các nước trên thế giới. Theo bản đồ này thì chiều cao trung bình của người dân
Việt Nam nằm trong top 10 nước người dân thấp nhất thế giới, với vị trí thứ 4
(tính từ dưới lên) chiều cao trung bình của nam giới là 1,621m.
Nếu xem xét trong hơn 30 năm qua, chiều cao trung bình của nam thanh niên
Việt Nam chỉ tăng thêm trên 4,5cm thấp hơn chuẩn quốc tế 13cm, trung bình mỗi
năm chỉ tăng 0,15cm. Qua tham khảo thấy rằng Nhật Bản những năm 50 của thế
kỷ trước là một trong các quốc gia có chiều cao hạn chế trên thế giới đã tăng lên
10cm trong vòng 40 năm. Hiện nay thanh niên Nhật Bản đã đạt mức trung bình
1,72 m đối với nam và 1,57m đối với nữ, chỉ thua kém chiều cao trung bình thế
giới 5cm. Do có sự quan tâm và quyết tâm đầu tư của Chính phủ nếu chúng ta
không có giải pháp phù hợp và quyết tâm cao sẽ mất khoảng 50 năm để phấn đấu,
có nghĩa là đến năm 2050 Việt Nam mới có thể đạt chiều cao trung bình 1,72m
như thanh niên Nhật Bản hiện nay. Nguồn. Theo
Telegrath.
Trong khi đó, theo thống kê về chiều cao năm 2008, ở vùng Tây Bắc
chiều cao trung bình của nam thanh niên là 161,8 cm và của nữ thanh niên ở
vùng Đông Bắc là 151,7 cm. Theo GS.TSKH. Hà Huy Khôi, Phó chủ tịch
Hội Dinh dưỡng Việt Nam thì, trước tiên là các yếu tố liên quan đến môi
trường sống và phong cách sống (vệ sinh, dinh dưỡng…) có ảnh hưởng hơn
cả đến chất lượng NNL chứ không phải yếu tố di truyền ảnh hưởng nhiều
đến sự cải thiện của chiều cao hay cân nặng của lực lượng lao động trẻ14.
Về mô hình bệnh tật phổ biến của vùng DTTS
Mô hình bệnh tật phổ biến của vùng DTTS bao gồm các loại bệnh
như lao, sốt rét, viêm não Nhật Bản, sốt xuất huyết, tả, lỵ, thương hàn, giun
ký sinh, trùng đường ruột, bướu cổ, phong, phụ khoa, bệnh dạ dày, viêm
ruột thừa, ngộ độc (thức ăn, thuốc trừ sâu, củ ấu tầu...), uốn ván, suy dinh
dưỡng... Nguyên nhân khiến tỷ lệ mắc bệnh ở những vùng DTTS cao hơn
so với các vùng khác là: do nhà ở chật trội, tạm bợ, ẩm thấp, những hạn chế
về điều kiện vệ sinh môi trường và tiếp cận nước sạch, tệ nạn nghiện hút,
uống rượu, ngại sử dụng dịch vụ y tế hiện đại… Hơn nữa, phần lớn các hộ
Bộ Y tế (2008) , Báo cáo chung tổng quan ngành y tế
14
20
gia đình DTTS là hộ nghèo, thẻ bảo hiểm y tế không đủ trang trải mọi chi
phí cho người bệnh khi phải vào bệnh viện, đặc biệt là bệnh viện cấp cao.
Theo thống kê của Bộ Y tế, tỷ lệ người dân miền núi, vùng sâu, vùng
xa ốm không được khám chữa bệnh cao gấp 45 lần miền xuôi15. Ngoài các
bệnh thông thường nói trên, gần đây, tại các vùng DT& MN đã “được du
nhập nhiều bệnh tật mới” của các nước phát triển như: suy tim, cao huyết
áp, phù phế quản, tắc nghẽn phế quản, đái tháo đường, nhiễm HIV.... Phần
lớn các bệnh này xuất hiện dưới tác động của quá trình hội nhập không
đúng hướng của các cộng đồng DTTS.
