Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của tòa án nhân dân cấp huyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ MINH TRANG

THẨM QUYỀN SƠ THẨM DÂN SỰ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ MINH TRANG

THẨM QUYỀN SƠ THẨM DÂN SỰ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học:

Hà Nội – 2015

TS. Lê Thu Hà



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
NGƢỜI CAM ĐOAN

Lê Minh Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN GIẢI
QUYẾT SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
CẤP HUYỆN ................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân
sự của Tòa án nhân dân cấp huyện.................................................................... 6
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về thẩm quyền giải quyết
sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện ............................. 13
1.3. Lược sử các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thẩm
quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện . 16
CHƢƠNG 2. THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN
DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN THEO PHÁP LUẬT
HIỆN HÀNH.................................................................................................. 27
2.1. Thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân
cấp huyện theo loại việc .................................................................................. 27
2.2. Thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân
cấp huyện theo lãnh thổ................................................................................... 44
CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT SƠ THẨM CÁC VỤ
ÁN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN ......................... 57
3.1. Những vướng mắc, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật về thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân
dân cấp huyện .................................................................................................. 57
3.2. Nguyên nhân của những vướng mắc, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các


quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự
của Tòa án nhân dân cấp huyện ...................................................................... 69
3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết sơ thẩm
các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện........................................... 70
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

HN&GĐ

: Hôn nhân và gia đình

LTCTAND


: Luật tổ chức tòa án nhân dân

LHN&GĐ

: Luật hôn nhân và gia đình

LĐĐ

: Luật đất đai

QSDĐ

: Quyền sử dụng đất

TTDS

: Tố tụng dân sự

TA

: Tòa án

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của Đề tài
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng đã và đang được tiến hành
một cách toàn diện, sâu sắc. Những thành tựu to lớn do quá trình đổi mới đã
tạo ra những tiền đề cần thiết đưa đất nước ta bước vào một thời kỳ phát triển
mới. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, Nhà nước ta đã tiến hành cải cách hệ
thống pháp luật cho phù hợp với Hiến pháp và sự phát triển của xã hội, trong
đó có việc hoàn thiện Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Bộ luật tố tụng dân sự
ra đời đã đánh dấu một bước phát triển lớn của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam. Đặc biệt, đối với các quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa
án nhân dân cấp huyện đã được nghiên cứu, tập hợp thành một hệ thống thống
nhất. Sau hơn 5 năm thi hành, Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2011, trong đó việc mở rộng thẩm quyền của Tòa án thể hiện tính phù
hợp với xu thế tất yếu của sự phát triển kinh tế xã hội, tạo những tiền đề căn
bản để người dân có cơ hội tiếp cận được với pháp luật và hiện nay, trên cơ sở
những quy định mới của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Tòa án nhân dân
(sửa đổi) năm 2014, trong thời gian tới, Bộ luật tố tụng dân sự cũng đang
được nghiên cứu để tiếp tục có những sửa đổi phù hợp.
Bên cạnh những điểm hợp lý và tiến bộ của những quy định về thẩm
quyền sơ thẩm dân sự chung của Tòa án nhân dân cấp huyện đã được quy
định tại Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi năm 2011 thì các quy định hiện hành
về vấn đề này, đặc biệt là những quy định về thẩm quyền giải quyết sơ thẩm
các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện vẫn còn những bất cập nhất
định khi áp dụng trên thực tế. Sự thiếu cụ thể, rõ ràng trong các quy định của
pháp luật khiến đương sự lúng túng trong việc xác định Tòa án cấp nào mà họ

1



có thể nộp đơn khởi kiện giải quyết vụ án; và trong thực tiễn xét xử, Tòa án
cấp huyện cũng gặp không ít khó khăn, vướng mắc khi xác định một vụ án có
thuộc thẩm quyền sơ thẩm dân sự của mình hay không.
Nghị quyết số 32/2004/NQ-QH11 ngày 15/06/2004 về việc: Thi hành
Bộ luật tố tụng dân sự có nội dung về tăng thẩm quyền của Tòa án nhân dân
cấp huyện thể hiện một bước đột phá trong cải cách tư pháp. Việc tăng thẩm
quyền đã đạt được hiệu quả trong việc giúp giảm tải áp lực thụ lý án sơ thẩm
ở Tòa án nhân dân cấp tỉnh bảo đảm quyền lợi hợp pháp của đương sự cũng
như những người liên quan. Tuy nhiên, khi thực hiện tăng thẩm quyền thì Tòa
án nhân dân cấp huyện vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, đặc biệt là những
kinh nghiệm về giải quyết loại án ở mức độ khó hơn. Bên cạnh đó, hệ thống
văn bản pháp luật thường xuyên được bổ sung, sửa đổi nhưng việc giải thích,
hướng dẫn chậm, gây khó khăn trong việc nhận thức, áp dụng pháp luật.
Việc quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án nhân dân cấp
huyện trong các vụ án dân sự có đương sự là người nước ngoài theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự lại đang có sự không đồng nhất với quy định
trong pháp luật chuyên ngành khác như quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, cư
trú của người nước ngoài tại Việt Nam. Trong trường hợp cần ngăn chặn
người nước ngoài là bị đơn trong các vụ tranh chấp bỏ trốn về nước, Tòa án
phải ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh đối với họ. Tuy nhiên, theo Điều 9
Pháp lệnh về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam
năm 2000 thì chỉ có Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương mới có thẩm quyền ra quyết định này..
Nhận thức được tầm quan trọng của các quy định về thẩm quyền giải
quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện đối với quá
trình hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và tiến trình hội nhập kinh

