Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Một số vấn đề về luật tục và mối quan hệ giữa luật tục và pháp luật ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 107 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU …………...……………………..……….………………….……….…... 5
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ SỰ HÌNH THÀNH, ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN, VAI
TRÒ VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LUẬT TỤC VỚI MỘT SỐ YẾU TỐ TỰ
NHIÊN - XÃ HỘI …………..….….……….…...…..…...………….……………. 10

1.1. Khái quát về sự hình thành của luật tục…...……………….….………….. 10
1.2. Khái niệm luật tục …………………………………….……..……..……... 12
1.3. Đặc điểm cơ bản của luật tục …………………….…………….….……... 14
1.4. Vai trò của luật tục………………………………………….……………... 15
1.4.1. Duy trì sự phát triển ổn định trong cộng đồng …………………….….. 15
1.4.2. Điều hoà các mối quan hệ trong cộng đồng ……………..……………. 16
1.4.3. Duy trì sự bình đẳng, dân chủ trong cộng đồng …………...…………. 17
1.4.4. Ghi nhận các giá trị văn hoá, đạo đức ……………………………...…. 17
1.4.5. Gắn kết con người với thiên nhiên ……………………………………. 18
1.5. Mối quan hệ giữa luật tục với một số yếu tố tự nhiên - xã hội ….…….….. 19
1.5.1. Mối quan hệ giữa luật tục với tự nhiên……………………………...… 19
1.5.2. Mối quan hệ giữa luật tục với văn hoá…………………………….….. 21
1.5.3. Mối quan hệ giữa luật tục với đạo đức ……..……………………….... 22
1.5.4. Mối quan hệ giữa luật tục với sắc tộc ……………………………..….. 24
1.5.5. Mối quan hệ giữa luật tục với tín ngưỡng, tôn giáo.………………...… 24
Chƣơng 2. NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG, KHÁC BIỆT VÀ SỰ TÁC ĐỘNG
QUA LẠI GIỮA LUẬT TỤC VÀ PHÁP LUẬT TRONG THỰC TIỄN ………. 25

2.1. Khái quát chung …………………………………….…………...………... 25

2


2.1.1. Những điểm tương đồng giữa luật tục và pháp luật ………………...… 25


2.1.2. Những điểm khác biệt giữa luật tục và pháp luật ………………...….... 27
2.2. Sự tác động qua lại giữa luật tục và pháp luật trong thực tiễn ……….….. 33
2.2.1. Một số nét cơ bản về mối quan hệ giữa luật tục và pháp luật ……….... 33
2.2.2. Sự tác động qua lại giữa luật tục và pháp luật trong thực tiễn ……...… 36
2.2.2.1. Về lĩnh vực dân sự …………………………………….……….…. 37
2.2.2.2. Về lĩnh vực hình sự ………………………………………………. 46
2.2.2.3. Về lĩnh vực hôn nhân và gia đình ……………………………….... 57
2.2.2.4. Về lĩnh vực bảo vệ môi trường ………………………...……….… 74
2.2.2.5. Về tín ngưỡng, tôn giáo ……………………………………...…… 81
2.2.2.6. Về tổ chức, quản lý cộng đồng ………………………….….....….. 85
Chƣơng 3- MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM PHÁT HUY GIÁ TRỊ TÍCH CỰC CỦA
LUẬT TỤC TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN .. 90

3.1. Các giá trị tích cực của luật tục …………………………….…………….. 91
3.1.1. Duy trì trật tự ổn định trong cộng đồng ………………………….….... 91
3.1.2. Gìn giữ bản sắc văn hoá, các giá trị đạo đức truyền thống ……...……. 92
3.1.3. Góp phần hoàn thiện pháp luật …………………………………..…… 93
3.1.4. Bảo vệ môi trường ………………………………………………….… 94
3.1.5. Củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở ………………………………...…. 94
3.2. Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy giá trị tích cực của luật tục trong
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền….……………………………………... 96
3.2.1. Về phía nhà nước …………………………………………….….……. 96
3.2.1.1. Đối với việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật . 97
3.2.1.2. Tiếp thu các yếu tố tích cực của luật tục và thể chế hoá thành pháp
luật …………..……………………………………………………………………. 98
3.2.1.3. Loại trừ các yếu tố lạc hậu của luật tục …………………………… 99

3



3.2.1.4. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp

luật



vùng

đồng

bào

dân

tộc

thiểu

số

…...…………………………………………..… 100
3.2.2. Về phía các nhà khoa học, các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý …..… 101
3.2.2.1. Về phía các nhà khoa học …………………………………..….... 101
3.2.2.2.

Về phía các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý

………………..….... 101
KẾT LUẬN ……………………………………………………………..…….… 103

TÀI LIỆU THAM KHẢO ……….……………………………………..…….… 104

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài luận văn
Việt Nam là một nước có 54 dân tộc cùng sinh sống, trong đó người dân
tộc Kinh chiếm đa số, còn lại là các dân tộc thiểu số. Phần lớn các dân tộc thiểu
số đều sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo (trên một diện
tích bằng khoảng 3/4 diện tích cả nước) - là những nơi có vị trí chiến lược về
kinh tế, an ninh quốc phòng và môi trường sinh thái. Các dân tộc thiểu số thường
sinh sống gắn bó với nhau thành cộng đồng, được truyền đời qua nhiều thế hệ.
Trải qua thời gian, mỗi một dân tộc đã tích luỹ cho mình một kho tàng kiến thức
riêng, trong đó có hệ thống các quy tắc xử sự, các giá trị, chuẩn mực riêng mà
chúng ta vẫn thường gọi đó là luật tục. Các quy định luật tục ở Việt Nam hết sức
phong phú, mang đậm bản sắc văn hoá của từng dân tộc và nó vẫn còn tồn tại
cũng như đóng một vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt là trong đời sống của
cộng đồng các dân tộc thiểu số hiện nay ở nước ta.
Thực tiễn hiện nay cho thấy một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến
tình trạng pháp luật chưa đi vào cuộc sống tại các vùng dân tộc thiểu số là do ở
đó còn chịu rất nhiều ảnh hưởng của luật tục. Người dân tộc thiểu số mang
những đặc thù riêng về tâm lý, nhận thức, từ rất lâu đã bị chi phối bởi các quy
định của luật tục và để thay đổi được nó, tức là tuyên truyền cho người dân hiểu
và làm theo pháp luật là không hề đơn giản. Tại nhiều vùng địa phương còn xảy
ra hiện tượng xung đột giữa các quy định của pháp luật và luật tục khi cùng điều
chỉnh một mối quan hệ phát sinh trong cộng đồng người dân tộc thiểu số, trong