4. Thách thức phát triển NNL trong DTTS từ bình diện văn hóa và ý
thức tộc người
1)Tình trạng duy trì tập quán chữa bệnh không sử dụng dịch vụ y
tế
Nghèo đói cùng với điều kiện tự nhiên khó khăn (xa xôi, đường xá đi
lại khó khăn) càng làm cho nhiều nhóm DTTS duy trì tập quán chữa bệnh
không sử dụng dịch vụ y tế hiện đại. Có tới gần 40% dân số đồng bào các
DTTS miền núi phía Bắc và khoảng 20% đồng bào các tỉnh Tây Nguyên tự
chữa bệnh, mà không đến thăm khám ở cơ sở y tế tại địa phương 17. Điều
này được lý giải bằng nhiều lý do: a) do đường xá xa xôi từ nhà đến cơ sở y
tế; b) do chi phí thuốc đắt đỏ; do không quen cho bác sĩ thăm khám bản thân.
Điều này phổ biến ở các trường hợp phụ nữ sinh nở. Có tới trên 80% phụ
nữ tự sinh con tại nhà thiếu sự giúp đỡ của các nhân viên y tế là vì phong
tục đó. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ suất chết trẻ dưới
1 tuổi và tỷ suất chết mẹ khi sinh cao trong các nhóm DTTS. Khoảng cách
đến trạm y tế xã xa chỉ là nguyên nhân thứ yếu, mà chủ yếu do phong tục
tập quán của các cộng đồng.Bởi nhiều phụ nữ sinh con tại nhà mặc dù nhà
chỉ cách trạm xá xã chưa đầy 1 km.
Một xu thế khác diễn ra ở số các học sinh bỏ học sớm, đó là đi làm ăn
xa với những công việc nặng nhọc, không ổn định và chắc chắn. Tại ba
15
Bộ Y tế (2008) , Báo cáo chung tổng quan ngành y tế
21
điểm nghiên cứu, tùy theo tâm lý tộc người và điều kiện địa lý mà thanh niên
DTTS có những thái độ và cách thích ứng khác nhau với việc đi làm xa.
Thường người dân đi làm theo nhóm hoặc mang tính cá nhân (tự phát) và đi
xuất khẩu lao động ở nước ngoài qua môi giới của các công ty xuất khẩu
lao động. Nhưng điểm chung là do trình độ học vấn thấp khó tiếp cận các
loại hình nghề nghiệp đòi hỏi tính chuyên môn nên người dân thường tham
gia các công việc giản đơn như chạy bàn, phụ hồ, làm đường, đóng gạch, lát
đường, tiếp nhiên liệu cho máy móc…
Với cộng đồng người Thái ở Yên Bái, thời gian nông nhàn họ thường
tổ chức thành nhóm lao động gồm khoảng 1012 người xuống Hà Nội tìm
công việc giản đơn để kiếm thêm tiền phụ giúp gia đình. Những công việc
này đến với người dân chủ yếu thông qua các kênh môi giới vốn không chắc
chắn, không có hợp đồng ổn định và chế độ làm việc không được đảm bảo.
Công việc đã nặng nhọc và môi trường lao động ô nhiễm nhưng chủ thuê
lao động không chỉ ép làm thêm giờ mà thường giữ lại 12 tháng lương
phòng trường hợp người làm bỏ giữa chừng. Nhiều trường hợp nhân công bị
tai nạn lao động nhưng chủ thuê cũng không có trách nhiệm chữa trị để mặc
cá nhân tự xoay xở khó khăn. Với lớp người lao động tự do này, họ không có
một tổ chức nghiệp đoàn nào bảo lãnh, không bảo hiểm, hoàn toàn tùy thuộc
sức khỏe cá nhân.
Vấn đề ở chỗ người lao động trẻ không biết quản lý tiền bạc và
chăm sóc sức khỏe bản thân khi đi lao động xa. Thường các gia đình mong
con cái đi Hà Nội kiếm tiền để giải quyết tạm thời công ăn việc làm nhưng
chỉ có một số em mang được ít tiền về, phần lớn là ăn chơi hết, thậm chí có
em đến Nghĩa Lộ còn không đủ tiền về nhà, phải gọi người ra đón.