2



tế quốc tế, có thể thấy việc nghiên cứu những quy định về vấn đề này là một
đòi hỏi khách quan và tất yếu. Việc nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống
không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử mà còn từng
bước góp phần hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật hiện hành.
Những phân tích trên lý giải cho tính cấp thiết của việc nghiên cứu Đề
tài: “Thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân
dân cấp huyện”.
2. Tình hình nghiên cứu Đề tài
Trên thực tế hiện nay cũng đã có một số công trình khoa học và các
chuyên đề nghiên cứu về vấn đề này ở các mức độ và phạm vi khác nhau. Có
thể nói đến như Luận án Tiến sĩ của tác giả Lê Thị Hà về “Phân cấp thẩm
quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay” năm 2005, Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Hoài Nam về
“Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” năm
1997, Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Tố Loan về “Thẩm quyền
sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
năm 2009…
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay chưa có một công trình khoa học
nào trong số đó tập trung nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và cụ thể về
vấn đề thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân
cấp huyện kể từ khi Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2004 được thông qua. Vì vậy, Luận văn này sẽ trình bày một cách
tổng thể và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận, thực tiễn về thẩm quyền giải
quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu Đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu một cách toàn diện, có

3



hệ thống về thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân
dân cấp huyện, từ đó làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận đối với việc xác
định thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân
cấp huyện theo quy định của pháp luật hiện hành, phát hiện những điểm còn
hạn chế, những vướng mắc, bất cập của pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn,
qua đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
về vấn đề trên.
Từ mục đích nghiên cứu Đề tài trên, phạm vi nghiên cứu của Đề tài
được xác định như sau:
- Nghiên cứu cơ sở khoa học và lịch sử phát triển các quy định về thẩm
quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện.
- Nghiên cứu, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam hiện hành về việc xác định thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân
sự của Tòa án nhân dân cấp huyện.
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về
thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp
huyện, phát hiện những hạn chế, vướng mắc khi áp dụng và đề xuất những
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc
hiện nay.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là Chủ nghĩa Mác Lê Nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta …, sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: tổng hợp, phân tích, thống kê, so
sánh … để trình bày nội dung được logic và có hệ thống.
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của Luận văn được kết cấu

4



thành ba chương gồm:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các
vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Chương 2. Thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án
nhân dân cấp huyện theo pháp luật hiện hành
Chương 3. Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thẩm
quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện

5


CHƢƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT SƠ THẨM
CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các
vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện
1.1.1. Khái niệm thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự
của Tòa án nhân dân cấp huyện
Trong lịch sử hình thành và phát triển xã hội loài người từ xưa đến nay,
quyền lực luôn là vấn đề được quan tâm và tranh luận nhiều, đặc biệt là quyền
lực Nhà nước. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin: “Nhà nước là sản
phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được”
[6]. Nhà nước được xây dựng từ khế ước xã hội để bảo vệ quyền con người.
Nhà nước ra đời với chức năng chủ yếu là điều hòa xã hội, duy trì sự ổn định
và phát triển của xã hội theo một trật tự nhất định. Một trong những công cụ
hiệu quả nhất để thực hiện quyền lực Nhà nước là pháp luật. Pháp luật của
Nhà nước là sự tối thượng nhưng suy cho cùng nó cũng không thể tách rời hai

từ “công lý”, trọng trách quan trọng và cao cả bậc nhất của pháp luật là để
thiết lập, duy trì và bảo vệ sự công bằng xã hội. Từ thời cổ đại, các luật gia La
Mã đã khẳng định: ở đâu có pháp luật, ở đó phải có hệ thống bảo đảm cho
luật pháp được thi hành một cách nghiêm chỉnh. Trong quá trình hoạt động,
để thực hiện tốt chức năng vốn có, Nhà nước không thể tự mình làm tất cả
mọi công việc mà phải trao quyền cho một số cơ quan chuyên môn để các cơ
quan này nhân danh nhà nước tham gia vào việc quản lí xã hội. Do đó, để
thực hiện nhiệm vụ được giao, mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nước phải được
trao những quyền hạn nhất định, đó là tiền đề làm xuất hiện thẩm quyền.