5



trường hợp này không phải lúc nào pháp luật cũng được đảm bảo thực hiện mà
đôi khi xảy ra điều ngược lại. Về nguyên tắc chúng ta có thể hiểu rằng pháp luật
là tối thượng và ở mọi nơi, mọi lúc pháp luật phải được thực thi một cách bình
đẳng, tuy nhiên rõ ràng cách hiểu như vậy là có phần cứng nhắc và không thực tế
đối với các vùng dân tộc thiểu số ở nước ta.
Bên cạnh đó, đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật và tăng cường công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho từng người dân đang là một yêu
cầu rất bức xúc. Thế nhưng, từ những điều kiện thực tế của Việt Nam, có lẽ
chúng ta cũng cần phải có những thay đổi về nhận thức và phương pháp để thực
hiện vấn đề này, không thể dùng các quy định của pháp luật để thay thế và xoá
nhoà đi các quy định của luật tục trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, điều đó là
không khả thi. Chúng ta cần có những biện pháp giúp cho pháp luật và luật tục
có thể tương thích và giao thoa với nhau, pháp luật sẽ thay thế cho các quy định
đã lạc hậu của luật tục và phát huy các giá trị tích cực của luật tục trong việc duy
trì trật tự, ổn định trong cộng đồng người dân tộc thiểu số. Để làm được điều này
cần phải đặt vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, nghiêm túc đối với luật tục của
người dân tộc thiểu số ở nước ta, cũng như làm sáng tỏ mối quan hệ giữa luật tục
và pháp luật ở Việt Nam
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu về luật tục đã được các nhà
khoa học hết sức quan tâm. Các nhà nghiên cứu trong nước đã có nhiều công
trình nghiên cứu, sưu tầm và biên tập lại các bộ luật tục, hương ước đã từng rất
phổ biến trong cộng đồng các dân tộc xưa kia. Bên cạnh đó, vấn đề luật tục của
người dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng đã thu hút được khá nhiều các học giả
nước ngoài quan tâm, nghiên cứu. Ngoài việc phát hiện ở luật tục các giá trị văn

6



hóa, lịch sử, mang đậm những nét đặc trưng của từng dân tộc, luật tục còn chứa
đựng trong nó các giá trị to lớn đối với khoa học pháp lý, đặt ra rất nhiều vấn đề
chưa có lời giải đáp thoả đáng như: sự ra đời, tồn tại của luật tục; khái niệm,
những đặc điểm của luật tục; cơ chế vận hành của nó; vai trò của nó trong việc
giữ gìn trật tự các mối quan hệ trong cộng đồng các dân tộc; mối liên hệ giữa
luật tục với pháp luật và các yếu tố xã hội khác ... Tuy nhiên, cho đến nay phần
lớn các công trình thường tiếp cận nghiên cứu về luật tục dưới góc độ văn hoá,
lịch sử mà chưa có những đề tài nghiên cứu, phân tích luật tục một cách có hệ
thống dưới góc độ khoa học pháp lý. Từ những lý do trên, được sự đồng ý của
Ban Chủ nhiệm Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội và giáo viên
hướng dẫn khoa học, tôi lựa chọn đề tài cho luận văn tốt nghiệp là Một số vấn đề
về luật tục và mối quan hệ giữa luật tục và pháp luật ở Việt Nam với mong
muốn thông qua việc nghiên cứu này sẽ góp phần tìm ra những giải đáp về mặt
khoa học pháp lý đối với các vấn đề nêu trên.
3. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là thông qua việc tìm hiểu một số quy định luật tục
(trong đó tập trung phân tích các quy định luật tục của người dân tộc thiểu số) để
làm rõ một số vấn đề lý luận về luật tục và mối quan hệ giữa luật tục và pháp
luật ở nước ta, trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị đối với việc quan tâm hơn
nữa đến vấn đề nghiên cứu luật tục và những biện pháp nhằm tiếp tục phát huy
vai trò của luật tục trong việc duy trì ổn định trật tự trong các cộng đồng dân cư
ở nước ta (đặc biệt là đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số). Bên cạnh đó việc
chú trọng nghiên cứu luật tục cũng sẽ tạo ra những cơ sở khoa học cần thiết để
góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam và cũng nhằm để tiếp tục

7


thực hiện vấn đề củng cố hệ thống chính trị cơ sở một cách có hiệu quả trong
tình hình hiện nay.

4. Điểm mới của luận văn
Kế thừa thành tựu của các công trình nghiên cứu khoa học về luật tục,
luận văn đã nêu lên những quan điểm độc lập trong một số vấn đề lý luận về luật
tục, phân tích vai trò, các mối quan hệ giữa luật tục và các yếu tố xã hội, đặc biệt
là mối quan hệ giữa luật tục và pháp luật.
Trong luận văn này, tác giả cũng hạn chế việc dẫn chứng quá nhiều các
quy định của luật tục để phân biệt luận văn với các công trình nghiên cứu, sưu
tầm văn hoá, lịch sử, dân tộc học khác mà chỉ dẫn chứng ra một số ví dụ cần
thiết để làm nổi bật lên các giá trị của luật tục dưới cách nhìn nhận của khoa học
pháp lý hiện đại.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Quá trình xây dựng luận văn có sử dụng các cơ sở lý luận của chủ nghĩa
duy vật Mác - Lê Nin về nhà nước và pháp luật và các vấn đề xã hội; tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc … Từ đó giúp cho tác
giả xây dựng các quan điểm trong một số vấn đề lý luận về luật tục, lý giải các
mối quan hệ biện chứng giữa luật tục và các yếu tố tự nhiên, xã hội, đặc biệt là
với pháp luật.
Trên cơ sở dẫn chứng các quy định của một số bộ luật tục đã được các nhà
khoa học nghiên cứu, biên tập và quá trình sưu tầm các thông tin phục vụ cho
việc nghiên cứu của bản thân, tác giả đã tiến hành phân tích trên quan điểm của
khoa học pháp lý hiện đại để tìm ra sự tác động qua lại giữa luật tục và pháp luật,