2) Xu thế đua đòi cùng bè bạn tiêu xài điện thoại, xe máy và đồ đắt
tiền để khẳng định bản thân
Bên cạnh việc bỏ học thì học sinh cấp 2 cả nam và nữcó xu thế sử
dụng điện thoại di động ngày càng nhiều. Tâm lý tiếp cận các vật dụng
22
hiện đại đối với các em như là xu thế tất yếu. Ở chừng mực nhất định,
điều này thể hiện tâm lý muốn khẳng định bản thân là ‘hiện đại.’ Chuyện
lạm dụng điện thoại cũng tác động không nhỏ đến việc học của các em.
Có những học sinh cấp 2 người Thái rủ nhau bỏ học, xuống Hà Nội đi làm
chỉ để mua điện thoại. Một số học sinh người Hmông đòi cha mẹ mình
mua điện thoại, nếu không được đáp ứng sẽ phản ứng bằng cách nghỉ học
hoặc bỏ nhà. Tuy hien, do thiếu hiểu biết về kỹ thuật, nên nhiều khi các
em mua điện thoại dung hết pin rồi vứt.
Cũng như vậy, thanh niên ỏ một số cộng đồng DTTS như người
chứt ở Quảng Bình cũng đua nhau mua xe máy, thậm chí bắt cha mẹ bán
cả trâu bò đi để mua xe. Nhưng không phải thanh niên nào cũng sử dụng
xe máy một cách hiệu quả. Nhiều anh em khi có xe máy đi rĩ ầm ga, chạy
vài chục lần quanh bản để “khoe” với bà ccon. Tuy nhiên, họ dùng xe
chẳng được bao lâu, xe máy chạy hết xăng hoặc hơi trục trặc, họ vứt 1
chỗ và không thiết sửa để đi nữa…16.
3) Hiện tượng thanh niên, học sinh DTTS phản ứng tiêu cực tìm
đến việc tự tử bằng lá ngón gia tăng
Trong nghiên cứu một số DTTS ở một vài tình miề núi phái Bắc,
nhóm nghiên cứu thấy nổi lên hiện tượng tự tử bằng lá ngón của các em học
sinh người Hmông gia tăng. Việc tự tử bằng lá ngón không có gì là mới với
người Hmông, bởi nó xuất hiện nhiều trong các câu chuyện dân gian được
lưu truyền tại cộng đồng, được hiểu như là ‘cách thức’ để người Hmông
giải quyết uất ức mỗi khi bế tắc, không lối thoát. Thế nhưng thời gian gần
đây có nhiều đối tượng học sinh tìm đến phương thức ăn lá ngón và coi đó
như là một ‘phản ứng’ nhất thời khi đòi hỏi của mình không được cha mẹ
đáp ứng.
Nguyên nhân dẫn đến hành vi tự tử có khi giản đơn như ‘đòi cha mẹ
mua điện thoại không được’; ‘yêu một người không được đáp lại tình
Tham khảo công trình. Nghiên ứu cơ ội và năng lực phát triển con người của người Chứt ở miền Trung
việt Nam do Trịnh Thị Kim Ngọc làm chủ nhiệm. 2014 2016.
16
23
cảm’…. họ hay rủ nhau ăn lá ngón ‘để được đi bệnh viện, để được chăm
sóc và được ….ăn thịt gà’…. Đặc biệt, có trường hợp học sinh mới học lớp
3, không thích đi học, do thầy cô và gia đình ép học sẵn sàng bỏ nhà vào
rừng ăn lá ngón để dọa cha mẹ. Trước thái độ phản ứng tiêu cực của các
em, gia đình và nhà trường thường không dám can thiệp mạnh vì ngại liên
quan đến tự ái cá nhân có khi lại dân tới việc liều mạng. Hiện tượng này đã
để lại nhiều bất an trong cha mẹ và thày cô giáo.
4) Có một kiểu bứt phá, thoát xác…đã đến với thanh niên tại
một số cộng đồng DTTS
Hiện nay tại nhiều cộng đồng DTTS, rừng không còn để trông coi,
chăm sóc, đồng thời đất đai để sản xuất đã eo hẹp, nay lại đang xuất hiện
tình trạng thất nghiệp, thanh niên DTTS không có phương tiện cũng như
điều kiện kiếm sống. Không ít thanh niên DTTS đã rơi vào chỗ sa đọa, kết
bè kết đám, trộm cắp, giật dọc để hút chích, trong đó, ma túy đá là thứ đang
trực tiếp biến họ thành những cái xác vật vờ…..