6


Thuật ngữ “thẩm quyền” theo nghĩa nguyên thủy bắt nguồn từ tiếng La
tinh là “compotentia”, gồm có hai nghĩa là, phạm vi các quyền hạn của các cơ
quan, người có chức vụ nào đó, hoặc phạm vi những kiến thức, kinh nghiệm
mà ai đó có. Ý nghĩa đầu trong khoa học pháp lý và quản lí thường được hiểu
bằng thuật ngữ “thẩm quyền pháp lý”, ý nghĩa thứ hai là “thẩm quyền chuyên
môn”. Trong phạm vi của khóa luận này, tác giả xin trình bày thẩm quyền với
nghĩa là thẩm quyền pháp lí.
Dưới góc độ ngôn ngữ học, từ điển Tiếng Việt định nghĩa “thẩm
quyền” là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề pháp luật [25].
Theo cách giải nghĩa này, thẩm quyền được hiểu là việc một cơ quan Nhà
nước được phép tự mình nhìn nhận sự việc và đưa ra ý kiến riêng để giải
quyết vấn đề một cách phù hợp theo quy định của pháp luật. Theo từ điển
Luật học Việt Nam, “thẩm quyền” là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành
động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước
do pháp luật quy định [27]. Cách định nghĩa này cho thấy, thẩm quyền được
hiểu là phạm vi mà Nhà nước trao quyền cho một cơ quan, tổ chức của Nhà
nước và phạm vi đó phải được pháp luật xác định một cách rõ ràng. Theo Từ

điển luật học của Mỹ thì thẩm quyền được hiểu là một cơ quan công quyền có
thể được xem xét và giải quyết một việc gì theo pháp luật khi nó có một khả
năng cơ bản và tối thiểu. Theo khái niệm này, thẩm quyền được gắn chặt với
khả năng của cơ quan công quyền khi thực hiện việc xem xét, giải quyết một
vấn đề nào đó.
Trong khoa học pháp lý, khái niệm thẩm quyền đã được nhiều tác giả
nghiên cứu. Theo tác giả Lê Hoài Nam: “Thẩm quyền là quyền được thực
hiện những hành vi pháp lý mà pháp luật giao cho một tổ chức hoặc nhân
viên Nhà nước. Nói khác đi, thẩm quyền là quyền của một chủ thể nhất định,
đó là khả năng mà pháp luật cho phép được thực hiện một công việc trong

7


một lĩnh vực, một phạm vi nhất định” [13]. Theo tác giả Lê Thị Hà: “Thẩm
quyền là tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho một cơ quan, tổ chức
hoặc một công chức được xem xét giải quyết những công việc cụ thể trong
lĩnh vực và phạm vi nhất định nhằm thực hiện chức năng của bộ máy nhà
nước” [6].
Như vậy, dưới những góc độ khác nhau, khái niệm “thẩm quyền” cũng
có sự khác biệt nhất định, nhưng nhìn chung các cách giải thích đều thừa nhận
thẩm quyền là thuật ngữ dùng để chỉ phạm vi, giới hạn chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của cá nhân hoặc cơ quan Nhà nước trong việc thực thi quyền lực
Nhà nước được pháp luật quy định.
Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước, thực hiện một trong các lĩnh
vực quyền lực Nhà nước đó là quyền tư pháp. TA có thẩm quyền xét xử và
nhân danh Nhà nước để ra bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án nhằm bảo
vệ chế độ XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức, lợi ích của Nhà nước. Trong TTDS, theo TS. Lê Thị Hà thì thẩm quyền
của TA là “toàn bộ những quyền do pháp luật quy định theo đó TA tiến hành

xem xét, giải quyết những vụ việc cụ thể theo quy định của pháp luật” [6].
Trong tố tụng hình sự, TS. Nguyễn Đức Mai quan niệm thẩm quyền của TA
là một thể thống nhất bao gồm hai yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau đó là
thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung. Thẩm quyền về hình
thức của TA được thể hiện ở thẩm quyền xét xử và giới hạn (phạm vi) xét xử
của các cấp TA đối với các vụ án. Thẩm quyền về nội dung (hay quyền hạn)
của TA xác định TA có quyền quyết định các vấn đề cụ thể về các vụ án khi
xem xét chúng [12]. Trong tố tụng hành chính, thẩm quyền của TA là “phạm
vi thực hiện quyền lực Nhà nước của TA trong việc giải quyết các tranh chấp
hành chính giữa một bên là công dân, tổ chức và bên kia là cơ quan công
quyền, theo thủ tục tố tụng hành chính nhằm bảo đảm và bảo vệ lợi ích của