8


từ đó cũng nêu bật các giá trị của luật tục trong vấn đề quản lý cộng đồng, giữ
vững trật tự, ổn định xã hội.
Trong luận văn cũng sử dụng các kết quả nghiên cứu điều tra cơ bản thực
trạng tình hình của một số đồng bào dân tộc thiểu số qua thực tiễn công tác trong
cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc của chính tác giả, qua đó có những

cơ sở thực tiễn để tiến hành phân tích cụ thể vị trí, vai trò của luật tục và các vấn
đề xung đột quy phạm giữa luật tục và pháp luật, đồng thời đề xuất các giải pháp
nhằm phát huy các giá trị tích cực của luật tục trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
6. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Trong quá trình xây dựng luận văn, tác giả đã nghiên cứu các vấn đề có
liên quan về luật tục, trong đó tập trung nghiên cứu các quy định luật tục của
người dân tộc thiểu số ở nước ta, từ đó làm cơ sở để đưa ra các quan điểm về lý
luận, cách thức giải quyết vấn đề để phục vụ cho mục đích nghiên cứu đã đề ra
đối với luận văn.
7. Kết cấu của luận văn
Về bố cục của luận văn, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề về sự hình thành, đặc điểm cơ bản, vai trò và
mối quan hệ giữa luật tục với một số yếu tố tự nhiên - xã hội
Chương 2. Những điểm tương đồng, khác biệt và sự tác động qua lại giữa
luật tục và pháp luật trong thực tiễn
Chương 3. Một số đề xuất nhằm phát huy các giá trị tích cực của luật tục
trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền

9


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ SỰ HÌNH THÀNH, ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN,
VAI TRÒ VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LUẬT TỤC
VỚI MỘT SỐ YẾU TỐ TỰ NHIÊN - XÃ HỘI
1.1. KHÁI QUÁT VỀ SỰ HÌNH THÀNH CỦA LUẬT TỤC
Kết quả các công trình nghiên cứu khoa học đã chứng minh rằng trong thế
giới động vật thì xu hướng sống thành bầy đàn là phổ biến đối với các loài, nó

giúp cho các cá thể (các thành viên) trong đó tồn tại và phát triển một cách bền
vững, an toàn hơn. Thực tế cho thấy đối với các loài động vật đã bị tuyệt chủng,
ngoại trừ vì các lý do thiên tai bất khả kháng, thì nguyên nhân chính dẫn đến sự
diệt vong của chúng đó là do không duy trì được mối liên kết đồng loại một cách
bền vững, từ đó làm giảm khả năng tự vệ cũng như tái tạo cuộc sống trong loài
và dễ dàng bị các loài khác tiêu diệt.
Với xu hướng sống thành bầy đàn (cộng đồng) như vậy thì một tất yếu đặt
ra là từng cá thể sống trong bầy đàn đã phát sinh nhu cầu phải hình thành nên các
quy ước, quy tắc để biểu hiện, duy trì sự liên kết với nhau. Các quy ước này có
thể hết sức giản đơn, có thể là rất tinh vi, phức tạp tương ứng với sự phát triển
của từng loài và nó mang tính hệ thống, phổ quát đến mọi cá thể sống trong cộng
đồng, thậm chí phổ biến đến trên một quy mô lớn hơn đó là trong cùng một loài.

10


Con người được biết đến như là một loài động vật tiến hoá nhất sống trên
trái đất cũng tồn tại không nằm ngoài quy luật đó và một minh chứng rõ nét để
giải thích cho sự tồn tại bền vững của con người cho đến ngày nay là tính tổ
chức cộng đồng cao nhất chỉ có ở loài người, thể hiện qua hệ thống các quy ước,
quy tắc hết sức tinh vi mà con người sử dụng nhằm duy trì mối liên kết giữa các
thành viên. Cùng với sự xuất hiện ngôn ngữ, loài người đã có thêm một công cụ
đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện và hoàn thiện hệ thống các quy ước đặc
trưng của mình. Tuy nhiên, trong thuở bình minh của loài người thì các quy ước
này phần lớn còn mang tính tuỳ nghi, tự phát do đặc điểm của các mối quan hệ
trong cộng đồng loài người lúc này còn giản đơn, dựa trên nền tảng của một xã
hội công cộng nguyên thuỷ. Thế nhưng, bên cạnh sự tuỳ nghi của các quy ước,
quy tắc xử sự đó, đây đó chúng ta đã thấy có sự hiện diện của các quy ước mang
tính khuôn mẫu, lặp đi lặp lại, được thừa nhận chung đối với mọi thành viên
sống trong cộng đồng, ví dụ như: quy ước về sự phân chia công việc giữa hai

giống - giống cái làm nhiệm vụ hái lượm, giống đực làm nhiệm vụ săn bắt; quy
ước về sự phân chia các nông sản, con thú kiếm được cho tất cả thành viên trong
cộng đồng … Có thể nói, cùng với sự phát triển của xã hội loài người, các quy
ước khuôn mẫu kiểu như trên xuất hiện ngày càng nhiều và nó đóng một vai trò
hết sức quan trọng trong việc duy trì trật tự, ổn định trong cộng đồng.
Cho tới ngày nay, đối với các nhà khoa học thì việc tìm ra lời giải đáp cho
câu hỏi: luật tục bắt đầu xuất hiện từ khi nào? vẫn còn nhiều ý kiến chưa thống
nhất, tuy nhiên, với những dẫn chứng nêu trên, chúng tôi xin mạnh dạn đưa ra
quan điểm rằng chính từ sự ra đời của ngôn ngữ và cùng với việc trong cộng
đồng loài người xuất hiện các quy ước xử sự mang tính khuôn mẫu được thừa
nhận chung đã là những cơ sở của việc hình thành luật tục của con người.