Cụ thể một ví dụ: tại một cộng đồng dân tộc Mường ở Ngọc Lặc,
xuất hiện một lớp thanh niên Mường đang dần lún sâu vào nghiện ngập, ma
túy… đang cảnh báo là một tình trạng dương tính về mặt khủng hoảng
dân tộc học của các tộc người thiểu số.
Theo lời kể một người mẹ dân tộc Mường tên H. ở Ngọc Lặc,
Thanh Hóa, kể lại từ ngày đường mòn Hồ Chí Minh được mở rộng, thông
xe và dịch vụ du lịch, quán sá mọc đầy hai bên đường thì đời sống của bà
con dân tộc Mường không còn bình yên như trước đây nữa. Vì trước đây quá
nghèo khổ, hiếm khi có được lấy một chục triệu đồng trong tay nên khi con
đường đi qua, nhiều người nghe đất có giá, đã bán đổ bán tháo, có khi cả
ngàn mét vuông chỉ bán với vài chục triệu đồng.
Những người buôn đất cũng không ai xa lạ mà chính là các cán bộ địa
phương, họ đã mua đất của bà con người Mường với giá rẻ bèo, sau đó bán
lại cho nhà buôn với giá gấp năm, sáu lần giá mua. Nhà buôn sau đó lại tiếp
tục bán cho những người mở nhà hàng, quán xá với giá cao gấp vài lần nữa.
24
Những người Mường từng là chủ mảnh đất chỉ biết xót xa đứng nhìn người
ta hốt bạc trên mảnh vườn xưa – nơi chon rau cắt rốn của mình.
Và đương nhiên không ít người Mường oán hận bởi lối nói chuyện
khinh bạc, cho rằng vì người Mường ngu ngốc, không hiểu gì nên mới bị
lừa bán đất rẻ như cho. Trong khi đó, người Mường vốn thật thà, tin người
chứ người Mường đâu có ngờ người ta bịp bợm, coi khinh sự thật thà của
Mường như thế!
Chính vì bị coi thường, kinh rẻ, thất nghiệp và mù chữ, nhiều thanh
niên Mường đã nghe theo một số chủ lô đề người Kinh, tham gia đánh đề,
bán số đề, ban đầu cũng kiếm được không ít tiền, lại rủ nhau chích choác,
hút hít, đến khi bị nghiện ma túy thì cũng là lúc tiền đã đi sạch, những khoản
nào còn có thể khoắng được của gia đình, các thanh niên này về khoắng
sạch mỗi khi lên cơn nghiện. Nếu nhà khánh kiệt, không còn gì để khoắng,
thì không biết còn những thực tế kinh hoàng đến mức nào có thể xảy ra như
cha mẹ anh em đánh giết lẫn nhau vì chút tiền để chếch choác…
Đối với một gia đình người Mường thì chỉ mong cuộc sống đơn giản
chất phát thanh đạm, nhưng con cái đua đòi thì là một gánh nặng một cái
khổ chung cho các gia đình dân tộc thiểu số. Không dừng ở đó, nhóm thanh
niên chơi chung ma túy với con trai bà Hảo còn rủ nhau ra đường Hồ Chí
Minh, cả nhóm nấp trong bụi rậm, cử một đứa ra đứng xin quá giang.
Những ai không biết, dừng xe lại thì cả nhóm ùa ra chặn đầu xe xin đểu,
trấn lột, thậm chí cướp giật.
Mà đáng buồn cười ở đây là càng nghèo thì càng dễ bị rơi vào tội lỗi
bởi không có cơ hội nào để ngoi đầu lên được. Nghèo sẽ dẫn đến mọi thứ
khó khăn, việc học hành cũng không tới nơi tới chốn, bị xã hội coi thường,
thậm chí khinh khi và cơ hội duy nhất cho người nghèo nơi miền sơn cước
này chính là tự bứt phá, thoát xác. Đến với ma túy đá hay trộm cướp là một
kiểu thoát xác, bứt phá…. Kỳ lạ không phù hợp với tính cách phần đông
DTTS nước ta. Nay lại đến với giới trẻ người dân tộc thiểu số…..
Kết luận
25