8


Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân” [31]. Như
vậy, có thể thấy rằng, các tác giả đều thừa nhận thẩm quyền của TA bao gồm
các quyền khác nhau của TA khi giải quyết vụ việc, đó là TA sẽ xác định cụ
thể những loại vụ việc nào thuộc thẩm quyền giải quyết của TA và TA có
quyền ra những quyết định gì khi giải quyết vụ việc đó.
Điều 1 BLTTDS quy định:
“Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố
tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Toà án giải quyết các vụ án về
tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
(sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Toà án
giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục
giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự)
tại Toà án …”
Với quy định này, phạm vi điều chỉnh của BLTTDS là vụ việc dân sự,

gồm vụ án dân sự và việc dân sự. Vụ án dân sự là vụ có tranh chấp về quyền
lợi, nghĩa vụ giữa cá nhân, tổ chức với nhau. Các tranh chấp gồm tranh chấp
dân sự, tranh chấp hôn nhân và gia đình, tranh chấp kinh doanh thương mại,
tranh chấp lao động. Khi một tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án, được đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết sẽ trở thành vụ án dân
sự. Việc dân sự là việc không có tranh chấp về quyền và lợi ích nhưng có
yêu cầu của cá nhân, tổ chức đề nghị Tòa án công nhận một sự kiện pháp lý
mà phát sinh quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức này. Tất cả các
việc yêu cầu về dân sự, các việc yêu cầu về hôn nhân và gia đình, các việc
yêu cầu về kinh doanh thương mại, các việc yêu cầu về lao động đều được
gọi chung là các việc dân sự.
Trong phạm vi luận văn này, luận văn nghiên cứu thẩm quyền chung

9


của Tòa án về dân sự theo nghĩa rộng như quy định tại BLTTDS nhưng chỉ
giới hạn trong các vụ án dân sự, không gồm các việc dân sự. Cụ thể là: thẩm
quyền của Tòa án trong các vụ án về dân sự, các vụ án hôn nhân và gia đình,
các vụ án kinh doanh thương mại, các vụ án lao động.
Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) năm 2014, khi thực hiện
thẩm quyền xét xử dân sự, Tòa án thực hiện theo nguyên tắc chế độ hai cấp
xét xử: xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Là cấp xét xử đầu tiên, xét xử sơ
thẩm dân sự có ý nghĩa quan trọng và gần như mang tính quyết định trong
toàn bộ tiến trình một vụ án. Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Sơ thẩm” là xét xử
một vụ án với tư cách là cấp xét xử thấp nhất [26]. Theo Sổ tay thuật ngữ
pháp lý thông dụng thì “Sơ thẩm” là việc Tòa án xét xử lần đầu một vụ án
[23]. Pháp luật tố tụng dân sự không đưa ra khái niệm về thẩm quyền xét xử
sơ thẩm các vụ việc dân sự của Tòa án nhưng dưới góc độ lý luận có thể đưa
ra khái niệm này như sau: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ việc dân sự của

Tòa án là quyền của Tòa án trong việc xem xét giải quyết lần đầu đối với các
vụ việc dân sự”. Xét xử ở cấp sơ thẩm đúng luật và có căn cứ là cơ sở để vụ
án không bị kháng cáo, kháng nghị tới thủ tục phúc thẩm, hạn chế được việc
kéo dài vụ án cũng như tổn phí vật chất cho cả Tòa án và đương sự.
Trên thế giới thì cách thức tổ chức hệ thống Tòa án có thể theo đơn vị
hành chính lãnh thổ hoặc không theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Điều này
phụ thuộc vào truyền thống, lịch sử và ý chí của nhà lập pháp mỗi nước.
Thông thường, thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ việc dân sự theo cấp Tòa án
sẽ được xác định dựa trên dấu hiệu thể hiện tính chất phức tạp của quan hệ
tranh chấp dân sự, điều kiện để giải quyết các vụ việc của các cấp Tòa án, tính
khách quan trong việc giải quyết tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động… Dấu hiệu này yêu cầu đối với các quan
hệ tranh chấp có nhiều nội dung, tình tiết phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề

10


khác nhau thì phải do Tòa án có đủ điều kiện và thẩm phán có năng lực
chuyên môn cao hơn tiến hành giải quyết so với các vụ việc đơn giản. Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) năm 2014, tại điều 37 và điều 44 đã nêu rõ
nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp
tỉnh là có chức năng xét xử sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật. Theo
đó, ở Việt Nam, trong các Tòa án, chỉ có Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa
án nhân dân cấp tỉnh là có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, các giáo trình về luật tố tụng dân sự của các cơ sở
đào tạo luật cũng chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về thẩm quyền sơ thẩm
dân sự theo cấp của Tòa án nhân dân. Tuy nhiên, về mặt lý luận thì thẩm
quyền xét xử sơ thẩm dân sự không thể thuộc về Tòa án cấp cao nhất trong hệ
thống tổ chức Tòa án vì như vậy sẽ tước đi của đương sự quyền kháng cáo
phúc thẩm và quyền khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