11


Tuy nhiên, qua nghiên cứu quá trình lịch sử của loài người chúng ta đã
cho thấy hai xu hướng phát triển của hệ thống các quy tắc xử sự trong xã hội loài
người, đó là xu hướng giai cấp hoá và xu hướng cộng đồng hoá các quy tắc xử
sự. Sở dĩ chúng tôi đặt vấn đề như vậy là vì tương ứng với xu hướng giai cấp hoá
các quy tắc xử sự chúng ta có sự ra đời của pháp luật, một sản phẩm đặc trưng
của xã hội có giai cấp, còn với xu hướng cộng đồng hoá, chúng ta có rất nhiều
những quy tắc xử sự hết sức phong phú, đa dạng, được thừa nhận một cách tự
nhiên trong đời sống cộng đồng con người và được các thành viên sống trong
cộng đồng tuân thủ với một ý thức tự giác rất cao, đó chính là luật tục.
1.2. KHÁI NIỆM LUẬT TỤC
Một số nhà khoa học trong quá trình nghiên cứu của mình đã đưa ra những
quan niệm về luật tục với sự phân tích nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Khi phân tích khái niệm luật tục xuất phát từ thuật ngữ nước ngoài, PGS.TS
Nguyễn Xuân Kính cho rằng: Luật tục còn được gọi là tập quán pháp, là thuật
ngữ chuyển dịch từ droit coutumier (tiếng Pháp) hoặc customary law hay folk

law (tiếng Anh). Tạm dịch là luật phong tục tập quán hay là luật của nhân dân
(dân gian). 33, tr. 141
Một cách cụ thể hơn, GS.TSKH Phan Đăng Nhật quan niệm: "Luật tục là
những quy định của quần chúng trong cộng đồng đặt ra để điều hoà mối quan hệ
của tập thể cộng đồng một cách tự nguyện và dân chủ, không phải là luật lệ của
một tầng lớp người đặt ra và thực thi để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị".
37, tr. 85
Hay như khái niệm của GS. Ngô Đức Thịnh: "Luật tục là một hình thức
của tri thức bản địa, được hình thành trong lịch sử lâu dài qua kinh nghiệm ứng
xử với môi trường và xã hội, được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và

12


truyền từ đời này sang đời khác bằng trí nhớ qua thực hành sản xuất và thực
hành xã hội. Nó hướng đến việc hướng dẫn quan hệ xã hội, quan hệ xã hội với
thiên nhiên. Những chuẩn mực ấy của luật tục được cả cộng đồng thừa nhận và
thực hiện, nhờ đó đã tạo ra được sự thống nhất và cân bằng trong mỗi cộng
đồng. Luật tục như hình thức phát triển cao của phong tục, tục lệ và là hình thức
sơ khai của luật pháp." 45, tr. 312
Nhìn chung các nhà khoa học đều có sự thống nhất về nguồn gốc dân gian,
tính chất phi giai cấp và tinh thần dân chủ rất cao của luật tục. Bên cạnh đó luật
tục còn chứa đựng rất nhiều các giá trị đạo đức, văn hoá, nhân văn, ngoài ra còn
phản ánh cả đời sống tâm linh và thể hiện mối liên kết bền vững giữa con người
với môi trường xung quanh. Theo chúng tôi, luật tục chính là hệ thống các quy
tắc xử sự đặt ra trong khuôn khổ một cộng đồng người để duy trì trật tự, ổn định
trong cộng đồng đó, nó được hình thành và thừa nhận thông qua quá trình phát
triển tự nhiên của các mặt đời sống xã hội con người trên cơ sở của sự thoả
thuận và được các thành viên sống trong cộng đồng tự giác tuân theo.
Sở dĩ chúng tôi nêu lên khái niệm như vậy là vì qua thực tiễn cực kỳ

phong phú về luật tục, chúng ta có thể thấy được sự hiện diện của luật tục trong
hầu hết các mặt đời sống xã hội ở Việt Nam, có những bộ luật tục đã cho thấy nó
không chỉ có chức năng điều hoà các mối quan hệ trong cộng đồng mà còn quy
định cả về các quy tắc xử sự trong đời sống tâm linh tuy rất trừu tượng nhưng lại
có tác động hết sức to lớn đến hành vi con người. Bên cạnh đó nêu coi luật tục là
một hình thức sơ khai của pháp luật thì sẽ không thấy được hết được tính độc lập
của luật tục so với pháp luật vì ngay cả khi pháp luật ra đời thì luật tục vẫn có sự
phát triển riêng của nó mà không hoàn toàn bị thay thế bởi pháp luật. Về bản
chất, luật tục mang tính thoả thuận cộng đồng còn pháp luật mang nặng tính ý

13


chí đơn phương. Chính vì vậy chúng tôi đã đưa ra khái niệm trên nhằm có một
cách nhìn nhận phổ quát hơn về luật tục ở nước ta, cũng với khái niệm này
chúng tôi muốn bày tỏ quan điểm coi hương ước như là một dạng của luật tục vì
nó mang đầy đủ các đặc trưng của luật tục: (1) là hệ thống các quy tắc xử sự của
một cộng đồng người; (2) được hình thành và thừa nhận thông qua quá trình
phát triển tự nhiên của các mặt đời sống xã hội con người trên cơ sở của sự thoả
thuận; (3) được các thành viên trong cộng đồng tự giác tuân theo.
1.3. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA LUẬT TỤC
Từ khái niệm nêu trên, chúng ta có thể thấy luật tục mang một số đặc điểm
cơ bản sau đây:
Thứ nhất, luật tục là hệ thống các quy tắc xử sự trong khuôn khổ một cộng
đồng người để duy trì trật tự, ổn định trong cộng đồng đó. Cộng đồng này
thường là giới hạn trong phạm vi một nhóm người có một số đặc điểm chung
như: về lãnh thổ, địa bàn cư trú (trong một làng, xóm, buôn …); về quan hệ sắc
tộc, chủng tộc; về tập quán văn hoá (ở Việt Nam thì yếu tố lãnh thổ và yếu tố sắc
tộc là đặc biệt rõ nét quy định nên tính chất của các bộ luật tục). Tuy bị giới hạn
phạm vi trong khuôn khổ một cộng đồng người như vậy, nhưng luật tục lại hết

sức phong phú, đa dạng cả về hình thức lẫn nội dung. Các quy định luật tục
không bị giới hạn bởi lĩnh vực, đặc điểm của các mối quan hệ xã hội giữa các
thành viên sống trong cộng đồng mà nó bao trùm lên tất cả các mặt đời sống xã
hội của cộng đồng người đó (không chỉ có những quy định về dân sự, hình sự,
hôn nhân mà còn có cả các quy định về đời sống tâm linh, thờ cúng, văn hoá ứng
xử, đạo đức, gìn giữ môi trường ...),
Thứ hai, luật tục được hình thành và thừa nhận thông qua quá trình phát
triển tự nhiên của các mặt đời sống xã hội con người, nó được hình thành và

14


không ngừng được bổ sung cũng chính như nhu cầu phát triển tất yếu của cộng
đồng con người. Có thể nói, chính thực tiễn cuộc sống đã là nguồn cung cấp vô
tận để hình thành nên các quy phạm luật tục và đó cũng là nguyên nhân cơ bản
nhất để tạo nên sức sống mãnh liệt của luật tục trong đời sống cộng đồng các dân
tộc Việt Nam.
Môi trường tự nhiên cũng là cơ sở hình thành luật tục, để phù hợp và thích
nghi môi trường tự nhiên, đồng bào các dân tộc đã tạo ra phương thức sản xuất
phù hợp với cách thức ứng xử nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, phản ảnh
mối quan hệ cộng sinh giữa con người với tự nhiên, giữa môi trường với đời
sống các tộc người ở trong một vùng cư trú. Môi trường tự nhiên càng phức tạp
bao nhiêu thì luật tục cũng đa dạng bấy nhiêu.
Thứ ba, luật tục được các thành viên sống trong cộng đồng tự giác tuân
theo. Đây là một đặc điểm hết sức rõ nét của luật tục, nó thể hiện tính hợp lý,
tính phổ biến và một tinh thần dân chủ rất cao của các quy phạm luật tục. Như
PGS-TSKH Phan Đăng Nhật đã nhận xét đó là: luật tục "có tinh thần dân chủ,
một thứ dân chủ nguyên thuỷ và được phổ biến sâu rộng trong nhân dân, có tính
quần chúng sâu sắc theo phương pháp dân dã." 37, tr. 73
Đối với những con người mà bản chất là luôn có sự tự do ý chí thì việc

tuân thủ một cách tự nguyện các quy tắc xử sự chung của luật tục đã cho thấy vai
trò đặc biệt quan trọng của luật tục trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa các cá
nhân trong đời sống cộng đồng.
1.4. VAI TRÒ CỦA LUẬT TỤC
1.4.1. Duy trì sự phát triển ổn định trong cộng đồng
Có thể nói đây là một vai trò cơ bản và rõ nét nhất của luật tục. Qua
nghiên cứu quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người, chúng ta thấy được

15


sự đồng hành của các quy phạm luật tục và vai trò không thể phủ nhận của nó
trong việc duy trì sự phát triển ổn định của các cộng đồng người không chỉ ở
Việt Nam mà còn ở rất nhiều nơi khác trên thế giới. Có thể nói luật tục là một
sản phẩm của nền văn minh nhân loại, nó đánh dấu một sự phát triển cơ bản
trong xã hội loài người trong vấn đề tổ chức quản lý cộng đồng. Kể từ khi có sự
xuất hiện của các quy phạm luật tục, con người dần đoạn tuyệt với thời kỳ hỗn
mang nguyên thuỷ và bắt đầu tổ chức quản lý xã hội theo một trật tự, mặc dù trật
tự này còn hết sức giản đơn nhưng cũng đã tạo nên sức phát triển mạnh mẽ của
xã hội loài người. Đây cũng chính là sự phát triển trong nhận thức của con người
về tầm quan trọng của việc duy trì ổn định xã hội đối với sự phát triển chung của
cả cộng đồng.
1.4.2. Điều hoà các mối quan hệ trong cộng đồng
Như chúng ta đã biết, một bước ngoặt hết sức quan trọng trong quá trình
phát triển của xã hội loài người đó chính là sự xuất hiện trong con người ý thức
tư hữu. Chính từ đây đã làm cho mối quan hệ giữa người với người trở nên phức
tạp và nảy sinh mâu thuẫn. Thoạt đầu các mâu thuẫn này được giải quyết bằng
phương pháp vũ lực, nghĩa là phần thắng thuộc về kẻ mạnh (có thể coi đây là sự
ảnh hưởng của đời sống tự nhiên đến hành vi con người), tuy nhiên phương pháp
này không phải lúc nào cũng có thể giải quyết được mâu thuẫn, mà ngược lại còn

làm các mâu thuẫn trở nên trầm trọng hơn, tạo ra sự bất ổn trong xã hội. Một nhu
cầu tất yếu đặt ra để kiềm chế và giải quyết các mâu thuẫn trong xã hội đó là việc
con người cần thoả thuận với nhau để đưa ra một số quy tắc ứng xử chung và
cùng nhau tuân thủ các quy tắc đó. Thực tế cho thấy phương pháp này đã tỏ ra
ưu việt hơn hẳn so với việc dựa vào sức mạnh để giải quyết các mâu thuẫn. Cùng
với thời gian thì việc xuất hiện các quy tắc như vậy ngày càng nhiều và nó không

16


chỉ quy định về các vấn đề liên quan đến sở hữu mà còn đề cập đến rất nhiều lĩnh
vực đời sống xã hội khác để theo kịp sự phát triển của các mối quan hệ trong
lòng xã hội, ví dụ như: quy tắc về giao kết hợp đồng; về tặng cho tài sản; về phân
định ranh giới đất đai; về chia hoa lợi; về đính ước trong hôn nhân … Dần dần
việc tuân thủ theo các quy tắc như vậy đã trở thành thói quen (tập quán), được
các thành viên sống trong cộng đồng tuân thủ một cách tự giác và mặc nhiên
được thừa nhận như là một thứ "luật". Bằng cách đó, luật tục đã sớm hiện diện
trong đời sống con người một cách tự nhiên như là một tất yếu để điều hoà các
mối quan hệ giữa các cá nhân sống trong cộng đồng và giữ một vai trò hết sức
quan trọng trong lịch sử tồn tại và phát triển của con người.
1.4.3. Duy trì sự bình đẳng, dân chủ trong cộng đồng
Luật tục luôn ghi nhận sự bình đẳng và dân chủ. Như đã phân tích ở trên,
luật tục chính là các quy tắc xử sự chung do con người cùng thoả thuận nên. Để
đạt được sự thoả thuận này đương nhiên giữa các thành viên không thể có sự
phân biệt về lợi ích cá nhân cho bất kỳ ai, nói cách khác, để đảm bảo sự trật tự và
ổn định trong đời sống cộng đồng (lợi ích chung) thì tất cả các lợi ích cá nhân
đều được đặt ngang nhau. Các quy định luật tục đã làm cho con người nhận thức
rằng chỉ khi nào lợi ích chung của cộng đồng được tôn trọng và bảo vệ thì khi đó
những lợi ích của cá nhân mới được đảm bảo một cách bền vững. Điều này đã
giúp cho luật tục thực sự tạo nên sự bình đẳng trong cộng đồng và cũng nhờ có

nó mà các thành viên đều được tôn trọng và bảo vệ lợi ích cá nhân khi tuân thủ
đúng các quy định luật tục, đó cũng chính là sự dân chủ "tự nhiên" được luật tục
ghi nhận và đảm bảo thực hiện trong cộng đồng.
1.4.4. Ghi nhận các giá trị văn hoá, đạo đức