Trong phạm vi Luận văn này, nội dung nghiên cứu về thẩm quyền giải
quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện chỉ giới hạn
dưới góc độ về quyền xem xét xét, giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân
dân cấp huyện.
Qua nghiên cứu lý luận và xuất phát từ cách thức tổ chức Tòa án của
Việt Nam, tác giả xin đưa ra khái niệm về thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các
vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện như sau: “Thẩm quyền giải
quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện là quyền giải
quyết lần đầu của Tòa án đối với các vụ án về dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh thương mại, lao động theo quy định của pháp luật tố tụng”.
1.1.2. Ý nghĩa của thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự
của Tòa án nhân dân cấp huyện
Việc xác định thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa
án nhân dân cấp huyện một cách chính xác, hợp lý sẽ tránh được sự chồng

11


chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ giữa các Tòa án với nhau, là cơ sở pháp lý
quan trọng trong việc khoanh vùng ban đầu khi xác định một vụ án cụ thể có
thuộc thẩm quyền giải quyền giải quyết của Tòa án cấp mình hay không,
tránh việc mất thời gian giải quyết sai thẩm quyền. Các quy định pháp luật về
thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp
huyện sẽ tạo điều kiện cần thiết cho Tòa án giải quyết nhanh chóng, đúng đắn
và nâng cao hiệu của quá trình xem xét vụ án.
Bên cạnh đó, việc xác định thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án
dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện chính xác, hợp lý còn tạo điều kiện
thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
trước Tòa án, giảm bớt những phiền phức cho các đương sự. Các quy định
pháp luật về thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân

dân cấp huyện là cơ sở pháp lý để nguyên đơn chủ động trong việc xác định
được Tòa án cấp nào mình có thể gửi đơn khởi kiện hoặc lựa chọn Tòa án cấp
huyện nào thuận lợi nhất cho mình trong việc tham gia tố tụng để từ đó giúp
đương sự nhanh chóng thực hiện được quyền khởi kiện để bảo việc quyền lợi
hợp pháp của mình.
Ngoài ra, các quy tắc phân định thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp
huyện trong các vụ án dân sự là cơ sở pháp lý để tránh việc đương sự lạm
dụng quyền khởi kiện để cùng lúc khởi kiện tại nhiều Tòa án khác nhau, gây
ra tình trạng trong cùng một vụ án có nhiều Tòa án cùng giải quyết và những
phán quyết của các Tòa án này lại không thống nhất, trái ngược nhau. Điều
này gây phiền hà không chỉ cho chính cơ quan tư pháp mà còn làm giảm lòng
tin của nhân dân vào các cơ quan bảo vệ công lý.

12


1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về thẩm quyền
giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện
1.2.1. Đƣờng lối cải cách tƣ pháp của Đảng
Ở nước ta, theo tinh thần cải cách tư pháp được xác định trong Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020” đã định hướng tăng thẩm quyền xét xử của Tòa
án nhân dân cấp huyện bằng chủ trương “việc xét xử sơ thẩm chủ yếu được
thực hiện ở Tòa án nhân dân cấp huyện”. Việc mở rộng thẩm quyền xét xử sơ
thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện tạo điều kiện giảm bớt áp lực về công
việc cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh, nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc
dân sự, đồng thời bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử.
1.2.2. Tính chất của quá trình xác minh các vụ án dân sự
Để bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự phù hợp với thực tế
khách quan và đúng pháp luật thì việc xây dựng các quy định về thẩm quyền

dân sự theo cấp Tòa án phải căn cứ vào tính chất của quá trình xác minh các
vụ án rồi từ đó sẽ phân nhóm những loại việc nào sẽ giao cho Tòa án cấp
huyện giải quyết và những vụ việc nào sẽ giao cho Tòa án cấp tỉnh giải quyết.
Thông thường, Tòa án nhân dân cấp huyện sẽ có điều kiện thuận lợi hơn Tòa
án nhân dân cấp tỉnh trong việc trực tiếp xác minh chứng cứ tại địa phương,
do vậy thời gian hoàn thiện hồ sơ vụ việc cũng sẽ được thực hiện nhanh
chóng hơn so với Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Bên cạnh đó, vụ án được giao cho
Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các
đương sự khi tham gia tố tụng, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí đi lại và công
sức của các bên tham gia tố tụng. Tuy nhiên, đối với những vụ án yêu cầu
phải liên hệ, ủy thác tư pháp ở nước ngoài thì Tòa án nhân dân cấp huyện lại
gặp khó khăn vướng mắc khi thực hiện. Do đó, ngoại trừ các vụ án yêu cầu
quá trình xác minh phải thông qua ủy thác tư pháp hoặc bằng ngoại giao như

13


trên, phần lớn các vụ án sơ thẩm dân sự đều được giao cho Tòa án nhân dân
cấp huyện giải quyết.
1.2.3. Tính chất, đối tƣợng của quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật dân sự gồm quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản,
đây là cơ sở để xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ.
Xét trong từng quan hệ tranh chấp cụ thể đối với mỗi loại quan hệ pháp luật
khác nhau, nhà lập pháp sẽ thiết lập các dấu hiệu riêng biệt để xác định thẩm
quyền dân sự sở thẩm theo lãnh thổ. Nếu như các tranh chấp về quan hệ nhân
thân như quan hệ pháp luật hôn nhân thì dấu hiệu để xác định Tòa án có thẩm
quyền giải quyết là nơi cư trú, làm việc của bị đơn; trường hợp hai bên thuận
tình ly hôn thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi một trong hai
bên cư trú, làm việc; thì đối với các quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, dấu hiệu nơi cư trú của người có nghĩa vụ hoặc nơi cư trú

của nguyên đơn nơi xảy ra thiệt hại sẽ được xác lập; …
1.2.4. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự
Khi các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật thì việc phát sinh tranh
chấp giữa các cá nhân là điều không thể tránh khỏi. Để giải quyết các tranh
chấp này thì Nhà nước đã quy định các phương thức khác nhau để các chủ thể
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình như tự bảo vệ, yêu cầu TA bảo vệ
hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ. Tuy nhiên, trong các
phương thức bảo vệ quyền và lợi ịch hợp pháp về dân sự của các chủ thể thì
phương thức yêu cầu TA bảo vệ là công cụ hữu hiệu nhất trong toàn bộ các
phương thức khác nhau mà xã hội và Nhà nước dùng để giải quyết các tranh
chấp và mâu thuẫn lợi ích. Do đó, các quy định về thẩm quyền giải quyết các
vụ án dân sự tại TAND cấp huyện sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các
đương sự tìm đến sự giúp đỡ của công lý, giúp các đương sự nhanh chóng xác
định được nơi cụ thể có thể giải quyết thỏa đáng nguyện vọng của họ, từ đó,

14


dẫn đến hệ quả là vụ án dân sự sẽ được giải quyết nhanh chóng để bảo đảm
kịp thời quyền và lợi ích cho các đương sự. Đây là cơ sở để nguyên đơn,
người yêu cầu có thể lựa chọn Tòa án, sao cho việc tham gia tố tụng thuận lợi
nhất cho họ. Nói cách khác, các quy định về thẩm quyền giúp cho đương sự
nhanh chóng thực hiện quyền khởi kiện, tránh việc gửi đơn khởi kiện đến TA
không đúng thẩm quyền, làm mất thời gian, công sức, chi phí không đáng có.
Bên cạnh đó, vụ án dân sự nếu được xét xử sơ thẩm ở TAND cấp huyện sẽ
giúp các đương sự khi tham gia tố tụng tiết kiệm được thời gian, công sức, chi
phí đi lại.
1.2.5. Bảo đảm cho việc giải quyết của Tòa án đƣợc thuận lợi
Quá trình xem xét, giải quyết các vụ án dân sự của TAND không giống
như quá trình giải quyết vụ án hình sự. Nếu như đối với các vụ án hình sự

việc điều tra, truy tố do các cơ quan công an, Viện kiểm sát thực hiện thì đối
với các vụ án dân sự, toàn bộ quá trình hoàn thiện hồ sơ, xác minh, thu thập
chứng cứ sẽ được thực hiện bởi Tòa án. Như vậy, có thể thấy TAND cấp
huyện sẽ có điều kiện thuận lợi hơn TAND cấp tỉnh trong công tác xác minh,
thu thập chứng cứ, xem xét vụ việc tại địa phương và cũng tạo điều kiện
thuận lợi cho việc giải quyết của Tòa án khi triệu tập các đương sự tham gia
vào quá trình tố tụng như cung cấp chứng cứ, đi lại, có mặt ...
Ngoài ra, phần lớn việc giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự được giao
cho TAND cấp huyện sẽ tạo điều kiện cho TAND cấp tỉnh tập trung thẩm
quyền phúc thẩm khi giải quyết các vụ việc trong giai đoạn tiếp theo, bảo đảm
được yêu cầu giải quyết vụ án theo các cấp xét xử.
1.2.6. Khả năng hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ Tòa án nhân dân
cấp huyện
Một trong những cơ sở quan trọng để TAND cấp huyện được giao tăng
thẩm quyền xét xử đối với những vụ ántrước đây vẫn thuộc thẩm quyền của