17


Bên cạnh việc duy trì sự phát triển ổn định của xã hội, điều hoà mối quan
hệ giữa các thành viên và đảm bảo sự bình đẳng, dân chủ trong cộng đồng, luật
tục còn chứa đựng các nội dung về văn hoá, đạo đức. Kể từ khi các quy phạm
luật tục ra đời, con người đã biết đến việc tổ chức quản lý xã hội theo một tôn ti
trật tự nhất định, nó xác định các thứ bậc của một số cá nhân trong việc đứng ra
cai quản cộng đồng, các thứ bậc này cũng được hình thành dựa trên sự thoả
thuận của các thành viên và cùng với sự phân chia tổ chức cộng đồng theo các
gia đình độc lập thì luật tục cũng đã xác định vai trò, thứ bậc của các thành viên
sống trong một gia đình, từ đó hướng sự phát triển của mỗi gia đình theo một trật
tự chung mà toàn xã hội mong muốn. Điều này mang tính quy luật và nó cũng lý
giải tại sao trong luật tục lại sớm có sự ghi nhận các giá trị văn hoá, đạo đức để
từ đó định hướng cho cách cư xử (hành vi) của con người, nó đảm bảo cho tất cả
các thành viên khi sống trong cộng đồng đều phải tuân thủ một cách tự nguyện
theo các chuẩn mực, từ đó giúp cho con người dần đoạn tuyệt với lối sống hoang
dã và biết đến sự tôn trọng lẫn nhau trong xã hội theo một trật tự, ngôi thứ đã
định do cả cộng đồng đề ra.
1.4.5. Gắn kết con ngƣời với thiên nhiên
Một đặc điểm dễ thấy khi nghiên cứu về quá trình phát triển của loài
người đó là mối quan hệ chặt chẽ giữa con người với thiên nhiên, có thể nói mọi
hoạt động sống của con người đều gắn với thiên nhiên. Loài người đã có sự nhận
thức từ rất sớm về vai trò của thiên nhiên đối với sự tồn tại của mình. Đối với
con người, thiên nhiên là nơi cung cấp thức ăn, là nơi ẩn náu và là nguồn cung

cấp các tài nguyên, tư liệu sản xuất … Cho dù trong từng thời kỳ lịch sử, sự nhận
thức của con người về thiên nhiên là có sự khác nhau, tuy nhiên trong bất cứ giai
đoạn nào, con người đều dành một sự tôn trọng nhất định đối với môi trường

18


thiên nhiên. Điều này cũng đã thể hiện trong các bộ luật tục từ thời xa xưa, khi
đó con người chúng ta quan niệm rằng thiên nhiên cũng như là một người với
những sức mạnh siêu phàm và trong mối quan hệ với thiên nhiên, tuyệt đối
không được làm thiên nhiên nổi giận, vì như vậy, loài người sẽ phải hứng chịu
những cơn thịnh nộ với sức mạnh huỷ diệt ghê gớm của thiên nhiên. Chính vì
vậy mà ngoài các quy tắc xử sự đặt ra đối với con người với nhau, trong các quy
phạm luật tục còn quy định các ứng xử của con người đối với thiên nhiên, tạo
nên những nghi thức đặc biệt thiêng liêng để biểu hiện sự tôn trọng của con
người đối với thiên nhiên và cũng với mong muốn sẽ duy trì sự gắn kết chặt chẽ
giữa con người với thiên nhiên để nhận được sự "ủng hộ" từ thiên nhiên.
1.5. MỐI QUAN HỆ GIỮA LUẬT TỤC VỚI MỘT SỐ YẾU TỐ TỰ
NHIÊN - XÃ HỘI
1.5.1. Mối quan hệ giữa luật tục với tự nhiên
Như đã nêu ở phần trên, một trong các vai trò của luật tục là gắn kết con
người với thiên nhiên. Có lẽ vì vậy mà trong tất cả các bộ luật tục mà chúng tôi
được biết từ trước đến nay thì không hề có bộ luật tục nào khuyến khích con
người chúng ta tàn phá môi trường thiên nhiên mà ngược lại, khi nghiên cứu kho
tàng luật tục các dân tộc Việt Nam đã cho thấy có rất nhiều các quy định buộc
con người chúng ta phải gìn giữ, bảo vệ môi trường tự nhiên, phải cư xử đúng
mực với thiên nhiên, ví dụ như:
* Bảo vệ rừng, cấm đốt rừng bừa bãi:
"Rừng bị cháy mà không dập tắt
Người đó sẽ không có rừng

Người đó sẽ không có đất
Làm nhà đừng dùng cây nữa

19


Làm chòi đừng dùng cây nữa
Làm rẫy không phát rừng nữa
Khi thiếu đói đừng đào củ nữa
Bảo nó hãy cất chòi trên mặt trăng
Bảo nó hãy trỉa lúa trên mây."
(Luật tục M'nông)
Hoặc:
"Người hút thuốc phải giữ lấy lửa
Người đốt than phải giữ lấy lửa
Người đốt rẫy phải giữ lấy lửa
Nếu để cháy chòi tội ấy phải xử
Nếu để cháy buôn tội ấy rất nặng
Nếu để cháy rừng tội ấy càng nặng."
(Luật tục Êđê)
* Bảo vệ nguồn nước, cấm làm ô nhiễm nguồn nước:
Trong luật tục của người Raglai có những quy định nghiêm cấm làm nhà
nơi nguồn nước, nơi có mạch nước ngầm, mạch phun (nơi hầm cua hang cá lóc)
và họ ý thức được rằng nếu vi phạm điều đó thì con người sẽ bị: phù thũng to
bụng, tả lị bủng beo.
Ngay cả trong việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên như thế nào cũng
có các quy định của luật tục nhắc nhở con người phải tuân thủ cho đúng, ví dụ
như quy định về cấm bắt cá bằng cách bỏ thuốc vào nguồn nước của người
M'nông:
"Muốn ăn cá nên dùng rá vớt

Không được lấy cây rừng thuốc cá

20


Làm chết sạch cả tép cả cua
Tội thuốc cá không ai đếm nổi." 41, tr. 40
Người La Hủ có qui định trong việc thu hái cây rừng về làm thuốc, nếu lấy
cả cây, phải trồng lại cây khác, nếu lấy rễ, chỉ được tỉa không được đào hết để
cây còn có điều kiện phục hồi và phát triển.
Mối quan hệ giữa luật tục với tự nhiên còn được thể hiện trên một khía
cạnh khác nữa đó là trong các quy định của luật tục về vấn đề thờ cúng các vị
thần trong tự nhiên, về các khu rừng thiêng, nguồn nước thánh thần … từ đó đã
làm cho con người có một ý thức tôn trọng thiên nhiên, chung sống bền vững với
thiên nhiên và cũng giúp cho con người ta có một ý thức tự giác rất cao trong
vấn đề bảo vệ môi trường.
1.5.2. Mối quan hệ giữa luật tục với văn hoá
Luật tục có một mối gắn kết đặc biệt đối với văn hóa. Có thể thấy rằng các
tập quán, đời sống văn hoá cộng đồng đã chi phối rất mạnh mẽ đến nội dung của
các bộ luật tục ở nước ta. Nói cách khác, mỗi một bộ luật tục đều phản ánh khá
rõ nét về đời sống văn hoá của cộng đồng quy định ra nó. Chúng tôi xin được lý
giải vấn đề này qua một số dẫn chứng sau:
"Nhà gươl Cơ Tu cũng như nhà Rông ở Bắc Tây Nguyên hay đình làng
của người Kinh là nơi diễn ra các sự kiện quan trọng như lễ hội mừng được mùa,
mừng năm mới, đón khách quý... Nơi vui chơi, hội họp, tiếp khách, nơi già làng
công bố những phán quyết liên quan đến vận mệnh cộng đồng hay các trường
hợp vi phạm luật tục, nơi tổ chức và quản lý hoạt động của cộng đồng theo tập
tục cổ truyền và cũng là nơi ngủ chung của các chàng trai chưa vợ trong làng.
Theo phong tục xưa, nữ giới không được phép bước vào nên nhà gươl còn gọi là
nhà đàn ông." 49


21


Qua ví dụ trên, chúng ta thấy được việc phân xử các trường hợp vi phạm
luật tục của người Cơ Tu đều phải tuân thủ theo các lễ nghi văn hoá truyền
thống, đó là tổ chức trong một ngôi nhà chung (nhà gươl), mặt khác qua sự phân
xử như trên chúng ta cũng thấy được một đặc điểm rõ nét của cộng đồng người
Cơ Tu đó là việc tổ chức xã hội theo chế độ phụ hệ. Ngược lại với điều này là
đồng bào dân tộc Êđê, những người theo chế độ mẫu hệ và đương nhiên trong
các quy định của luật tục Êđê cũng đã phản ánh rõ điều này (ví dụ như các quy
định về tục cưới chồng; về phân chia tài sản; thừa kế …)
Tương tự như vậy là luật tục của người Cờ Ho, trong xã hội truyền thống
của người Cờ Ho đã tồn tại hai hình thức tổ chức: gia đình lớn mẫu hệ và gia
đình nhỏ mẫu hệ. Điều đáng chú ý là dù ở gia đình lớn hay gia đình nhỏ, con cái
sinh ra đều theo họ mẹ, quyền kế thừa tài sản thuộc về những người con gái. Bên
cạnh đó là chế độ hôn nhân một vợ một chồng và cư trú bên vợ đã được xác lập
và duy trì một cách khá chặt chẽ trong xã hội. Người phụ nữ hoàn toàn đóng vai
trò chủ động trong hôn nhân. Sau hôn lễ, chàng rể phải về ở bên nhà vợ.
1.5.3. Mối quan hệ giữa luật tục với đạo đức.
Như chúng ta đã biết, khi tất cả các thành viên sống trong cộng đồng cùng
thừa nhận các quy định của luật tục thì cũng chính là nhằm duy trật tự, ổn định
trong xã hội. Trật tự này được hình thành dựa trên sự xác lập rõ vai trò của các
cá nhân trong xã hội, về tương quan thứ bậc của mỗi cá nhân trong từng mối
quan hệ. Từ đó con người mới biết thế nào là cần phải tôn trọng lẫn nhau và làm
như thế nào để biểu thị sự tôn trọng đó. Đây cũng chính là khởi nguồn của các
giá trị đạo đức trong đời sống con người. Luật tục luôn hướng hành vi con người
làm theo các giá trị đạo đức, đầu tiên là sự tôn trọng trật tự, thứ bậc trong mỗi
gia đình và trong xã hội, sau đó cụ thể hơn là cách xử sự tôn trọng người xung


22


quanh … vì suy đến cùng, đạo đức cũng chính là sự ghi nhận các giá trị chuẩn
mực mang tính mực thước đối với hành vi con người.
Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy các quy định về ứng xử đạo đức trong
các bộ luật tục như:
* Mối quan hệ giữa con cái với cha mẹ:
Dây buộc chiêng không thể lớn hơn cái chiêng
Hiên nhà không thể lớn hơn cái nhà
Chái nhà không thể lớn hơn mái nhà
Cối giã gạo không thể cao hơn cái chày
Hòn đá không thể lớn hơn quả núi
Đập nước không thể dài hơn con sông
Vậy:
Con trẻ không thể khinh thường mẹ cha."
* Gìn giữ mối quan hệ vợ chồng - lên án hành vi ngoại tình của người phụ
nữ, coi đó là một hành vi nghiêm trọng như:
"Cô đã đạp đầu con rắn mã gầm
Cô đã bước qua đầu con trăn
Đã chặn đầu con cọp."
Hoặc lên án những người có lối sống rượu chè, bê tha:
"Nó hành động như một con heo ăn gạo đã lên men
Như con dê đực húc nhau
Nó xấu xa hơn một con chó
Không tử tế gì hơn một con mèo."
(Luật tục Jrai)
1.5.4. Mối quan hệ giữa luật tục với sắc tộc