15


TAND cấp tỉnh là do đội ngũ cán bộ TAND cấp huyện bảo đảm đủ cả về số
lượng và năng lực, trình độ nghiệp vụ để đáp ứng được yêu cầu xét xử đối với
các vụ án dân sự theo quy định hiện hành. Về cơ bản, đội ngũ cán bộ TAND
cấp huyện hiện nay được đào tạo cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ, có trình
độ cử nhân luật, trong đố 20% thẩm phán TAND cấp huyện có trình độ chính
trị hoặc cao cấp lý luận chính trị. Như vậy, với sự nâng cao cả về trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và sự hỗ trợ về cơ sở vật chất kĩ thuật, việc mở rộng
thẩm quyền cho Tòa án nhân dân cấp huyện là điều cần thiết và khả quan, phù
hợp với thực tế hiện nay tại Việt Nam.
1.3. Lƣợc sử các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
về thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân

cấp huyện
1.3.1. Giai đoạn trƣớc năm 1945
Trước năm 1945, với những điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội mang
tính đặc thù của thời kỳ Pháp thuộc, cách thức tổ chức các Tòa án cũng như
về luật pháp áp dụng tại Việt Nam rất phức tạp.
Nếu như các Tòa án Pháp tại Việt Nam được thiết lập ở Nam kỳ, ba
thành phố nhượng địa của Pháp (gồm Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng) và hai
thành phố khác là Nam Định, Vinh với mục đích để giải quyết những vụ kiện
mà đương sự là người Pháp hay đồng hóa với Pháp hoặc người nước ngoài
được ưu đãi như người Pháp và áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự Pháp năm 1806 thì các Tòa án Việt Nam lại được thiết lập ở Bắc Kỳ và
Trung Kỳ để giải quyết các vụ kiện giữa người Việt Nam với nhau hoặc
người nước ngoài có địa vị xã hội như người Việt Nam.
Ở Bắc kỳ thời kỳ này, thủ tục giải quyết các vụ kiện dân sự được quy
định trong Luật Pháp viện biên chế Bắc kỳ - quy định về cơ cấu, tổ chức,
thẩm quyền và hoạt động của các cấp Tòa án, Luật dân sự, Thương sự tố tụng

16


Bắc kỳ - quy định về cách thức tố tụng, cách thức chấp hành án, các thủ tục,
các quy tắc chung liên quan đến việc xử án được ban hành năm 1921. Tương
tự như vậy, ở Trung kỳ, thủ tục giải quyết các vụ kiện dân sự lại được quy
định trong Luật Pháp viện biên chế Trung kỳ và Luật dân sự, Thương sự tố
tụng Trung Kỳ ban hành năm 1935. Trong các văn bản trên, thuật ngữ “phiên
tòa sơ thẩm” đã xuất hiện, mặc dù trình tự thủ tục tiến hành phiên tòa này vẫn
chưa được quy định cụ thể.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng tám năm 1945 dẫn tới việc khai sinh
ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã mang một ý nghĩa đặc biệt trong quá
trình phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Cũng từ đó đến nay,

pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam nói chung, trong đó có các quy định về
thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng cũng đã
trải qua nhiều giai đoạn thay đổi và phát triển khác nhau.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960
Cách mạng Tháng Tám thành công đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch
sử dân tộc Việt Nam, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngay sau
khi giành được chính quyền, để xây dựng, củng cố chính quyền cũng như để
đáp ứng đòi hỏi mới của đời sống dân sự, nhà nước ta đã ban hành hàng loạt
các văn bản pháp luật mới. Trong đó, các văn bản về xây dựng hệ thống tư
pháp mới và thủ tục tố tụng được đặc biệt chú trọng, đáng chú ý nhất là Sắc
lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức Toà án và quy định các ngạch Thẩm
phán. Sắc lệnh số 13/SL đã đặt cơ sở đại cương đầu tiên cho việc tổ chức nền
tư pháp nói chung và pháp luật tố tụng dân sự của nước ta nói riêng. Đây là
Sắc lệnh đầu tiên quy định một cách đầy đủ về tổ chức giải quyết các tranh
chấp, xử phạt các việc vi cảnh ở cơ sở cũng như tổ chức các Toà án và quy
định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của các ngạch Thẩm phán. Sắc lệnh quy
định hệ thống tổ chức Tòa án bao gồm Tòa án sơ cấp được tổ chức ở mỗi