23



Một đặc trưng của các bộ luật tục ở Việt Nam đó là nó mang yếu tố sắc
tộc đặc biệt rõ nét. Ngoại trừ trong các bộ hương ước cổ của các làng xã người
dân tộc Kinh được xây dựng trong các cộng đồng người có chung vùng lãnh thổ
cư trú, còn lại hầu hết mỗi một dân tộc thiểu số đều có một bộ luật tục riêng của
mình (luật tục của dân tộc Tày, dân tộc Thái, dân tộc Êđê, dân tộc M'nông …)
Tuy vẫn có trường hợp trong cùng một dân tộc nhưng tương ứng với từng cộng
đồng cư trú tại các địa bàn khác nhau thì các quy phạm luật tục cũng không hoàn
toàn thống nhất với nhau, nhưng về cơ bản yếu tố sắc tộc vẫn chi phối mạnh mẽ
nhất đến việc hình thành nên các bộ luật tục ở nước ta.
1.5.5. Mối quan hệ giữa luật tục với tín ngƣỡng, tôn giáo
Trong rất nhiều các bộ luật tục ở Việt Nam thường hay có các quy định về
lễ nghi thờ cúng, nó phản ánh đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc đó.
Thực chất các quy định này nhằm để xác định các quy tắc xử sự của con người
đối với thế giới tự nhiên, được hình tượng hoá qua các thần linh siêu nhiên, bên
cạnh đó là quy tắc xử sự của những người đang sống với những người đã mất những người thuộc "thế giới bên kia". Chính vì vậy mà các quy định về lễ nghi
thờ cúng luôn là một trong những nội dung quan trọng phải có trong các bộ luật
tục. Có thể nói luật tục luôn là một công cụ quan trọng để khẳng định vai trò của
tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống của cộng đồng, các nghi lễ thờ cúng tín
ngưỡng hầu hết đều được coi là luật của cộng đồng. Chúng ta hoàn toàn có thể
hình dung được mối quan hệ mật thiết giữa luật tục và tín ngưỡng, tôn giáo qua
các quy định luật tục ở Việt Nam như: sự tham gia của các tu sĩ trong Hội đồng
luật tục của người Chăm; các tục lệ về nghi lễ thờ Phật của người dân tộc
Khmer; tục cúng Yang của đồng bào dân tộc Êđê, Xơ Đăng hoặc như trong
hương ước của một số làng Công giáo ở Hà Tĩnh …

24



Chƣơng 2
NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG, KHÁC BIỆT VÀ SỰ TÁC ĐỘNG
QUA LẠI GIỮA LUẬT TỤC VÀ PHÁP LUẬT TRONG THỰC TIỄN
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG
Về bản chất, cả luật tục và pháp luật đều là hệ thống các quy phạm chứa
đựng các quy tắc xử sự làm khuôn mẫu đối với hành vi con người, thông qua
việc điều chỉnh hành vi con người khi tham gia các mối quan hệ xã hội, luật tục
và pháp luật đảm bảo cho các mối quan hệ xã hội phát triển một cách ổn định
theo các quy chuẩn chung. Do đó, luật tục và pháp luật đều có vai trò hết sức
quan trọng trong việc quản lý cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, như đã phân tích tại
phần đầu của luận văn, giữa luật tục và pháp luật đều có quá trình hình thành và
phát triển mang tính độc lập tương đối, giữa chúng có những điểm tương đồng,
khác biệt cũng như là có sự tác động qua lại một cách hữu cơ với nhau trong việc
điều chỉnh các lĩnh vực quan hệ xã hội.
2.1.1. Những điểm tƣơng đồng giữa luật tục và pháp luật
Khi đem so sánh giữa luật tục và pháp luật dựa trên các tiêu chí về khái
niệm; phạm vi tác động; vị trí, vai trò trong xã hội và nguồn gốc xuất xứ của
chúng, có thể nhận thấy một số điểm tương đồng giữa luật tục và pháp luật như
sau:
Thứ nhất, luật tục và pháp luật cùng có vai trò điều chỉnh các mối quan hệ
xã hội để từ đó duy trì trật tự, ổn định trong xã hội, hướng cho xã hội phát triển
theo một trật tự mong muốn.

25


Như chúng ta đã biết, luật tục và pháp luật được xác lập trong xã hội
chính là để nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội đó. Thông qua hệ
thống các quy phạm, luật tục và pháp luật xác định cho mỗi con người khi tham
gia vào từng quan hệ cụ thể đều thấy được các quyền và nghĩa vụ của mình và

khi họ thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ đó nghĩa là luật tục và pháp luật đã
hoàn thành vai trò điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, bảo đảm các mối quan hệ
đó được thực hiện theo một trật tự định trước, từ đó tạo ra sự ổn định trong xã
hội và làm cho xã hội ngày càng phát triển. Chính vì vậy mà trong luật tục và
pháp luật đều có những nội dung nhằm điều chỉnh các mối quan hệ cơ bản, chủ
đạo trong xã hội như: quan hệ sở hữu; giao kết hợp đồng; hôn nhân; thừa kế; xử
phạt hành vi phạm tội …
Thứ hai, luật tục và pháp luật đều được áp dụng đối với một cộng đồng
người nhất định, được ban hành để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong cộng
đồng đó.
Một điểm tương đồng dễ thấy giữa luật tục và pháp luật đó là chúng chỉ
được áp dụng trong khuôn khổ một cộng đồng người và luôn bị giới hạn trong
một phạm vi lãnh thổ nhất định.
Thứ ba, nội dung của luật tục và pháp luật đều là các quy tắc xử sự làm
khuôn mẫu cho hành vi của con người và đều có những cơ chế đảm bảo để từng
cá nhân phải tuân thủ theo các khuôn mẫu đó.
Luật tục và pháp luật luôn mang tính xác định cụ thể, nó hàm chứa các
quy tắc xử sự cụ thể để con người ta có thể hình dung được và làm theo, từ đó
định hướng cho hành vi của con người làm theo một khuôn mẫu nhất định và vì
các khuôn mẫu này đặc biệt có ý nghĩa trong việc duy trì trật tự, ổn định của xã
hội nên trong bất cứ một cộng đồng xã hội nào đều xác lập nên những cơ chế để

26


×