17


quận (phủ, huyện, châu), Tòa đệ nhị cấp được tổ chức ở mỗi tỉnh và ở các
thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn - Chợ Lớn và Tòa thượng thẩm được
tổ chức ở mỗi kỳ (Tòa thượng thẩm Bắc kỳ đặt ở Hà Nội, Tòa thượng thẩm
Trung kỳ đặt ở Thuận Hóa (Huế), Tòa thượng thẩm Nam kỳ đặt ở Sài Gòn).
Sau Sắc lệnh số 13/SL, Sắc lệnh số 51/SL được ban hành ngày
17/4/1946 về ấn định thẩm quyền các Tòa án và sự phân công giữa các nhân
viên trong Tòa án được ban hành. Tại Sắc lệnh này, thẩm quyền về dân sự và
thương sự của Tòa án sơ cấp đã được quy định cụ thể trong Điều thứ 6, Điều
thứ 7, theo đó: “Điều thứ 6: Về dân sự và thương sự, Toà án sơ cấp có quyền

xử: A- Chung thẩm: 1- Những việc kiện dân sự, thương sự về động sản mà giá
ngạch do nguyên đơn định không quá 150 đ. 2- Những việc kiện về các khoản
lệ phí đã phát sinh ra trước toà án ấy không cứ giá ngạch nào. B- Sơ thẩm:
Những việc dân sự hay thương sự về động sản mà giá ngạch do nguyên đơn
định trên 150đ, nhưng dưới 450 đ. Điều thứ 7: Khi nào một bên nguyên cáo
kiện một bên bị cáo mà cùng trong việc kiện có nhiều sự thỉnh cầu, nếu giá
ngạch những sự thỉnh cầu cộng lại quá 450đ, thì ông thẩm phán sơ cấp không
có thẩm quyền”.
Ngày 09/11/1946, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
thông qua bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà - Hiến pháp năm
1946. Việc ban hành Hiến pháp năm 1946 là sự kiện pháp lý quan trọng để
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tiến hành cải cách bộ máy tư pháp và
hoạt động tư pháp. Tại Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950, tên gọi Tòa án
nhân dân huyện, Tòa án nhân dân tỉnh được sử dụng thay thế cho tên gọi Tòa
sơ cấp, Tòa đệ nhị cấp trước đây. Theo Sắc lệnh này, Tòa án nhân dân cấp
huyện đã được tăng thẩm quyền như “Tòa án nhân dân huyện họp thành Hội
đồng hoà giải để thử hoà giải tất cả các vụ kiện về dân sự và thương sự, kể cả
các việc xin ly dị, trừ những vụ kiện mà theo luật pháp đương sự không có

18


quyền điều đình” – Điều 9 hay quy định “Toà án nhân dân huyện có quyền xử
chung thẩm những vụ án sơ thẩm của ban tư pháp xã bị kháng cáo, hoặc
những vụ phạm pháp vi cảnh mà ban tư pháp xã xét cần xử phạt giam, hoặc
những vụ tái phạm vi cảnh” – Điều 13 và Điều 14: “Trong trường hợp cấp
bách, Toà án nhân dân huyện có quyền tuyên án ấn định các phương pháp
bảo thủ đối với những vụ kiện không thuộc thẩm quyền Toà án nhân dân
huyện”.
Có thể nói trong giai đoạn này, với việc ban hành các văn bản pháp luật

tố tụng đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, những quy định
mang tính chất nền tảng cơ bản về thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án
dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện đã được xác lập. Mặc dù còn sơ khai,
nhưng những Sắc lệnh tố tụng trong thời kỳ này đã đề cập và định hình được
những nội dung cơ bản về cách thức tổ chức hệ thống Tòa án, thẩm quyền
tương ứng của mỗi cấp cũng như cách thức xét xử/giải quyết vụ án của các
cấp. Việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa Tòa án nhân dân cấp
huyện (tòa sơ cấp) với Tòa án nhân dân cấp tỉnh (tòa đệ nhị cấp) trong thời kỳ
này bước đầu cũng đã căn cứ vào tính chất đơn giản/phức tạp của vụ việc, giá
trị của tài sản nhỏ/lớn để xác định thẩm quyền giữa các Tòa án.
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1989
Ngày 01/01/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 01/LCT công
bố hiến pháp mới của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Trên cơ sở Hiến
pháp 1959, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã thông qua Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân ngày 14/7/1960 và Uỷ ban thường vụ quốc hội đã
thông qua Pháp lệnh qui định cụ thể về tổ chức TAND tối cao và tổ chức của
các TAND địa phương ngày 23/3/1961. Các văn bản pháp luật này đã đánh
dấu một bước ngoặt lớn của ngành tư pháp nói chung và pháp luật tố tụng dân
sự nói riêng. Theo qui định tại các văn bản pháp luật quan trọng này, hệ thống

19


×